MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội hóa giáo dục (XHHGD) là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII xác
định, XHH công tác giáo dục là “huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên
các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý
của Nhà nước”; Nghị quyết TƯ 2 khóa VIII xác định: “Đẩy mạnh XHHGD, coi
giáo dục là sự nghiệp của toàn dân là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát
triển giáo dục”. Thực tế, chủ trương này dựa trên quan điểm coi phát triển giáo
dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước đồng thời cũng là trách nhiệm, quyền lợi
của toàn dân.
Trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về giáo dục, chỉ thị, hướng dẫn của
Nhà nước, Bộ GD-ĐT đều khẳng định: Trong GD phải kết hợp GD nhà trường
với GD gia đình và GD xã hội. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã chỉ ra:
kết hợp GD nhà trường, GD gia đình và GD xã hội tạo nên môi trường GD lành
mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng đồng, từng tập thể.
Nghị quyết 90-CP của Chính phủ do Thủ tướng CP ký ngày 21-8-1997 đã
xác định khái niệm XHHGD như sau, đó là:
• Là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội
vào sự phát triển sự nghiệp giáo dục;
• Là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân và đảng
bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể
quần chúng, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp đóng tại địa phương và của
từng người dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế xã hội lành
mạnh thuận lợi cho hoạt động giáo dục;
• Là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật
lực và tài lực trong xã hội (kể cả từ nước ngoài); phát huy và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực này.
Đến nay, chủ trương XHHGD, trong đó có XHHGD đối với các trường
THCS đã trở thành một hoạt động, phong trào sâu rộng, được các cấp ủy Đảng,
Chính quyền các địa phương, các đoàn thể và đông đảo quần chúng nhân dân
hưởng ứng, ủng hộ.
1
Mục tiêu chính thông qua các hoạt động kêu gọi nguồn lực XHH là nhằm
huy động nguồn lực toàn xã hội tạo điều kiện cho GD cấp THCS phát triển và
nâng cao chất lượng.
Theo thống kê năm 2009, huyện Quốc Oai (Hà Nội) có diện tích 147 km.
Dân số 163.355 người. Huyện có 21 xã, thị trấn, với 12 dân tộc đang sinh sống;
trong đó, có 11 dân tộc thiểu số với 1.538 hộ, số dân là 5.443 người, chiếm 3,3
% dân số toàn huyện;
Năm 2011, huyện Quốc Oai đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 15% ; cơ cấu
kinh tế nông lâm nghiệp, thủy sản 26%; công nghiệp-xây dựng 42%; du lịch
dịch vụ 32%. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 10,5%, giải quyết việc làm cho
2.000 lao động trở lên và thu nhập bình quân đầu người/năm đạt 14 triệu đồng.
Từ khi sáp nhập với thủ đô Hà Nội vào tháng 8/2008, càng có nhiều điều kiện để
Quốc Oai đầu tư phát triển về cơ sở hạ tầng, chăm lo phát tiển văn hóa, giáo dục,
đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH địa phương.
Cùng với đó, đời sống văn hóa của nhân dân hết sức phong phú. Các hoạt
động văn hóa truyền thống, tinh thần đoàn kết cộng đồng, duy trì và phát huy
các nét đẹp truyền thống làng xã, dòng họ ngày càng được chú trọng và tăng
cường. Đặc biệt là truyền thống hiếu học, thi đua trong dòng họ, làng xã, các
trường (theo địa bàn) đã tạo nên một phong trào học tập, rèn luyện hiệu quả cao.
Có thể nói đây là thế mạnh, là điều kiện hết sức thuận lợi để thúc đẩy phát
triển sự nghiệp GD trên địa bàn, nhất là công tác XHHGD.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, các tác động của đời sống kinh tế thị
trường, cụ thể là tốc độ đô thị hóa; tình hình di dân tự nhiên; những chuyển biến
trong tư duy, nếp nghĩ, lối sống của người dân đã ảnh hưởng không nhỏ tới
phong trào XHHGD, nhất là ở cấp THCS.
Nhằm góp phần thúc đẩy công tác XHHGD nhất là đối với cấp học THCS
trên địa bàn huyện Quốc Oai hoạt động hiệu quả hơn nữa, tạo ra phong trào sâu
rộng và bền vững trong cộng đồng dân cư, tôi xây dựng đề tài luận văn: “Quản
lý công tác XHHGD đối với cấp THCS trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành
phố Hà Nội trong bối cảnh hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
2
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng, đề xuất các biện pháp
quản lý nhằm tăng cường công tác XHHGD đối với THCS trên địa bàn huyện
Quốc Oai, thành phố Hà Nội.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Vấn đề XHHGD đối với giáo dục THCS
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý tăng cường XHHGD đối với giáo
dục THCS trên địa bàn bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội trong bối
cảnh hiện nay.
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu.
- Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về XHHGD, thực trạng và các
biện pháp đẩy mạnh XHHGD cấp THCS trên địa bàn bàn huyện Quốc Oai,
thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
- Các biện pháp này dành cho Phòng GD-ĐT địa bàn huyện Quốc Oai,
thành phố Hà Nội.
5. Giả thuyết khoa học
XHHGD là một vấn đề tất yếu khách quan trong sự nghiệp phát triển GD-
ĐT của Đảng, Nhà nước và ngành GD- ĐT. Việc thực hiện công tác XHHGD
cấp THCS trên địa bàn huyện Quốc Oai trong thời gian qua đã đạt được những
kết quả đáng khích lệ, song còn nhiều khó khăn, nảy sinh nhiều bất cập. Nếu xây
dựng được hệ thống biện pháp quản lý phù hợp, đồng bộ đáp ứng yêu cầu thực
tiễn khách quan thì công tác XHHGD cấp THCS trên địa bàn huyện Quốc Oai,
thành phố Hà Nội sẽ đạt được kết quả tốt hơn.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về biện pháp quản lý tăng
cường công tác XHHGD và XHHGD đối với THCS.
6.2. Phân tích thực trạng công tác XHHGD đối với THCS trên địa bàn
huyện bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.
6.3. Xây dựng các biện pháp đẩy mạnh công tác XHHGD đối với THCS
trên địa bàn bàn huyện Quốc Oai trong giai đoạn hiện nay.
Trong nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài xác định nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu
là: nhiệm vụ phân tích thực trạng công tác XHHGD đối với THCS trên địa bàn
huyện bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phân tích, tổng hợp những vấn đề lý luận trong công tác XHHGD
3
- Hệ thống hoá, khái quát hoá các khái niệm, xác định bản chất của những
vấn đề nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
- Phương pháp trò chuyện
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm GD.
7.3. Phương pháp toán thống kê.
Trong phương pháp nghiên cứu, đề tài xác định phương pháp nghiên cứu
chủ yếu là:
- Phương pháp hệ thống hoá, khái quát hoá các khái niệm, xác định bản
chất của những vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và thư mục tài liệu tham khảo, luận
văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác xã hội hóa giáo dục trung học cơ
sở
Chương 2: Thực trạng xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở huyện Quốc
Oai, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Các biện pháp tăng cường xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở
huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA
GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Quá trình xuất hiện tư tưởng xã hội hóa giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội. Nó xuất hiện tồn tại cùng với sự phát
triển xã hội loài người. Trong quá trình đó giáo dục chịu sự chi phối của chính
nền KT - XH và ngược lại bằng việc thực hiện những chức năng của mình, giáo
dục có vai trò to lớn trong việc tái tạo sức lao động xã hội góp phần quan trọng
thúc đẩy xã hội phát triển. Mỗi chế độ xã hội tồn tại một nền giáo dục tương
ứng. Xã hội nào thì giáo dục ấy, không có nền giáo dục đứng ngoài xã hội hay
nền giáo dục chung cho mọi chế độ xã hội.
4
Tìm hiểu cách làm giáo dục của nhiều nước trên thế giới cho thấy, XHHGD
là cách làm giáo dục phổ biến và được đặc biệt coi trọng. Tuy hình thức và biện
pháp tổ chức các hoạt động XHHGD có khác nhau, nhưng xét về bản chất, các
nhà nước đều thực hiện chính sách tăng cường “Sự tham gia của cộng đồng vào
giáo dục”, tạo nhiều cơ hội để mọi người đều được hưởng thụ thành quả của
giáo dục và dành cho người học những điều kiện tốt nhất, hiệu quả cao nhất.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo. Dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào các bậc cha mẹ cũng mong muốn cho con cái mình
được học hành nên người. Truyền thống hiếu học ấy thể hiện ở chỗ nhân dân ta
rất coi trọng việc học, quý trọng thầy giáo và quan tâm đến công tác giáo dục thế
hệ trẻ. Nhìn về bản chất XHHGD không phải là một công việc hoàn toàn mới
mà thực chất đã có từ lâu, chúng ta đang cố gắng làm tốt hơn, hoàn thiện hơn,
nâng cao vai trò, hiệu quả của công tác XHHGD mà thôi. Điều đó đã được
chứng minh qua các thời kỳ lịch sử.
*Dưới thời phong kiến và Pháp thuộc (Trước 1945)
Trong nền giáo dục phong kiến, tồn tại hai loại hình trường: Trường công
và trường tư. Trong đó, Nhà nước chỉ quản lý trực tiếp đối với các trường công
ở kinh đô và một số ít trường công ở các tỉnh, phủ và huyện; trường công dành
cho con em các quan lại, các nhà chức trách và con cái nhà giàu. Trường tư phổ
biến ở các làng xã do nhân dân đóng góp xây dựng, tự hoạt động ngoài sự quản
lý của nhà nước phong kiến tập quyền. Việc nhân dân tự chăm lo cho con em
mình được học hành bằng cách kẻ ít người nhiều, kẻ góp công, người góp của
xây dựng trường, bồi dưỡng thầy giáo; cũng như việc động viên, cổ vũ, tôn vinh
người học thành đạt vốn là việc làm của nhân dân ta đã có từ thời xa xưa. Sự
chăm lo vật chất và động viên tinh thần cho người dạy và người học ấy đã nói
lên sự quan tâm của nhân dân ta đối với công tác giáo dục; hay nói một cách
khác XHHGD ở nước ta đã xuất phát từ truyền thống hiếu học và tôn sư trọng
đạo này.
*Thời kỳ trong và sau kháng chiến chống Pháp (1945-1975)
Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc Cách mạng tháng Tám
thành công. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước cách mạng non
trẻ ra đời đã phải tiếp quản di sản nền giáo dục thuộc địa do Thực dân Pháp đô
5
hộ sau 80 năm với nhiều khó khăn chồng chất: Ngân khố trống rỗng, sự khác
biệt trong chế độ giáo dục, hệ thống giáo dục giữa các vùng miền, đại bộ phận
dân chúng thất học với hơn 95% dân số mù chữ. Một tuần sau tuyên bố độc lập
Hồ Chủ Tịch ký Sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ nhằm xoá nạn mù chữ
cho dân. “Giặc dốt” được coi ngang giặc đói và ngoại xâm. Thời kỳ này chưa
có khái niệm về XHHGD, nhưng giáo dục phát triển với tốc độ chưa từng có.
Phong trào bình dân học vụ và xoá mù chữ diễn ra sôi nổi trong toàn quốc.
Người biết chữ dạy người không biết chữ, cơ sở vật chất tận dụng tất cả những
gì có thể, không phân biệt của nhà nước, tập thể hay của riêng. Phương tiện dạy
học không đợi sự đầu tư của Nhà nước kể cả chương trình dạy học biết đến đâu
dạy đến đó, thời gian học không phân biệt ngày đêm kể cả lúc đang làm, khi đi
chợ, lúc đi chơi Với tinh thần quan tâm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta,
ý thức trách nhiệm với một Nhà nước Cách mạng non trẻ, chỉ hơn một năm sau
(tính đến trước ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ) vấn đề xoá nạn mù chữ đã
cơ bản hoàn thành trong toàn quốc.
Trong suốt 9 năm kháng chiến trường kỳ chống Thực dân Pháp, Đảng ta
tiếp tục chủ trương “Vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Giáo dục vẫn tiếp tục
được quan tâm phát triển nhất là ở chiến khu Việt Bắc và vùng tự do. Chúng ta
đã thắng cả ba “giặc” giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Tạo nền móng vững
chắc cho nền giáo dục XHCN phát triển. Bài học thành công không thể không
kể đến việc huy động sức mạnh toàn dân.
Từ sau Cách mạng tháng Tám, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện hơn ba
lần cải cách giáo dục. Đặc biệt từ hội nghị Đảng toàn quốc lần thứ VII, giáo dục
được coi là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển.
Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước; phải mở rộng quy mô đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục. Giáo dục phải gắn chặt với yêu cầu phát triển KT - XH đất
nước, vừa phải phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại; thực hiện một nền giáo
dục thường xuyên, quan điểm học tập suốt đời là quyền lợi và trách nhiệm của
mỗi công dân.
* Thời kỳ đổi mới (Từ năm 1986 đến nay)
6
Với đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta bắt đầu chuyển mình để bước
sang một thời kỳ mới, thời kỳ đổi mới tư duy trên các lĩnh vực mà trước tiên là
đổi mới tư duy kinh tế với xu thế mở cửa. Hoàn cảnh khách quan và chủ quan đã
đặt ra nhiều thời cơ và thách thức mới đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam phải phát
triển với tốc độ cao, đạt tới trình độ phù hợp, đáp ứng nhu cầu phát triển KT -
XH của đất nước. Quan điểm đa dạng hóa, đa phương hóa trong giáo dục vốn có
được tiếp tục khơi dậy và nâng cao lên một tầm mới, giáo dục lấy lại sự ổn định
và phát triển. Sau khi đúc kết kinh nghiệm hơn 50 năm xây dựng nền giáo dục
nước nhà, XHHGD chính thức ra đời.
1.1.2. Tư tưởng xã hội hóa giáo dục của các nhà khoa học giáo dục
Cùng với chủ trương, đường lối; các văn kiện, nghị định, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước, nhiều nhà khoa học, nhà QLGD, cơ quan QLGD đã bàn luận
về công tác XHHGD. Giáo sư -Viện sỹ Phạm Minh Hạc đã viết nhiều tài liệu về
XHHGD. Ông đã khẳng định: “Xã hội hóa công tác giáo dục là một tư tưởng
chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường phát triển giáo
dục ở nước ta” [20;16]. “Sự nghiệp giáo dục không chỉ là của Nhà nước, mà là
của toàn xã hội, mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, Trung ương
và địa phương cùng làm giáo dục, tạo nên một cao trào học tập trong phong
trào toàn dân” [19; 330]
Giáo sư Phạm Tất Dong tác giả cuốn “Xã hội hóa công tác giáo dục” đã
nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác này, coi XHH là một khái niệm đã được
khẳng định trong thực tiễn đấu tranh của cách mạng Việt Nam, qua mỗi giai đoạn
lịch sử, khái niệm đó được phát triển thêm, nội hàm phong phú hơn. Ngay trong
lời giới thiệu cuốn sách “Những nhân tố mới về giáo dục trong công cuộc đổi
mới”, tác giả đã nhấn mạnh “Phát triển giáo dục theo tinh thần xã hội hóa”. Tư
tưởng XHHGD là một nhân tố mới đang được phát huy tối đa sức mạnh của nó.
Sự phát triển của sự nghiệp GD- ĐT, của từng đơn vị giáo dục chỉ đạt được kết
quả tốt đẹp khi nó thực sự là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Đây không phải
là giải pháp tình thế nhằm tháo gỡ khó khăn của một nước nghèo. Ngay khi chúng
7
ta đã đạt được mức tăng trưởng gấp nhiều lần so với hiện nay thì tư tưởng XHH
vẫn giữ những giá trị chủ đạo cơ bản.
Viện khoa học giáo dục nước ta nhiều năm qua đã triển khai hệ thống các
văn bản XHHGD: Tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận, đề xuất cơ chế
chính sách XHHGD Tập thể các tác giả Võ Tấn Quang, Bùi Gia Thịnh,
Nguyễn Thanh Bình của viện khoa học giáo dục đã xuất bản cuốn sách “Xã hội
hóa giáo dục - Nhận thức và hành động” vào năm 1999 là một bước hoàn thiện
về mặt lý luận và hướng dẫn thực tiễn. Nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Viện
khoa học giáo dục - năm 2001, cuốn sách “Xã hội hóa giáo dục” PGS - TS Vũ
Tấn Quang chủ biên cùng tập thể các tác giả Nguyễn Văn Đản, Nguyễn Thanh
Bình, Trần Kiểm, Lê Đức Phúc, Thái Duy Tuyên, Đào Huy Ngận đã khẳng định
XHHGD - một phương thức làm giáo dục nhằm xã hội hóa cá nhân và cá thể
hóa. Đây là một cuốn sách với ý nghĩa một chuyên khoa đã đề cập đến đặc trưng
của XHHGD ở các cấp học, bậc học và ở địa bàn nông thôn. BGD&ĐT đã có
“Đề án xã hội hóa giáo dục đào tạo”, đánh giá thực trạng và đưa ra giải pháp
XHHGD ở tầm vĩ mô, chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH - HĐH
những năm đầu của thế kỷ XXI.
Bàn về XHHGD ở các cấp độ các luận án Tiến sỹ và Thạc sỹ khoa học
giáo dục, có một số tác giả đã nghiên cứu vấn đề lý luận XHHGD và được cụ
thể hóa ở một số cấp học, bậc học và gắn với địa bàn cụ thể. Có thể kể đến các
tác giả như Hồ Hương, Nguyễn Nghĩa Dâu, Mai Đắc Lương, Hà Nhật Thăng
Nhưng nghiên cứu vấn đề XHHGD THCS trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành
phố Hà Nội, chúng tôi là những người đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu.
1.2. Cái khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
Quản lý là quá trình tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng nhằm điều
khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi hoạt động của con người để đạt
tới mục đích, đúng với ý chí của nhà quản lý và phù hợp với quy luật khách
quan. Trong quá trình phát triển của mình, tùy từng thời kỳ và điều kiện thì con
người có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý. Có quan niệm cho rằng quản lý
là cai quản, điều hành, điều khiển, chỉ huy, hướng dẫn, trọng tài.
8
Theo Các Mác: “Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào được
thực hiện ở quy mô tương đối lớn đều cần ở chừng mực nhất định đến sự quản
lý. Quản lý là xác lập sự tương hợp giữa các công việc cá nhân và hình thành
những chức năng chung, xuất hiện trong toàn bộ cơ chế sản xuất, khác với sự
vận động của bộ phận riêng lẻ của nó” [34,tr.195].
Frederics Wiliam Taylor - Mỹ (1856-1915) cho rằng: “Quản lý nghệ thuật
biết rõ ràng, chính xác cái gì cần phải làm và làm cái đó như thế nào, bằng
phương pháp tốt nhất, rẻ nhất” [32,tr.89].
Các nhà nghiên cứu Việt Nam, xuất phát từ góc độ khác nhau cũng đưa ra
những khái niệm quản lý. Hà Thế Ngữ quan niệm: “Quản lý là một quá trình
định hướng ” [33,tr.24]. Nguyễn Văn Lê quan niệm: “Quản lý là khoa học
và nghệ thuật” [33, tr.5]. Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Quản lý” về bản chất bao
gồm quá trình “Quản” và quá trình “Lý”. Quản là coi sóc, giữ gìn nhằm ổn định
hệ thống. Lý là thanh lý, xử lý, biện lý, sửa sang, chỉnh đốn nhằm làm cho hệ
thống phát triển. Hệ ổn định mà không phát triển tất yếu dẫn đến suy thoái. Hệ
phát triển mà thiếu ổn định dẫn đến rối ren.
Một xã hội, một tổ chức hay một cộng đồng muốn phát triển tốt, trước hết
phải có một cơ chế quản lý tốt. Cơ chế ấy phải chi phối và tác động vào mọi lĩnh
vực hoạt động của hệ thống tổ chức, xã hội và làm cho nó vận động theo chiều
hướng tích cực mà chủ thể quản lý đã định hướng từ trước.
1.2.2.Quản lý giáo dục
Thuật ngữ QLGD cũng được các học giả nêu ra với nhiều khái niệm:
Tác giả M.I. Konđacôp cho rằng: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ
thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau trên tất cả các mắt xích của hệ thống nhằm mục đích bảo đảm việc hình
thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy
luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em”
[15,tr.243].
Đặng Quốc Bảo cho rằng “QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều
hành, phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy công tác đào tạo thế hệ
trẻ theo yêu cầu của xã hội” [17,tr.38].
9
Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang đã nêu: “QLGD là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ
vận hành theo đường lối nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện các tính chất
của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy
học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng
thái mới về chất” [34, tr.35].
QLGD là quá trình tác động của chủ thể quản lý và toàn bộ hoạt động của
GD nhằm thúc đẩy GD phát triển theo mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã xác
định. QLGD được biểu hiện thông qua quản lý mục tiêu đào tạo, chương trình
đào tạo, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học, quản lý đội
ngũ cán bộ, giáo viên, quản lý người học và chất lượng GD- ĐT.
Vì bản chất của GD mang tính XHH cao nên QLGD cũng mang tính xã hội.
Thực tế cho thấy không có ngành nào chịu mối quan hệ tác động qua lại hai
chiều Giáo dục - Xã hội nhạy cảm và sâu sắc như GD - ĐT. Vì thế, QLGD chịu
sự chi phối của xã hội rất lớn.
Như vậy, QLGD là hệ thống các tác động có mục đích, có kế hoạch nhằm
đạt mục tiêu GD đề ra. QLGD là quản lý quá trình hoạt động dạy và học bao
gồm quản lý tất cả các thành tố của hoạt động dạy - học, do đó những tác động
của nó lên hệ thống là những tác động kép, nhằm tạo ra một sức mạnh tổng
hợp, chủ thể quản lý phải chú ý đến mối quan hệ quản lý dạy và học trong hoạt
động GD, quan hệ giữa các cấp quản lý, quan hệ giữa nội bộ và bên ngoài; các
vấn đề kỹ năng, phong cách, chiến lược, ưu tiên trong quản lý QLGD có quy
mô và cấp độ đa dạng phức tạp, tầng nấc, thứ bậc, lại nhiều yếu tố cấu trúc
khác nhau và chịu sự tác động của các yếu tố khách quan luôn vận hành và
tương tác trong mối quan hệ đa dạng, phức tạp, nhưng lại theo quy luật.
[34,tr.310].
1.2.3. Xã hội hóa
Khái niệm xã hội hóa được dùng trong nhiều lĩnh vực khác nhau:
XHH trước hết là sự vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân
dân, của toàn xã hội và sự phát triển sự nghiệp văn hóa - xã hội nhằm từng bước
10
nâng cao mức hưởng thụ về GD, y tế, văn hóa, và sự phát triển về thể chát và
tinh thần cho nhân dân.
XHH là sự xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân với
việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho
các hoạt động văn hóa - xã hội.
XHH là một quy luật diễn ra trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Xã hội càng
phát triển thì càng cần XHH, tuy nhiên khi xã hội phát triển thì phương thức
XHH cũng phát triển.
XHH là mở rộng nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân tài, vật lực
trong xã hội, phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo
điều kiện cho các hoạt động GD, y tế, văn hóa phát triển nhanh hơn, có chất
lượng hơn, là chính sách lâu dài, là phương châm thực hiện chính sách xã hội
của Đảng và Nhà nước. “Thực chất XHH là một quá trình tham gia rộng rãi của
các tổ chức xã hội, gia đình và cá nhân vào thực hiện một hoạt động nhất định
nào đó mà hoạt động này trước khi bị XHH chỉ có một loại chủ thể” [16,tr.9].
Theo Lê Quốc Hùng: “XHH là việc Nhà nước huy động mọi cá nhân và tổ
chức tham gia thực hiện một số dịch vụ công cộng trên cơ sở có sự kiểm tra,
giám sát chặt chẽ của Nhà nước, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân và giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước” [29,tr.17].
Như vậy, “Bản chất cho XHH là cách làm, cách thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng bằng con đường giác ngộ, huy động và tổ chức sự tham gia
của mọi người dân, mọi lực lượng xã hội; tạo ra sự phối hợp liên ngành một
cách có kế hoạch dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Nhà nước, làm cho
việc giải quyết các vấn đề xã hội thực sự là của dân, do dân và vì dân” [35,tr.7].
XHH không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước giảm bớt phần
ngân sách của Nhà nước mà trái lại là nhà nước tìm thêm các nguồn thu để tăng
tỷ lệ ngân sách cho các hoạt động này đồng thời quản lý tốt các nguồn thu để
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó.
1.2.4. Xã hội hóa giáo dục
XHHGD là quá trình giáo dục tham gia hòa nhập vào xã hội, đồng thời xã
hội tiếp nhận giáo dục như là công việc của chính mình trong đó mọi cá nhân,
đoàn thể, tổ chức bộ máy đều có trách nhiệm tham gia. XHHGD có tác động
11
tích cực đến quá trình XHH con người, XHH cá nhân. Ở đây cần hiểu đúng
thuật ngữ "Xã hội hóa giáo dục”. Bản thân giáo dục là một quá trình xã hội, nó
mang tính xã hội rất rõ. Nói XHHGD ở đây được hiểu XHH các hoạt động giáo
dục. XHHGD thể hiện trên hai phương diện: Mọi người có nghĩa vụ chăm lo
cho giáo dục và giáo dục là nhằm mục đích phục vụ con người, tạo điều kiện để
mọi người ở mọi độ tuổi, mọi vùng miền được quyền đi học, học thường xuyên,
học suốt đời, tiến đến một XHHT.
Hai phương diện đó có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau, đồng thời
cùng phối hợp thực hiện. Trong đó, XHH quyền lợi giáo dục là đỉnh cao, là
mục tiêu, là cốt lõi của XHHGD. Hiện nay, chúng ta vẫn lấy tiêu chí mọi người
có nghĩa vụ chăm lo cho giáo dục để đánh giá thành quả của XHHGD chính là
vì điều kiện KT - XH chưa cho phép thực hiện tốt ngay yêu cầu thứ hai.
Cần có sự phân biệt tính chất xã hội của giáo dục với XHHGD. Nếu không
có định hướng rõ ràng thì bản thân hoạt động giáo dục vẫn có tính xã hội nhưng
không đạt tới trình độ XHH đích thực theo ý nghĩa xã hội và nhân văn của nó.
Cần xác định rõ ràng: XHHGD nói ở đây thuộc phương thức, phương châm,
cách tổ chức và quản lý giáo dục.
Thực tế còn tồn tại hai quan niệm về công tác XHHGD:
Quan niệm 1 Quan niệm 2
Là huy động tiền của trong
nhân dân nhằm giảm nhẹ
gánh nặng cho Nhà nước.
Là cuộc vận động lớn trong xã hội với sự
tham gia đóng góp của các tổ chức, cá nhân
và toàn xã hội.
Nhà nước và nhân dân cùng
làm giáo dục.
Tập thể, các tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn
thể, cơ quan, đơn vị và quần chúng có sự
cộng đồng trách nhiệm trong GD.
Là trách nhiệm của ngành
giáo dục, của các nhà trường.
Là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân,
trong đó ngành GD là nòng cốt.
Là tăng cường nguồn lực
ngân sách Nhà nước cho GD.
Là đa dạng hóa các nguồn đầu tư: nhân lực,
vật lực, tài lực, trí lực cho GD.
Là phát triển loại hình chính
quy, công lập.
Là phát triển đa dạng các loại hình GD: Công
lập, dân lập, tư thục.
Mọi người đều được có trách
nhiệm, nghĩa vụ chăm lo đến
Mọi người đều có trách nhiệm đối với sự phát
triển của sự nghiệp GD vừa có quyền lợi
12
sự phát triển sự nghiệp giáo
dục của đất nước.
được thụ hưởng những thành quả do GD
mang lại.
Mọi người đều được học tập. Mọi người đều được học tập, học thường
xuyên, học suốt đời; tiến tới một XHHT
Là giải pháp tình thế trong
hoàn cảnh đất nước còn nghèo,
kinh phí đầu tư cho giáo dục
còn hạn hẹp.
Là tư tưởng chiến lược và phương thức tất
yếu để phát triển sự nghiệp giáo dục.
Là sự tham gia của liên ngành và cộng đồng,
là con đường để thực hiện dân chủ hóa và
công bằng GD nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống.
Như vậy, XHHGD trước hết phải được hiểu là một sự nghiệp rộng lớn, đầy
trách nhiệm và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, đoàn thể, các tổ
chức kinh tế, xã hội và toàn dân chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo không
những chỉ đối với thế hệ trẻ mà đối với tất cả mọi công dân Việt Nam không
phân biệt già, trẻ, nam, nữ, giầu, nghèo, dân tộc, cương vị, vị trí xã hội và dù ở
đâu (thành thị, nông thôn, vùng núi, hải đảo, các vùng khó khăn xa xôi hẻo
lánh ) ai ai muốn học, muốn học gì, muốn học bằng cách nào, học như thế nào
phù hợp với hoàn cảnh, năng lực của mình nhất, cũng được tạo điều kiện tốt
nhất có được để học. XHHGD nhằm xây dựng một xã hội mà trong đó mọi
người dân đều được hưởng sự công bằng, bình đẳng, công khai, dân chủ thực sự
trong học tập, thông qua XHHGD để xây dựng một xã hội học tập suốt đời. Mục
tiêu quan trọng và cuối cùng của XHHGD chính là xây dựng một nền giáo dục-
đào tạo thực sự của dân, do dân và vì dân. [23;343]
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa giáo dục
Trải qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, XHHGD ở nước
ta đã có những bước phát triển mới; nhất là từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra
đời lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công, quan điểm giáo dục của Đảng
và Bác Hồ khởi xướng và dấy lên nhiều phong trào học tập rầm rộ. Khẩu hiệu
“Diệt giặc dốt” và sắc lệnh thành lập "Nha bình dân học vụ” đã mở đầu cho nền
giáo dục của dân, do dân và vì dân. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
giáo dục là một bộ phận của Cách mạng, do đó giáo dục cũng là sự nghiệp của
13
quần chúng. Đáp ứng lời kêu gọi diệt giặc dốt của Bác Hồ và Chính phủ, phong
trào học tập được nhân dân hưởng ứng sôi nổi, phong trào lan ra rộng khắp từ
thành thị đến nông thôn, đâu đâu cũng có người đi học, đâu đâu cũng có các lớp
xóa nạn mù chữ. Tư tưởng giáo dục của Hồ Chủ Tịch có tính thuyết phục cao và
đem lại hiệu quả to lớn. Hình thức tổ chức dạy - học được thực hiện theo khẩu
hiệu hành động “Người biết chữ dạy người chưa biết chữ, người biết nhiều dạy
người biết ít”. Ai biết chữ đều có thể tham gia dạy bình dân học vụ. Quan điểm
giáo dục của Đảng và Bác Hồ đã thực sự đi vào lòng dân và đã khơi dậy được
truyền thống hiếu học của dân tộc, tạo nên một sức mạnh tổng hợp vượt qua mọi
khó khăn thử thách để “Ai cũng được học hành”. Từ đấy Đảng và nhân dân ta đã
ý thức sâu sắc lời Bác dạy: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm phải trồng người”. Tuy ở trong hoàn cảnh đất nước với nhiều khó khăn, thử
thách, Đảng và nhân dân ta đang phải cùng một lúc đương đầu với nhiều thứ
giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm nhưng nền giáo dục Việt Nam do Bác
Hồ khởi xướng đã phát triển một bước khá dài và mạnh mẽ, huy động được sự
đóng góp to lớn của toàn xã hội.
Ngày11/11/1979, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 14 - NQ/TW về cải
cách giáo dục và đã xác định phương châm “Phối hợp những cố gắng đầu tư
của Nhà nước với sự đóng góp của nhân dân, của các nghành, các cơ sở sản
xuất và sức lao động của thầy và trò trong việc xây dựng trường sở, phòng thí
nghiệm, xưởng trường, vườn trường”.
Bộ GD&ĐT có Quyết định số 124/QĐ-BGD & ĐT về việc thành lập
HĐGD ở các cấp và Quyết định ngày 9/12/1981 của Bộ Giáo dục ban hành điều
lệ tổ chức và hoạt động của HĐGD các cấp chính quyền ở địa phương.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 khoá VII đó nhấn mạnh:
“Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn cho giáo dục, nhưng vấn đề quan trọng là
phải quán triệt sâu sắc và tiến hành tốt việc xã hội hóa những nguồn đầu tư, mở
rộng phong trào xây dựng, phát triển giáo dục trong nhân dân, coi giáo dục là
sự nghiệp của toàn xã hội” [5; 11]
Như vậy chủ trương XHHGD chính thức trở thành một trong những quan
điểm để hoạch định hệ thống các chính sách xã hội trong xây dựng và phát triển
14
sự nghiệp giáo dục. XHHGD đã trở thành một cuộc vận động rộng lớn toàn xã
hội, toàn dân tham gia công tác giáo dục. Nếu như trước đây vì quá nhấn mạnh
đến chức năng tư tưởng và văn hóa của giáo dục, nên giáo dục chỉ được quan
niệm là một bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng và văn hóa, hoặc do chưa
đánh giá đúng mức vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển, nên
giáo dục chỉ được xem là phúc lợi xã hội, thì nay giáo dục được xem là "quốc
sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Do đó, "Giáo dục
là sự nghiệp lâu dài của nhân dân, sẽ phát triển không ngừng với nguồn lực to
lớn của nhân dân”.[8]
Công tác XHHGD là một chủ trương rất đúng đắn của Đảng và Nhà nước
ta nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan, đó là khắc phục cơ chế quản lý tập trung,
quan liêu, bao cấp đã lỗi thời, bảo đảm cho GD-ĐT phát triển theo đúng bản
chất xã hội và các quy luật vốn có của nó. XHHGD cũng chính là giải pháp
mang ý nghĩa chiến lược nhằm thực hiện đổi mới trong lĩnh vực giáo dục. Đây
là một trong những lý do cần nghiên cứu để thấy được tính ưu việt của công tác
XHHGD, góp phần thực hiện các mục tiêu giáo dục của Đảng là: "Nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước”. Mặt khác, cũng
phải thấy rằng, cần phải đẩy mạnh XHHGD nhằm khuyến khích, huy động và
tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục, tạo cơ hội cho mọi
người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường xuyên, học suốt đời, tiến
tới một XHHT.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của BCH TW khóa VIII đã chính thức đề
cập đến nội dung của công tác XHHGD: “Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn cho
giáo dục nhưng vấn đề rất quan trọng là phải quán triệt sâu sắc và tiến hành tốt
các nguồn đầu tư, mở rộng phong trào xây dựng, phát triển giáo dục trong nhân
dân, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội… Phải coi đầu tư cho giáo dục là
một trong những hướng chính của đầu tư phát triển… Phải coi đầu tư cho phát
triển là một trong những hướng chính, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và
phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo
dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân
15
dưới sự quản lý của của Nhà nước.” Hội nghị khẳng định:“Giáo dục - đào tạo là
sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân”. [8; 61]
Ngày 21/ 8/1997 Chính phủ đã có Nghị quyết 90/NQ - CP về XHHGD, y tế
và văn hóa. Theo Nghị quyết này ở nước ta phải tạo ra một phong trào sâu rộng
với nhiều hình thức cho mọi người trong toàn xã hội. Toàn dân, các ngành phải
có trách nhiệm cao với giáo dục, chăm sóc thế hệ trẻ, huy động toàn xã hội tham
gia xây dựng môi trường thuận lợi cho phát triển giáo dục. Toàn xã hội có trách
nhiệm tham gia vào quá trình GD & ĐT; huy động mọi lực lượng tham gia vào
quá trình đa dạng hóa các hình thức học tập và loại hình nhà trường; huy động
nhiều nguồn lực đầu tư cho GD & ĐT.
Tiếp đến ngày 19/ 8/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 73/1999/ NĐ -
CP về chính sách khuyến khích XHH đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, y tế, văn hóa, thể thao. Trong đó nói rõ một số những ưu tiên cần thiết cho
XHH GD&ĐT về cơ sở vật chất, đất đai; về thuế, phí, lệ phí; về tín dụng; về bảo
hiểm, về quản lý tài chính và khen thưởng.
Văn kiện Đại hội IX (2001), Đảng ta tiếp tục khẳng định “Nhà nước ta
dành tỷ lệ thích đáng, kết hợp đẩy mạnh xã hội hóa phát triển giáo dục - đào
tạo. Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho giáo dục - đào tạo.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phát triển giáo dục - đào tạo” yêu cầu “Tăng
cường đầu tư cho giáo dục từ ngân sách Nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa giáo
dục - đào tạo” [9; 204].
Ngày 18/4/2005, Chính phủ ban hành Nghị quyết 05/2005/NQ - CP đẩy
mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục: “Thực hiện xã hội hóa giáo dục nhằm hai
mục tiêu lớn: thứ nhất là phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy
động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục , thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã
hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo được hưởng thụ thành quả
giáo dục ở mức độ ngày càng cao”
Tại điều 12, chương I, luật giáo dục năm 2005 qui định về XHHGD: "Phát
triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn
dân. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực
hiện đa dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích,
huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp
16
giáo dục. Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp
giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh và an toàn”.[ 27;14]
Tổng kết 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X ngày 19/4/2006 khẳng định: GD&ĐT cùng với khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy CNH - HĐH đất nước.
Nâng cao CLGD toàn diện, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”,
chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Đề cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường
và xã hội Phát triển giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Thực hiện
XHHGD. Huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự
nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành giáo dục với các ban ngành, các tổ
chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp để mở mang giáo dục, tạo điều kiện
học tập cho mọi thành viên trong xã hội.
Hệ thống quan điểm của Đảng và các chính sách Nhà nước ta về XHHGD
thực chất là khẳng định tư tưởng chiến lược của Đảng trong quá trình phát triển
GD-T. Quá trình đó đã chứng minh rằng, XHHGD không phải là giải pháp tình
thế khi nền kinh tế đất nước còn khó khăn, điều kiện đầu tư cho giáo dục còn
hạn hẹp, mà là một chủ trương chiến lược lâu dài, xuyên suốt toàn bộ quá trình
phát triển giáo dục, ngay cả đến khi nước ta phát triển thành một nước công
nghiệp, có thu nhập quốc dân cao gấp nhiều lần so với hiện nay.
1.4. Công tác XHHGD đối với THCS trong sự nghiệp giáo dục đào tạo
1.4.1. Phương thức XHHGD đối với giáo dục THCS
XHHGD THCS là một phương thức để thực hiện tốt các mục tiêu GD
THCS, góp phần hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam, đáp
ứng yêu cầu CNH - HĐH đất nước. Để làm được điều này, XHHGD THCS phải
huy động được toàn thể xã hội tham gia vào quá trình giáo dục dưới sự quản lý
thống nhất của nhà nước. Việc giáo dục học sinh THCS là nhiệm vụ chung của
ngành GD, của cả gia đình và cộng đồng. GDTHCS phải đáp ứng nhu cầu xã
hội, cộng đồng, đảm bảo mọi học sinh đều được tham gia học tập ở các loại hình
giáo dục khác nhau.
17
XHHGD THCS là góp phần nâng cao chất lượng GDTHCS, tạo ra sự công
bằng, dân chủ trong hưởng thụ và trách nhiệm xây dựng GDTHCS; đồng thời
khai thác tối ưu các tiềm năng xã hội tham gia vào xây dựng, phát triển hệ thống
trường, lớp và các loại hình GDTHCS, khắc phục những khó khăn của quá trình
phát triển GDTHCS. XHHGD THCS sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của
Nhà nước, phát huy truyền thống của dân tộc.
XHHGD THCS là một bộ phận XHHGD nói chung.Vì vậy, cần có sự nhìn
nhận xem xét vấn đề XHHGD THCS trong giai đoạn hiện nay đang bị chi phối
bởi các yếu tố như: Kinh tế, xã hội, văn hóa; nhận thức của nhân dân về giáo dục
THCS, về XHHGD; yếu tố giáo viên - học sinh, điều kiện thực hiện Những yếu
tố này có quan hệ chi phối, tác động, chế ước lẫn nhau trong quá trình thực hiện
XHHGD THCS .
1.4.2. Đặc trưng xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở
GDTHCS góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Xét về các
loại hình giáo dục thì so với các bậc học, ngành học khác giáo dục THCS mang
tính xã hội cao, nó đòi hỏi giáo dục về thể chất, trí tuệ cho học sinh. Nó là điều
tất yếu của giáo dục - cộng đồng và xã hội, là truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
của mọi người dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho thế hệ trẻ. Vì vậy phải thực
hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục học sinh THCS trên cơ sở một sự
phát triển đa dạng và ổn định, phải đổi mới phương pháp giảng dạy bằng những
cải cách cơ bản và toàn diện. Đó là sự cố gắng đầu tư và tăng cường sự tham gia
của toàn xã hội chăm lo cho GDTHCS.
Trẻ em ở lứa tuổi nào cũng là đối tượng quan tâm của nhiều ngành (giáo
dục, y tế, uỷ ban dân số - gia đình - trẻ em, phụ nữ ), nhiều lực lượng (gia đình,
nhà trường, các LLXH), nhiều chương trình cùng đồng thời thực hiện việc chăm
sóc, giáo dục học sinh nên việc tham gia vào GDTHCS là một trong những
nhiệm vụ của các ngành, các lực lượng xã hội, phải tiếp cận quan điểm đa ngành
mới đảm bảo cho việc thực hiện tốt các mục tiêu GD THCS.
GDTHCS có nhiều loại hình, nhiều chương trình mang tính XHH cao như:
Các hình thức trường THCS công lập, dân lập, tư thục Nên việc huy động các
18
lực lượng tham gia vào XHHGD THCS có nhiều điều kiện thuận lợi, nhất là việc
thực hiện đa dạng hóa các loại hình, đa phương hóa các nguồn lực.
GDTHCS phát triển phụ thuộc vào sự quan tâm của cấp uỷ Đảng, chính
quyền địa phương và nhận thức của nhân dân. Chính vì vậy để thực hiện có hiệu
quả XHHGD THCS cần quán triệt các vấn đề sau: Cộng đồng hóa trách nhiệm,
đa dạng hóa các loại hình GDTHCS; đa phương hóa thu hút các nguồn lực cho
GDTHCS; thể chế hóa thành các quy định, chế tài về nghĩa vụ, trách nhiệm của
các LLXH đối với việc tham gia GDTHCS.
1.4.3. Vai trò xã hội hóa giáo dục đối với trung học cơ sở
1.4.3.1. Xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục
XHHGD chính là nhằm mục tiêu: Mọi người làm giáo dục, giáo dục cho
mọi người, từ đó tạo ra một XHHT, góp phần nâng cao dân trí. Từ nền tảng dân
trí này mới có thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực quý giá cho đất
nước và địa phương. Trên nền tảng dân trí, nguồn nhân lực để phát hiện và bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước, không thể có được nguồn nhân lực chất lượng cao,
đủ sức đảm đương các nhiệm vụ CNH- HĐH đất nước vào thời điểm năm 2020,
nếu như ngày hôm nay thiếu sự quan tâm lứa tuổi THCS . Con đường có hiệu
quả là “Thiết chế nhà trường” mà ở nước ta độ tuổi này thuộc vào hệ thống
GDTHCS .
XHHGD THCS huy động được các nguồn lực cho GDTHCS phát triển.
Việc huy động các lực lượng XH tham gia vào giáo dục góp phần tạo nên những
chuyển biến căn bản về chất lượng giáo dục. Thông qua XHHGD THCS mà
cộng đồng có thể tham gia vào việc cụ thể hóa mục tiêu giáo dục cho phù hợp
với yêu cầu của địa phương và cộng đồng. Các lực lượng XH có thể tham gia
vào việc cải tiến nội dung và phương pháp giáo dục, tham gia xây dựng môi
trường giáo dục trong sạch, lành mạnh, tham gia trực tiếp vào việc giáo dục học
sinh THCS. Chính XHHGD THCS đã tạo nên những điều kiện vật chất để nâng
cao chất lượng giáo dục THCS, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ
chức quá trình giáo dục nhà trường.
19
XHHGD THCS ngoài việc tạo điều kiện để phát huy hiệu quả của lực
lượng lao động hiện tại trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật
đồng thời tạo tiền đề để phát triển nguồn nhân lực cho tương lai đất nước. Để
nâng cao CLGD THCS, một trong những phương pháp quan trọng là
XHHGDTHCS. Quy hoạch về phát triển KT - XH ở địa phương sẽ quy định
phương hướng và mục tiêu phát triển giáo dục ở địa phương đó, kế hoạch giáo
dục, trong đó có GDTHCS, phải nằm trong kế hoạch phát triển KT-XH, đáp ứng
những yêu cầu của việc hình thành lớp người có phẩm chất và năng lực phục vụ
cho sự phát triển KT-XH của địa phương. GDTHCS là bậc học phổ cập, XHHGD
có vai trò rất lớn trong việc thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục THCS trên từng
địa bàn.
1.4.3.2. Xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở, khai thác được tối ưu tiềm năng
của xã hội, khắc phục những khó khăn của quá trình phát triển giáo
dục
Từ những vấn đề đang đặt ra cho GDTHCS, phương hướng phát triển
GDTHCS trong giai đoạn mới là tiếp tục củng cố duy trì, từng bước phát triển
về quy mô các loại hình trường, lớp. Tiếp tục đổi mới chương trình GD phổ
thông để ngày càng nâng cao CLGD học sinh, chất lượng nguồn nhân lực.
XHHGD THCS sẽ mang lại nguồn lực phục vụ cho mọi hoạt động của
GDTHCS. Huy động các nguồn lực và đa dạng hóa các nguồn lực là tính đến
một phạm vi rất rộng rãi bao gồm: Nguồn lực vật chất (nhân lực, vật lực, tài
lực), nguồn tinh thần (sáng kiến kinh nghiệm, góp ý tư vấn), nguồn lực vừa có ý
nghĩa vật chất và tinh thần (thông tin và công nghệ thông tin). Những nguồn lực
này sẽ góp phần giải quyết được mâu thuẫn, khắc phục những khó khăn của quá
trình phát triển GDTHCS.
Ở đây, chúng ta cần lưu ý rằng, huy động các nguồn lực của xã hội không
có nghĩa là khoán trắng cho xã hội, ngược lại xã hội không được khoán trắng
cho Nhà nước. XHHGD THCS không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm và vai
trò của Nhà nước. Trái lại, Nhà nước phải tăng cường đầu tư ngân sách cũng
như tăng cường quản lý Nhà nước đối với giáo dục.
20
1.4.3.3. Xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý Nhà nước, phát huy truyền thống giáo dục của dân tộc
Mọi chủ trương đường lối, văn bản pháp quy chỉ trở thành hiện thực khi
được quần chúng nhận thức đúng đắn và thực hiện đầy đủ. Từ chủ trương
“Chăm lo phát triển giáo dục trung học cơ sở, mở rộng các loại hình trường,
lớp trên mọi địa bàn dân cư…” đến những nhiệm vụ cụ thể được đề ra trong
chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2020, "Về việc đa dạng hóa các loại hình
trường công lập, dân lập, tư thục theo quy mô khác nhau để khai thác nguồn
lực, phát triển các hình thức tuyên truyền phổ biến các hoạt động giáo dục cho
toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu giáo dục cho nhân dân; phải được nhân dân hiểu,
đồng tình, ủng hộ và tích cực tham gia thì các chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ
mới được thực hiện, công tác quản lý nhà nước mới thực sự có hiệu lực và hiệu
quả” [13].
XHHGD nói chung và XHHGD THCS nói riêng là chủ trương phù hợp với
truyền thống dân tộc và nguyện vọng của nhân dân. XHHGD THCS là điều
kiện phát huy truyền thống dân tộc, tạo ra sự chỉ đạo hành động thống nhất toàn
xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Tóm lại thực hiện XHHGD THCS sẽ góp phần khắc phục được những khó
khăn, giải quyết những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát triển GDTHCS.
Qua đó càng thấy rõ vai trò, tầm quan trọng của việc thực hiện XHHGD THCS
trong giai đoạn hiện nay.
1.4.3.4. Xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở sẽ tạo ra sự công bằng, dân chủ
trong hưởng thụ và trách nhiệm xây dựng phát triển giáo dục
Thực hiện tốt XHHGD THCS có ý nghĩa là xây dựng được cộng đồng trách
nhiệm của mọi LLXH. Như vậy XHHGD THCS là phương thức quan trọng để
thực hiện công bằng xã hội trong phát triển GDTHCS. Công bằng xã hội thể
hiện ở việc đa dạng hóa các hình thức học tập, các loại hình trường, lớp mở rộng
cơ hội cho mọi thành phần kinh tế, cho mọi tầng lớp nhân dân chủ động và bình
đẳng tham gia vào các hoạt động GDTHCS. Công bằng trong GD THCS chính
là việc hưởng thụ một cách công bằng những phúc lợi giáo dục, làm cho mọi
học sinh được hưởng lợi các dịch vụ giáo dục, có cơ hội được học tập bình đẳng
21
như nhau. Ngoài ra nó còn thể hiện nghĩa vụ cống hiến cho GD THCS theo khả
năng thực hiện của từng người, từng cộng đồng và địa phương. Nghị quyết lần
thứ IV Ban chấp hành TW Đảng khóa VII chỉ rõ: “Thực hiện công bằng trong
giáo dục người đi học, đóng học phí, người sử dụng đào tạo đóng góp chi phí
cho đào tạo, có chính sách bảo đảm cho người nghèo và các đối tượng chính
sách đều được đi học” [5; 62].
Dân chủ hóa giáo dục là một chủ trương lớn trong đường lối giáo dục của
Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện dân chủ hóa GDTHCS là nhằm xoá bỏ tính
khép kín của hệ thống giáo dục và trường học, để học sinh có cơ hội được
hưởng mọi quyền lợi về giáo dục và để mọi người dân có thể thực hiện quyền
làm chủ với sự nghiệp giáo dục. Dân chủ hóa quá trình GDTHCS là dân chủ hóa
việc thực hiện mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện đánh giá
GDTHCS, thực hiện dân chủ của người dạy và người học.
XHHGD THCS là tạo điều kiện cho các lực lượng XH, gia đình và cộng
đồng phát huy tinh thần dân chủ, thực hiện quyền và trách nhiệm đối với các
hoạt động GDTHCS như quyền tham gia, hưởng thụ lợi ích GDTHCS
XHHGD THCS đã đưa hệ thống giáo dục nhà trường thoát khỏi tình trạng
khép kín của một thể chế, trở thành sự nghiệp của toàn xã hội, tạo điều kiện
thuận lợi để các thành phần dân cư trong xã hội đóng góp về mọi mặt cho sự
nghiệp GD-ĐT. Làm tốt XHHGD THCS thì các lực lượng, các tổ chức chính
phủ và phi chính phủ, các nhà hảo tâm với giáo dục, các tổ chức quốc tế, với gia
đình, gia tộc và cộng đồng cùng hỗ trợ nâng cao CLGD. Với cách thức đó sẽ
đạt được những mục tiêu dân chủ hóa trong GDTHCS.
1.5. Nội dung XHHGD đối với GD THCS
1.5.1. Nhà trường phục vụ xã hội, làm cho xã hội, cộng đồng hưởng lợi cao
nhất về giáo dục
Trường học là cơ quan chuyên trách việc đào tạo con người mới của xã hội.
Tất nhiên, con người từ khi sinh ra và lớn lên, được giáo dục ở mọi nơi, mọi lúc,
từ trong gia đình cho đến tất cả các cơ sở giáo dục, văn hóa, kinh tế, các tổ chức
quần chúng, ở các khu phố, thôn xóm Song, trường học được tổ chức và hoạt
động theo một mục đích xác định, với một mội dung giáo dục được chọn lọc và
22
xắp xếp hệ thống, với những phương pháp giáo dục có cơ sở khoa học và đã
được kiểm nghiệm trong thực tiễn, với những nhà sư phạm đã được trang bị đầy
đủ về kiến thức khoa học và trau rồi về mặt phẩm chất đạo đức, với những
phương tiện và điều kiện giáo dục ngày một hoàn thiện, với một quá trình đào
tạo được tổ chức liên tục trong một thời gian dài khoảng 10 - 15 năm, có vị trí
và tác dụng quan trọng hơn cả, to lớn hơn cả.
Nhà trường giáo dục kiến thức phổ thông làm cơ sở cho hình thành kiến
thức, kỹ năng, dạy học sinh học cách học; đồng thời đem lại kiến thức cho mọi
người, trước hết là cho thế hệ trẻ, sau nữa là cho mọi người dân, cho xã hội.
Một trong những nguyên lí giáo dục của nhà trường là kết hợp giáo dục với
lao động sản xuất. Sự kết hợp này được thực hiện trong mọi hoạt động giáo dục,
trong tất cả các môn học, trong tất cả các mặt giáo dục nhằm hình thành ở người
học một nhân cách người lao động XHCN.
Trong thời kì văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp (văn minh tin học)
với xu hướng toàn cầu hóa nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, sự phát triển
các hình thái KT - XH diễn ra liên tục với tốc độ ngày càng nhanh, công nghệ
thông tin phát triển mạnh mẽ khi kinh tế tri thức xuất hiện (khoa học trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp). Hơn lúc nào hết nhà trường phục vụ xã hội, lúc
này giáo dục không chỉ coi là phúc lợi đơn thuần, mà còn được coi là cơ sở hạ
tầng, là nhân tố hàng đầu đối với sự phát triển KT - XH của một quốc gia. Lúc
này trí tuệ được coi là lợi thế cạnh tranh trong quan hệ kinh tế, việc học tập trở
thành xu hướng chủ đạo trong đời sống xã hội. Vì những lí do trên giáo dục nhà
trường phải thực hiện được mục tiêu dân trí, nhân lực, nhân tài. Giáo dục trong
nhà trường đặt cơ sở ban đầu cho việc chiếm lĩnh tri thức, chủ yếu là phát triển
năng lực nhận thức và hành động để người học thích ứng và tự phát triển trong
cuộc sống. Tăng cường tính nhân văn trong giáo dục. Nhà trường đã phục vụ
cho người học với mục đích là "Học để biết, học để làm, học để cùng chung
sống và học để tự khẳng định mình” (theo UNESCO). Như vậy nhà trường qua
hoạt động giáo dục làm cho người học, cho xã hội tăng chất lượng cuộc sống,
tăng chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng đòi hỏi của xã hội và sự phát triển của
cá nhân. Nhà trường tạo cơ sở cho người học khi rời ghế nhà trường thích ứng
23
nhanh và vững vàng trước thách thức của nền kinh tế thị trường mở cửa và hội
nhập, chủ động giải quyết có hiệu qủa các vấn đề trong cuộc sống.
Nhà trường với phương pháp giáo dục là chuyển giáo dục, dạy học từ
phương thức áp đặt lấy người dạy làm trung tâm sang phương thức lấy người
học làm trung tâm, đặc biệt dạy cho người học năng lực tự học để người học có
thể tự học mọi nơi, mọi lúc, học suốt đời. Và như vậy nhà trường trở thành hệ
thống mở trong cộng đồng với phương thức giáo dục cho mọi người, mọi người
cho giáo dục. Nhà trường là vầng trán của cộng đồng trở thành nhân lõi xây
dựng XHHT.
Để thực hiện chức năng xã hội, nhà trường đào tạo các thế hệ trẻ theo yêu
cầu (theo “đơn đặt hàng”) của xã hội. Nhà trường là nơi chuyển giao kinh
nghiệm xã hội, nơi điều chỉnh giá trị hành vi, thái độ, niềm tin của các thế hệ
học sinh phù hợp với chuẩn mực xã hội. Mặt khác, nhà trường thực hiện quá
trình giáo dục theo phương thức hai chiều: Đó là nhà trường mở để tận dụng
nguồn lực cộng đồng trong quá trình giáo dục; chiều ngược lại - với tri thức và lực
lượng của mình gắn hoạt động giáo dục của nhà trường với đời sống cộng đồng,
phát huy tác dụng là trung tâm văn hóa khoa học kỹ thuật trong cộng đồng. Nội
dung giáo dục nhà trường được chọn lọc đảm bảo tính cơ bản, hệ thống. Đây là
nội dung được chọn lọc trong kho tàng văn hóa nhân loại. Đó là hệ thống kiến
thức khoa học, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, kiến thức về phương
pháp hoạt động sáng tạo và kiến thức về thái độ đối với hiện thực. Nội dung giáo
dục trong nhà trường đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có
hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân; kế thừa phát huy
truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại.
Nhà trường có trách nhiệm chủ động phối hợp với gia đình và xã hội để thực
hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục [ 27; 69]. Đồng thời nhà trường phải coi mình
như là đối tượng của XHHGD và là trung tâm của XHHGD địa phương. Do vậy
muốn thực hiện XHHGD thành công nhà trường phải là một bộ phận của địa
phương và cộng đồng, các hoạt động của nhà trường phải phục vụ mục tiêu KT -
XH của địa phương. Từng nhà trường phải là một bộ phận của cộng đồng và phát
24
huy tốt chức năng của mình, từ phương hướng đến mục tiêu hành động cụ thể của
nhà trường đều có sự tham gia đóng góp của địa phương, biến những yêu cầu của
ngành thành những nhu cầu và mục tiêu của địa phương trong đó phản ánh đáp
ứng yêu cầu địa phương.
Trong quá trình thực hiện XHHGD ở địa phương, các tổ chức quan tâm làm
công tác giáo dục cùng nhà trường ngược lại nhà trường cũng phải thực hiện
những chức năng xã hội của mình: Chức năng kinh tế sản xuất, chính trị, văn
hóa - xã hội theo hướng đã được địa phương đề ra. Trong thực tế xã hội không
chỉ riêng công tác giáo dục là thực hiện XHH mà nhiều hoạt đông khác như y tế,
văn hóa, thể dục thể thao, các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh
thần XHH. Trong các công việc XHH đó nhà trường không thể đứng ngoài mà
phải thực sự tham gia vào cuộc. Trong quá trình thực hiện XHHGD nhà trường,
ngành giáo dục muốn duy trì, phát triển các hoạt động từ phối hợp đến kết hợp,
hợp tác, phải đảm bảo nguyên tắc “bình đẳng”, nguyên tắc “lợi ích”.
Nhà trường là một thiết chế giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân do
Nhà nước quản lí, là cơ quan chuyên trách giáo dục có tính chuyên môn cao. Do
vậy, trước hết nhà trường phải đem lại cho địa phương một trữ lượng văn hóa
cần thiết, nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo nguồn nhân lực là trung tâm văn
hóa giáo dục của địa phương, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, tham gia tích cực
vào các hoạt động của các cơ quan ban ngành đoàn thể trong địa phương.
1.5.2. Các lực lượng xã hội cùng tham gia thực hiện mục tiêu, nội dung giáo
dục trung học cơ sở
XHHGD THCS là một phương thức để thực hiện tốt mục tiêu GDTHCS.
Để làm được điều này, XHHGD THCS phải huy động được toàn xã hội tham
gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình giáo dục.
Trẻ em là đối tượng quan tâm của nhiều ngành, nhiều lực LLXH, nhiều
chương trình. Vì vậy việc huy động các LLXH tham gia vào quá trình giáo dục
là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết, đảm bảo cho việc thực hiện
được mục tiêu GDTHCS. Cộng đồng địa phương và các bậc cha mẹ hoàn toàn
có khả năng góp phần cụ thể hóa mục tiêu giáo dục phổ thông vừa phù hợp với
địa phương và đáp ứng nguyện vọng các gia đình. Song tham gia như thế nào
25