Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

LVThs giai phap nang cao hieu qua quan tri rui ro tin dung tai vietinbank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1021 KB, 86 trang )


 

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1

Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại:

Theo nghị định 59/2009/NĐ-CP ban hành ngày 16/07/2009 về tổ chức và hoạt
động của Ngân hàng định nghĩa như sau : “Ngân hàng thương mại là ngân hàng
được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác có liên
quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước.
Hoạt động của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng phân tích, khai thác nội dung
của định nghĩa đó, có thể hiểu các NHTM đều là những trung tâm tài chính mà hoạt
động chủ yếu và thường xuyên của chúng là : Nhận tiền ký thác – tiền gửi không kỳ
hạn và có kỳ hạn để làm phương tiện thanh toán và sử dụng vào các nghiệp vụ cho
vay dưới nhiều hình thức khác nhau và thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác nhau
cho chính ngân hàng.
Từ việc nghiên cứu về đặc điểm hoạt động kinh doanh của các NHTM nói trên
có thể nhận thấy rằng, rủi ro luôn gắn liền với từng nghiệp vụ trong hoạt động của
NHTM. Đa số các nhà kinh tế thống nhất với nhau quan niệm về rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của NHTM là “ những biến cố không mong đợi xảy ra và gây tổn
thất đối với ngân hàng”. Mức độ và tính chất rủi ro khác nhau sẽ gây ra những hậu
quả không giống nhau song đều rất nguy hại bởi những tác động đến uy tín của


ngân hàng và khả năng lan truyền. Việc tìm hiểu về các loại rủi ro, nguyên nhân và
hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh doanh sẽ trả lời cho chúng ta câu hỏi tại sao



 

phải quản trị và nâng cao năng lực quản trị rủi ro của NHTM nói chung và quản trị
rủi ro trong hoạt động tín dụng nói riêng.
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM có thể phân chia thành nhiều
loại tuỳ theo tiêu thức lựa chọn và mục đích nghiên cứu bao gồm : Rủi ro tín dụng,
rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp. Trong đó, rủi ro tín dụng là
một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh hưởng nghiêm trọng đến
chất lượng kinh doanh ngân hàng
1.2 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM
1.2.1 Khái quát về tín dụng.
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay
(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và
các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, vốn huy
động để cấp tín dụng.
Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các dịch vụ khác.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho
khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định
theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
1.2.2 Khái niệm về rủi ro tín dụng

Theo tài liệu “Financial Institution Management – A Modern Perpective”, A.
Saunder và H.Lange định nghĩa rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng



 

cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các nguồn thu nhập dự tính
mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về cả số
lượng và thời hạn.
Theo Timothy W.Koch: Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lời, rủi ro xảy
ra khi khách hàng sai hẹn – có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn gốc và lãi
theo thỏa thuận. Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá
khi khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn.
Theo khoản 1 Điều 2 Quy định về phân loại nợ , trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban
hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước, rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động
ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Các định nghĩa khá đa dạng nhưng tập trung lại chúng ta có thể rút ra các nội
dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau :
Rủi ro tín dụng là biến cố xảy ra khi người vay sai hẹn(defaut) trong thực hiện
nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm gốc và/hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ
hạn(delayed payment) hoặc không thanh toán(nonpayment).
Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và
giảm giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua
lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản.
Đối với các nước đang phát triển (như ở ViệtNam), các ngân hàng thiếu đa
dạng trong kinh doanh các dịch vụ tài chính, các sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn,

vì vậy tín dụng được coi là dịch vụ sinh lời chủ yếu và thậm chí gần như là duy
nhất, đặc biệt là đối với các ngân hàng nhỏ. Vì vậy rủi ro tín dụng cao hay thấp sẽ
quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.



 

Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác suất, là khả năng,
do đó có thể xảy ra hoặc không xảy ra tổn thất. Điều này có nghĩa là một khoản vay
dù chưa quá hạn nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn thất, một ngân hàng có
tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ rất cao nếu danh mục đầu tư
tín dụng tập trung vào một nhóm khách hàng, ngành hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Cách hiểu này sẽ giúp cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng được chủ động trong
phòng ngừa, trích lập dự phòng, đảm bảo chống đỡ và bù đắp tổn thất khi rủi ro xảy
ra.
1.2.3 Phân loại rủi ro tín dụng:
Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tuỳ theo mục đích, yêu cầu
nghiên cứu. Tuỳ theo tiêu chí phân loại mà người ta chia rủi ro tín dụng thành các
loại khác nhau.
1.2.3.1 Nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng
được phân chia thành các loại sau đây:

 

 Rủi ro
tín dụng

 
 

 
 

   Rủi ro
giao dịch

 

     Rủi ro
danh mục

 
  
  Rủi ro
lựa chọn

  Rủi ro
bảo đảm

   Rủi ro
nghiệp vụ

Rủi ro
nội tại

Sơ đồ 1 : Phân loại rủi ro tín dụng theo nguyên nhân phát sinh

  Rủi ro
tập trung




 

Theo sơ đồ trên, căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng được chia thành 2
loại là rủi ro giao dịch( transaction risk) và rủi ro danh mục (Porfolio risk) :
− Rủi ro giao dịch là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát
sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá
khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận:
+ Rủi ro lựa chọn đây là rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá phân tích
tín dụng khi ngân hàng lựa chọn phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định
cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm là rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các
điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, cách
thức đảm bảo và mức cho vay trên trị giá của tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và
hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật
xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
− Rủi ro danh mục : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của Ngân hàng,
được phân chia thành hai loại : Rủi ro nội tại (Intrinsic) và rủi ro tập trung
(Conventration risk).
+ Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính
riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất
phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá
nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong




 

cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc
cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2.3.2 Nếu căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng, rủi ro tín dụng
được phân chia thành các loại sau:
− Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn (rủi ro đọng vốn) : Khi thiết lập mối
quan hệ tín dụng, ngân hàng và khách hàng phải quy ước về khoản thời gian hoàn
trả nợ vay. Tuy nhiên đến thời hạn mà ngân hàng vẫn chưa thu hồi được vốn vay,
những tổn thất xảy ra trong trường hợp này người ta gọi đó là rủi ro không hoàn trả
nợ đúng hạn.
− Rủi ro do không có khả năng trả nợ: là rủi ro xảy ra trong trường hợp
doanh nghiệp đi vay đã mất khả năng chi trả. Do vậy ngân hàng phải thanh lý tài
sản của doanh nghiệp để thu nợ.
− Rủi ro tín dụng không giới hạn ở hoạt động cho vay mà bao gồm các hoạt
động khác mang tính chất tín dụng của ngân hàng như bảo lãnh, cam kết, chấp
thuận tài trợ thương mại, cho vay thị trường liên ngân hàng, chứng khoán có giá,
trái quyền, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ…
™Ngoài ra, còn có nhiều hình thức phân loại khác như phân loại căn cứ theo
cơ cấu các loại hình rủi ro, theo nguồn gốc hình thành, đối tượng sử dụng vốn
vay….
1.2.4 Đặc điểm của rủi ro tín dụng
Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng có hiệu quả, nhận biết các đặc điểm
của rủi ro tín dụng rất cần thiết và hữu ích. Rủi ro tín dụng có những đặc điểm cơ
bản sau:
− Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp : Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng
chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách




 

hàng gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn; Hay nói cách khác
những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ yếu
gây nên rủi ro tín dụng của ngân hàng
− Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: Đặc điểm này biểu hiện ở
sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của rủi ro tín dụng do đặc
điểm của ngành tài chính kinh doanh tiền tệ. Do đó, khi phòng ngừa và xử lý rủi ro
tín dụng phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát từ nguyên nhân bản chất và
hậu quả do rủi ro tín dụng đem lại để có biện pháp phòng ngừa thích hợp.
− Rủi ro tín dụng có tính tất yếu tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại : tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân
hàng không thể nắm bắt đựơc các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều
này làm cho bất cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng. Kinh
doanh ngân hàng thực chất là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và đạt được lợi
nhuận tương ứng.
1.2.5 Những căn cứ chủ yếu xác định mức độ rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng quyết định chất lượng tín dụng, thông thường để đánh giá
chất lượng tín dụng của NHTM người ta thường dùng chỉ tiêu nợ quá hạn và kết
quả phân loại nợ.
1.2.5.1 Phân loại nợ xấu (Bad debt)
Nợ xấu là một trong những vấn đề luôn làm đau đầu các nhà quản trị ngân
hàng. Theo tiêu chuẩn quốc tế, “nợ xấu” là những khoản nợ quá hạn 90 ngày mà
không đòi được và không được tái cơ cấu. Tại Việt Nam, nợ xấu bao gồm những
khoản nợ quá hạn có hoặc không thể thu hồi, nợ liên quan đến các vụ án chờ xử lý
và những khoản nợ quá hạn không được Chính phủ xử lý rủi ro.



 


Dư nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =

--------------------- × 100%
Tổng dư nợ cho vay

Nợ xấu là khoản nợ có các đặc trưng cơ bản sau đây:
− Khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết
đã hết hạn
− Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có
khả năng ngân hàng không thu hồi được cả gốc lẫn lãi.
− Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất 90 ngày
Nợ xấu được phân chia thành nhiều nhóm mục đích giúp các nhà quản trị ngân
hàng dễ quản lý, kiểm soát và đề ra phương pháp xử lý khác nhau cho từng nhóm
tương ứng. Theo quyết định 149/QĐ-TTg ngày 05/01/2005 thì nợ xấu có thể chia
thành 3 nhóm:
− Nhóm 1 : Nợ xấu có tài sản đảm bảo, gồm có : nợ tồn đọng ngân hàng đã
thu giữ tài sản dưới hình thức gán, xiết nợ; nợ tồn đọng ngân hàng chưa thu giữ tài
sản nợ có tài sản liên quan đến vụ án chờ xét xử, nợ có tài sản đảm bảo đã quá hạn
trên 360 ngày.
− Nhóm 2 : Nợ xấu không có tài sản đảm bảo và không có đối tượng để thu,
gồm có : nợ xoá thiên tai chưa có nguồn và còn hạch toán nội bảng; nợ khoanh
doanh nghiệp đã giải thể, phá sản, nợ khoanh do thiên tai của hộ sản xuất…
− Nhóm 3 : Nợ xấu không có tài sản đảm bảo nhưng con nợ vẫn còn tồn tại,
đang hoạt động, gồm có: nợ khoanh doanh nghiệp khó thu hồi; nợ tín dụng chính
sách còn khả năng thu hồi; nợ quá hạn trên 360 ngày.




 

Ngoài ra còn có nhóm nợ phát sinh sau ngày 31/12/2000, là những khoản nợ
không thu được nhưng không đủ điều kiện để khoanh, xoá.
Một tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu thấp hơn 3% được coi là nằm trong giới
hạn cho phép, khi tỷ lệ nợ xấu vượt quá mức quy định thì tổ chức tín dụng đó phải
xem xét, rà soát lại danh mục đầu tư của mình một cách đầy đủ, chi tiết và thận
trọng hơn.
1.2.5.2 Phân loại nợ quá hạn ( Non- performing loan)
Nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được
phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ.
Dư nợ quá hạn
Hệ số nợ quá hạn =

--------------------- × 100%
Tổng dư nợ

Theo quy định của NHNN theo nội dung Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
ngày 22/04/2005 và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của
Thống đốc NHNN thì TCTD thực hiện phân loại nợ thành 5 nhóm như sau:
− Nhóm 1 : (Nợ đủ tiêu chuẩn), bao gồm :
+ Các khoản nợ trong hạn và TCTD đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ
cả gốc và lãi đúng hạn;
+ Các khoản quá hạn dưới 10 ngày và TCTD đánh giá có khả năng thu hồi
đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại;
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 1 theo quy định
− Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm :


10 

 

+ Các khoản nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày;
+ Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn lần đầu;
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 2 theo quy định
− Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm :
+ Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
+ Các khoản nợ gia hạn tới hạn trả nợ lần đầu;
+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả
năng thanh tóan lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 3 theo quy định
− Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm :
+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần thứ 2;
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 4 theo quy định
− Nhóm 5 ( Nợ có khả năng mất vốn ) bao gồm :
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở
lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
+ Các khoản nợ cơ cấu lần thứ 2 quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu
lần thứ 2;


11 
 

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 3 trở lên;
+ Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;

+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 5 theo quy định.
Bên cạnh đó, quy định này cũng nêu rõ, thời gian thử thách để phân loại lại
các khoản nợ vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn là 6 tháng đối với các khoản nợ trung
dài hạn và 3 tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày khách hàng trả đầy đủ
gốc và lãi của khoản vay bị quá hạn hoặc khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ.
Và toàn bộ dư nợ của khách hàng tại các TCTD được phân vào cùng một nhóm nợ
ví dụ : khách hàng có hai khoản nợ trở lên tại các TCTD mà có bất kỳ khoản nợ nào
đựơc phân vào nhóm có rủi ro cao hơn các khoản nợ còn lại thì toàn bộ các khoản
nợ còn lại của khách hàng phải được TCTD phân vào nhóm nợ có độ rủi ro cao nhất
đó.
1.2.5.3 Mức độ an toàn vốn
Tỷ lệ an toàn vốn ( Capital Adequacy Ratio – CAR) là một chỉ tiêu quan
trọng phản ánh năng lực tài chính của các NH. Chỉ tiêu này được dùng để xác định
khả năng của NH trong việc thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với
các rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành.
CAR =[(Vốn cấp I+Vốn cấp II)/(Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)]*100%
Đây cũng là một trong 5 tiêu chuẩn quan trọng nhất mà các NHTM phải đáp
ứng để đảm bảo hoạt động, theo định hướng quản lý rủi ro của NHNN theo từng
thời kỳ ( 4 tiêu chuẩn còn lại bao gồm yêu cầu vốn tự có, tỷ lệ khả năng chi
trả(thanh khoản), giới hạn cho vay và bảo lãnh thương mại, giới hạn sử dụng vốn
ngắn hạn cho vay trung, dài hạn)
Theo điều 4 quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN, các tổ chức tín dụng, trừ chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, đều phải duy trì tối thiều 8% giữa vốn tự có so với


12 
 

tổng tài sản có rủi ro- theo đúng tiêu chuẩn Basel I do Ủy ban giám sát các ngân
hàng Basel ban hành. Tuy nhiên, trên thế giới, việc áp dụng hệ số an toàn vốn tối

thiểu hiện phổ biến theo tiêu chuẩn Basel II với mức 12%.
1.2.5.4 Hệ số rủi ro tín dụng
Tổng dư nợ cho vay
Hệ số rủi ro tín dụng = ---------------------

× 100%

Tổng tài sản có

Hệ số này cho thấy tỷ trọng của các khoản mục tín dụng trong tài sản có,
khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời
rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được
chia thành 3 nhóm:
Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản cho
vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đây là
khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho vay
có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng.
Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những khoản
cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại cho ngân
hàng là vừa phải.
1.2.6 Đo lường rủi ro tín dụng:
Một trong những tính chất cơ bản của tài chính hiện đại là tính rủi ro, và vì
vậy tất cả các mô hình tài chính hiện đại đều được đặt trong môi trường rủi ro. Do
đó, cần thiết phải có một khái niệm rủi ro theo quan điểm lượng và phải xây dựng


13 
 


công cụ để đo lường nó. Có thể sử dụng nhiều mô hình khác nhau để đánh giá rủi ro
tín dụng. Các mô hình này rất đa dạng bao gồm các mô hình định lượng và mô hình
định tính. Các mô hình này không loại trừ lẫn nhau, nên ngân hàng có thể sử dụng
nhiều mô hình để phân tích đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng.
1.2.6.1 Mô hình định tính về rủi ro tín dụng- Mô hình 6C
Đối với mỗi khoản vay, câu trả lời đầu tiên của ngân hàng là liệu khách hàng
có thiện chí và khả năng thanh toán khi khoản vay đến hạn hay không? Điều này
liên quan đến việc nghiên cứu chi tiết “6 khía cạnh -6C” của khách hàng bao gồm:
− Tư cách người vay (Character) : CBTD phải chắc chắn rằng người vay
có mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi đến hạn.
− Năng lực của người vay (Capacity) : Người đi vay phải có năng lực pháp
luật và năng lực hành vi dân sự, người vay có phải là đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp.
− Thu nhập của người vay (Cashflow) : Xác định nguồn trả nợ của khách
hàng vay.
− Bảo đảm tiền vay (Collateral) : là nguồn thu thứ hai có thể dùng để trả
nợ vay cho ngân hàng.
− Các điều kiện (Conditions) : ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo
chính sách tín dụng từng thời kỳ.
− Kiểm soát (control) : đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của luật
pháp, quy chế hoạt động, khả năng khách hàng đáp ứng các tiêu chuẩn của ngân
hàng.
Tóm lại, các ngân hàng luôn mong đợi cho tất cả các khách hàng có chất
lượng vay tiển, và cho vay luôn là chức năng kinh tế cơ bản của các ngân hàng,


14 
 


nhưng đồng thời cũng chứa đựng tiềm ẩn rủi ro cao. Để có thể kiểm soát được rủi ro
tín dụng, thì chức năng cho vay của ngân hàng phải được thực hiện một cách chặt
chẽ nhằm tuân thủ chính sách và thực hành tín dụng của ngân hàng. Ngoài ra, để
kiểm soát rủi ro tín dụng, các ngân hàng thường xây dựng một “chính sách tín
dụng” và “quy trình nghiệp vụ cấp tín dụng”.
Việc sử dụng mô hình này tương đối đơn giản, song hạn chế của mô hình này
là nó phụ thuộc vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu nhập, khả năng dự
báo cũng như trình độ phân tích, đánh giá của CBTD.
1.2.6.2 Các mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng:
Mô hình định tính được xem là mô hình cổ điển để đánh giá rủi ro tín dụng.
Mô hình này ngày nay được xem là mất thời gian, tốn kém, lại mang tính chủ quan.
Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đều tiếp cận phương pháp đánh giá rủi ro hiện đại
hơn, đó là việc xây dựng mô hình thích hợp để lượng hoá mức độ rủi ro của khách
hàng, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn tối đa với một
khách hàng cũng như trích để trích lập dự phòng rủi ro. Sau đây là các mô hình
được áp dụng tương đối phổ biến:
™ Mô hình điểm số Z :
Đây là mô hình do E.I.Alman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh
nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại RRTD đối
với người vay và phụ thuộc vào:
(i) chỉ số các yếu tố tài chính của người vay- X;(ii) tầm quan trọng của các chỉ
số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ, mô hình
được mô tả như sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 +3,3X3 + 0,6X4 +0,1X5(1)
Trong đó :


15 
 


X1 : tỷ số “ vốn lưu động ròng/ tổng tài sản”
X2: tỷ số “ lợi nhuận tích luỹ / tổng tài sản”
X3 : tỷ số “ lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản”
X4: tỷ số “ thị giá cổ phiếu/ giá trị ghi sổ của nợ dài hạn”
X5 : tỷ số “ doanh số/ tổng tài sản”
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi trị
số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ
vỡ nợ cao.
Z<1,8 : khách hàng có khả năng rủi ro cao.
1,8Z>3 : khách hàng không có khả năng vỡ nợ
Bất kỳ công ty nào có điểm số Z<1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi
ro tín dụng cao.
Ưu điểm : Kỹ thuật đo lường rủi ro tín dụng tương đối đơn giản.
Nhược điểm :
Mô hình này chỉ cho phép phân loại nhóm khách hàng vay có rủi ro và không
có rủi ro. Tuy nhiên trong thực tế mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của mỗi khách
hàng khác nhau từ mức thấp như chậm trả lãi, không trả lãi được cho đến mức mất
hoàn toàn cả vốn và lãi của khoản vay.
Không có lý do thuyết phục để chứng minh rằng các thông số phản ánh tầm
quan trọng của các chỉ số trong công thức là bất biến. Tương tự như vậy, bản thân
các chỉ số được chọn cũng không phải là bất biến, đặc biệt khi các điều kiện kinh
doanh cũng như điều kiện thị trường tài chính đang thay đổi liên tục.


16 
 

Mô hình không tính đến một số nhân tố khó định lượng nhưng có thể đóng
một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến mức độ của các khoản vay (danh tiếng của

khách hàng, mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng hay các yếu tố vĩ
mô như sự biến động của chu kỳ kinh tế).
™ Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Ngoài mô hình điểm số Z, nhiều ngân hàng còn áp dụng mô hình cho điểm để
xử lý đơn xin vay của người tiêu dùng như : mua xe hơi, trang thiết bị gia đình, bất
động sản….Các yếu tố quan trọng trong mô hình cho điểm tín dụng bao gồm : hệ số
tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện
thoại cố định, tài khoản cá nhân, thời gian làm việc.
Mô hình này thường sử dụng 7-12 hạng mục, mỗi hạng mục được cho điểm từ
1-10
Ưu điểm : mô hình loại bỏ được sự phán xét chủ động trong quá trình cho vay
và giảm đáng kề thời gian ra quyết định tín dụng.
Nhược điểm : mô hình không thể tự điều chỉnh một cách nhanh chóng để
thích ứng với những thay đổi trong nền kinh tế và cuộc sống gia đình.
™ Mô hình xác định giá trị rủi ro tới hạn – (VAR)
Giá trị tới hạn (VAR) là một thước đo về tổng mức rủi ro trong một danh mục
các tài sản tài chính cho các nhà quản trị cao cấp.
Khi sử dụng thước đo giá trị rủi ro tới hạn, nhà quản trị tính cho một danh mục
tài sản của một tổ chức tài chính theo cách như sau:
“Chúng ta có X% chắc chắn rằng chúng ta sẽ không mất nhiều hơn V đồng
trong vòng N ngày tới”


17 
 

Biến số V là giá trị rủi ro tới hạn của danh mục tài sản. Đó là một hàm số gồm
2 biến: N biểu diễn trục thời gian nằm ngang, và X là mức độ tin tưởng. Có nghĩa là
nhà quản trị tin rằng mức độ thua lỗ trong vòng N ngày với mức chắc chắn X%
không vượt quá một mức rủi ro xác định V.

Nếu tính vốn của ngân hàng theo mức rủi ro của thị trường, thì các nhà quản
lý sẽ sử dụng N=10 ngày và X=99. Điều này có nghĩa là họ tập trung vào mức thua
lỗ trong thời gian 10 ngày mà nó được hy vọng rằng không vượt quá 1%. Vốn mà
họ yêu cầu của ngân hàng duy trì ít nhất gấp 3 lần giá trị rủi ro tới hạn này.
Nhìn chung khi N ngày là quãng thời gian nghiên cứu biểu diễn theo trục nằm
ngang và X% là mức độ chắc chắn thì Var là giá trị khoảng lỗ tương ứng với (100X%) theo quy luật phân phối chuẩn về mức độ biến động giá trị của danh mục trong
vòng N ngày tới. Ví dụ khi N=5 và X=97, có nghĩa là 3% theo quy luật phân phối
chuẩn sẽ là mức độ biến động giá trị danh mục trong vòng 5 ngày tới.
Giá trị rủi ro tới hạn là một thước đo về rủi ro thay thế tốt nhất. Một số nhà
nghiên cứu đã tranh luận rằng Var có thể giúp nhà quản trị chọn lựa được một danh
mục các khoản cho vay có phân phối thu nhập như nhau nhưng tiềm năng rủi ro cao
hơn.
Trong điều kiện Việt Nam mô hình điểm số tín dụng thường được sử dụng do
có nhiều ưu điểm như đơn giản, nhanh chóng, phản ánh khá toàn diện.
Nhưng dù sao thì việc nghiên cứu các mô hình có thể cho phép chúng ta thực
hiện đánh giá rủi ro tốt hơn trong công tác quản trị rủi ro tín dụng hiện nay.
1.2.7 Hậu quả của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng luôn tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và đã
gây ra những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã
hội của quốc gia, và lan rộng trên phạm vi toàn cầu.


18 
 

1.2.7.1

Đối với nền kinh tế :

Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính, có chức năng huy động vốn

nhàn rỗi để cho vay lại, nên khi có rủi ro tín dụng xảy ra thì chẳng những ngân
hàng bị thiệt mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng. Vả lại, khi một
ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng sẽ có tác động dây chuyền, làm cho toàn bộ hệ
thống ngân hàng gặp khó khăn.
Khi uy tín của ngân hàng giảm sút, hệ thống ngân hàng không còn khả năng
thực hiện chức năng trung gian tài chính thì sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, dẫn đến thất nghiệp. Hơn nữa, sự đổ vỡ của ngân
hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế, làm cho nền kinh tế bị suy
thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp và xã hội mất ổn định,…
1.2.7.2

Đối với ngân hàng

Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và
lãi cho vay, nhưng vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền khi đến hạn, gây mất cân đối
thu chi, vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho Ngân hàng kinh doanh không hiệu
quả, chi phí tăng.
Từ đó, bắt buộc phải thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút,
uy tín, sức cạnh tranh giảm không những đối với thị trường nội địa mà còn lan rộng
sang các nước, kết quả kinh doanh của Ngân hàng ngày càng xấu có thể dẫn đến
thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực phá sản nếu không có biện pháp xử lý, khắc phục kịp
thời.
Tóm lại, RRTD của một ngân hàng xảy ra sẽ ảnh hưởng ở các mức độ khác
nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi phải trích lập dự phòng, không
thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn gốc và lãi
vay, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng
này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm


19 

 

trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi
hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích
hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay
1.2.8 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Có 4 nguyên nhân cơ bản gây nên rủi ro tín dụng: đó là nguyên nhân khách
quan từ môi trường bên ngoài, từ phía khách hàng, nguyên nhân do chính ngân
hàng và nguyên nhân từ các đảm bảo tín dụng tạo nên.
1.2.8.1 Nguyên nhân khách quan từ môi trường bên ngoài:
Nguyên nhân bất khả kháng: Các thiệt hại từ nguyên nhân thiên tai, bão lụt,
hạn hán và động đất. Những thay đổi về nhu cầu của người tiêu dùng hoặc về kỹ
thuật một ngành công nghiệp có thể làm sụp đổ cả cơ nghiệp của một hãng kinh
doanh và đặt người đi vay từng làm ăn có lãi vào thế thua lỗ. Một cuộc đình công
kéo dài, việc giảm giá để cạnh tranh hoặc việc mất một người quản lý giỏi có thể
làm thiệt hại nghiêm trọng đến khả năng chi trả tiền vay của người đi vay.
Thông tin không cân xứng: Thông tin không cân xứng trên thị trường tài chính
dẫn đến sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đã đặt các ngân hàng trước nguy
cơ rủi ro cao.
Môi trường kinh tế: Có ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của người đi vay và
thiệt hại hay thành công đối với ngừơi cho vay.
Nguyên nhân do chính sách của Nhà nước: Trong điều kiện kinh tế mở cửa
dưới nhiều hình thức và phương tiện, những biến động lớn về kinh tế chính trị trên
thế giới có ảnh hưởng đến các quan hệ kinh tế đối ngoại của một nước mà biểu hiện
là cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái….biến động đến sự biến động của giá cả hàng
hoá xuất nhập khẩu, lãi suất, mức cầu tiền tệ…..


20 
 


Môi trường pháp lý: Cùng với môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên
môi trường cho vay của các ngân hàng thương mại. Môi trường cho vay có thể ảnh
hưởng tích cực hay tiêu cực, có thể làm hạn chế hay tăng thêm rủi ro đối với hoạt
động kinh doanh tín dụng của các ngân hàng thương mại
1.2.8.2 Nguyên nhân từ phía người đi vay
Nguyên nhân từ phía người đi vay là một trong những nguyên nhân chính gây
ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Nhìn chung các nguyên nhân này ngân hàng có thể
xác định được thông qua quá trình tìm hiểu, nắm vững “ tình hình sức khỏe của
khách hàng” cả trước, trong và sau khi cho vay, tìm hiểu mục đích sử dụng tiền vay
và hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh.
Rủi ro trong kinh doanh của người đi vay : Rủi ro kinh doanh của doanh
nghiệp được thể hiện ở mức độ biến động ít hay nhiều theo chiều hướng xấu của kết
quả kinh doanh. Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra nếu việc xây
dựng và triển khai các phương án, dự án đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp không khoa học, việc dự toán chi phí và xác định mức sản lượng không phù
hợp. Các thiệt hại doanh nghiệp phải gánh chịu do sự biến động của thị trường cung
cấp, thị trường tiêu thụ.
Rủi ro tài chính : Rủi ro tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở các doanh
nghiệp không thể đối phó với các nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi tiền vay cho chủ nợ.
Rủi ro tài chính diễn ra cùng với mức độ sử dụng nợ, nó gắn liền với cơ cấu tài
chính doanh nghiệp.
1.2.8.3 Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng
Chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào mục tiêu lợi nhuận dẫn
đến cho vay đầu tư quá liều lĩnh, tập trung nguồn vốn cho vay quá nhiều vào một
doanh nghiệp hoặc một ngành kinh tế nào đó.


21 
 


Do thiếu am hiểu thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không
đầy đủ dẫn đến cho vay và đầu tư không hợp lý.
Do cạnh tranh của các ngân hàng mong muốn có tỷ trọng, thị phần cao hơn
các ngân hàng khác.
Cán bộ tín dụng không tuân thủ chính sách tín dụng, không chấp hành đúng
quy trình cho vay. Cán bộ tín dụng yếu kém về trình độ nghiệp vụ; cán bộ tín dụng
vi phạm đạo đức kinh doanh.
Định giá tài sản không chính xác; không thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý
cần thiết; hoặc không đảm bảo các nguyên tắc của tài sản đảm bảo là : dễ định giá,
dễ chuyển nhượng quyền sở hữu, dễ tiêu thụ
1.2.8.4 Nguyên nhân từ các đảm bảo tín dụng
Do sự biến động giá trị tài sản đảm bảo theo chiều hướng bất lợi (phụ thuộc
vào đặc tính của tài sản và thị trường giao dịch các tài sản đó). Có 3 yêu cầu đối với
các tài sản bảo đảm là : dễ được định giá, dễ cho ngân hàng quyền được sở hữu hợp
pháp, dễ tiêu thụ hay thuận tiện.
Tóm lại, các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng rất đa dạng, có những nguyên
nhân khách quan và chủ quan có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng và ngân
hàng có thể kiểm soát được nếu có những biện pháp thích hợp.
1.3 Quản trị rủi ro tín dụng
1.3.1 Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro chính là trung tâm của hoạt động quản trị điều hành của mỗi
NHTM. Hiểu một cách đơn giản thì quản trị rủi ro chính là quá trình các NHTM áp
dụng các nguyên lý, các phương pháp và kinh nghiệm quản trị ngân hàng vào hoạt
động kinh doanh của ngân hàng mình để giám sát phòng ngừa, hạn chế và giảm
thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng, đầu tư và các hoạt động kinh doanh khác để


22 
 


ngăn chặn tổn thất thiệt hại cho ngân hàng, đồng thời không ngừng nâng cao sức
mạnh và uy tín của ngân hàng trên thương trường. Quản trị rủi ro là bộ phận quan
trọng trong chiến lược kinh doanh của mỗi NHTM, đồng thời với mỗi loại rủi ro cụ
thể lại áp dụng các phương pháp quản trị riêng.
Quản trị rủi ro tín dụng là phương pháp tiếp cận khoa học đối với các loại rủi
ro tín dụng và là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản
lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát
triển bền vững. Đồng thời, phải tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và
giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, từ đó tăng doanh thu, giảm
chi phí và nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn
và dài hạn của NHTM.
1.3.2 Sự cần thiết của công tác quản trị rủi ro tín dụng
Năm 2008 đã đi qua với nhiều khó khăn thách thức. Trên trường quốc tế,
khủng hoảng tài chính có nguyên nhân bắt nguồn từ Mỹ đã lan rộng toàn cầu kéo
theo sự đe doạ sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính thế giới.
Do ảnh hưởng của kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam năm qua cũng diễn
biến phức tạp, lạm phát tăng cao, nhập siêu lớn, tỷ giá biến động, diễn biến cung
cầu vốn nội tệ và ngoại tệ trên thị trường tiền tệ bất thường. Tình trạng doanh
nghiệp khó khăn, thua lỗ diễn ra, kinh tế bắt đầu có dấu hiệu suy giảm, sức cầu yếu,
đời sống nhân dân khó khăn…
Trước bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động như thế, thị
trường tài chính tiền tệ và ngân hàng diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro, gây
khó khăn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, làm cho hoạt động các ngân hàng
xuất hiện nhiều rủi ro. Trong khi đó, tự bản chất của kinh doanh tiền tệ - ngân hàng,
rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng là điều tất yếu trong hoạt động NH, sự
tiên liệu và ứng phó của con người là có giới hạn, loại trừ hoàn toàn rủi ro là điều
không tưởng mà chỉ có thể hạn chế. Vấn đề là làm thế nào để hạn chế rủi ro tín



23 
 

dụng. Một biến cố rủi ro riêng rẽ là cái ngẫu nhiên không lường trước, nhưng rủi ro
tín dụng có thể xuất hiện tại bất cứ khâu nào trong quá trình hoạt động tín dụng của
NH, có thể từ môi trường bên ngoài NH hoặc ngay bên trong tổ chức NH, và chỉ
xuất hiện trong những điều kiện thích hợp lại là một điều tất nhiên. Do vậy, cũng sẽ
là điều tất yếu khi các NHTM tăng cường công tác quản trị rủi ro, đặc biệt là quản
trị rủi ro tín dụng.
1.3.3 Nhiệm vụ của công tác quản trị rủi ro tín dụng
Hoạch định phương hướng và kế hoạch phòng chống rủi ro. Phương hướng
nhằm vào dự đoán xác định rủi ro có thể xảy ra đến đâu, trong điều kiện nào,
nguyên nhân dẫn đến rủi ro, hậu quả ra sao.
Phương hướng tổ chức phòng chống rủi ro có khoa học nhằm chỉ ra những
mục tiêu cụ thể cần đạt được, ngưỡng an toàn, mức độ sai sót có thể chấp nhận
được.
Tham gia xây dựng các chương trình nghiệp vụ, cơ cấu kiểm soát phòng
chống rủi ro, phân quyền hạn và trách nhiệm cho từng thành viên, lựa chọn những
công cụ kỹ thuật phòng chống rủi ro, xử lý rủi ro tiềm ẩn, các sai sót khi thực hiện
giao dịch trong công tác phòng chống rủi ro, xử lý rủi ro và giải quyết hậu quả do
rủi ro gây ra một cách nghiêm túc.
Kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo việc thực hiện theo đúng kế hoạch phòng
chống rủi ro đã hoạch định, phát hiện các rủi ro tiềm ẩn, các sai sót khi thực hiện
giao dịch.
1.3.4 Nguyên tắc của Basel về quản trị rủi ro tín dụng
Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng là một ủy ban bao gồm các chuyên gia
giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập vào năm 1975 bởi các Thống đốc
ngân hàng trung ương của nhóm G10 (Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Hà
Lan, Thuỵ Điển, Vương Quốc Anh và Mỹ). Uỷ ban tổ chức họp thường niên tại trụ



24 
 

sở Ngân hàng thanh toán Quốc tế (BIS) tại Washington(Mỹ) hoặc tại thành phố
Basel ( Thụy Sĩ).
Quan điểm của Uỷ ban Basel : sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một
quốc gia, dù quốc gia phát triển hay đang phát triển, sẽ đe doạ đến sự ổn định về tài
chính trong cả nội bộ quốc gia đó. Uỷ ban Basel không chỉ bó hẹp hoạt động trong
phạm vi các nước thành viên mà mở rộng mối liên hệ với các chuyên gia trên toàn
cầu và ban hành 2 ấn phẩm:
− Những nguyên tắc cơ bản cho việc giám sát hoạt động của ngân hàng một
cách hiệu quả( hệ thống các nguyên tắc và chuận mực về biện pháp thận trọng)
− Tài liệu hướng dẫn (được cập nhập định kỳ) với các khuyến cáo, các hướng
dẫn và tiêu chuẩn của Uỷ ban Basel.
Như vậy từ chỗ là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, hợp tác quốc tế về thanh tra
và giám sát ngân hàng, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng ngày nay đã trở thành
cơ quan xây dựng và phát triển các chuẩn mực ngân hàng được quốc tế công nhận.
Ủy ban Basel đã ban hành 17 nguyên tắc về quản lý nợ xấu mà thực chất là đưa ra
các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong
hoạt động cấp tín dụng. Các nguyên tắc này tập trung vào các nội dung cơ bản sau:
− Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp ( 3 nguyên tắc) : trong nội dung
này, Ủy ban Basel yêu cầu Hội đồng quản trị phải thực hiện phê duyệt định kỳ
chính sách rủi ro tín dụng, xem xét rủi ro tín dụng và xây dựng một chiến lược
xuyên suốt trong hoạt động của ngân hàng( tỷ lệ nợ xấu, mức độ chấp nhận rủi
ro…). Trên cơ sở này, Ban tổng giám đốc có trách nhiệm thực thi các định hướng
này và phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm
soát nợ xấu trong mọi hoạt động, ở cấp độ của từng khoản tín dụng và cả danh mục
đầu tư. Các ngân hàng cần xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm



25 
 

và hoạt động của mình, đặc biệt là các sản phẩm mới phải có sự phê duyệt của Hội
đồng quản trị hoặc Uỷ Ban của Hội đồng quản trị.
− Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh ( 4 nguyên tắc) : các ngân hàng cần
xác định rõ ràng các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh ( thị trường mục tiêu, đối
tượng khách hàng, điều khoản và điều kiện cấp tín dụng..). Ngân hàng cần xây dựng
các hạn mức tín dụng cho từng khách hàng vay vốn và nhóm khách hàng vay vốn
để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng có thể so sánh và theo dõi
được trên cơ sở xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng trong lĩnh vực, ngành
nghề khác nhau. Ngân hàng phải có quy trình rõ ràng trong phê duyệt tín dụng, các
sửa đổi tín dụng với sự tham gia của các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín
dụng và phân công trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia, đồng thời cần
phát triển đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, có kiến thức
nhằm đưa ra các nhận định thận trọng trong việc đánh giá, phê duyệt và quản lý rủi
ro tín dụng. Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch công bằng
giữa các bên, đặc biệt cần có sự cẩn trọng và đánh giá hợp lý đối với các khoản tín
dụng cấp cho khách hàng có quan hệ
− Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp ( 10
nguyên tắc) : các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhập đối với các
danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng, bao gồm cập nhập hồ sơ tín dụng, thu thập
thông tin tài chính hiện hành, dự thảo các văn bản như hợp đồng vay… theo quy mô
và mức độ phức tạp của ngân hàng. Đồng thời hệ thống này phải có khả năng nắm
bắt và kiểm soát tình hình tài chính, sự tuân thủ các giao kèo của khách hàng…đề
phát hiện kịp thời những khoản vay có vấn đề. Ngân hàng cần có hệ thống khắc
phục sớm đối với các khoản tín dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề.
Các chính sách rủi ro tín dụng của ngân hàng cần chỉ rõ cách thức quản lý các
khoản tín dụng có vấn đề. Trách nhiệm đối với các khoản tín dụng này có thể được

giao cho bộ phận tiếp thị hay bộ phận xử lý nợ hoặc kết hợp cả hai bộ phận này, tuỳ
theo quy mô và bản chất của mỗi khoản tín dụng. Ủy ban Basel cũng khuyến khích


×