Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Lịch sử, phân loại và cấu trúc vải sợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 52 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM
KHOA CÔNG NGHỆ HÓA HỌC
---------------------- o0o----------------------

BÁO CÁO ĐỒ ÁN MÔN HỌC

LỊCH SỬ, CẤU TRÚC VÀ
PHÂN LOẠI VẢI TRÊN THỊ TRƢỜNG
GVHD: Phạm Võ Thị Hà Quyên
SVTH: Văn Nguyễn Như Ngân
LỚP: 05DHHH4
MSSV: 2004140437

Hồ Chí Minh, tháng 4/2016


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên em xin gửi lời cám ơn chân thành sâu sắc tới các thầy cô giáo trong
trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và các thầy
cô giáo trong khoa Công nghệ Hóa học, đã tận tình giảng dạy, truyền đạt cho em những
kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn đến cô Phạm Võ Hà Quyên, cô đã tận tình giúp đỡ,
trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình làm đồ án môn học. Trong thời gian
làm việc với cô, em đã tiếp thu thêm nhiều kiến thức bổ ích mà còn học tập được tinh thần
làm việc, thái độ nghiên cứu khoa học nghiêm túc, hiệu quả, đây là những điều rất cần
thiết cho em trong quá trình học tập và công tác sau này.
Sau cùng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè đã động viên, đóng
góp ý kiến và giúp đỡ trong quá trình học tâp, nghiên cứu và hoàn thành đồ án tốt nghiệp.


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN



Sinh viên thực hiện:

Văn Nguyễn Như Ngân

MSSV: 2004140437

Nhận xét:
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
Điểm đánh giá:
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
Ngày

Tháng

Năm 2016

(ký tên, ghi rõ họ và tên)



NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN

Văn Nguyễn Như Ngân
MSSV: 2004140379

Sinh viên thực hiện:

Nhận xét: ...........................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
Điểm đánh giá: .................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
Ngày

Tháng

Năm

(ký tên,ghi rõ họ và tên)



CHƢƠNG 1: LỊCH SỬ VỀ VẢI SỢI
1.1. Vải sợi dệt
Từ hơn 10.000 năm Trước Công nguyên, vải sợi gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của
con người. Các loại sợi đã được con người sử dụng để tạo thành các mảnh phẳng lớn gọi
là vải để phục vụ cho nhu cầu giữ ấm và các vật dụng hàng ngày. Con người ngày cành
phát triển, tư duy cao hơn nên đòi hỏi về vật dụng hàng ngày cũng cao hơn,
do đó, vải sợi cũng từ đó mà không ngừng được nâng cấp đạt đến những bước đột phá
mới. Vải sợi đã có những bước chuyển lớn trong lịch sử và tồn tại không ngừng phát triển
cho đến nay.
1.1.1. Vải sợi thiên nhiên
Vải từ sợi thiên nhiên có thể xem là thành tựu cổ đại của con người. Dù xuất hiện từ
rất sớm, nhưng ngày nay vải từ vật liệu thiên nhiên vẫn chiếm vị trí quan trọng trong vật
liệu may mặc và vật dụng hàng ngày.
1.1.1.1 Bông
a) Nguồn gốc
Vải Cotton được làm từ xơ bông, là chất xơ phổ biến nhất trên thế giới. Xơ bông rất
được ưa chuộng trong công nghiệp may mặc vì có những đặc tính tốt như cách nhiệt, mềm
mại, co giãn, thoáng khí..., bông đã giúp định hình lịch sử của thế giới quần áo và bảo vệ
vô số các nền văn minh và nhà thám hiểm khỏi những tác động của thiên nhiên. Những
quả bông lâu đời nhất được tìn thấy trong ngôi mộ và di tích thành phố tại các nên văn
minh có khí hậu khô nóng. Từ tiếng Anh cho bông xuất phát từ tiếng Ả Rập "al-qutun".
Bông thuộc họ Cẩm quỳ (Malvaceae) của chi Gossypium. Cây cao cỡ 1m, hoa vàng có 3
lá hoa, sợi dính vào hạt. Ngoài việc xơ bông được dùng để may mặc, những bộ phận khác
cũng có những công dụng khác như vỏ rễ có thể giúp người phụ nữ có kinh nguyệt, còn có
thể làm trụy thai, hạt giúp những người có sữa sau khi sinh.

Hình 1.1. Cây bông


b) Thời cổ đại và trung cổ

Bông được cho là đã được trồng đầu tiên và kéo sợi vào khoảng 5000 TCN. Một số
tấm vải bông cổ nhất có niên đại khoảng 3600 TCN được phát hiện trong một hang động
ở Tehuacán (Mexico). Bên cạnh đó, nhiều nhà nghiên cứu tin rằng bông có nguồn gốc từ
Pêru vì có những phát hiện mang tính tương đồng về di truyền khi họ tìm thấy những hạt
giống ở Pêru và bờ biển Thái Bình Dương của Chilê. Bông được trồng phổ biến trong nền
văn minh Thung lũng Indus , tại đây, những phương pháp sản xuất vải bông ra đời và
được sử dụng cho đến khi nền công nghiệp vải ở Ấn Độ phát triển trước những năm 2500
TCN. Từ năm 2000-1000 TCN, bông được trồng và kéo sợi phổ biến khắp Ấn Độ và lan
dần từ Ấn Độ sang Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ; từ Thái Bình Dương đến Trung Mỹ và Caribê.
Mặc dù bông đến từ ít nhất hai điểm khác nhau trên toàn thế giới, nhưng nó mang một ý
nghĩa là tài sản chung của nhân loại.
Việc thành lập của đế chế Hồi giáo trong 600s AD đã đưa ra một sự thúc đẩy lớn
để sản xuất bông. Bên cạnh đó, Đông La Mã đế quốc cũng bắt đầu trồng bông vào những
năm 700. Ở Tây Á và Bắc Phi , người nghèo cũng bắt đầu mặc quần áo bằng vải bông.

Hình 1. 2. Người châu Phi trồng và thu hoạch bông
Trong thế kỉ VIII, cuộc chinh phục của người Hồi giáo Tây Ban Nha đã giúp các
thương gia mở rộng thị trường vải bông ở Châu Âu. Việc buôn bán, vận chuyển vải bông
trở nên rất có lợi nhuận. Năm 1100 , người ta đã bắt đầu trồng bông và dệt vải ở Tây Phi.
c) Thời hiện đại
Đến thế kỉ XV, Venice, Antwerp và Haarlem là những cảng quan trọng cho việc
buôn bán, vận chuyển các loại vải bông. Vào những năm 1450, vải bông đã được biết đến
trên toàn thế giới.
Ấn Độ đã giảm nổi bật trong sản xuất bông từ thế kỷ XVIII do có sự ra đời của
máy tách bông - được Eli Whitney phát minh năm 1793-giúp việc chế biến bông trở nên
dễ dàng. Khi cách mạng công nghiệp ở châu Âu bùng nổ Công ty Đông Ấn Độ ngày càng


chỉ xem Ấn Độ đơn thuần là một nguồn cung cấp nguyên liệu thô. Vải bông bắt đầu được
sản xuất gần như độc quyền ở Bắc Âu, sau đó được xuất khẩu sang các nước thuộc địa.

Trong những năm 1794-1796, hàng bông Anh chiếm 15,6% kim ngạch xuất khẩu của
nước Anh, và trong hai năm từ 1804-1806 đã lên đến 42,3%.
Trong năm 1912, ngành công nghiệp bông của Anh đang ở đỉnh cao của nó, sản
xuất tám tỷ bãi vải. Hiện đại hóa các ngành công nghiệp đã được thực hiện vào năm 1959
với Luật bông. Các nhà máy ở vùng Lancashire đã thất bại trong việc cạnh tranh với các
ngành công nghiệp nước ngoài. Trong suốt thập niên 1960 và thập niên 70, nhà máy đóng
cửa tại Lancashire gần như mỗi tuần một lần. Đến năm 1980, ngành công nghiệp dệt may
của vùng Tây Bắc nước Anh đã gần như biến mất.

(a)

(b)

Hình 1. 3. (a) Eli Whitney (1765 –1825)
(b) Máy tách bông đầu tiên trên thế giới.
Nhu cầu vải bông đã tăng gấp đôi kể từ năm 1980. Các nhà sản xuất bông tại Trung
Quốc 24%, Mỹ ở mức 19% và Ấn Độ là 13%. Trong 2005/2006, Trung Quốc sản xuất
7.150.000 tấn hàng dệt, hơn gấp đôi so với Ấn Độ 3,1 triệu tấn. Đông thời, giá trị của
bông đã giảm 50% trong 1997-2007.
Hiện nay, vải bông vẫn là một trong những lựa chọn tốt nhất, tự nhiên và độ bền
cao nhất trong các vật liệu dệt thiên nhiên. Vải cotton dễ dàng kết hợp với len, PET,
lụa,… và dễ nhuộm để tạo ra những loại vải có tính chất tốt hơn, phù hợp với yếu cầu
người tiêu dùng.
1.1.2. Vải lanh
a) Nguồn gốc
Vải lanh được dệt từ sợi của cây lanh, tên khoa học là Linum usitatissimum thuộc
chi Linum, họ Linaceae Lanh mọc hoang ở các khu vực mở rộng từ Bắc Phi đến Ấn Độ và
phía bắc dãy núi Caucasus ở Tây Âu. Một số học giả tin rằng ban đầu lanh đến từ Tây Ba
Tư và lan ra khắp các nước khác, đây là những khu vực lanh được trồng đầu tiên - Ấn Độ,



Trung Quốc và Trung, Babylon và Ai Cập. Thân và hạt cây lanh có thể chế ra chất bào,
chất dẫn lưu. Hạt còn được dùng làm bánh, thức ăn gia súc và bột dinh dưỡng, đồng thời
hạt còn được ép để lấy dầu.

Hình 1. 4. Cây lanh và cấu trúc của một cây lanh
b) Thời cổ đại và trung đại
Tại khu vực Trung Á, con người đã sản xuất lanh và dây thừng bằng lanh khoảng
năm 30.000 TCN, rất lâu trước khi len và bông xuất hiện và phải mất khá nhiều thời gian
để phát minh ra công nghệ dệt. Ít nhất 5000 TCN, con người mới bắt đầu dệt vải. Lanh đã
được sử dụng ở Trung Đông từ 50 TCN. Tại Ai Cập vai trò của nó là có lẽ quan trọng hơn
so với nhiều nền văn hóa khác, Ai Cập ít được sử dụng len và bông trong phần lớn lịch sử
cổ xưa của họ, vải lanh được xem như là một món quà của sông Nile. Vải lanh đôi khi
được sử dụng như tiền tệ ở Ai Cập cổ đại. Ở Ai Cập, xác ướp được bọc trong vải lanh vì
nó được xem như một biểu tượng của ánh sáng và tinh khiết, và là một biểu tượng của sự
giàu có. Khi các ngôi mộ của các Pharaoh của ll Exodus, Rameses, người qua đời năm
1258 trước Công nguyên -khoảng 3000 năm trước- được phát hiện vào năm 1881, được
bọc trong những mảnh vải lanh tinh khiết trong tình trạng bảo quản hoàn hảo.

Hình 1. 5. Tấm vải lanh liệm xác ướp
khoảng 1000 năm TCN (bảo tàng Vatican, Rome)


Trong thiên niên kỷ đầu tiên trước Công nguyên, những người Ai Cập chủ yếu mặc
quần áo được làm từ vải lanh, trong khi người Hy Lạp và Tây Á và Đức chủ yếu là mặc
len. Tuy nhiên đến thời La Mã, nhiều người đã mặc áo vải lanh cho thoải mái với áo
choàng len bên ngoài để bảo vệ cơ thể khỏi thời tiết, và trong thời Trung cổ ở châu Âu,
cách ăn mặc này tiếp tục được phổ biến, do đó "lanh" có nghĩa là một cái gì đó giống như
"đồ lót". Mặt khác trong đế chế Hồi giáo, người ta bắt đầu để mặc chủ yếu là vải lanh và
cotton, len không còn được dùng phổ biến nhiều.

Trong thời cổ đại, ở hầu hết các quốc gia, mọi người đều sử dụng vải lanh để may
mặc và nhiều vật dụng hàng ngày khác, có nhiều hồ sơ cho thấy ngành công nghiệp vài
lanh đã xuất hiện từ 4000 năm trước ở Ai Cập. Những văn bản viết tay sớm nhất về ngành
công nghiệp vải lanh là trên những phiến đá, được viết bằng ký tự âm tiết Linear B ở
Pylos, Hy Lạp, vải lanh được mô tả như một dạng chữ tượng hình và được viết là "li-no"
và những người thợ nữ dệt vải lanh được gọi là "li-ne-ya". Người Phoenicia, với đội tàu
thương gia của họ, mở ra nhiều kênh thương mại và thương mại các dân tộc của vùng Địa
Trung Hải. Họ đã mang kỹ thuật trồng lanh và sản xuất vải lanh vào nước Ai-len trước sự
ra đời của Chúa Kitô, nhưng nó đã không được phát triển cho đến thế thế kỉ XII. Người
Gaul và người Celt, là những người trồng lanh sớm nhất ở Tây Âu, họ đã học về lanh từ
La Mã. Lanh đã được sử dụng để làm cho vải buồm, lưới đánh cá, dây thừng và dầu hạt
lanh.
Khi những người Viking định cư ở Iceland hơn một nghìn năm trước đây, họ
mang theo kiến thức về trồng lanh từ các bộ phận khác nhau của thế giới. Bằng chứng
được tìm thấy là lanh đã được trồng trên trang trại Viking ở một số khu vực của Iceland
và sợi thu hoạch được sử dụng để may quần áo. Vào thế kỉ thứ VI, khi Tây La Mã sụp đổ,
Ai Cập đã bị chiếm và cai trị bởi một chuỗi các triều đại Hồi giáo vào thế kỷ thứ 7. Ở thời
điểm này, ngành công nghiệp trồng lanh đã lan rộng ra khắp các nước ở châu Âu.
Trong thế kỷ thứ X-XI, lanh được trồng rộng
rãi để cung cấp sợi và hạt giống. Nó được coi là một
cây trồng quan trọng cả cho hàng thủ công và
thương mại. Nông dân sử dụng nó để trả tiền lệ phí
và đóng thuế ở thời phong kiến. Vải lanh được sản
xuất hàng loạt ở Tây Ban Nha và phần còn lại là từ
các nước nhỏ của châu Âu cho đến thế kỷ thứ XII,
khi đó, Pháp và Ý bắt đầu sử dụng lanh cho khăn
trải bàn.

Hình 1. 6. Khăn trải bàn bằng vải lanh in hoa



Trong thế kỷ XVI, các thợ dệt lành nghề Huguenot chạy trốn đàn áp tôn giáo ở
Pháp sang các nước Bắc nhiều hơn, và họ đã có những kiến thức về trồng lanh và kỹ thuật
dệt vải lanh. Trong thế kỷ XVII, Ireland trở nên nổi tiếng với nghề dệt vải lanh tốt nhất,
và danh tiếng này đã kéo dài cho đến ngày nay. Thành phố Belfast (Anh) là trung tâm sản
xuất vải lanh nổi tiếng nhất trong lịch sử, trong thời kỳ Victoria đa số vải lanh trên thế
giới được sản xuất tại thành phố này, do đó mà nó đã có tên là Linenopolis.
c) Thời hiện đại
Trong 30 năm qua, ứng dụng cho vải lanh đã thay đổi đáng kể. Khoảng 70% sản
lượng vải lanh vào những năm 1990 là dùng hàng dệt may, trong khi vào những năm 1970
chỉ có khoảng 5% được sử dụng cho các loại vải thời trang. Và ở các khu vực trồng trọt
lanh đầu tiên ở Trung Á (Afghanistan, khu vực miền núi của Bukhara, và Turkmenistan)
cách thức trồng lanh vẫn giữ nguyên trong suốt 20 thế kỉ.
Hiện nay, Vải Ailen là nổi tiếng nhất và có giá trị nhất, mặc dù hầu hết các lanh
được sử dụng để sản xuất được trồng ở nơi khác và nhập khẩu vào nước này để xử lý. Khí
hậu ở Ireland là khá thuận lợi cho chế biến lanh, và các phương pháp tẩy trắng Ailen
chậm gây thiệt hại tối thiểu trên các sợi. Vải lanh được sử dụng từ giường và phòng tắm
(khăn trải bàn, khăn ăn, khăn trải giường,…), các mặt hàng trang trí nội thất thương mại
(tấm phủ nền / tường, bọc cho ghế, trang trí cửa sổ,…), các sản phẩm công nghiệp (túi
đựng hành lý, tranh sơn dầu, chỉ khâu,…). Bên cạnh đó, với tính chất thoáng mát, nhẹ
nhàng nên vải lanh được nhiều nhà thiết kế sử dụng trong bộ sưu tập thời trang mùa hè.

Hình 1.7. Một số ứng dụng của vải lanh
Trong tháng 12 năm 2006, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc tuyên bố năm 2009 là
Năm Quốc tế về sợi tự nhiên để nâng cao nhận thức của người dân về lanh và sợi tự nhiên
khác.
1.1.3. Lụa
a) Nguồn gốc
Lụa là một loại vải mịn, mỏng được dệt bằng tơ xuất hiện từ rất lâu đời và có
nguồn gốc từ Trung Quốc. Loại lụa tốt nhất được dệt từ tơ tằm, người ta nuôi tằm (tên gọi



khoa học là Bombyx mori) và lấy tơ se sợi dệt thành lụa. Đây là từng một loại vải đắt tiền
chỉ dành cho tầng lớp thượng lưu trong xã hội, nó đã được vận chuyển từ Trung Quốc và
bán cho các nước phương Tây thông qua “Con đường tơ lụa”.

Hình 1. 8. Tằm và kém tằm
Bằng chứng sớm nhất của lụa đã được tìm thấy thời văn minh Ngưỡng Thiều ở Xia
County (tỉnh Sơn Tây-Trung Quốc), một cái kén tơ tằm đã được tìm thấy bị cắt làm đôi
bởi một con dao nhọn có niên đại từ giữa 4000 và 3000 TCN. Loài tằm này được xác định
là Bombyx mori. Việc nuôi tằm sản xuất lụa có một lịch sử hơn 6.000 năm, truyền thuyết
kể rằng Lady Hsi-Lin-Shih (vợ của Hoàng Đế Huangdi) đang uống chè dưới gốc cây dâu
khi một cái kén rơi vào chén của cô. Cô thấy rằng cái kén bao bọc chắc chắn bởi những
sợi tơ trắng và khi cầm lên sợi, cô nhận ra nó có thể được sử dụng như chỉ dệt. Từ đó, một
ngành công nghiệp mới đã xuất hiện. Cô đã dạy cho những người hầu cách nuôi tằm và
lấy kén tơ, và sau này đã phát minh ra khung dệt. Sản xuất tơ lụa đạt đến một mức độ cao
của sự khéo léo trong các triều đại nhà Thương (1600TCN-1046TCN).
b) Thời cổ đại và trung đại
Trong hơn hai ngàn năm, người Trung Quốc đã giữ bí mật về lụa, bất cứ ai cũng sẽ
bị kết tội chết nếu buôn lậu trứng tằm, kén tằm, hoặc hạt giống dâu tằm. Hàng may mặc
lụa được mặc bởi các hoàng đế và lụa trở thành một biểu tượng của sự giàu có, dân
thường bị cấm mặc lụa. Trong suốt triều đại nhà Hán, lụa dần dần trở có giá trị cao hơn
giá trị của riêng của nó, chiều dài của vải lụa đã trở thành một tiêu chuẩn tiền tệ ở Trung
Quốc (ngoài tiền đồng).

Hình 1. 9. Một xưởng sản xuất lụa ở Trung Quốc thời xưa


Lụa đã trở thành một mặt hàng quý hiếm ở các nước khác từ rất sớm trước khi hình
thành “Con đường tơ lụa” khoảng 200 năm TCN. Một nữ xác ướp Ai Cập với lụa đã được

phát hiện tại làng Deir el-Medina gần Thebes và thung lũng của các vị vua, 1070 TCN,
đây được cho là bằng chứng sớm nhất của việc buôn bán lụa. Thương nhân đã bắt đầu
đem lụa từ Đông Á đến Ấn Độ và Tây Á khoảng năm 2000 TCN. Vào thời kì của La Mã
và Parthia Empires, lụa đã rất phổ biến ở Tây Á và vùng xung quanh Địa Trung Hải, các
thương nhân mang lại rất nhiều lụa Trung Quốc dọc theo Con đường tơ lụa, buôn bán nó
với vàng bạc, ngựa và thủy tinh. Vì thời gian vận chuyển lụa rất lâu nên lụa là mặt hàng
rất tốn kém trong khu vực Tây Á, châu Phi và châu Âu, những người bình thường khó có
thể mua được nhưng tất cả mọi người đều muốn mặc vì quần áo làm từ lụa rất đẹp, óng
ánh và mềm mại, thoải mái khi mặc.

Hình 1. 10. Tranh mô tả Con đường Tơ lụa
Mặc dù lụa đã có mặt hầu hết ở châu Âu và châu Á nhưng kỹ thuật sản xuất vẫn
độc quyền bởi Trung Quốc. Chỉ khoảng năm 300 CE, chuyến thám hiểm của người Nhật
đã thành công trong việc có được trứng tằm, bắt cóc và buộc 4 cô gái Trung Quốc dạy họ
về nghệ thuật nuôi tằm. Và khoảng 552 CE, Hoàng đế Justinian (Byzantium) đã cử hai
nhà sư đến châu Á với một nhiệm vụ, và họ trở lại Byzantium với trứng tằm giấu bên
trong gậy tre đi bộ của họ. Chẳng bao lâu những con tằm tạo ra lụa ở Syria, và lụa đã trở
nên rẻ hơn rất nhiều so với giá cả trước đó. Từ đó về sau, trồng dâu nuôi tằm phổ biến
khắp Tiểu Á và Hy Lạp.
Trong thế kỷ thứ VII, người Ả Rập đã chinh phục người Ba Tư, chiếm được cách
sản xuất lụa, đồng thời phổ biến kỹ thuật trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa đến châu Phi,
Sicily và Tây Ban Nha. Trong thế kỷ thứ X, Andalusia-vùng hành chính của Tây Ban
Nha-là trung tâm chính sản xuất lụa của châu Âu.
Trong những năm 1450-1466, Lyon (Pháp) đã trở thành một nhà kho lớn cho lụa
nước ngoài. Trong năm 1466, King Louis XI quyết định phát triển ngành công nghiệp tơ
lụa ở Lyon.


c) Thời cận đại và hiện đại
Năm 1685, sự kiện Tước Sắc lệnh Nantes. Người Huguenots- một bộ phận người

Pháp, một lần nữa chịu đàn áp tôn giáo, họ trốn khỏi đất nước với số lượng lớn. Nhiều
người Huguenots là chuyên gia về dệt, và họ đóng góp trong một mức độ rất lớn đến sự
phát triển của ngành công nghiệp tơ lụa ở Đức, Anh, Ý và Thụy Sĩ. Trong suốt thế kỷ
XVIII, lụa tiếp tục phát triển thịnh vượng ở châu Âu, Nhật Bản và Trung Quốc.
Năm 1804, Jacquard hoàn thiện các phương pháp sản xuất các loại vải có hình vẽ,
bằng việc sử dụng các thẻ đục lỗ. Đây là một cuộc cách mạng trong kỹ thuật dệt và đã đưa
ra một động lực to lớn cho tạo các ngành tằm tơ ở Lyon và ở các nước châu Âu khác. Các
máy dệt Jacquard đã ngay lập tức bị lên án bởi công nhân, họ buộc tội nó gây ra tình trạng
thất nghiệp, nhưng ngay sau đó nó đã trở nên quan trọng đối với ngành công nghiệp. Từ
năm 1872, từ việc mở ra các kênh đào Suez, tơ
thô nhập khẩu từ Nhật Bản trở nên cạnh tranh
hơn, nhờ những tiến bộ của Nhật Bản trong kỹ
thuật quay sợi. Công nghiệp hóa sản xuất lụa
xảy ra nhanh chóng ở châu Âu, đặc biệt là
Pháp, dẫn đến người lao động di chuyển từ
nông thôn sang các thành phố và thị trấn.
Những bệnh gây ra đại dịch cho tằm xuất hiện,
mặc dù ngành công nghiệp lụa không bị ảnh
hưởng nhiều nhưng cũng cho thấy rằng ngành
công nghiệp này không phải là nguồn thu nhập
an toàn. Cùng lúc đó, các loại sợi nhân tạo đầu
tiên đã bắt đầu xâm nhập vào các thị trường
dành cho lụa truyền thống.

Hình 1. 11. Máy dệt đục lỗ Jacquard
Đầu thế kỷ 20, trong khi nền công nghiệp lụa của châu Âu tiếp tục suy giảm chậm,
ngành tơ lụa đã thành công trong việc duy trì một vị trí vững chắc thông qua việc đổi mới
kỹ thuật và sự thành công trong việc pha trộn lụa cùng với nguyên liệu khác. Chiến tranh
Thế giới thứ hai bùng nổ, nguồn cung cấp lụa từ Nhật Bản bị chặn và các sợi tổng hợp
mới bắt đầu thay thế mặt hàng lụa. Sự gián đoạn thương mại của lụa trên thị trường ở

châu Âu và Hoa Kỳ đã làm cho nền kỹ thuật nuôi tằm dệt lụa hầu như biến mất. Sau chiến
tranh, Nhật Bản phục hồi sản xuất lụa, với nhiều những cải thiện, phân loại nguyên liệu
lụa thô. Nhật Bản đã duy trì nguồn cung cấp lụa thô lớn nhất thế giới và thực tế là các nhà
xuất khẩu chính duy nhất của lụa thô cho đến năm 1970. Sau đó, Trung Quốc nhờ vào
một nỗ lực đáng ghi nhận của các tổ chức và lập kế hoạch, từng bước bắt lại vị trí lịch sử
của mình như là nhà sản xuất và xuất khẩu của lụa thô lớn nhất thế giới. Năm 1985, thế


giới sản xuất tơ liệu đạt gần 56.000 tấn, trong đó hơn 50% được sản xuất tại Trung Quốc.
Trong năm 1996, Trung Quốc sản xuất 58.000 tấn trong số 81.000 tấn trên thế giới, tiếp
theo là Ấn Độ với mức 13.000 tấn.
Lụa là chất liệu vải chiếm được khá nhiều sự ưa thích của người châu Á vì có độ
sáng bóng bắt mắt, chất liệu vải mát lạnh, thoải mái phù hợp với khí hậu nhiệt đới. Nhiều
người tin rằng, lụa đã có mặt ở nước ta từ đời Hùng vương VI. Ngoài gấm, lụa là chất liệu
vải thường được lựa chọn cho trang phục vua chúa, quý tộc. Về sau, lụa cũng đóng vai trò
quan trọng trong văn hóa quốc phục của nước ta. Trong tháng 12 năm 2006 Đại hội đồng
Liên Hiệp Quốc tuyên bố năm 2009 là Năm Quốc tế về sợi tự nhiên để nâng cao vị thế
của lụa và các loại sợi tự nhiên.
1.1.4. Len
a) Nguồn gốc
Len là dệt sợi thu được từ cừu và một số loài động vật khác, bao gồm từ Cashmere
và dê Angola, qiviut (bò xạ hương), từ Alpaca (một loài thuộc họ Lạc đà Nam Mỹ) và
những sợi lông dài từ thỏ.

(a)

(b)

(e)


(d)
Hình 1. 12.

(c)

(a) Cừu
(b) Cashmere
(c) Angola

(d) Qiviut
(e) Alpaca

b) Thời cổ đại và trung đại
Cừu đã được thuần hóa khoảng 9.000 đến 11.000 năm trước đây, con người đã sớm
nhận ra rằng nuôi cừu chỉ để lấy thịt là một sự lãng phí thực phẩm và vật liệu. Vì vậy, con
người đã tận dụng lông cừu để làm vật liệu giữ ấm. Để có thể tạo ra vật giúp giữ ấm,


người ta đã lấy lông cừu để trong tay và kéo nó ra, se nó
thành sợi dây nhỏ, tạo ra những sợi không đều về độ dày.
Sau đó, một trục quay thô đã ra đời bằng cách lắp một
bánh xe bằng đá hoặc đất sét và sợi len được quấn vào
thanh gỗ ngắn. Chiếc bánh xe đã hoạt động như một bánh
đà và kéo các sợi dài quấn vào trục quay. Phương pháp
kéo sợi này được sử dụng hàng ngàn năm và vẫn còn
được sử dụng bởi các cộng đồng nông dân ở các bộ phận
khác nhau của thế giới.
Hình 1. 13. Bánh xe kéo sợi
Len đã có mặt ở châu Âu từ vùng cận phía Đông trong những năm đầu của thiên
niên kỷ thứ 4 TCN. Vào thời điểm những người La Mã xâm chiếm các quần đảo này

trong năm 55 BC, người Anh đã phát triển ngành công nghiệp len. Trong thời trung cổ,
các kết nối thương mại mở rộng, thương mại len phát triển thành nền công nghiệp quan
trọng ở Naples, Sicily, Cyprus, Majorca, Tay Ban Nha.
c) Thời cận đại và hiện đại
Đến thế kỷ XII, len đã trở thành tài sản quốc gia vĩ đại nhất của nước Anh. Len phổ
biến trên khắp cả nước, đặc biệt là ở các thị trấn lớn ở miền nam và miền đông nước Anh
và đỉnh cao của sản xuất len đã đạt được trong thế kỷ XIII. Cũng trong thế kỉ XIII, buôn
bán len trở thành động cơ phát triển kinh tế của Hà Lan, miền trung Italy, vào cuối thế kỉ
sau, Italy chiếm ưu thế hơn những nước khác nhưng đến thế kỉ XVI, Italy nổi tiếng hơn
với lụa. Sau đó, việc buôn bán len giảm trong một thời gian dài vì xung đột chính trị. Kinh
doanh xuất khẩu trong len thô phục hồi và nửa đầu thế kỷ XIV là thời gian của sự thịnh
vượng cho người dân Anh nhưng nó cũng đã bị lu mờ bởi cuộc chiến tranh lâu dài với
Pháp và bởi bệnh dịch hạch (Black Death) vào năm 1349.
Vải được làm từ khung dệt của Anh nhanh chóng đạt được danh tiếng quốc tế. Từ
việc chủ yếu là một nước xuất khẩu len thô, Anh đã trở thành một nhà sản xuất và xuất
khẩu trong những năm của thế kỷ XIV-XV. Năm 1665 một vài con cừu qua con đường
nhập lậu đến Bắc Mỹ đã được nhân lên khoảng 100.000 con, từ đó, nền công nghiệp len
hình thành và khá phát triển.Cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh 1750-1850 gây ra biến
động cho toàn bộ ngành công nghiệp vải sợi.
Cừu Merino Úc có nguồn gốc tên từ bầy hoàng gia nổi tiếng của Tây Ban Nha, đó
là một giống riêng biệt, thích nghi với các điều kiện cụ thể của đất nước này. Sử dụng
Merinos và các giống khác từ châu Âu, Bắc Mỹ và New Zealand, một vài nhà nhân giống
tiên phong của Úc, như Thomas Shaw, George Peppin và những người khác ở Nam Úc,
giữa năm 1850-1880 đã nhân giống thành công chủng cừu mới lớn hơn và lông dài hơn,
nhưng len tốt và trung bình. Điều này đã cứu ngành công nghiệp dệt len toàn cầu khỏi bị
lấn chiểm bởi cotton và dẫn đến Úc trở thành nền kinh tế len lớn nhất và nổi tiếng nhất thế

Comment [D1]: Thêm giai đoạn



giới. Trong vòng bốn thập niên Australia đã trở thành nhà sản xuất lớn nhất thế giới, và
sản xuất của nó đã tăng trưởng vượt bậc với nền công nghiệp của các quốc gia hàng đầu
châu Âu.
Nhu cầu sử dụng vải len giảm do sự xuất hiện của các sợi tổng hợp, sản xuất len ít
hơn nhiều so với trước đó. Sự sụp đổ của thị trường len bắt đầu vào cuối năm 1966 với
sản lượng giảm 40%; với việc sản xuất gián đoạn thường xuyên, giá cả có xu hướng giảm.
Ngày nay, các bộ phận của cừu đều được sử dụng, họ cung cấp cho đấu thầu, thịt
thơm ngon ... và len là một nguồn tài nguyên tái tạo. Cừu phát triển mạnh trong tất cả 50
tiểu bang và hầu hết các quốc gia trên thế giới. Với tính chất giữ ấm tốt và mềm min, len
được hầu hết các nước phương Tây ưa chuộng sử dụng.

Hình 1. 14. Một sô ứng dụng của len
1.1.5. Khoáng chất
a) Nguồn gốc
Amiăng là một bộ sáu khoáng chất tự nhiên silicat, tất cả đều có điểm chung là
cùng tên asbestiform thường dài (khoảng 01:20 aspect ratio ), mỏng như sợi tinh thể , với
mỗi sợi có thể nhìn thấy bao gồm hàng triệu vi "sợi"
có thể được phát hiện bằng cách mài mòn. Chúng
thường được gọi cùng với màu sắc như amiăng
xanh, amiăng nâu, amiăng trắng, và amiăng lục.
Tính chất vật lý khá nhiều như hấp thụ âm thanh; độ
dẻo trung bình; kháng lửa, nhiệt, không bị ảnh
hưởng bởi điện và hóa chất; chi phí không đắt.
Chúng được bắt đầu khai thác vào năm 1850.

Hình 1.15. Amiang trắng


Sợi amiăng đã được sử dụng từ hơn 2000 năm trước. Từ "Amiăng" có nguồn gốc
từ tiếng Hy Lạp cổ với ý nghĩa "không thể bị phá huỷ". Những ưu điểm của sợi amiăng

như: bền, dai, mềm dẻo, chịu nhiệt tốt đã được người La Mã cổ đại biết đến và ứng dụng
trong làm quần áo và chế tạo bấc đèn. Người Hy Lạp cổ cũng dệt sợi amiăng vào trong
quần áo để tăng độ bền. Vào thời Trung cổ, sợi amiăng được đưa vào để chế tạo áo cách
nhiệt cho áo giáp.
b) Thời hiện đại
Dù rất được ưa chuộng nhưng phải đến cuối thế kỷ 19, sợi amiăng mới được khai
thác phục vụ cho mục đích kinh doanh. Ở Canada, khu mỏ amiăng đầu tiên đã được đưa
vào khai thác vào năm 1879 tại Theford.
Chrysotile hay amiăng trắng là loại đã được sử dụng gần như độc quyền của ngành
công nghiệp dệt may. Một trong những đặc tính rất hữu ích là nó có cấu tạo sợi, giống như
bông, lanh và thậm chí polyester, có thể được dệt thành vải – cùng với ưu điểm chống
cháy và nhiệt. Áo chống cháy được làm từ vải amiăng đã từng là một trang bị phổ biến
của các thiết bị an toàn được sử dụng bởi lính cứu hỏa , quân đội, các đội đào đường hầm
và các ngành công nghiệp, trong đó công nhân làm việc nguy cơ bị bỏng. Vải amiăng
được sử dụng để bọc nồi hơi và ống dẫn hơi nước. Chúng còn được dùng để lót đồ bảo hộ
cho nhân viên cứu hỏa, lái xe đua và công nhân ngành công nghiệp dầu khí. Hàng dệt may
dệt từ vải amiăng đã được sử dụng rộng rãi từ những năm cuối thế kỷ XIX đến thế kỉ XX.

Hình 1. 16. Đồ bảo hộ từ sợi amiang
Vào năm 1947, một nhóm công nghiệp gọi là Viện Dệt may Amiang (ATI) đã tiến
hành một nghiên cứu về những rủi ro của amiăng cho công nhân nhà máy dệt và thấy rằng
amiang có ảnh hưởng rất xấu đối với sức khỏe công nhân. Nhưng ATI khong công bố vì
họ tin rằng điều đó sẽ phá hủy ngành công nghiệp này. Khi Hoa Kỳ và nhiều nước châu
Âu đã bắt đầu xem xét các quy định về sức khỏe môi trường và nghề nghiệp tiếp xúc


amiăng. Mặc dù sử dụng đã giảm đáng kể từ những năm 1980, nó đã không được loại bỏ.
Trên thế giới, 54 quốc gia (bao gồm cả những người trong Liên minh châu Âu) đã cấm sử
dụng của amiăng. Nhưng ở Mỹ, amiăng vẫn coi là hợp pháp khi sử dụng trong hơn 3.000
sản phẩm tiêu dùng.

1.2. Vải sợi hóa học:
1.2.1. Tơ nhân tạo:
a) Khái niệm và nguồn gốc
Vải sợi nhân tạo là một tên gọi chung cho một nhóm các loại vải tái tạo từ
cellulose. Cellulose là một thành phần cấu trúc của thực vật. Nó được làm từ cellulose
nguyên chất, chủ yếu từ bột gỗ và được chuyển hóa thành một hợp chất hòa tan. Sau đó
nó được giải thể và buộc phải thực hiện quá trình nhả tơ để tạo ra sợi được củng cố về mặt
hóa học, giúp cho sợi tổng hợp cellulose gần như tinh khiết. Vì rayon được sản xuất từ
polyme tự nhiên, nên được coi là một chất xơ bán tổng hợp. Rayon là sợi nhân tạo đầu
tiên được sản xuất khá sớm và có một nền thương mại lâu đời nhất trong lịch sử vải sợi
hóa học.
Năm 1664, nhà tự nhiên học tiếng Anh Robert Hooke đã đưa ra một giả thuyết cho
rằng có thể tạo ra một loại sợi có thể kéo từ một chất tương tự như tơ tằm được gọi là tơ
lụa nhân tạo. Những năm sau đó, các nhà khoa học khắp nơi trên thế giới đã cố gắng
nghiên cứu để tạo ra loại “ lụa nhân tạo” theo lý thuyết của Robert Hooke, nhưng không ai
thành công. Cuối cùng vào năm 1855, Georges Audemars-người Pháp, đã thành công
trong việc tạo ra sợi tơ nhân tạo bằng cách nhúng một cái kim vào một dung dịch của bột
vỏ cây dâu tằm và nhựa cao su. Mặc dù đây là một phát hiện khoa học khá thú vị, quá
trình hầu như không khả thi về mặt kinh tế - tốc độ hình thành sợi khá chậm, đòi hỏi rất
nhiều kỹ năng và độ chính xác cao.
b) Sự ra đời của các loại sợi nhân tạo
 Lụa Chardonnet
Trong khoảng thời gian những năm 1860, Chardonnet (1839-1924) trở nên quan
tâm đến việc nghiên cứu cách để sản xuất tơ nhân tạo. Năm 1884, Count Hilaire de
Chardonnet phát triển “quá trình nitrocellulose” để tạo các sợi một quá trình có liên quan
đến phơi bày cellulose thành acid nitric. Nitrocellulose sau đó được đẩy ra, thông qua một
lỗ nhỏ, như một sợi cáp quang. Đây là tiền thân đầu tiên của rayon được gọi là “lụa
Chardonnet”. Năm 1889, Hilaire de Berniguad sản xuất sợi tổng hợp thương mại đầu tiên
nhưng loại sợi này đã ngừng sản xuất vào năm 1900 vì nó rất dễ cháy.


Comment [D2]:


Hình 1.17. Hilaire de Chardonnet
(1839-1924)
 Sợi Bemberg
Năm 1890, nhà hóa học Thụy Sĩ, Matthias Eduard Schweizer (1818-1860) phát
hiện ra rằng cellulose cũng có thể hòa tan trong tetraaminecopper dihydroxide, được gọi
là “quá trình cuprammonium”, an toàn hơn nhiều đã được phát triển bởi Công ty Bemberg
của Đức. Trong quá trình này, cellulose từ bột gỗ tinh chế tiếp xúc với dung dịch đồng và
amoniac (cuprammonium), chuyển đổi xenlulose thành một dạng chất lỏng. Sau
khi quay và rửa, cellulose tái tạo thành một dạng sợi. Quá trình này mang lại những sợi tơ
có chất lượng cao với độ mịn tốt hơn. Bemberg (Ý) vẫn còn sản xuất loại sợi này dưới cái
tên nhãn hiệu Bemberg.
 Viscose
Năm 1894, bằng sáng chế “quá trình viscose” đã được cấp ở Anh cho Charles
Frederick Cross và các cộng sự của ông Edward John Bevan(1856-1921) và Clayton
Beadle. Họ đặt tên là “viscose", vì loại sợi này được sản xuất bằng cách xử lý cellulose
với sodium hydroxide và carbon disulfide tạo ra sản phẩm trung gian là xanthate có độ
nhớt cao (viscous liquid). Sau đó xanthate được chuyển đổi trở lại thành sợi cellulos.
Không giống như cuprammonium, sợi nhân tạo viscose không yêu cầu cellulose ligninfree, làm cho giá thành thấp hơn và dễ dàng sản xuất hơn. Quá trình này diễn ra trong
nhiều giai đoạn, vì vậy có thể sửa đổi cấu trúc sợi nếu muốn. Ngay sau khi bằng sáng chế
được cấp thì phương pháp viscose đã trở thành phương pháp chính được sử dụng để làm
tơ nhân tạo. Nhà máy Viscose Syndicate Spinning được thành lập vào năm 1894 dưới sự
quản lý của Mr A. Pears. Vải nhân tạo viscose được sản xuất và đưa ra thị trường đầu tiên
bởi công ty Courtaulds Fibers-Anh vào năm 1905. Courtaulds đã hình thành một chi
nhánh ở Mỹ, American Viscose (sau này được gọi là Avtex Fibers) nó đã trở thành nhà
cung cấp tơ nhân tạo lớn nhất và là công ty đầu tiên sản xuất lụa nhân tạo tại Hoa Kỳ.
Trong 40 năm sau, loại vải này đã được gọi là nhân tạo hoặc giả tơ tằm. Đến năm
1925, nó đã phát triển thành một ngành công nghiệp và được đặt tên là “rayon” bởi Ủy

ban Thương mại Liên bang (FTC). Thuật ngữ “rayon” ( nghĩa là “tia sang”-tiếng Pháp)

Comment [D3]:


vào thời điểm này bao gồm bất kỳ sợi nhân tạo làm từ cellulose, còn tên gọi "viscose"
đang được sử dụng cho các chất lỏng hữu cơ có độ nhớt được sử dụng để sản xuất rayon
và giấy bóng kính. Ở Châu Âu, vải nhân tạo từ phương pháp viscose được gọi là
"viscose", sau đó đã thay thế thành “rayon” theo FTC. Tuy nhiên, vào năm 1952, FTC
chia rayons thành hai loại: những sợi gồm cellulose tinh khiết (rayon) và những sợi gồm
một hợp chất cellulose (acetate). Các tính chất vật lý của rayon viscose không thay đổi
cho đến khi sự xuất hiện của rayon có độ bền cao-một biến thể khác của rayon- trong
những năm 1940. Đến năm 1950, hầu hết các rayon sản xuất đã được sử dụng trong các
sản phẩm công nghiệp và trang trí nội thất nhà hơn là trong may mặc, vì rayon thường
(còn gọi là viscose rayon) quá yếu so với các loại sợi khác được sử dụng trong may mặc.
Sau đó, vào năm 1955, các nhà sản xuất bắt đầu sản xuất một loại rayon mới gọi là HighWet-Modulus (HWM) có khả năng giữ lại độ bền và sức mạnh khi bị ướt. Sự ra đời của
HWM rayon được coi là phát triển quan trọng nhất trong sản xuất tơ nhân tạo kể từ khi
phát minh của mình trong năm 1880.
 Acetate
Paul Schützenberger phát hiện ra rằng cellulose phản ứng với acetic anhydride hình
thành cellulose acetate . Việc phát hiện ra rằng thủy phân cellulose acetate hòa tan trong
dung môi phân cực hơn, như acetone , đã sản xuất sợi cellulose acetate rẻ và hiệu quả.
Năm 1924, vải từ sợi acetate đầu tiên được đưa ra thị trường bởi Công ty Celanese.
 Lyocell
Lyocell được phát triển bắt đầu từ cuối những năm 1970 bởi công ty Courtaulds
Fiber- Anh, và lần đầu tiên được sản xuất vào năm 1987. Nó khác với viscose rayon ở quá
trình sản xuất, các dung môi sản xuất được tái sử dụng, giảm thiểu tác động môi trường
của nó (một vấn đề lớn với các quá trình rayon cũ). Tencel là tên thương mại đầu tiên
được sử dụng cho lyocell ở Bắc Mỹ từ năm 1992.
Ngày nay rayon là một trong những loại vải sử dụng rộng rãi nhất trong xã hội. Nó

được sử dụng ở các nước trên thế giới. Nó có thể được pha trộn với các loại vải tự nhiên
hay nhân tạo, với nhiều cải tiến khác nhau, giúp nó trở nên đa dạng và được ứng dụng
rộng rãi.
1.2.2. Sợi tổng hợp
a) Khái niệm
Vải sợi tổng hợp là loại sợi vải được chế tạo từ nguyên liệu hóa học ban đầu là từ
than đá, dầu mò, khí đốt. Qua một quá trình biến đổi phức tạp để tạo thành nguyên liệu
sản xuất vải sợi tổng hợp. Khi dệt thành vải thì tính chất của nó khác hẳn với nguyên liệu
ban đầu.


b) Sự ra đời của các loại vải
 Nylon
Mặc dù nylon lần đầu tiên được tổng hợp trong phòng thí nghiệm Hóa chất DuPont
năm 1935, nó đã không trở thành sản phẩm cho đến năm 1940. Khi đó nó được sản xuất
làm tất dành cho nữ và phụ nữ trên khắp nước Mỹ đổ xô đến các cửa hàng để có được
những đôi tất thoăi mái. Vì cuộc khủng hoảng lụa nên giá lụa bị đẩy lên khá cao trong khi
vớ nylon có giá khá rẻ dẫn đến nhu cầu đã tăng vọt. "Nylons” đã mang về 9.000.000 $ cho
DuPont trong 1940- bằng 150 triệu đôla ngày nay. Mặc dù năm đầu tiên thành công vang
dội, DuPont chuyển gần như tất cả các mặt hàng nylon từ các thị trường tiêu dùng cho
quân đội vào năm 1941 khi Hoa Kỳ vào Thế chiến thứ hai. Khi chiến tranh kết thúc và sản
xuất trở lại như mức trước chiến tranh, người tiêu dùng lại đổ xô đến các cửa hàng gây ra
hiện tượng được biết đến như là “bạo loạn nylon”.

Hình 1.18. Vớ nylon
 Acrylic
Sự phát triển của sợi acrylic bắt nguồn từ nghiên cứu của DuPont trên rayon. Năm
1941, một nhà khoa học DuPont tìm cách cải thiện rayon phát hiện ra một phương pháp
kéo sợi polymer acrylic -không giống như nylon, nó có tính phân hủy hơn là tan - thông
qua dung dịch Acrylonitrile. Đến năm 1950, loại sợi này mới được đưa ra thị trường bởi

EI du Pont de Nemours & Company, Inc nhưng ở vai trò là một sợi như dây tóc bóng đèn
nên không được phát triển lắm cho đến khi May Plant ở Camden- Nam Carolina bắt đầu
sản xuất vải dệt từ acrylic dưới tên thương mại Orlon. Vào giữa những năm 1950 một sự
bùng nổ trong áo len của phụ nữ đã xảy ra và acrylic là loại sợi hoàn toàn phù hợp để bắt
chước những len đắt tiền và cashmere với sự mềm mại và dễ chịu của nó. Vào mùa hè
năm 1952, thuật ngữ “wash and wear” được đặt ra để mô tả một sự pha trộn của bông và
acrylic. Acrylic được bán trên thị trường cùng với nylon và sợi tổng hợp khác như "vải
thần kỳ" - chống nhăn, chống côn trùng, có thể giặt và khô nhanh. Năm 1960, doanh thu
đạt 1 triệu bảng Anh một năm. Sợi này chiếm 5 phần trăm của các sợi sản xuất tại Hoa Kỳ
vào năm 1990 với chỉ ba công ty sản xuất vào thời điểm đó. Acrylic được sử dụng trong
may mặc bao gồm áo len, vải lông cừu, và vớ và đồ đạc trong nhà như bàn ghế, thảm,
chăn, và các loại vải bọc.


 Polyester
Polyester là một loại polymer có chứa các nhóm este trong chuỗi chính của họ. Vào
năm 1926, Công ty EI du Pont de Nemours - Mỹ đã bắt đầu nghiên cứu các cao phân tử
và sợi tổng hợp. Những nghiên cứu ban đầu của W.H Carothers tập trung vào sự hình
thành nylon, loại sợi tổng hợp đầu tiên. Ngay sau đó, trong những năm 1939-1941, một số
nhà hóa học Anh đã chú ý đến những nghiên cứu của du Pont và tiến hành các nghiên cứu
của riêng họ tại các phòng thí nghiệm của Hiệp hội các nhà in ấn Calico, Ltd. Việc này đã
dẫn đến sự ra đời của sợi polyester được biết đến ở Anh như Terylene.
Năm 1946, du Pont mua bản quyền để sản xuất sợi polyester tại Mỹ. Sau đó, Công
ty tiến hành nghiên cứu phát triển và năm 1951 Công ty đã bắt đầu thị trường hoá sợi dưới
cái tên Dacron. Sau đó, nhiều loại polyester được sản xuất nhưng đến ngày nay chỉ có 2
loại phổ biến là PET (polyethylene terephthalate) và PCDT (poly-1, 4-cyclohexylenedimethylene terephthalate). PET là loại phổ biến hơn, hữu dụng, đa dạng trong các ứng
dụng. Nó bền vững hơn PCDT, mặc dù PCDT dẻo hơn và đàn hồi hơn. PCDT phù hợp để
làm rèm cửa và lớp bọc đồ nội thất, còn PET có thể được sử dụng độc lập hoặc phối trộn
với các loại vải khác để làm cho quần áo khỏi nhăn chống bụi bẩn và không co dãn.
Thành

phần chính
trong chuỗi

Kiểu

Polyeste
Polyglycolide hoặc axit polyglycolic (PGA)
Axit polylactic (PLA)

Homopolymer Polycaprolactone(PCL)
Polyhydroxyalkanoate(PHA)

Aliphatic

Polyhydroxybutyrate(PHB)
Adipate polyethylene(PEA)
Copolymer

Polybutylene succinate (PBS)
Poly (3-hydroxybutyrate-co-3-hydroxyvalerate)(PHBV)
Polyethylene terephthalate (PET)

Bán thơm

Polybutylene terephthalate (PBT)
Copolymer
Polytrimethylene terephthalate (PTT)
Polyethylene naphthalate (PEN)

Thơm


Copolymer

Vectran


 Spandex
Spandex (vải thun) được sản xuất thử nghiệm bởi một trong những người tiên
phong đầu trong hóa học polymer, Farbenfabriken Bayer. Ông đã có được một bằng sáng
chế của Đức vào năm 1952. Du Pont đã mua lại và sử dụng tên thương hiệu Lycra, bắt
đầu sản xuất quy mô đầy đủ vào năm 1962. Hiện nay họ đang dẫn đầu thế giới trong việc
sản xuất sợi spandex.
 Olefin
Ý bắt đầu sản xuất sợi olefin trong năm 1957. Hoa Kỳ đã bắt đầu sản xuất olefin
trong năm 1960. Tùy thuộc vào cấu trúc hóa học của nó, olefin có thể được gọi là
polyethylene hoặc polypropylene. Nó cũng được gọi là P2 cho ngắn.
Các nhà hóa học Giulio Natta chế tạo thành công olefin phù hợp với các ứng dụng
trong ngành dệt may. Năm 1966, Natta và Karl Ziegler sau đó đã được trao giải Nobel cho
công trình của họ về quá trình xúc tác kim loại chuyển đổi olefin thành sợi, quá trình này
còn được gọi là xúc tác Ziegler-Natta. Olefin không có sự tăng trưởng vượt bậc như
những sợi khác nhưng nó vẫn giữ tầm quan trọng trong các ngành công nghiệp dệt may.
Từ khi được đưa ra thị trường đến nay, mỗi năm olefin vẫn tăng trưởng.
Giờ đây nó được pha trộn với bông để sử dụng trong thị trường denim, và cũng
đang được dùng trong thị trường đồ bơi.


CHƢƠNG 2: CẤU TRÚC VẢI SỢI
2.1. Vải sợi dệt
2.1.1 Cotton và vải lanh
2.2.1.1 Cellulose

Cotton và lanh đều có thành phần cơ bản là cellulose. Xen-lu-lô (bắt nguồn từ tiếng
Pháp: cellulose), còn gọi là xenlulozơ, xenluloza, là hợp chất cao phân tử được cấu tạo từ
các liên kết các mắt xích β-D-Glucose, có công thức cấu tạo là (C6H10O5)n hay
[C6H7O2(OH)3]n .Trong đó n có thể nằm trong khoảng 5000-14000, là thành phần chủ yếu
cấu tạo nên vách tế bào thực vật.

Hình 2. 1. Cấu trúc của phân tử cellulose
2.2.1.2. Cấu trúc và tính chất của cotton
1.1.3.2. Cấu trúc:
Cotton được dệt từ sợi cây bông vải, được gọi là xơ bông. Sau khi được thu hoạch,
xơ bông được xử lý qua nhiều công đoạn để loại bỏ những thành phần chất béo, chất sáp
bám trên thành vỏ sợi làm tăng tính thấm nước và quy trình tẩy trắng sợi. Sau quá trình
xử lý, sợi sẽ được trải qua những công đoạn khác để làm nên tấm vải.

Hình 2.2. Các thớ bông khi quan sát dưới kính hiển vi


Các sợi bông thường chứa 88-96,5% cellulose, còn lại là polysaccharides noncellulose chiếm 10% tổng trọng lượng chất xơ. Thành chính của một sợi trưởng thành
chứa khoảng 50% cellulose. Thành phần non-cellulose bao gồm pectin, chất béo và sáp,
protein và các chất màu tự nhiên. Thành thứ cấp, chứa khoảng 92- 95% cellulose. Các
lớp bao gồm các sợi cơ dày đặc, tổ chức thành các sợi nhỏ và sợi vĩ mô. Chúng liên kết
với nhau bằng liên kết hydro. Cotton là sản phẩm gần như hoàn hảovcủa cellulose
polysaccharide.
Bảng 2. 1. Thành phần hóa học của một sợi bông trưởng thành
Thành phần của một sợi (%)

Thành phần của
Culticle (%)

Thành phần


Điển hình

Thấp

Cao

Cenllulose

94.0

88.0

96.0

Protein (N-6.25)

1.3

1.1

1.9

30.4

Pectin

0.9

0.7


1.2

19.6

Sáp

0.6

0.41

1.0

17.4

Muối khoáng

1.2

0.7

1.6

6.5

Maleic, citric và
acid hữu cơ khác

0.8


0.5

1.0

Đường

0.3

Chiều dài của một sợi bông thường gấp khoảng từ 1200-1500 lần so với độ rộng
của nó và thay đổi từ 16mm đến 52 mm tùy thuộc vào loại bông:
 Cotton Ấn Độ
16-25 mm
 Cotton American
20-30 mm
 Cotton Biển Island 38-52 mm
 Cotton Ai Cập
30-38 mm
Xơ bông có dạng tế bào hình ống, đầu khép kín, thành mỏng chứa chất nguyên
sinh, độ xoắn tự nhiên. Một xơ bông có cấu tạo khá phức tạp, gồm nhiều lớp đồng tâm.

Hình 2.3. Ảnh mặt cắt và chiều dọc sợi


×