Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Quản lý công tác xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non ở huyện thạch thất thành phố hà nội trong bối cảnh phát triển hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.31 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong giai đoạn những năm đầu của thế kỷ XXI, thế kỷ của
nền văn minh trí tuệ, nền kinh tế tri thức, thể kỷ của hội nhập khu vực và quốc tế.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học
công nghệ là quốc sách hàng đầu, chủ trương này được xuyên suốt trong các Nghị
quyết của Đảng, từ Nghị quyết TW 4 (khoá VII) đến Nghị quyết TW 2 (khoá VIII)
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X. Đảng ta khẳng định, phát triển giáo dục và đào tạo là một động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, là điều
kiện để phát huy nguồn lực con người.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
“Vì lợi ích 10 năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội
giáo dục là sự nghiệp “Trồng người” cũng trên tinh thần như vậy, văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định: “Xuất phát từ nhận thức chăm
lo cho con người, cho cộng đồng xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi
đơn vị, của từng gia đình, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân, chúng ta
chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần xã hội hoá, trong đó Nhà
nước giữ vai trò nòng cốt... sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước và nhân dân cùng làm, mọi việc đều phải dựa
vào nhân dân”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta khẳng định:
“..Đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khuyến khích mạnh mẽ các
thành phần kinh tế đầu tư phát triển giáo dục ở tất cả các bậc học...” [27 tr.204].
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ “Chăm lo


phát triển giáo dục Mầm non”, thực hiện “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”.
Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non là một quy luật và là khâu then chốt để


thực hiện “Chuẩn hoá”. “Hiện đại hoá”. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta đến năm 2020 là “Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học Mầm non
cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các gia
đình”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội
dung, phương pháp dạy và học; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá,
chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” [29, tr.95].
- Luật Giáo dục năm 2005 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khẳng định rõ ở điều 12 về “Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục”. Theo tinh thần của
Luật Giáo dục, công tác quản lý chỉ đạo, phát triển giáo dục Mầm non cần gắn với
công tác vận động xã hội mới đem lại hiệu quả cao. Giáo dục có một vai trò đặc
biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc cũng như toàn thể
nhân dân. Chiến lược giáo dục, chiến lược con người là bộ phận quan trọng của
chiến lược kinh tế - xã hội... Bởi chức năng chủ yếu của giáo dục là hình thành và
phát triển nhân cách thế hệ trẻ. Phát triển giáo dục không phải chỉ quan tâm đến
quy mô, tốc độ, số lượng mà đặc trưng chủ yếu là tổ chức các quá trình giáo dục,
thông qua việc tổ chức dạy và học dưới nhiều hình thức. Nhằm chuẩn bị cho thế hệ
trẻ đi vào cuộc sống xã hội. Nhất là đối với giáo dục Mầm non mà đặc trưng của
nó là tính giáo dục gia đình và tính tự nguyện cao. Trẻ em hôm nay sẽ là chủ nhân
đất nước những thập niên đầu thế kỷ XXI, vì thế cần phải bắt đầu từ việc chăm sóc,
giáo dục trẻ em từ tuổi mầm non và trách nhiệm này không chỉ thuộc về nhà
trường Mầm non mà còn là trách nhiệm của gia đình và của toàn xã hội.
Tầm quan trọng của xã hội hoá giáo dục đối với sự phát triển đi lên của đất
nước, lợi ích, quyền lợi và trách nhiệm của các thành viên trong xã hội... đối với sự


nghiệp phát triển giáo dục, xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã được Đảng và Nhà
nước ta xác định. Nhưng mục tiêu, nội dung xã hội hoá giáo dục cũng như công tác
quản lý xã hội hoá giáo dục phải được hiểu như thế nào ? Các biện pháp tổ chức xã

hội hoá giáo dục cũng như công tác quản lý xã hội hoá giáo dục ở các bậc học,
ngành học trong hệ thống giáo dục quốc dân phải được tiến hành ra sao? Nội dung
và tính chất của các biện pháp tổ chức và quản lý trong thực tiễn...? Các vấn đề
trên nếu được lý giải một cách khách quan, khoa học thì không những làm sáng tỏ
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá giáo dục
mà còn góp phần giúp các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền các cấp, các tổ chức
chính trị - xã hội các đoàn thể quần chúng, các cơ sở giáo dục... có định hướng
phát triển xã hội hoá giáo dục và quản lý xã hội hoá giáo dục có hiệu quả.
Nghiên cứu xã hội hoá giáo dục và việc tăng cường quản lý nhằm nâng cao
hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục mầm non ở huyện Thạch Thất - thành phố
Hà Nội không chỉ tìm kiếm những lời giải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
khách quan, đáp ứng nhu cầu nhận thức mà còn có một ý nghĩa thực tiễn quan
trọng: Cung cấp cơ sở cho việc dự đoán và định hướng cho sự phát triển xã hội hoá
giáo dục và tăng cường quản lý xã hội hoá giáo dục trong giai đoạn cách mạng
hiện nay. Hơn nữa để phát triển giáo dục Mầm non, không còn con đường nào
khác là phải thực hiện tốt công tác xã hội hoá giáo dục. Một sự nghiệp lớn được kế
tục một cách nhất quán qua nhiều thế hệ, mỗi giai đoạn nhất định đều có chính
sách mục tiêu, biện pháp và cách thức tiến hành khác nhau, nhằm đạt được những
mục tiêu định hướng của xã hội, gia đình và chính nguyện vọng của trẻ em.
* Thực tế về sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất:
Quán triệt tư tưởng xã hội hoá giáo dục được định hướng từ các Nghị quyết
Đại hội Đảng những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thạch Thất,
công tác xã hội hoá giáo dục được tiến hành tích cực với nhiều hình thức phong
phú, cùng với việc vận động xã hội đóng góp nhân lực, vật lực, huy động các


nguồn đầu tư cho giáo dục. Đặc biệt là bậc học mầm non thực hiện đa dạng hoá
các loại hình trường lớp, gắn kết giáo dục nhà trường với cộng đồng xã hội để huy
động học sinh đến trường lớp. Do vậy, sự nghiệp giáo dục Mầm non của huyện
Thạch Thất đã thu được những thành tựu đáng tự hào về sự phát triển quy mô, số

lượng và chất lượng giáo dục và đào tạo.
Tuy nhiên, những thành tích đã đạt được, việc thực hiện xã hội hoá giáo
dục mầm non ở huệyn Thạch Thất vẫn còn gặp không ít khó khăn, trở ngại như ở
một số xã cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể phụ huynh chưa nhận thức được vị
trí, tầm quan trọng của giáo dục Mầm non họ coi việc giáo dục Mầm non chỉ là
trông giữ không học hành gì... nên không đưa học sinh đến trường lớp. Do vậy tỷ
lệ học sinh đến trường thấp nếu có đưa đến trường lớp trưa đón về không cho ăn
ở trường... Không ít quan niệm khác nhau cho rằng nội dung chính của xã hội hoá
giáo dục là huy động kinh phí trong nhân dân hoặc có nơi quan niệm xã hội hoá
giáo dục là để dân lo là chính dẫn đến việc đầu tư nguồn lực cho phát triển giáo
dục chưa được quan tâm đúng mức. Mặt khác việc quản lý mầm non về công tác
xã hội hoá giáo dục Mầm non còn thiếu một số biện pháp phù hợp, hiệu quả.
Chính từ thực trạng trên tác giả chọn đề tài “Giải pháp quản lý quản lý nhằm
nâng cao hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất
trong giai đoạn hiện nay”.
* Về mặt khoa học: Xã hội hoá giáo dục Mầm non là một đề tài không hoàn
toàn mới và đã được một số tác giả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn. Song, đối với
địa bàn huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội còn là vấn đề mới. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu, kiểm chứng những giải pháp đã được tổng kết và bổ sung một số giải
pháp quản lý nhằm nâng cao xã hội hoá giáo dục giáo dục Mầm non phù hợp với
thực tiễn địa bàn huyện Thạch Thất - thành phố Hà Nội với đề tài này mong muốn
được góp tiếng nói nhỏ bé của mình nhằm đẩy mạnh sự phát triển toàn diện giáo
dục Mầm non của huyện Thạch Thất trong giai đoạn hiện nay.


2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non ở huyện
Thạch Thất trong những năm qua. Những thành công, tồn tại và bài học kinh nghiệm
để đưa ra những biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non
trên địa bàn huyện một cách đồng bộ, hợp lý, có hiệu quả.

3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất - Thành phố Hà
Nội trong giai đoạn hiện nay.
4. Giả thuyết khoa học
Công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục là vấn đề tất yếu khách quan trong
sự nghiệp phát triển giáo dục ở nước ta. Việc quản lý công tác XHH-SNGDMN ở
huyện Thạch Thất - thành phố Hà Nội nói chung, XHH-SNGMN nói riêng trong
thời gian qua tuy đã đạt được những kết quả nhất định, song vẫn còn có những hạn
chế, bất cập do nhiều yếu tố chủ quan, khách quan. Nếu đề xuất và triển khai
những biện pháp quản lý bao quát cả hai chiều nhà trường và cộng đồng đối với sự
nghiệp giáo dục Mầm non ở trên địa bàn địa bàn huyện thì công tác XHH sự
nghiệp GDMN ở huyện Thạch Thất - thành phố Hà Nội sẽ đạt các kết quả khả
quan.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận, xã hội hoá giáo dục và quản lý công tác xã hội
hoá giáo dục Mầm non
5.2. Khảo sát thực trạng công tác xã hội hoá giáo dục và quản lý công tác xã hội
hoáệư nghiệp GDMN


5.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý công tác xã hội hoá sự nghiệp GDMN ở
huyện Thạch Thất - thành phố Hà Nội; kiểm định tính cấp thiết và tính khả thi
của các biện pháp đưa ra.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu giới hạn nghiên cứu vấn đề XHH-SNGDMN trên địa bàn
huyện Thạch Thất – Thành phố Hà Nội trong bối cảnh phát triển hiện nay.
Đề tài tập trung nghiên cứu công tác XHH sự nghiệp GDMN trên các mặt cơ

bản sau:
- Sự lãnh đạo của Cấp uỷ, chính quyền đối với công tác XHH-SNGDMN
- Vai trò của Phòng GD&ĐT trong công tác XHH-SNGDMN.
- Sự phối hợp của các cơ quan, đoàn thể, cá xã thị trấn, các tổ chức xã hội để
phát triển GDMN.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, khái quát hoá những vấn đề lý luận cơ bản của đề tài làm cơ
sở cho nghiên cứu thực tiễn các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội
hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất.
7.2. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
Vận dụng phương pháp xã hội học để nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát các hoạt động xã hội hoá giáo dục ở các trường
Mầm non trong huyện để thu thập số liệu, phát hiện những vấn đề mới.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thâm nhập thực tiễn: Các đối tượng cán bộ
quản lý, giáo viên, cha mẹ học sinh để đánh giá thực trạng.
+ Trò chuyện phỏng vấn sâu một số chuyên gia GDMN Sở Giáo dục và Đào
tạo thành phố Hà Nội; tham khảo các văn bản tổng kết, đánh giá và rút kinh
nghiệm hàng năm về tình hình quản lý XHH-SNGDMN trên địa bàn huyện, từ đó
phân tích, tổng hợp, rút ra đánh giá và những bài học kinh nghiệm để tạo tiền đề


cho việc đề xuất các biện pháp quản lý để tăng cường công tác XHHSNGDMN
trong giai đoạn hiện nay.
7.3. Phương pháp thống kê
Sử dụng các công thức thống kê để xử lý kết quả khảo sát.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu Nội dung luận văn được cấu trúc 3 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục và quản lý công
tác xã hội hoá giáo dục Mầm non (20 trang).

- Chương 2: Thực trạng công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở
huyện Thạch Thất - thành phố Hà Nội (36 trang).
- Chương 3: Xu hướng và giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công
tác xã hội hoá giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất (31 trang).


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC M ÂM NON
1.1. Tổng quan
Chức năng đầu tiên, chức năng nguyên thuỷ của giáo dục là xã hội hoá, ứng với
mỗi giai đoạn phát triển, mối quan hệ hai chiều giáo dục - xã hội thúc đẩy nhau
cùng phát triển. Tiến trình phát triển của xã hội loài người từ khi có giai cấp và
hình thành Nhà nước cho đến nay, chúng ta thấy giáo dục là một bộ phận của xã
hội và nó phục vụ cho sự phát triển của xã hội, giáo dục là sản phẩm của xã hội
vừa là cái nôi của giáo dục vừa là môi trường cho sự phát triển giáo dục, giáo dục
tách khỏi xã hội thì giáo dục không có lý do để tồn tại; giáo dục là một trong
những nhân tố đánh dấu những nấc thang trình độ văn minh của các thời đại trong
lịch sử. Sự tồn tại phát triển của giáo dục chịu sự chi phối của sự phát triển kinh tế
- xã hội và ngược lại giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc tái sản xuất sức
lao động xã hội, tạo ra môi trường cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì điều
mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục và cộng đồng xã hội thường xuyên được
diễn ra cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người.
Với tầm quan trọng như vậy, ngày nay giáo dục luôn được coi là quốc sách
hàng đầu của nhiều Quốc gia trên thế giới. Việc quan tâm, đầu tư, huy động mọi
nguồn lực và mọi điều kiện cho phát triển giáo dục là sách lược lâu dài của nhiều
giải quyết. Mặc dù bản chất của giáo dục ở các nước có khác nhau nhưng đều cho
thấy xã hội hoá sự nghiệp giáo dục là cách làm phổ biến, kể cả những nước có nền
công nghiệp hiện đại - kinh tế phát triển cao.
Qua các tài liệu nghiên cứu cho thấy xã hội hoá sự nghiệp giáo dục không

phải là vấn đề hoàn toàn mới, nó có nguồn gốc lâu đời là bước phát triển của một
chủ trương phát triển giáo dục được thực hiện từ nhiều năm qua. Trải qua nhiều
thời kỳ đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Với tư tưởng “Lấy


dân làm gốc”, “Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” đã được Đảng
ta vận dụng sáng tạo và thực hiện các quan điểm “Giáo dục là sự nghiệp của quần
chúng” là sức mạnh tiềm tàng cho sự phát triển nền giáo dục nước nhà.
Ngay từ những ngày đầu của nước Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ra “Lời kêu gọi chống nạn thất học”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch cả
nước đã trở thành một xã hội học tập, tiêu biểu, sôi động nhất đó là phong trào bình
dân học vụ... Tư tưởng giáo dục “Ai cũng được học hành” của Hồ Chủ tịch đã thực
sự đi vào cuộc sống.
Đất nước hoàn toàn thống nhất, cả hai miền Nam - Bắc cùng thực hiện một
hệ thống giáo dục đã đạt được những thành quả nhất định. Song do cơ chế tập
trung, quan liêu bao cấp, nền giáo dục của chúng ta không khai thác triệt để bài học
phát huy sức mạnh của toàn dân tộc để phát triển giáo dục. Thay vì thực hiện
“Quản lý giáo dục của Mầm non” chúng ta đã “Mầm non hoá giáo dục” làm cho
giáo dục rơi vào thế bị động, không thu hút được các nguồn lực của toàn xã hội
tham gia vào các hoạt động giáo dục.
Từ thách thức đó đòi hỏi sự nghiệp giáo dục và đào tạo phải đổi mới cách
nhìn nhận về vị trí vai trò của mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Việc “Huy
động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân cùng góp sức xây
dựng nền giáo dục quốc phòng toàn dân dưới sự quản lý của Nhà nước” đã trở nên
vô cùng bức thiết.
* Đảng và Nhà nước ta xác định giáo dục có vai trò hết sức quan trọng trong
quá trình phát triển đất nước. Đảng ta xác định, muốn tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước thắng lợi phải phát triển giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn
lực con người - yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để phát triển Giáo

dục và Đào tạo. Quan điểm, chủ trương đó được xuyên suốt từ Đại hội VII đến Đại
hội X của Đảng. Đảng ta đã khẳng định “Xã hội hoá” là một trong những quan


điểm để hoạch định hệ thống các chính sách xã hội. Từ Nghị quyết TW 4 khoá IX
Đảng ta khẳng định: “Đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, xây dựng xã hội
học tập, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân là một giải pháp quan trọng để
tiếp tục phát triển giáo dục” [20, tr.89].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4 - 2006) đã chỉ rõ:
“Thựchiện xã hội hoá sự nghiệp giáo dục. Huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ
của xã hội tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành
giáo dục với các ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp...
để mở mang giáo dục, tạo điều kiện học tập cho mọi thành viên trong xã hội” [21,
tr 97].
Chủ trương xã hội hoá sự nghiệp giáo dục của Đảng được thể chế hoá
vào Hiến pháp 1992, tại điều 35: “...Phát triển các hình thức trường quốc lập,
dân lập các hình thức giáo dục khác [56, tr.89] Điều 12 của Luật Giáo dục
2005 khẳng định “Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục để thực hiện đa dạng hoá
các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo
điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”
[57,tr.35].
Ngày 18/4/2005 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy
mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao. Tiếp đó,
ngày 24/6/2005 Bộ GD & ĐT đã ban hành Quyết định số 20/2005/QĐ-BGD và ĐT
phê duyệt đề án “Quy hoạch phát triển xã hội hoá sự nghiệp giáo dục giai đoạn
2005 - 2010”.
Chương 2, hệ thống giáo dục quốc dân Điều 21, 22 Luật giáo dục năm 2005
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ “Giáo dục Mầm non thực
hiện việc nuôi dưỡng; chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi”. Hội nghị
của Thủ tướng Chính phủ (25/6/2002) bàn về phát triển giáo dục Mầm non theo

tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn


quốc lần thứ IX đã một lần nữa khẳng định: Giáo dục Mầm non là bộ phận quan
trọng cấu thành hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Mầm non là ngành học thể hiện
tính xã hội hoá cao hơn hết. Giáo dục Mầm non thể hiện sinh động nguyên tắc Nhà
nước, xã hội và nhân dân cùng làm. Để đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp phát triển
giáo dục Mầm non, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức hội nghị bàn về công tác giáo
dục Mầm non. Hội nghị đã đề ra các giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh: Tiếp
tục đẩy mạnh biện pháp xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non; đa dạng hoá các
loại hình giáo dục Mầm non, kiến nghị cần có chính sách để đầu tư cho giáo dục
Mầm non; ban hành Quyết định số 164/2002/QĐ-TTg về một số chính sách phát
triển giáo dục Mầm non.
1.2. Những khái niệm và quan điểm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hoạt động xã hội rộng lớn và hết sức quan trọng, có liên
quan trực tiếp đến lợi ích, quyền lợi và nghĩa vụ của mọi thành viên trong xã hội,
mọi tổ chức kinh tế - xã hội của mỗi Quốc gia. Đồng thời, GD là một trong nhân
tố có tác động mạnh mẽ đến tiến trình hưng thịnh hay suy vong của một thể chế
chính trị, một triều đại và của cả một thời đại. Vì thế ngay từ thời kỳ cổ đại các
nhà triết học, giáo dục học, sử gia đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của nó.
Khổng Tử (551- 479 tr.CN), nhà giáo dục lớn thời cổ đại của Trung Quốc,
ông coi GD là nằm trong hệ thống “Thứ - Phú – Giáo” đòi hỏi những nhà chính trị,
những người cầm quyền không được sao nhãng.
Như vậy, qua các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu về xã hội
học, về GD từ thời kỳ cổ đại cho đến nay cho thấy: GD là một hiện tượng xã hội có
lịch sử lâu đời và tồn tại song hành cùng với sự phát triển của xã hội loài người.



GD là sản phẩm của xã hội, đồng thời là một trong những nhân tố đánh dấu nấc
thang trình độ văn minh của các thời đại trong lịch sử.
Trong sách “ Giáo dục học” của A.Ilinna, nhà giáo dục học Xô viết cho
rằng: “ …giáo dục là một quá trình truyền thụ kinh nghiệm lịch sử xã hội – cho các
thế hệ mới, nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống xã hội và bước vào lao
động sản xuất” [40, tr.6].
Giáo dục được hiểu là hoạt động có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch, có
hệ thống của GD, nhằm tạo ra sức mạnh có tính chất đa dạng về thể chất, tinh
thần của con người, đáp ứng được nhu cầu phát triển KT-XH. Giáo dục còn là
quá trình hình thành cho con người tri thức khoa học về thế giới khách quan, về
lý tưởng, đạo đức, thái độ thẩm mỹ. Trên cơ sở đó hình thành nhân sinh quan,
phát triển đạo đức, trí, thể, mỹ của từng con người cụ thể. Bên cạnh đó, GD có sứ
mệnh cao cả rèn luyện nhân cách cho từng cá nhân ở từng đối tượng cụ thể, làm
cho mỗi con người trở thành những chủ thể của bản thân. Như vậy, theo nghĩa
chung nhất: “ Giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội những tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo và những kinh nghiệm nhằm chuẩn bị cho con người bước vào cuộc
sống lao động và sinh hoạt xã hội; là một nhu cầu tất yếu của xã hội loài người,
đảm bảo cho sự tồn tại của con người và xã hội” [35, tr.7].
Trong thời đại ngày nay, các Quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam ghi
nhận và thừa nhận vị trí và vai trò to lớn của GD đối với sự phát triển của xã hội
loài người, đối với việc hình thành và phát triển nhân cách và phẩm giá của con
người. Đảng ta, với quan điểm đổi mới từ Đại hội lần thứ VI đến Đại hội lần thứ X
luôn khẳng định: “Giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh
tế xã hội; Giáo dục là Quốc sách hàng đầu; đầu tư cho GD là đầu tư cho phát
triển bền vững”. Do đó, quản lý GD đã trở thành chương trình nghị sự, trở thành
mối quan tâm thường xuyên của Đảng, Nhà nước ta.


Quản lý GD là một bộ phận của quản lý xã hội cùng với sự đi lên của tổ

chức xã hội, khoa học quản lý ngày càng phát triển mạnh mẽ và có ý nghĩa quyết
định trong mọi mặt của đời sống KT-XH. Khoa học quản lý GD đã hình thành và
phát triển khá sớm, trở thành yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng GD.
Để phát huy sức mạnh tổng hợp và các chức năng đặc biệt của hoạt động GD, các
nhà khoa học quan tâm đặc biệt đến vấn đề QLGD- tức là vấn đề điều khiển quá
trình GD, rèn luyện con người nói chung, đặc biệt là hệ thống nhà trường, nơi GD
và rèn luyện thế hệ trẻ nói riêng và cho mọi người có nhu cầu học tập thường
xuyên.
Tác giả Lê Du Phong khái niệm quản lý nhà nước về GD: “ Quản lý Nhà
nước về giáo dục là quản lý theo ngành do một cơ quan Trung ương đại diện cho
Nhà nước là Bộ GD&ĐT thực hiện. Đó là việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, cơ chế và chính sách phát triển GD&ĐT của đất nước phù hợp với sự phát
triển KT-XH của nước nhà và của thời đại cũng như tổ chức thực hiện thành công
các vấn đề đó, nhằm nâng cao không ngừng trình độ dân trí của dân và tạo cho
đất nước một đội ngũ nhân lực có trình độ cao, đảm bảo thành công sự nghiệp
CNH, HĐH”. [32, tr.71].
QLGD là quá trình tác động của chủ thể quản lý và toàn bộ hoạt động của
GD nhằm thúc đẩy GD phát triển theo mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã xác định.
QLGD được biểu hiện thông qua quản lý mục tiêu đào tạo, chương trình đào tạo
quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học, quản lý đội ngũ cán bộ,
giáo viên, quản lý người học và chất lượng GD-ĐT…Do đó có thể nhận thấy: “
Quản lý GD là hoạt động điều hành các nhà trường để GD vừa là sức mạnh vừa là
mục tiêu của nền kinh tế”.
Như vậy, có thể thống nhất quan niệm: Quản lý GD là hoạt động điều
hành, phối hợp các lực lượng GD nhằm đẩy mạnh công tác GD, Đào tạo thế hệ trẻ
theo yêu cầu phát triển của XH.


Do vậy, các nhà quản lý GD phải có chủ trương hết sức đúng đắn và thực thi
có hiệu quả cơ chế quản lý mới đối với sự nghiệp GD&ĐT, một khi đã xác định,

coi GD là “Quốc sách hàng đầu”, “đầu tư cho GD là đầu tư cho sự phát triển bền
vững”. Trong chiến lược phát triển KT-XH của Đảng và Nhà nước thì cái được và
cái chưa được, thành tựu và những hiện tượng tiêu cực trong GD&ĐT của nước ta
hiện nay, phải phụ thuộc và hiện thực cơ chế quản lý GD, của hệ thống chính
quyền Nhà nước, từ Trung ương đến các cơ sở và năng lực của đội ngũ CBQL giáo
dục ở các cấp học, các ngành học.
Để nâng cao chất lượng, năng lực của đội ngũ CBQL giáo dục, Đảng và Nhà
nước ta hết sức quan tâm đến việc xây dựng cơ sở vật chất, phát triển các cơ sở
trường học để đào tạo, bồi dưỡng các CBQL giáo dục các cấp, các ngành học. Hiện
nay chúng ta đã có Học viện Quản lý giáo dục và trường Quản lý GD&ĐT II trực
thuộc Bộ GD&ĐT. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có các cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng CBQL giáo dục của Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Phú
Thọ, Thái Bình. Chương trình đào tạo - bồi dưỡng được cụ thể hoá, hiện đại hoá
đối với từng đối tượng CBQL ở các trường: Mầm non, Tiểu học, THCS, THPT,
dân tộc nội trú, TCCN, Trung tâm GDTX, trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng
nghiệp, ĐH và CĐ, thanh tra viên giáo dục Tiểu học và THCS, nữ cán bộ QLGD…
Thực hiện công cuộc đổi mới, sự nghiệp GD&ĐT nước ta đạt được những
thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực như: thực hiện phân cấp QLGD; Đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục; Đa dạng hoá các hình thức GDĐT; Nâng cao chất lượng và hiệu quả GD; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ dạy và học, thực hiện chương trình kiên cố hoá trường học, lớp
học; Thực hiện một loạt các chính sách khuyến khích người học và người dạy;
Thiết lập các mối quan hệ Quốc tế trên nhiều mặt, trên lĩnh vực đào tạo nguồn
nhân lực cũng như các trang thiết bị dạy và học tiên tiến hiện đại…Những thành
tựu lớn lao đó, đặc biệt là công tác QLGD đã và đang tạo ra nguồn nhân lực có


phẩm chất cách mạng và năng lực, từng bước đáp ứng được nhu cầu phát triển của
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
1.2.2. Xã hội hoá
Xã hội hoá (XHH) - thuật ngữ này được các nhà kinh tế học, xã hội học,

giáo dục học từ những năm cuối thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ XX sử dụng,
nhằm biểu đạt một số những vấn đề thuộc các lĩnh vực nghiên cứu của mình.
Theo Côlin Fasen, thì: “XHH là một quá trình động viên mọi tầng lớp Nhân
dân tham gia một cách tích cực và chủ động vào một lĩnh vực xã hội nào đó, huy
động hợp lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của Nhà nước và của Nhân dân
nhằm đạt được các mục tiêu phát triển XH”.
Từ quan điểm trên đã nêu lên nội dung cơ bản của khái niệm xã hội hoá.
Định nghĩa đó có được đề cập ở mức độ khác nhau nhưng cốt lõi của vấn đề cho
rằng: Xã hội hoá là quá trình cá nhân nhờ hoạt động, giao lưu, giao tiếp, tiếp thu
giáo dục… mà học hỏi được cách sống trong cộng đồng, trong đời sống xã hội và
phát triển được khả năng đảm nhiệm các vai trò xã hội với tư cách vừa là cá thể
vừa là thành viên của xã hội.
1.2.3. Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục
Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII (tháng 6/1996) đã
khẳng định, “Xã hội hoá” là một trong những quan điểm để hoạch định hệ thống
các chính sách xã hội. Ngày 21/8/1997, Chính phủ đã ra Nghị quyết 90/CP về
“Phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá”.
Luật giáo dục năm 2005 đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua, ở
chương 1 – “Những quy định chung”, điều 12 ghi rõ: Xã hội hoá sự nghiệp giáo
dục. Để đẩy mạnh hơn nữa quá trình xã hội hoá, ngày 19/8/1999, Chính phủ lại ban
hành Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về “ chính sách khuyến khích xã hội hoá đối
với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao”. Đại hội đại


biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Giáo dục và Đào
tạo phải thực hiện “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”.
Cũng trong thời kỳ đổi mới này, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý GD đã bàn
luận nhiều về XHH giáo dục. Tác giả Phạm Minh Hạc một lần nữa khẳng định “
Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước, mà là của toàn xã hội: Mọi
người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, Trung ương và địa phương cùng

làm giáo dục, tạo nên một cao trào học tập trong toàn dân”[19.tr.330].
Bộ GD&ĐT cũng đã có “đề án xã hội hoá Giáo dục và Đào tạo”, đánh giá
thực trạng và đưa ra những giải pháp XHH giáo dục ở tầm vĩ mô, nhằm tạo ra
những chuyển biến cơ bản trong GD&ĐT, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước trong 20 năm đầu thế kỷ XXI.
Giáo dục được coi là một lĩnh vực đặc thù của đời sống XH, nó vừa nằm
trong lĩnh vực thuộc hình thái ý thức XH, kiến trúc thượng tầng vừa nằm trong
các quan hệ XH, quan hệ sản xuất thuộc hạ tầng cơ sở. Giáo dục có vai trò hết
sức to lớn trong việc tái sản xuất sức lao động XH; Khơi dậy, thức tỉnh và phát
huy tiềm năng sáng tạo của mỗi con người, tạo ra môi trường cho sự phát triển
KT-XH. Còn xã hội hoá giáo dục ở mức độ nào, diễn ra theo những định hướng
ra sao… điều đó phụ thuộc vào kết cấu quan hệ XH, phụ thuộc vào yêu cầu và
nhu cầu phát triển KT-XH của các thể chế chính trị của từng Quốc gia.
Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục là quá trình hướng mọi hoạt động của giáo
dục tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội. Có thể nói một cách khái
quát: Xã hội hoá giáo dục là quá trình mà cả cộng đồng và xã hội cùng tham gia
vào giáo dục. Trong đó mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo
sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.
XHH sự nghiệp giáo dục là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, là
quan điểm có tính chiến lược trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối


phát triển giáo dục. Từ Nghị quyết hội nghị lần thứ II(khoá VIII) đến phương
hướng, nhiệm vụ phát triển KT-XH 5 năm giai đoạn 2006-2010 Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4- 2006) đã chỉ rõ: “ Thực hiện xã hội hoá
giáo dục – huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự
nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa các ngành giáo dục với các ban, ngành,
các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp… để mở mang giáo dục, tạo
điều kiện học tập cho mọi thành viên trong xã hội”.[21,tr.97].

Nội dung xã hội hoá sự nghiệp GD được Đảng và Nhà nước đề cập hết sức
phong phú; như từ việc huy động các LLXH đầu tư các nguồn lực bao gồm vật lực,
tài lực cho giáo dục; tham gia vào quá trình đa dạng hoá các loại hình trường, lớp,
các hình thức học tập.
Ba môi trường trong giáo dục được gắn kết bởi nhà trường, gia đình và xã
hội, làm cho mọi người, mọi tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp và mọi cá nhân trong xã hội nhận thức và tổ chức thực hiện đầy đủ
trách nhiệm của mình trong sự nghiệp phát triển giáo dục và quản lý giáo dục.
Chủ trương XHH sự nghiệp giáo dục của Đảng và Nhà nước đã và đang thu
hút sự quan tâm nghiên cứu của các Vụ, Viện, các Ban, Ngành thuộc Bộ GD&ĐT
cũng như các Ban, Ngành có liên quan. Nhiều chuyên gia giáo dục có tâm huyết đã
có những bài viết, những công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề XHH sự
nghiệp GD; Viện sĩ, Giáo sư Phạm Minh Hạc trong cuốn “giáo dục Việt Nam
ngưỡng cửa thế kỷ XXI” đã khẳng định “Sự nghiệp giáo dục không chỉ của Nhà
nước mà là của toàn xã hội, mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội,
Trung ương và địa phương cùng làm giáo dục”[27, tr.331].
Như vậy XHH sự nghiệp giáo dục là một tư tưởng chiến lược của Đảng và
Nhà nước, bản thân tư tưởng đó qua mỗi giai đoạn được phát triển, mở rộng và
phong phú cả về hình thức và nội dung. XHH sự nghiệp giáo dục là một nhân tố
mới đã và đang phát huy sức mạnh đối với sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo


nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Những kinh
nghiệm được rút ra từ thực tiễn thực hiện XHH sự nghiệp GD, trên cơ sở đó nâng
cao sự đổi mới tư duy giáo dục, giải đáp kịp thời những vấn đề đặt ra của sự
nghiệp phát triển GD&ĐT.
1.2.4. Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non
Xã hội hoá GDMN là quá trình huy động lực lượng xã hội cùng làm giáo
dục Mầm non dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Bản chất của
XHHSNGDMN là động viên, lôi cuốn mọi LLXH phát triển GDMN để thực hiện

GD cho trẻ em trong độ tuổi. Huy động các tổ chức chính trị - XH, các đoàn thể
quần chúng, các xí nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh… cùng tham gia SNGDMN
dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
1.2.4.1. Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở nước ngoài:
Nhiều nước trên Thế giới đã coi phát triển giáo dục là Quốc sách hàng đầu
và đã đầu tư rất lớn cho giáo dục. Tìm hiểu cách làm giáo dục ở nhiều nước cho
thấy XHH sự nghiệp giáo dục là cách làm giáo dục phổ biến ở các nước trên Thế
giới, kể cả những nước công nghiệp hiện đại, có nền kinh tế phát triển cao. Tuy
nhiên, thuật ngữ họ dùng không phải là “Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục”mà là “Sự
tham gia của cộng đồng vào giáo dục”. Rõ ràng là thuật ngữ này về mặt ngữ nghĩa
đã thể hiện được nội dung cơ bản của XHH sự nghiệp GD.
Đối với sự nghiệp giáo dục Mầm non, quan điểm về sự nghiệp GDMN và
XHH sự nghiệp GDMN ở các nước còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng về phương
thức, giải pháp thực hiện nhiệm vụ GDMN đều có sự giống nhau cơ bản. Đó là
việc huy động mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức xã hội, cá nhân cùng với Nhà
nước thực hiện các quá trình giáo dục, là việc huy động nhiều nguồn vốn, đa dạng
hoá nhiều loại hình GDMN. Có thể nói, xu thế xã hội hoá sự nghiệp GDMN, tăng
đầu tư cho GDMN, quan tâm đến GDMN đã mang tính toàn cầu. Hiện nay nhiều
nước đã thấy rõ lợi ích của GDMN cả về kinh tế và xã hội, bởi vì sự trợ giứp của


Nhà nước cho chăm sóc trẻ đã giúp tránh được lãng phí nguồn nhân lực liên quan
đến việc nghỉ dài hạn khỏi công việc của phụ nữ để ở nhà chăm sóc con cái.
Việc đầu tư cho GDMN được bắt đầu từ lúc sinh đến 6 tuổi, về tỷ lệ GDP
đầu tư cao nhất là các nước Bắc Âu, trung bình là các nước Châu Âu lục địa, thấp
nhất là Australia, Anh và Hoa Kỳ. Tuy nhiên các nước được xem là đầu tư thấp
nhất trước đây (Netherlands, UK, US) có xu hướng tăng mức đầu tư lên một cách
có ý nghĩa trong 5 năm qua. Trong khối các nước thuộc OECD có sự chia sẻ kinh
phí giữa Nhà nước, cha mẹ và doanh nghiệp nhưng Chính phủ vẫn đóng vai trò chủ
yếu.

Một số nước khác trong khu vực Châu Á, việc xã hội tham gia vào giáo dục
Mầm non cũng được thể hiện rất sinh động. Chẳng hạn ở Trung Quốc, GD mẫu
giáo được coi là một bộ phận của GD XHCN, Bộ và các Vụ y tế đảm nhận trách
nhiệm về chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh ở các nhà trẻ, còn vấn đề giáo dục, đào tạo
cô nuôi dạy trẻ, quản lý nhà trẻ thì được gắn với GDMN. Nguồn kinh phí cho các
nhà trẻ, trường mẫu giáo là do Nhà nước, các tập thể doanh nghiệp và cha mẹ. Nhà
trẻ nhận trẻ dưới 3 tuổi, mẫu giáo nhận trẻ 3 đến 6 tuổi do Vụ GD địa phương quản
lý. Chính sách nhận trẻ linh hoạt gắn với các loại hình mẫu giáo để đáp ứng điều
kiện kinh tế xã hội và đời sống của người lao động. Trẻ em có thể học 3 năm, 2
năm hoặc 1 năm, học bán trú, nội trú, có mẫu giáo nửa ngày hoặc chương trình linh
hoạt theo vụ mùa ở nông thôn.
Điểm qua chính sách và hoạt động GDMN ở các nước trên đã cho thấy vai
trò, khả năng về nội dung hoạt động mà XH, cộng đồng có thể tham gia làm tốt
cho GDMN. Từ đó, có thể thấy rõ XHH sự nghiệp GDMN là xu thế chung của các
nước có nền GD tiên tiến trên thế giới và trong khu vực với cùng một phương thức
huy động cộng đồng tham gia làm GDMN. Nó được biểu hiện qua một số điểm
chính là quy mô GDMN được mở rộng, đa dạng hoá nhiều loại hình. Tuy nhiên,
tính chất mức độ và mục đích của mỗi bên giáo dục ở mỗi nước khác nhau, nhưng


những nét sinh động của quá trình XHH sự nghiệp GDMN ở các nước tiên tiến
trên Thế giới và khu vực có thể cho ta những kinh nghiệm quý.
1.2.4.2. Xã hội hoá giáo dục Mầm non ở Việt Nam
Trước năm 1945, dưới thời Pháp thuộc ở Việt Nam không có nền GD trước
tuổi đi học. Trong cả nước chỉ có vài trạm y tế bần nuôi trẻ mồ côi. Sau cách mạng
Tháng 8, cùng với việc hình thành chế độ mới, lần đầu tiên ở Việt Nam có bậc giáo
dục trước tuổi đi học chính thức ra đời.
Từ chỗ hầu như chưa có gì, trải qua những năm tháng khó khăn, gian khổ
của hai cuộc kháng chiến, vượt qua thời kỳ chao đảo trong sự chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, nhờ thực hiện chủ trương XHH, nền

GDMN đã khắc phục được tình trạng suy giảm, giữ được sự ổn định trên diện
rộng, phát triển ở những khu vực có điều kiện tạo nên sự chuyển biến rõ rệt.
Nhìn vào các hình thức GDMN, có thể khẳng định đây là bậc học được
XHH cao hơn bất kỳ bậc học nào. GDMN là sự thể hiện sinh động nguyên tắc Nhà
nước, xã hội và nhân dân cùng làm. Song việc nghiên cứu XHH sự nghiệp GDMN
còn hết sức hạn chế.
Đứng trước những yêu cầu và thách thức của việc thực hiện chiến lược phát
triển GDMN, nhằm phát triển GDMN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương II(
khoá 8) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX ngày 25/6/2002 , Thủ
tướng Chính phủ đã tổ chức hội nghị bàn về công tác GDMN. Hội nghị đã đề ra
giải pháp cơ bản trong đó nhấn mạnh: Tiếp tục đẩy
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(Để xây dựng đề cương)
1. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2006-2007 và hưởng ứng cuộc vận
động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” của
phòng GD&ĐT huyện Thạch Thất.
2. Báo cáo tổng kết của các năm học 2006 – 2007, 2007 – 2008, 2008 – 2009 của
phòng GD&ĐT huyện Thạch Thất.


3. Đặng Quốc Bảo. Một số khái niệm về quản lý GD, Trường QLGĐT, Hà Nội.
4. Đặng Quốc Bảo (Tổng biên soạn). Các tập bài giảng của môn QLNN về GD và
một số vấn đề XH phát triển GD.
5. Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Đắc Hƣơng. GDVN hướng tới tương lai NXB Chính
trị Quốc Gia HN 2004.
6. Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Đắc Hƣng. GDVN hướng tới tương lai vấn đề và
giải pháp NXB Chính trị Quốc Gia HN 2004.
7. Ban tư tưởng Văn hoá TW. Những nội dung cơ bản của nghị quyết hội nghị lần
thứ tư Ban chấp hành TW Đảng (Khoá VIII). Tạp chí công tác tư tưởng Văn hoá
tháng 2 năm 1993.

8. Bộ GD&ĐT. Chiến lược phát triển GD 2001- 2010. NXB giáo dục Hà Nội 2002.
9. Bộ GD&ĐT. Quyết định số 20/2005/QĐ- BGD&ĐT, ngày 24/6/2005 về việc
phê duyệt đề án quy hoạch phát triển XHHGD 2005-2010. Hà Nội 2005
10. Bộ GD&ĐT, Bộ nội vụ, Ban tổ chức TW, Thông tư liên tịch số
05/2005/TTLT/BGD&ĐT-BNV-BTC, hướng dẫn một số chính sách phát triển
GDMN công lập, ngoài công lập, thực hiện XHH đối với GDMN. Hà Nội 2003.
11. Chính Phủ Nước Cộng hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Chiến lược phát triển
GD 2001-2010
12. Chính phủ. Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP đẩy mạnh XHH các hoạt động GD,
Y tế, Văn hoá và thể dục thể thao. Hà Nội 2005.
13. Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Lý luận đại cương về quản lý, Giáo
trình lớp cao học QLGD. Hà Nội 1996/2004.
14. Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Bài giảng môn khoa học Quản lý
lớp cao học QLGD, Khoa sư phạm ĐHQGHN (2006)
15. Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Sự phát triển các giai đoạn giáo dục
hiện đại, Khoa sư phạm ĐHQGHN (2001)


16. Phạm Khắc Chƣơng. Lý luận quản lý giáo dục đại cương. Trường ĐH Sư
Phạm Hà Nội 2005.
17. Đảng Công Sản Việt Nam, văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW
Đảng khoá VIII. Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII
về định hướng chiến lược phát triển GD&ĐT trong thời kì CNH-HĐH và nhiệm vụ
đến năm 2000. NXB chính trị QGHN 1996.
18. Đảng Công Sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
NXB chính trị QGHN 2001.
19. Đảng Công Sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
NXB chính trị QGHN 2006.
20. Đảng bộ thành phố Hà Nội. Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ
thành phố Hà Nội. Hà Nội 2006.

21. Đảng bộ Huyện Thạch Thất – Hà Nội. Văn kiện đại hội đại biểu huyện Thạch
Thất lần thứ XXI. Nhiệm kì 2005-2010
22. Vũ Cao Đàm. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. NXB khoa học và kĩ
thuật Hà Nội 2003.
23. Vũ Ngọc Hải - Tràn Khánh Đức. Hệ thống GD hiện đại trong những năm
đầu thế kỉ XX. NXBGD
24. Lê Ngọc Hùng. Xã hội hoá giáo dục. NXB lí luận chính trị 2002.
25. Phạm Minh Hạc. Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI. NXB
Chính trị Quốc gia. Hà Nội 1999.
26. Phạm Minh Hạc. Phát triển toàn diện con người trong thời kỳ công nghiệp
hóa hiện đại hóa. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001.
27. Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học 2008 – 2009, 2009 - 2010. Phòng Giáo
dục và Đào tạo huyện Thạch Thất – Hà Nội.
28. Mai Hữu Khuê. Tâm lý trong quản lý nhà nước. NXB Học viện Hành chính
Quốc gia. Hà Nội 1994.


29. Đặng Bá Lãm (chủ biên). Quản lý nhà nước về giáo dục lý luận và thực tiễn.
NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội 2005.
30. Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Những cơ sở lý luận giáo dục.
31. Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Nguyễn Quốc Trí. Giáo trình sự phát triển các quan
điểm giáo dục hiện đại. Khoa Sư phạm Đại học Quốc gia. Hà Nội 2002.
32. Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Nguyễn Quốc Trí (đồng chủ biên). Sự phát triển các giai
đoạn giáo dục hiện đại. Khoa sư phạm Đại học Quốc gia Hà Nội 2001.
33. Hồ Chí Minh. Tập 2, 6, 7, 12. NXB Sự Thật. Hà Nội 1980.
34. Nguyễn Ngọc Quang. Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo dục.
Trường bồi dưỡng cán bộ quản lý trung ương I, Hà Nội 2008.
35. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật giáo dục. NXB
Giáo dục. Hà Nội 2008.
36. T-AILinna. Giáo dục (tập 1). NXB Giáo dục Hà Nội. 1973.

37. Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 2 năm 1976.
38. Thủ tướng Chính phủ. Quy định số 161/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về một số chính sách phát triển Giáo dục Mầm Non. Hà Nội 2002.
39. Đinh Văn Vang. Một số vấn đề quản lý trường Mầm non. Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 1995.
40. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Đề án số 104/ĐA-UBND ngày 30/7/2009
của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào
tạo của thành phố Hà Nội giai đoạn 2009 – 2015.



×