Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục nếp sống cho sinh viên ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở trung tâm giáo dục quốc phòng hà nội 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.73 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2
............... cá EQ so.................

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC NẾP SỐNG CHO SINH VIÊN
NGÀNH GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ
AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DUC
QUỐC PHỊNG HÀ NỘI 2

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI, 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2
............... cá EQ so.................

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC NẾP SỐNG CHO SINH VIÊN
NGÀNH GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ
AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DUC
QUỐC PHỊNG HÀ NỘI 2
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh



Người hướng dẫn khoa học: ThS vũ MẠNH HÀ

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng và chân thành tơi xin được bày tỏ lịng cảm ơn sâu sắc
tới Trung tâm GDQP Hà Nội 2, các phòng, các khoa và các cơ quan liên quan đã tạo
điều kiện cho tôi được học tập, nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ nhằm đáp
ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Xin được bày tỏ lòng cảm ơn, biết ơn sâu sắc tới các thầy cô, các nhà khoa học
đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tơi trong quá trình học tập cũng như trong nghiên cứu
khoa học. Đặc biệt xin được trân trọng cảm ơn Thạc sĩ Vũ Mạnh Hà đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tơi hồn thành khóa luận tốt nghiệp Đại học chun ngành Giáo dục
quốc phòng và an ninh.
Xin chân thành cảm ơn tới Ban Giám đốc, các cán bộ, giảng viên, nhân viên,
sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2; bạn bè, đồng nghiệp, gia đình và người thân
đã tận tình giúp đỡ, động viên khích lệ tơi trong q trình học tập, nghiên cứu.
Mặc dù trong quá trình học tập, tìm tịi, nghiên cứu bản thân rất nỗ lực và cố
gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các nhà giáo và đồng nghiệp để
khóa luận của tơi được hồn thiện hơn.


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả

Nguyễn Thị Vân Anh
Tôi xin cam đoan rằng đề tài : “Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục nếp

sống cho sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2” đến
thời điểm hiện tại cũng chưa có cơng trình nghiên cứu nào về vấn đề này, nên khơng
có sự trùng lặp với các đề tài khác.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi thông tin trích dẫn trong khóa luận đã được
chỉ rõ nguồn gốc. Việc hồn thảnh khóa luận là sự nỗ lực, cố gắng rất lớn của bản
thân.

Tác giả

Nguyễn Thị Vân Anh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
NỘI DUNG
Chương 1: cơ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC NẾP SÓNG CHO SINH
VIÊN NGÀNH GDQP VÀ AN Ở TRUNG TÂM GDQP HÀ NỘI 2

1.1.

Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu ....................................................... 6

1.2.

Một số khái niệm cơ bản ...................................................................... 8

1.3.

Đặc điểm tâm lý của sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm


6

GDQP Hà Nội 2....................................................................................... 13
1.4.

Nội dung giáo dục nép sống cho sinh viên........................................... 15

Chương 2: THựC TRẠNG GIÁO DỤC NẾP SỐNG CHO SINH VIÊN NGÀNH
GDQP VÀ AN Ở TRUNG TÂM GDQP HÀ NỘI 2 HIỆN NAY 21

2.1.

Khái quát quá trình xây dựng, phát triển và đặc điểm hoạt động của
Trung tâm GDQP Hà Nội 2 ................................................................ 21

2.2.

Thực trạng về nếp sống của sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung
tâm GDQP Hà Nội 2................................................................................ 22

2.3.

Nguyên nhân thực trạng về nép sống của sinh viên ngành GDQP và
AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 ...................................................... 29

Chương 3: BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC NẾP SỐNG
CHO SINH VIÊN NGÀNH GDQP VÀ AN Ở TRUNG TÂM GDQP HÀ NỘI 2 32

3.1.


Các nguyên tắc trong đề xuất biện pháp............................................... 32

3.2.

Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục nếp sống cho sinh
viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 hiện nay...

33

3.3. ...................................................................................................... Khảo
nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp..................................

43

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................... 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 51
PHỤ LỤC............................................................................................................


STT

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ

1

AN


An ninh

2
3

CNH, HĐH
GDQP

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Giáo dục quốc phòng

4

GD & ĐT

Giáo dục và đào tạo

5

KTX

Ký túc xá

6
7

Nxb

Nhà xuất bản


QĐNDVN

Quân đội nhân dân Việt Nam

8

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC sơ ĐỒ, BẢNG TRONG KHÓA LUẬN
TT
Bảng 3.1

Nội dung

Trang

Đánh giá của sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm về sự
cần thiết của các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục nếp

44

sổng cho sinh viên
Đánh giá của sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm
Bảng 3.2

GDQP Hà Nội 2 về tỉnh khả thi của các biện pháp nâng cao
chất lượng giáo dục nếp sổng cho sinh viên


46



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên là một trong những
nội dung của chiến luợc đào tạo con nguời, nhằm đào tạo ra những con người mới có
đủ trình độ năng lực để thực hiện tốt hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, ngay sau khi nước nhà thống nhất, ngày
28/4/1981 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 107-CT/TW về “Tăng cường
công tác giáo dục quốc phòng nhân dân, chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng làm nghĩa vụ
bảo vệ Tổ quốc ”. [ 1 ]. Nghị quyết 02-NQ/TW ngày 30-7-1987 của Bộ Chính trị đã

quy định đưa nội dung đường lối quân sự của Đảng và nhiệm vụ quốc phịng vào
chương trình học tập chính thức của các trường đào tạo, bổ túc cán bộ của Đảng và
Nhà nước; đưa nội dung giáo dục quốc phịng vào chương trình chính khố trong các
Trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học.
Hiện nay ở các nhà trường và cơ sở đào tạo, đội ngũ giáo viên GDQP và AN
vẫn đang còn thiếu về số lượng, chất lượng còn chưa đáp ứng được so với yêu cầu của
nhiệm vụ GD & ĐT trong tình hình mới. Chính vì vậy trong những năm gần đây được
sự quan tâm của Đảng, nhà nước, chính phủ và trực tiếp là Bộ GD & ĐT đã có nhiều
chủ trương, biện pháp tích cực trong việc đào tạo và từng bước chuẩn hóa đội ngũ
giáo viên GDQP và AN. Thực hiện đề án: “Đào tạo giáo viên giáo dục quốc phòng - an
ninh cho các trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề giai
đoạn 2010 - 2016” theo quyết định số 472/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12

tháng 04 năm 2010. Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 là một trong những cơ sở

được giao nhiệm vụ đào tạo giáo viên GDQP và AN. Đen nay nhà trường đã tuyển
sinh được 4 khóa đào tạo chính quy giáo viên ngành GDQP và AN với hơn 300 sinh
viên, bên cạnh đó hàng năm cịn tuyển sinh đào tạo hệ giáo viên, giảng viên văn bằng
2 ngành GDQP và AN.
Hiện nay Trung tâm GDQP Hà Nội 2 đang đảm nhiệm giảng dạy môn học
GDQP và AN cho sinh viên gàn 20 trường đại học và cao đẳng (có năm tham gia
giảng dạy cho cả học sinh trung học phổ thông) trên địa bàn thành phố Hà Nội, tỉnh

1


Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ. Ngoài việc giảng dạy cho sinh viên hệ cấp chứng chỉ,
Trung tâm được nhà trường giao nhiệm vụ chủ trì trong cơng tác giảng dạy và quản lý
rèn luyện đối với sinh viên hệ chính quy đào tạo giáo viên ngành GDQP và AN, do
vậy ngay từ khóa đàu tiên Ban giám đốc Trung tâm đã rất quan tâm đến chất lượng
đào tạo cũng như công tác quản lý đối với sinh viên ngành GDQP và AN, ngồi việc
học kiến thức cịn phải giáo dục cho sinh viên về ý thức tổ chức kỷ luật, giáo dục về
pháp luật, nép sống....
Nhận thức đúng tầm quan trọng của việc tổ chức quản lý nhằm nâng cao chất
lượng dạy học nói chung, chất lượng giáo dục nếp sống cho sinh viên ngành GDQP và
AN nói riêng, những năm qua Trung tâm GDQP Hà Nội 2 đã có nhiều biện pháp phù
hợp nhằm quản lý chặt chẽ việc dạy học cũng như duy trì kỷ luật, rèn luyện nền nếp,
tác phong, đạo đức lối sống đối với sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm
GDQP Hà Nội 2. Nhờ đó mà chất lượng dạy học ở Trung tâm đã có nhiều tiến bộ rõ
rệt, phong trào học tập sôi nổi, từng bước được nâng lên, việc duy trì các chế độ trong
ngày, trong tuần một cách có nền nếp, giáo dục nếp sống cho sinh viên đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Tuy nhiên chất lượng giáo dục nép sống cho sinh viên ngành
GDQP và AN có những nội dung cịn hạn ché, bất cập. Đáng quan tâm là hiệu quả
công tác giáo dục nếp sống cho sinh viên còn chưa thực sự được chú trọng, chưa đáp
ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự

hội nhập kinh tế quốc tế. Ý thức tổ chức kỷ luật, kỹ năng vốn sống, văn hóa ứng xử và
nếp sống của nhiều sinh viên cịn hạn chế, và ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi mặt trái
của xã hội, mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường...
Thực té trong những năm qua việc giáo dục nép sống cho sinh viên ngành
GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 đã đem lại những hiệu quả nhất định. Tuy
nhiên, trong quá trình quản lý, tổ chức và thực hiện còn bộc lộ một số hạn chế bất cập
như: Nhận thức của đa số các sinh viên trong Trung tâm về giáo dục nếp sống chưa
sâu sắc, đội ngũ cán bộ lớp không chuyên trách, thường phải kiêm nhiệm làm nhiều
công việc khác nhau, sự phối hợp giữa các bộ phận có lúc cịn chưa chủ động, chưa
nhịp nhàng. Các hoạt động tổ chức đoàn thể, hội sinh viên, các câu lạc bộ có lúc cịn
đơn điệu, cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động phong trào còn thiếu thốn, chưa

2


thu hút được đông đảo sinh viên tham gia, ý thức và lối sống của một bộ phận sinh
viên còn chưa chuẩn mực, chưa thể hiện được nếp sống văn minh trong môi trường
quân sự. Trước những yêu cầu của thực trạng đó, địi hỏi cơng tác giáo dục nếp sống
cho sinh viên cần được quan tâm đúng mức. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục
nếp sống cho sinh viên nhằm giáo dục cho sinh viên tính tự giác, tích cực trong học
tập, rèn luyện, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, phẩm chất đạo đức tốt, lối sống
trong sạch, lành mạnh, có kỹ năng trong giao tiếp; có tác phong nghề nghiệp để phục
vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đây là những vấn đề cần thiết mà các Khoa trong
nhà trường đang tìm kiếm biện pháp, giải pháp thực hiện.
Do vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục nếp
sổng cho sinh viên ngành Giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục
quốc phòng Hà Nội 2 hiện nay ” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu

Xác định cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số biện pháp nâng cao chất

lượng giáo dục nép sống cho sinh viên nhằm góp phàn nâng cao chất lượng trong
công tác quản lý và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Trung tâm GDQP Hà Nội
2 trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ cơ sở lý luận về giáo dục nếp sống cho sinh viên.
- Đánh giá đúng thực trạng, tìm nguyên nhân ưu điểm, khuyết điểm giáo dục
nép sống cho sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2.
- Đe xuất một số biện pháp giáo dục nếp sống cho sinh viên ngành GDQP và
AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 hiện nay, nhằm góp phần nâng cao chất lượng GD
& ĐT nói chung, nâng cao chất lượng giáo dục nép sống nói riêng.
- Khảo nghiệm tính càn thiết và khả thi của các biện pháp.
4. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác giáo dục nếp sống cho cho sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2;
từ đó đề xuất 1 số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục nép sống cho sinh viên
ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2.
4.2. Phạm vỉ nghiên cứu

3


Nghiên cứu công tác giáo dục nếp sống cho sinh viên ngành GDQP và AN
(Khóa 38, 39, 40, 41) ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2.
5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phuơng pháp phân tích và tổng hợp tài liệu; để nghiên cứu tác giả đã thu thập,
tổng hợp phân tích các tài liệu liên quan.

Phuơng pháp khái quát hóa nhận định khách quan: dựa trên những nhận định,
đánh giá, góp ý kiến của các chuyên gia, các nhà giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phuơng pháp điều tra: điều tra bằng phiếu câu hỏi với sinh viên ngành GDQP
và AN.
Phuơng pháp quan sát: tiến hành quan sát các nền nếp sinh hoạt tập trung, hoạt
động của sinh viên ở TTGDQP Hà Nội 2 cũng nhu nội dung giáo dục nếp sống của
các cán bộ quản lý sinh viên nhằm thu thập các tu liệu bổ sung.
Phuơng pháp phỏng vấn: Tiến hành trao đổi trực tiếp với các sinh viên ở Trung
tâm GDQP Hà Nội 2, các cán bộ quản lý đại đội sinh viên và các phòng, khoa, các tổ
chức liên quan.
5.3. Phương pháp thống kê toán học
Xử lý số liệu, kết quả nghiên cứu.
Nhận định đánh giá chính xác, khách quan két quả nghiên cứu.
6. Giả thuyết khoa học

Giáo dục nép sống cho sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà
Nội 2 hiện nay còn nhiều hạn ché, bất cập; nếu phân tích đánh giá đúng thực trạng
cơng tác giáo dục nếp sống cho sinh viên hiện nay, tìm ra đuợc nguyên nhân tồn tại;
đề xuất một số biện pháp nâng cao chất luợng dục nếp sống cho sinh viên ngành
GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 phù hợp thì sẽ nâng cao chất luợng giáo
dục đào tạo, góp phần giáo dục con nguời phát triển tồn diện.
7. Cấu trúc khóa luận

- Phần mở đầu

4


- Nội dung: gồm có 3 chương

Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục nếp sống cho sinh viên ngành GDQP và

AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
Chương 2: Thực trạng giáo dục nếp sống cho sinh viên ngành GDQP và AN ở

Trung tâm GDQP Hà Nội 2 hiện nay
Chương 3: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục nếp sống cho sinh viên

ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
- Ket luận, kiến nghị
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục

5


Chương 1
Cơ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC NẾP SỐNG CHO SINH VIÊN NGÀNH
GIÁO DỤC QC PHỊNG VÀ AN NINH Ở TRUNG TÂM GDQP HÀ NỘI 2
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiền cứu

Vấn đề nghiên cứu lối sống, nép sống đã được đề cập đến từ lâu qua nhiều
cơng ữình nghiên cứu cơng phu nhu cơng trình “Việt Nam Phong tục” của tác giả
Phan Kế Bính (1875-1921).[2]. Ơng đã nghiên cứu công phu về các phong tục tập
quán của dân tộc Việt Nam qua bề dầy lịch sử 4000 năm. Tất cả những thói quen, nép
sống của con người Việt Nam từ xưa đến đầu thế kỉ XX được tác giả phản ánh một
cách khách quan, từ đó ca ngợi những phẩm chất, cái đẹp của con người Việt Nam
đồng thời cũng mạnh dạn đánh giá, phê phán các yếu tố lạc hậu, trì trệ trong lối sống,
nếp sống đi ngược lại thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong tài liệu “Sửa đổi lề lối làm việc” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh

việc xây dựng lối sống, nếp sống mới, cách làm việc mới.
Tại Đại hội IV và V của Đảng đã đề ra đường lối xây dựng nếp sống mới.
Trong văn kiện đại hội IV có ghi khái niệm: “nếp sống mới có văn hóa”, “vận động
một cách kiên trì và sâu rộng để tạo ra nếp sống mới có văn hóa trong xã hội, đưa cái
đẹp vào đời sống hàng ngày, vào lao động sản xuất”. Trong Đại hội V, văn kiện dùng
khái niệm lối sống: “Cuộc đấu tranh giữa hai con đường, giữa cái mới và cái cũ, tiên
tiến và lạc hậu, tiến bộ với phản động, trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng và lối sống đang
diễn ra hàng ngày rất phức tạp”. Trong Nghị quyết V của Ban Chấp hành Trung ương
khóa VIII, bàn về lĩnh vực văn hóa. Nội dung nghị quyết gồm 6 vấn đề quan trọng thì
vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống, nép sống được đặt lên đầu tiên. Trong toàn văn
Nghị quyết V thuật ngữ lối sống, nép sống được nhắc đén như “tư tưởng đạo đức và
lối sống là những lĩnh vực then chốt của văn hóa” hay như “lối sống lành mạnh, nép
sống văn minh”. Như vậy, vấn đề nép sống đã được quan tâm sâu sắc không chỉ các
nhà khoa học mà các nhà quản lý xã hội cũng rất chú trọng tới việc quản lý giáo dục
nếp sống.

6


Trong thời gian gần đây hàng loạt những cơng trình nghiên cứu về lối sống,
nếp sống đã được thực hiện theo tinh thần đổi mới của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng do những thay đổi về kinh té, xã hội đang phát triển đưa đến những biến đổi
trong lối sống, nếp sống, định hướng giá trị con người Việt Nam nói chung, giới học
sinh, sinh viên nói riêng. Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu lối sống, nép
sống ở đối tượng sinh viên đã được công bố như sau:
Tác giả Nguyễn Thị Kỷ: Tổ chức tốt cuộc sống sinh viên ở kỷ túc xá nhằm giáo
dục đạo đức, loi sổng cho họ, Kỷ yéu hội thảo định hướng giá trị giáo dục đạo đức

trong các trường đại học, Hà Nội, năm 1996.
Tác giả Mạc Văn Trang: Đặc điểm loi sống sinh viên hiện nay và những phương

hướng, biện pháp giáo dục loi sống cho sinh viên, Đe tài khoa học cấp bộ, Mã số B94-

38-32, Năm 1998.
Tác giả Đặng Văn Thuân: Các biện pháp quản lý giáo dục nếp sổng cho sinh
viên trường Cao đẳng Sư phạm Mau giáo Trung ương 3, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo

dục, Năm 1999.
Tác giả Tạ Duy Chung: Quản lỷ giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường
Cao đẳng nghề Việt Xô sổ 1, Bộ Xây dựng, Luận văn thạc sỹ khoa học quản lý giáo dục,

Năm 2015.
Ngoài ra một số chuyên đề, bài báo viết về lối sống, nếp sống sinh viên như:
Tác giả Vũ Dũng: Nếp sổng xã hội của sinh viên, Tạp chí Đại học và Giáo dục
chuyên nghiệp, tháng 01/1997.
Tác giả Hồ Thu: Sinh hoạt trong kỷ túc xá sinh viên, sân chơi chưa lành mạnh,
Báo Sài Gịn giải phóng, ngày 24/11/2003.
Qua những cơng trình, tài liệu nghiên cứu trên chúng tơi nhận thấy các tác giả
đã tiếp cận với những góc độ, bình diện khác nhau trên các đối tượng sinh viên thuộc
các ngành, các lĩnh vực khác nhau. Riêng mảng đề tài về sinh viên ngành GDQP và
AN trường ĐHSP Hà Nội 2 thì chưa có tác giả nào đề cập. Từ những sự cần thiết về
công tác giáo dục nếp sống cho sinh viên ở trường ĐHSP Hà Nội 2 nói chung và ở
Trung tâm GDQP Hà Nội 2 nói riêng, tôi đã lựa chọn đề tài: “Biện pháp nâng cao chất

7


lượng giáo dục nếp sống cho sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà
Nội 2”. Hy vọng và mong muốn của tơi là đóng góp một phàn nhỏ vào việc nâng cao
chất lượng công tác giáo dục nếp sống cho sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm
GDQP Hà Nội 2.

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Khái niệm vê lôi sông
Max Weber, nhả xã hội học người Đức, là người đầu tiên khi nghiên cứu về lối
sống đã cho rằng lối sống thể hiện vị trí của các nhóm xã hội. Khái niệm lối sống được
mơ tả như kiểu sống của một nhóm xã hội, giai cấp, là một cộng đồng người cùng
chung một vị trí kinh tế.
Thuật ngữ lối sống có sự biện chứng giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần
gắn liền với phương thức sản xuất xã hội, với chế độ chính trị xã hội, với hình thái
kinh tế xã hội.
Ở Liên Xơ cũ, một số cơng trình nghiên cứu lối sống đã đặt vấn đề nghiên cứu
nội hàm khái niệm lối sống với 3 cách tiếp cận được tóm lược nhu sau:
- Cách tiếp cận thứ 1 : Xem xét lối sống như một phạm trù có liên quan bên
trong của chủ thể như nếp nghĩ, nép hành động, thói quen mà ít quan tâm đến hoạt
động sống và các điều kiện sống. Mặt hạn chế của cách tiếp cận này ở chỗ, theo A. I.
Buchenco, nó đã loại ra một yếu tố quan trọng của lối sống là hoạt động của chủ thể
và lao động.
- Cách tiếp cận thứ 2: Định nghĩa lối sống bằng cách liệt kê ra các hoàn cảnh
sống của con người, xã hội do đó lối sống được kiến giải như một phạm trù xã hội học
bao gồm các điều kiện sống, các hình thức hoạt động sống của con người, các quan hệ
xã hội, các sinh hoạt, các hình thức thỏa mãn nhu cầu thế giới quan.
- Cách tiếp cận thứ 3: Xem lối sống như là một sự thống nhất các hình thức
hoạt động sống và các điều kiện sống của con người, xã hội. Như vậy, lối sống là một
phạm trù của xã hội học, chỉ sự thống nhất hữu cơ của các hình thức hoạt động sống
và các điều kiện sống nhất định.
Từ 3 cách tiếp cận ữên, M. N. Rukevich, tiến sĩ triết học Viện hàn lâm khoa

8



học Liên Xô cũ đã khái quát như sau: Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những
đặc điểm chủ yếu, nói lên hoạt động của các nhóm dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội,
các cá nhân trong những điều kiệu của một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Có nhiều cách phân loại lối sống:
- Từ bình diện sử dụng năng lực, T. Makiguchi nêu lên 3 lối sống của con
nguời như sau:
+ Lối sống đóng góp: trong mối quan hệ với thời gian, con người có các thái
độ mang tính lạc quan hay bi quan khi hoạt động phản ứng với các kích thích của hiện
tại, hoạt động hướng về quá khứ và hoạt động hướng về tương lai.
+ Lối sống trao đổi: lối sống văn hóa, lối sống chính trị, lối sống kinh tế.
+ Lối sống phụ thuộc: sống bằng hưởng thụ hay chiếm đoạt.
- Từ bình diện xã hội học, lối sống được chia theo các tiêu chí sau:
+ Theo lãnh thổ vùng miền: có lối sống thảnh thị, lối sống nơng thơn...
+ Theo phân tầng giai cấp: có lối sống tư sản, lối sống tiểu tư sản, lối sống
công nhân, lối sống sinh viên, lối sống tri thức, lối sống thương gia, lối sống nơng
dân...
+ Theo hình thái kinh tế xã hội: có lối sống phong kiến, lối sống tư bản chủ
nghĩa, lối sống XHCN.
Tác giả Đỗ Trung Lai cho rằng: “Lối sống suy cho cùng là cách dùng đạo đức
mà hành đạo ở đời. Lối sống thể hiện bên ngoài của đạo và đức. Nó đã là và ln là
văn hóa”.
Tác giả Phạm Ngọc Định cho rằng lối sống còn là một phạm trù của duy vật
lịch sử. Tác giả dựa vào luận điểm của Marx và Ănghen khi cho rằng “Phương thức
sản xuất phải xét khơng đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể
xác của cá nhân và hơn thế nữa nó là một hình thức hoạt động nhất định của những cá
nhân ấy, một hình thức nhất định của sự biểu hiện đời sống của họ: Những cá nhân
biểu hiện đời sống của họ như thế nào thì họ là người như thế ấy. Nó ăn khớp với sản
xuất của họ, với cái mà họ đã sản xuất ra cũng như cách họ sản xuất ra”.
Phạm Ngọc Định đã đưa ra định nghĩa lối sống dưới dạng luận đề “Lối sống là


9


tổ hợp các phương thức hoạt động sống điển hình của con ngời đối với xã hội nhất
định mà nó được xét thống nhất với các điều kiện nó hoạt động. Lối sống bao gồm
nhiều hệ thống hành vi ứng xử của con người trong cuộc sống”.
Tác giả Thanh Lê cho rằng “Lối sống là quan niệm sống của con người, tức là
nói đén nhân sinh quan. Nói đến lối sống là nói đến tất cả các lĩnh vực hoạt động của
con người trong những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội và cá nhân - hoạt động lao
động; hoạt động sinh hoạt, gia đình; hoạt động xã hội, chế độ; hoạt động văn hóa tinh
thần. Trong đó, hoạt động lao động là cơ bản nhất”.
Các định nghĩa, các cách phân loại lối sống trình bày ở trên giúp cho nhả quản
lý, nhà nghiên cứu có cơ sở đi sâu phân tích đặc điểm của từng khách thể, từng nhóm
xã hội để từ đó xác định phương hướng cụ thể xây dựng lối sống phù hợp.
1.2.2. Khái niệm về nếp sống
Thuật ngữ nép sống được dùng rất phổ biến. Theo thói quen trong ngơn ngữ
tiếng Việt, ữên sách báo hiện nay sử dụng hầu như cả hai thuật ngữ lối sống và nếp
sống với một nội hàm giống nhau. Hai thuật ngữ này khơng hồn tồn như một nhưng
cũng khơng nói lên hai phạm trù khác nhau.
A.P.Buchenco cho rằng: “Nếp sống không phải là một phần mà là một trong
những hình thức biểu hiện của sự sống”.
L.V.Cokan cho rằng: “Nếp sống của con người được xem như là sự phản ánh
của cá nhân vào xã hội, lối sống của con người được xem như là sự phản ánh của xã
hội vào cá nhân”.
Nếp sống là cách xử sự của mồi người, những giá trị được rút ra từ đời sống
hiện thực. Những giá trị ấy là sự điều tiết các xu hướng, quan niệm và hành vi của con
người làm cơ sở cho việc đánh giá các giá trị xã hội, các nguyên tắc của trật tự xã hội
và hoạch định của nếp sống cộng đồng.
Lối sống gồm nhiều hệ thống hành vi ứng xử của con người. Lối sống phải
được thông qua nếp sống. Nếp sống là những hành vi ứng xử của con người, được lặp

đi lặp lại nhiều lần thành nền nép, thành thói quen, thành phong cách được xã hội công
nhận. Những hành vi trong lối sống chưa được lặp đi lặp lại, chưa có tính ổn định và

10


chưa trở thành bản tính tự nhiên của con người trong các hoạt động, trong các ứng xử
thì khơng nằm trong phạm trù nép sống. Nép sống là mặt ổn định của lối sống, là bản
năng của lối sống nên khi nói đến nếp sống nghĩa là nói đến một lối sống ổn định.
Thật là khó khăn khi tách rời nếp sống ra khỏi lối sống, lối sống có tính định
tính, định hướng. Cịn nếp sống có tính định hình, định lượng trong cuộc sống của con
người. Nếp sống với tư cách là biểu hiện của lối sống, thể hiện ở tính cụ thể, ở những
chuẩn mực, khn mẫu ứng xử của xã hội mà mỗi cá nhân đó tự ý thức, tự biến đổi
bản tính của mình thành những hành động ổn định mang tính chung của xã hội. So với
lối sống, nép sống có tính ổn định, bền vững hơn nhưng khơng có nghĩa khơng có sự
biến đổi. Cùng với sự biến đổi của lối sống, nép sống cũng biến đổi nhưng chậm và
khó khăn hơn.
Xung quanh khái niệm lối sống, nép sống chúng ta còn gặp một số khái niệm
liên quan như nếp sống văn minh, nếp sống văn hóa, mức sống, lẽ sống, phong cách
sống, nếp sống mới... Nội hàm các khái niệm trên đều nằm trong phạm vi nếp sống.
- Nếp sống văn minh có sự phân biệt với nếp sống văn hóa: Nếp sống văn
minh là nếp sống được thừa hưởng các thảnh tựu của nền khoa học kĩ thuật cơ khí,
điện tử, mang sắc thái nếp sống cơng nghiệp. Nếp sống văn hóa là nếp sống thể hiện
trình độ văn hóa cao, bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc hịa quyện với nhau.
- Cách sống: Là kiểu sống có nghĩa hẹp cụ thể, đó là lối sống theo cá tính, thị
hiếu của cá nhân trong một điều kiện môi trường sống nhất định. Ví dụ: Cách sống
của một gia đình, một tầng lớp, của giới văn nghệ sĩ, của người độc thân... Tuy nhiên
cách sống, kiểu sống mang tính độc đáo, đa dạng nhưng vẫn phải tuân thủ lối sống
nhất định trong một cộng đồng, trong một xã hội.
- Mức sống: Là mức thu nhập, mức hưởng thụ phúc lợi xã hội của cá nhân là

thước đo chất lượng cuộc sống. Trong sự hưởng thụ có sự hưởng thụ vật chất, hưởng
thụ tinh thần. Mức sống cao, con người có điều kiện thỏa mãn các yêu cầu về vật chất
và tinh thần. Mức sống thấp, con người chưa có cơ hội để thỏa mãn nhu cầu cả về vật
chất lẫn tinh thần.
- Lẽ sống: Là một trong những phạm trù cơ bản của đạo đức học. Lẽ sống là

11


một phần nhận thức của lối sống, nép sống. Lẽ sống là sự thống nhất biện chứng giữa
nghĩa vụ và hạnh phúc. Lẽ sống cao nhất thể hiện ở lối sống, nép sống mình với mọi
người, mọi người với mình. Chúng ta có thể tìm thấy lẽ sống cao q ở các anh hùng,
các bậc vĩ nhân, các nhà khoa học và ngay cả ở những con người bình thường biết hy
sinh với cộng đồng hoặc giữ gìn phẩm chất trong sáng trong mọi hồn cảnh thực sự
khó khăn.
Khái qt tồn bộ các vấn đề lý luận đã trình bày ở trên có thể nêu lên định
nghĩa tổng quát: “Nep sổng là những cách thức hành động và suy nghĩ, những quy
ước được lặp đi lặp lại hàng ngày và trở thành thói quen trong sản xuất, sinh hoạt,
phong tục, lễ nghỉ, hành vỉ đạo đức, trong pháp luật”.
Từ định nghĩa cho ta thấy nép sống chính là cách thức ứng xử, việc làm, việc
thực hiện các quy ước của cộng đồng đã trở thành thói quen. Nép sống được thể hiện
trong tất cả các hoạt động của con người từ sinh hoạt, giải trí, vui chơi, học tập đến lao
động, ứng xử, giao tiếp... Có thể chia nếp sống theo nhiều cách, dựa vào các đặc điểm
và các tiêu chí xã hội học, người ta phân loại như sau:
- Theo đặc điểm nghề nghiệp: có nếp sống nơng dân, nếp sống nghệ sĩ...
Ví dụ: Người nơng dân có nếp sống chất phác, thật thà, giản dị...
- Theo đặc điểm vùng miền có nếp sống đơ thị, nếp sống nơng thôn...
- Theo đặc điểm độ tuổi nép sống thanh niên, nếp sống người cao tuổi...
Vi dụ: Thanh niên họ có nép sống nhanh thích nghi và tiếp thu những cái mới,
sống phóng khống và thích thay đổi. Cịn người cao tuổi họ ln có nếp sống là: Có

tính ổn định cao và họ khó thích nghi với những cái mới.
- Theo tiêu chí phân tầng xã hội có nếp sống cơng nhân, nếp sống trí thức...
- Theo hình thái kinh tế xã hội có nếp sống tư bản chủ nghĩa, nếp sống
XHCN.
Nếp sống có một số tính chất như sau: Nếp sống là những phẩm chất có tính
ổn định, là biểu hiện của đạo đức; là những hành vi đã trở thành thói quen, khơng tách
rời khỏi hồn cảnh, điều kiện cụ thể trong cuộc sống hàng ngày của con người;
Nếp sống được biểu hiện ở các mặt hoạt động: Lao động, học tập, quan hệ,

12


ứng xử; hoạt động cá nhân; hoạt động đoàn thể xã hội.
Đối với sinh viên nép sống biểu hiện trong các hoạt động học tập, sinh hoạt,
lao động, giao tiếp, ứng xử. Đây là những hoạt động trong nhà trường, đặc biệt ở nội
trú toong KTX, là những hoạt động cơ bản của sinh viên.
Nhìn chung, nếp sống là phương thức xử sự trong một hoàn cảnh nhất định của
cá nhân trong cuộc sống, nó cịn là một phương thức xử sự được quy định bởi các giá
trị đạo đức chuẩn mực. Vì vậy, nếp sống là những quy ước tạo thành thói quen cho
mỗi con người và xã hội. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta luôn phải chứng kiến
cuộc xung đột gay gắt giữa lối sống mới và đủ loại nép sống trong các mối quan hệ xã
hội, buộc mỗi cá nhân phải nhìn nhận lựa chọn cho mình một cách sống lành mạnh, có
văn hóa.
1.3. Đặc điểm tâm lý của sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội
2

Trước hết chúng ta nhận thấy rằng, sinh viên là một tầng lớp xã hội, một tổ
chức xã hội quan trọng đối với mọi thể chế chính trị. Họ là nhóm người có vị trí
chuyển tiếp, chuẩn bị cho một đội ngũ tri thức có trình độ và nghề nghiệp tương đối
cao trong xã hội. Là nguồn cung cấp chủ yếu cho đội ngũ những chuyên gia theo các

nghề nghiệp khác nhau trong cấu trúc tầng lớp tri thức xã hội. Các tổ chức chính trị, xã
hội, gia đình đều đặt nhiều kỳ vọng vào sinh viên. Điều này làm cho sinh viên có vai
trị rõ rệt. Sinh viên là công dân thực thụ của một đất nước với đầy đủ quyền hạn và
nghĩa vụ trước pháp luật. Họ có quyền bàu cử, ứng cử, phải chịu trách nhiệm về mọi
hành vi và việc làm trước Bộ luật Hình sự, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Hơn nhân và
gia đình...
Với ý nghĩa trên thì xã hội coi sinh viên là một thảnh viên chính thức, một
người trưởng thành. Tuy nhiên, do đang ngồi trên ghế nhà trường, chưa tham gia trực
tiếp sản xuất ra của cải vật chất nên các em chưa hoàn toàn là người tự lập về mọi mặt
so với những thanh niên cùng độ tuổi không học đại học, phải tham gia lao động sớm.
Vì vậy, tính chất trưởng thành của thanh niên sinh viên có những nét đặc trưng riêng.
Nhà tâm lý học người Pháp Bianka Zazzo đã nghiên cứu tuổi trưởng thành của thanh

13


niên sinh viên và đi đến két luận: Trình độ học vấn và vị trí xã hội của con người có
ảnh hưởng đến sự trưởng thành của họ. Những nghiên cứu của ông cho thấy, thanh
niên nông thôn trưởng thành về mặt xã hội sớm hơn thanh niên công nhân; thanh niên
sinh viên trưởng thành về mặt xã hội muộn nhất. Điều này là do càng tham gia lao
động sản xuất sớm thì tình cảm trách nhiệm, tình cảm nghĩa vụ càng hình thành sớm,
họ nhanh chóng sống độc lập và tách khỏi sự phụ thuộc vào cha mẹ.
Mặt khác theo các nhà tâm lý học tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực
nhất của những loại tình cảm cao cấp như tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm
thẩm mỹ. Những tình cảm này biểu hiện rất phong phú trong hoạt động và trong đời
sống sinh viên. Đặc điểm của nó là tính hệ thống và bền vững so với thời kỳ trước đó.
Đối với sinh viên học ngành GDQP và AN tại Trung tâm GDQP Hà Nội 2 rất
đa dạng, phong phú, đến từ nhiều vùng, miền khác nhau, họ mang theo những nét đặc
trưng riêng, văn hố vùng miền, truyền thống gia đình, phong tục tập quán khác
nhau....

Sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 có sự khác biệt
so với sinh viên ở các khoa trong nhà trường đó là sinh viên khi đến học được biên chế
thành các tiểu đội (tổ học tập), trung đội (lớp học tập) do ban chỉ huy đại đội quản lý
trực tiếp, sinh viên phải ăn, ở, sinh hoạt tập trung, sống xa nhà. Sinh viên trong cùng
một trường nhưng ở các khoa khác ở mơi trường bên ngồi rất thoải mái trong sinh
hoạt, học tập, tự do đi lại ngoài giờ học... Còn sinh viên ngành GDQP và AN khi nhập
học, theo môi trường quân đội được rèn luyện theo các chế độ trong ngày, trong tuần
hết sức gị bó, với tính kỷ luật cao. Ban đầu nhiều sinh viên đã nản chí, tự ý bỏ ra
ngồi đi chơi, chấp hành thời gian ra vào cổng còn sai quy định, mang mặc sai tác
phong, tuy nhiên sau đó được sự động viên kịp thời của các cán bộ quản lý sinh viên
cũng như các em đã nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của bản thân với đặc thù
ngành học của mình nên 100% sinh viên ở Trung tâm đều xác định quyết tâm khắc
phục khó khăn, vất vả để học tập và rèn luyện.
Đa số sinh viên có trách nhiệm, ham hiểu biết, có chí tiến thủ, năng động, và
có một quyết tâm cao để khắc phục mọi khó khăn, vất vả vươn lên trong học tập. Đối

14


với ngành GDQP và AN bên cạnh nhiều sinh viên có nhận thức đúng, có nhiều cố
gắng và đạt kết quả cao ữong học tập thì cũng có một bộ phận sinh viên coi ngành học
này là ngành học 3K (khó, khơ, khổ). Chính vì vậy trong q trình học tập có sinh
viên cịn chưa tích cực, tự giác, thời gian dành cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu
của sinh viên còn hạn ché... Đây là những yếu tố tác động, ảnh hưởng lớn đến chất
lượng dạy học các môn chuyên ngành GDQP và AN cho sinh viên ở Trung tâm
GDQP Hà Nội 2 nói chung và chất lượng giáo dục nép sống nói riêng.
Dạy học các mơn chun ngành GDQP và AN cho sinh viên ở Trung tâm
GDQP Hà Nội 2 mang tính đặc thù về cả nội dung chương trình, hình thức tổ chức,
phương pháp giảng dạy lẫn đội ngũ cán bộ, giảng viên và cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học. Đe nâng cao chất lượng dạy học mơn học này địi hỏi phải được quản lý chặt chẽ,

khoa học, có tính kỷ luật, có nếp sống văn minh, lối sống lành mạnh... Tuy nhiên,
công tác giáo dục nếp sống cho sinh viên có lúc cịn bị chi phối bởi cơ chế, chính sách,
tổ chức biên chế, các mặt bảo đảm và đặc biệt là ý thức của mồi sinh viên...
Kết quả nghiên cứu những vấn đề cơ bản trên là những cơ sở sát thực để đánh
giá đúng thực trạng, đồng thời đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục nép sống cho sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2.
1.4. Nội dung giáo dục nếp sống cho sinh viên

1.4.1. Giáo dục nếp sổng cho sinh viên trong hoạt động học tập, rèn luyện
Theo quy định của Trung tâm khi sinh viên đến nhập học được tổ chức biên
chế thành các tiểu đội, trung đội, đại đội, mỗi trung đội là một lớp học số lượng sinh
viên trong mồi lớp học dao động từ trên 40 đến trên 60 sinh viên, tuỳ theo số lượng
chỉ tiêu từng năm.
Hàng ngày sinh viên phải tham gia học tập theo ké hoạch chung. Vị trí học tập
các nội dung lý thuyết được tổ chức ở giảng đường, các nội dung thực hành được tổ
chức học tập ở ngoài sân bãi, thao trường. Trong quá trình học tập được giảng viên tổ
chức duy trì kỷ luật trong lớp học hét sức nghiêm túc và chặt chẽ, cụ thể:
Khi học tập trong hội trường (phòng học), người phụ trách hoặc trực ban lớp
học phải kiểm tra quân số, trang phục, chỉ huy sinh viên vào vị trí, hơ “Nghiêm” và

15


báo cáo giảng viên. Neu có mang theo vũ khí giảng viên phải tổ chức cho khám súng
trước và quy định nơi giá (đặt) súng. Sinh viên ngồi trong lớp học phải đúng vị trí quy
định, tập trung tư tưởng theo dõi nội dung học tập. Khi ra hoặc vào lớp phải đứng
nghiêm báo cáo xin phép giảng viên. Được phép mới ra hoặc vào lớp.
Sau mỗi tiết hoặc giờ học tập được nghỉ 5 đến 10 phút. Het giờ nhanh chóng
vào lớp, tiếp tục nghe giảng. Giảng viên phải chấp hành đúng thời gian. Neu giảng quá
giờ quy định phải báo cho người phụ trách lớp học và người học biết. Hét giờ học,

người phụ trách hoặc trực ban lớp hô “Đứng dậy” và hô “Nghiêm”, báo cáo giảng viên
cho xuống lớp, sau đó chỉ huy sinh viên ra về.
Khi học tập ngoài thao trường, người phụ trách hoặc trực ban lớp phải tổ chức
cho sinh viên đi và về thành hàng lối, thời gian đi và về không tính vào thời gian học
tập. Nếu một lần đi (về) trên một giờ được tính một nửa vào thời gian học tập. Trước
khi học tập, người phụ trách hoặc trực ban lớp học phải tập hợp sinh viên, kiểm tra sĩ
số, trang phục, vũ khí, học cụ, khám súng, sau đó báo cáo với giảng viên. Sinh viên
phải chấp hành nghiêm kỷ luật thao trường. Súng, đạn (néu có), trang bị chưa dùng
trong luyện tập phải có người canh gác. Hốt giờ luyện tập người phụ trách hoặc trực
ban lớp học phải tập hợp sinh viên, khám súng, kiểm tra sĩ số, vũ khí, học cụ và các
trang bị khác, chỉnh đốn hàng ngũ, báo cáo giảng viên cho sinh viên nghỉ, sau đó chỉ
huy sinh viên về đơn vị, hoặc nghỉ tại thao trường. Trường hợp có cấp trên của giảng
viên ở đó thì giảng viên phải báo cáo cấp trên trước khi lên, xuống lớp.
Thời gian ngoài giờ lên lớp là khoảng thời gian khá dài trong quỹ thời gian của
sinh viên. Đe sử dụng thời gian cho việc học tập, trau dồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng
hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức tự giác của sinh viên. Tuy nhiên vai trò kiểm tra giám
sát của cán bộ quản lý sinh viên, của cán bộ trung đội kiêm chức, tiểu đội kiêm chức,
ban cán sự lớp, cán bộ Đồn, Hội, các câu lạc bộ cũng khơng thể bỏ qua. Đặc biệt là
quá trình tự học của sinh viên, các em phải tự nhận thức được việc học tập của mình,
việc học tập địi hỏi sinh viên không chỉ tiếp thu tri thức ở trên lớp qua bài giảng của
thầy mà cịn phải tự tìm kiếm tri thức thông qua các tài liệu tham khảo trên cơ sở
những kiến thức đã lĩnh hội trước đó. Để chiếm lĩnh vốn tri thức sâu và rộng, hoàn

16


thành tốt mục đích và nhiệm vụ học tập, sinh viên phải biết coi trọng việc tự học.
Ngoài giờ lên lớp, thời gian tự học sinh viên sử dụng thời gian vào các hoạt
động lao động, sinh hoạt giải trí văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao. Đây là những
hoạt động khơng thể thiếu và có tác dụng tích cực trong việc giúp sinh viên bổ sung,

ứng dụng kiến thức học được qua sách vở vào thực tiễn cuộc sống nếu như những hoạt
động đó nằm trong kế hoạch và có tổ chức, có định hướng giáo dục rõ ràng của các cơ
quan, đơn vị. Đối với những hoạt động này cần tạo điều kiện tốt để sinh viên thể hiện
năng lực của mình trong hoạt động thực tiễn, đồng thời phát hiện những thiếu sót, yếu
điểm để kịp thời bổ xung, sửa chữa nhằm hoàn thiện các nội dung đào tạo. Kịp thời
ngăn chặn và nghiêm khắc xử lí đối với các hoạt động dưới hình thức tổ chức nhóm,
cục bộ, vùng miền, địa phương, mang tính tự phát mà nội dung không lành mạnh ảnh
hưởng tới môi trường đào tạo của Trung tâm. Đó là những hoạt động vừa mất thời
gian và ảnh hưởng xấu đến két quả học tập, rèn luyện của các em, vừa ảnh hưởng đến
nếp sống.
1.4.2. Giáo dục nếp sống cho sinh viên trong hoạt động tập thể cá nhân và lao
động
Thời gian ngoài giờ vào các giờ nghỉ, ngày nghỉ sinh viên tham gia vào các
hoạt động ngoại khoá như: giao lưu văn hóa văn nghệ, thi đấu thể dục thể thao, tổ
chức các chương trình, sự kiện và tham gia lao động củng cố đơn vị, làm sạch đẹp môi
trường.... Đây là những hoạt động khơng thể thiếu trong khóa học, nó có tác dụng rất
tích cực trong việc giúp sinh viên bổ sung, ứng dụng kiến thức học được qua sách vở
vào thực tiễn cuộc sống, các em được hoạt động, trải nghiệm cuộc sống. Đặc biệt
những hoạt động đó nằm trong ké hoạch và có tổ chức, có định hướng giáo dục rõ
ràng, tổ chức phân công cụ thể, có người phụ trách. Những thời gian ngồi giờ là thời
điểm rất dễ để sinh viên vi phạm các quy định, vi phạm kỷ luật, do vậy việc giáo dục
nép sống trong các hoạt động này là hét sức quan trọng.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra sản phẩm vật
chất và tinh thần cho xã hội. Lao động là vinh quang, mọi người cần phải có thái độ
tơn trọng, u q lao động; lao động phải có tính mục đích, tính kỷ luật, có kiến thức,

17



×