Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

VĂN học dân tộc THIỂU số MÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120 KB, 31 trang )

CÂU HỎI THẢO LUẬN: NÊU NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT NHẤT CỦA
VĂN HỌC DÂN TỘC MÔNG
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.
1.1.

Giới thuyết chung về dân tộc Mông
Lịch sử tộc người
Dân tộc Hmông (còn có tên gọi khác như Na Mèo, Mèo, Mẹo, Miếu Ha, Mán
Trắng), là một dân tộc có số dân tương đối đông ( trên 9 triệu người), cư trú ở nhiều
nước khác nhau trên thế giới. Ở Trung Quốc, người Hmông được gọi là người Miêu, ở
Lào gọi là Mẹo. Ngoài ra, ở hầu hết các nước khác trên thế giới, họ đều được gọi là
người Hmông. ở nước ta, trước năm 1979, họ được gọi là người Mèo. Nhóm H’mông
thuộc ngữ hệ Nam Á, H’mông-Dao có 3 ngôn ngữ: Hmông, Dao, Pà Thẻn.
Người H’mông ở Việt Nam hiện nay đều có nguồn gốc chủ yếu từ phương Bắc.
Các tài liệu khoa học, cũng như các truyền thuyết đều cho biết rằng người Mông là tộc
người di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100 năm về
trước. Theo các nhà dân tộc học Việt Nam thì phần lớn những người H’mông ở các tỉnh
miền núi phía Bắc đều di cư trực tiếp từ Qúy Châu, Quảng Tây và Vân Nam sang.
Riêng một số nhóm ở Thanh Hóa, Nghệ An di cư đến Việt Nam qua Lào. Người
H’mông đến Việt Nam qua những con đường khác nhau và chia thành nhiều vùng địa
bàn khác nhau. Vùng thứ nhất có những hộ thuộc họ Lù, họ Giàng đến khu vực các
huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Từ đây họ bắt đầu tiếp tục di cư vào sâu
hơn các tỉnh ở Đông Bắc Việt Nam. Vùng thứ hai có những hộ thuộc hộ Vàng, họ Lý
cũng vào khu vực Đông Văn. Còn một nhóm số người ít hơn, thuộc vào họ Vàng, Lù,
Chấu, Sùng, Hoàng, Vừ vào khu vực Si Ma Cai, Bắc Hà ( Lào Cai). Sau đó khoảng 30
hộ gồm các họ Vừ, Sùng chuyển sang phía Tây Bắc Việt Nam và người Hmông tiếp tục
di cư đến các huyện của các tỉnh thuộc Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam. Người Hmông


đã từng có một quốc gia riêng. Tuy nhiên, họ là một dân tộc có ý thức tự cường mạnh


mẽ, không bao giờ chịu khất phục trước sức mạnh của các thế lực tàn bạo nên họ đã
không ngừng nổi dậy đấu tranh chống sự áp bức, đô hộ của người Hán, người Mãn. Các
cuộc đấu tranh khốc liệt đẫm máu và nước mắt nên họ thiên di đến Việt Nam chủ yếu là
do trốn chạy khỏi sự truy sát và hủy diệt.
1.1.1.

Địa bàn cư trú và kinh tế
a. Địa bàn cư trú
Dân số và địa bàn cư trú: Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 người

H’Mông ở Việt Nam có dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách
các dân tộc ở Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Dân tộc H’mông
thường cư trú ở độ cao từ 800 đến 1500m so với mực nước biển gồm hầu hết các tỉnh
miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt-Trung và
Việt - Lào, từ Lạng Sơn đến Nghệ An. Họ cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang, Điện
Biên, Sơn La, Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái, Cao Bằng, Nghệ An, Đắk Lắk, Đắk Nông,
Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thanh Hóa.
Căn cứ vào địa phương người Mông còn được chia thành Hmông Đỏ hoặc Hmông
Đâu (H mông Trắng), Hmông Đu (H’mông Đen), Hmông Si (Hmông Đỏ), Hmông Dua
(Hmông Xanh), Hmông Lềnh (Hmông Hoa),Hmông Súa (Hmông Lai), Ná Mẻo
(Hmông Nước). Như vậy, dân số và địa bàn cư trú của dân tộc Mông cũng rất phong
phú và đa dạng.
Kinh tế
Do chịu ảnh hưởng của điều kiện địa hình nên người Hmông sống hòa đồng với
b.

thiên nhiên bỏi vậy nên kinh tế nương rẫy là mộ hoạt đọng sản xuất gắn liền với tập
quán du canh du cư là nét đặc trưng của người Hmông. Nó làm cho mỗi gia đình người
Hmông trở thành một đơn vị kinh tế độc lập. Họ trực tiếp làm ra mọi thứ thiết yếu để
phục vụ cuộc sống. Dân tộc Hmông nổi tiếng với các nghề thủ công như: đan lát, xe



lanh dệt vải, in hoa văn bằng sáp ong, đúc, rèn…. Các sản phẩm thủ công của người
Hmông vừa có tính kỹ thuật cao, vừa độc đáo và rất đặc sắc bởi tính nhân văn và bản
sắc văn hóa đậm đà của dân tộc Hmông. Kinh tế của người Hmông hoàn toàn không có
tính cộng đồng càng không phải là nền tảng cho sự cố kết và thống nhất. Đó là một trở
ngại lớn nhất cho sự phát triển kinh tế của dân tộc này trong bối cảnh nền kinh tế trong
1.2.

nước và thế giới đang trong công cuộc hội nhập ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc.
Văn hóa vật chất
1.2.1. Nhà ở - kiến trúc độc đáo
Môi trường sống trên các triền núi cao, khí hậu lạnh, khắc nghiệt thì ngôi nhà trình
tường bằng đất, lợp ngói hay tranh của người HMông có ưu điểm mát mẻ về mùa hè,
giữ ấm về mùa đông, chống thú dữ…Người Hmông thường ở nhà đất trình tường lợp
gói hay nhà gỗ lợp mái tranh phiên vách. Cấu trúc chung của ngôi nhà Hmông truyền
thống gồm 3 gian, gian giữa có cửa chính nhìn về phía trước nhà. Đây là gian tiếp
khách, vách sau của gian giữa là chỗ thiêng. Ở gian bên cạnh có buồng ngủ và bếp. Đầu
hồi nhà có một của phụ nhưng đó mới chính là lối ra vào. Hằng ngày, người trong gia
đình chủ yếu đi lại bằng cửa này. Trong gia đình người HMông, phòng ngủ của vợ
chồng con cái được bố trí riêng. Người HMông ngủ bằng phản hoặc giát bằng tre mai
đập giập. Người HMông rất khắt khe, nơi ngủ của con dâu, em dâu thì bố chồng và anh
chồng không được vào và ngược lại, con dâu, em dâu không được vào chỗ ngủ của bố
chồng, anh chồng.
Phong tục người HMông không cho con gái, đàn bà được ngủ trên gác. Khi đàn
ông trong nhà đi vắng thì con dâu không được phép lên gác. Nhà của người HMông
không bao giờ làm dính sát vào nhau, cho dù là anh em ruột thịt. Khi chọn đất làm nhà,
người Mông lấy 3 hạt gạo hoặc ngô đặt xuống khu đất đã chọn rồi đặt bát hoặc chậu gỗ
lên trên, sau đó thắp 3 nén hương khấn thần đất, đốt 3 tờ giấy bản xin thổ công thổ địa
cho gia chủ làm nhà. Sáng hôm sau hoặc sau 3 tháng, chủ nhà quay lại xem số hạt ngô

đặt dưới đất, nếu thấy vẫn còn nguyên thì coi như đất ở nơi đó tốt, làm nhà được. Nếu


những hạt gạo hay ngô đó đã bị sâu hay kiến ăn thì coi như đất ở đó dữ, không làm nhà
được. Nhà người HMông thường được xếp đá xung quanh làm hàng rào che chắn. hàng
rào đá xếp xung quanh một nhà hoặc hai, ba nhà có quan hệ anh em nội tộc với nhau,
làm thành một khu riêng biệt.Người HMông cũng làm nhà dựa lưng vào núi, kiêng làm
nhà quay lưng ra khe, vực sâu. Bản của người Mông có từ vài ba nóc nhà trở lên, có bản
chỉ có một dòng họ, nhưng không nhiều, còn lại đa số là một bản có nhiều dòng họ sống
cùng nhau.
1.2.2.

Trang phục – rực rỡ sắc màu văn hóa
Trang phục hiện diện trong đời sống hằng ngày của người Hmông. Trang phục vừa

là của cải vặt chất vừa có ý nghĩa vượt qua giá trị của vật chất thông thường để thể hiện
những giá trị văn hóa, xã hội của người Hmông từ trong lịch sử. Quần áo của người
Mông chủ yếu may bằng vải tự dệt, đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và trang
trí với kỹ thuật đa dạng. Chỉ với 4 màu chủ đạo xanh, đỏ, trắng, vàng của chỉ tơ tằm mà
họa tiết của trang phục đã tỏa ra muôn sắc màu, tạo cảm giác trầm ấm. Trang phục của
phụ nữ Mông có họa tiết hoa văn đẹp từ khăn đội đầu đến xà cạp quấn chân. Phụ nữ
Mông trắng trang phục có họa tiết tập trung ở cổ áo, nẹp áo, thắt lưng, bồ giáo phía
trước. Phụ nữ H’Mông Hoa trang trí họa tiết ở trang phục phong phú hơn, ở cả khăn đội
đầu, cổ áo, nẹp áo, thắt lưng, bồ giáo, thân váy, xà cạp… kỹ thuật thêu hoa văn của
người H’Mông rất phức tạp và vì thế, nó thể hiện sự tinh tế của người phụ nữ H’Mông.
Trang phục nam:Nam thường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp,
ống tay hơi rộng. Áo nam có hai loại: năm thân và bốn thân. Quần nam giới là loại chân
què ống rất rộng so với các tộc trong khu vực. Đầu thường chít khăn, có nhóm đội mũ
xung quanh có đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vòng bạc cổ,
có khi không mang. Như vậy, cách bố cục và họa tiết trên trang phục của người Mông

còn thể hiện sức sống, bản lĩnh của người Mông trước thiên nhiên…


1.2.3.

Ẩm thực
Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực

phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô
được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào
những ngày tết, ngày lễ. Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng
điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý
trọng. Người Mông nơi đây cho rằng:" uống rượu Bản Phố vào buổi sáng sẽ có thêm
sức mạnh, tựa như có một vị thần dũng mãnh hỗ trợ làm việc đồng áng suốt ngày không
cảm thấy mệt mỏi. Nếu uống vào buổi tối, cùng với bằng hữu, rượu như có sợi dây vô
hình ràng buộc tình yêu thương khăng khít, trong lòng mọi người trào dâng lời hay, ý
đẹp, nói lên được những điều mới mẻ, ý nghĩa thấm sâu và hào hứng mà những lúc khác
không có rượu chưa nói được”.
1.3.

Văn hóa tinh thần
1.3.1. Phong tục tập quán
Phong tục, tập quán của người Hmông rất phong phú và giàu bản sắc, bao gồm các
nghi lễ cưới xin, tang ma, và các sinh hoạt cộng đồng khác: được hình thành một phần
do điều kiện sông khắc nhiệt và được bảo lưu từ trong lịch sử, được biểu hiện rõ nét,
đặc sắc và sinh động trong cả văn học dân gian và văn học thành văn.
1.3.2.

Đời sống tâm linh
Người Hmông quan niệm “vạn vật hữu linh”. Tất cả sự vật hiện tượng trong đời


trong đời sống đều có linh hồn. Họ rất coi trọng việc chọ gỗ làm nhà và họ luôn quan
niệm rằng có sự tồn tại của thần cây và thần rừng. Hệ thống thần bản mệnh trong quan
niệm của người Hmông rất phong phú và đa dạng. Đời sống tâm linh đã góp phần hình
thành nên những đặc trưng tâm lí và tính cách, bản lĩnh của dân tộc Hmông. Đời sống
văn học của người Mông được thể hiện tiêu biểu qua tết lễ, cưới hỏi và ma chay để thấy


được nét khu biệt đặc sắc về đời sống tâm linh của dân tộc Hmông với các dân tộc khác.
1.4. Đời sống văn học
Tiếng Hmông là tiếng nói của khoảng 80 vạn người Hmông ở nước ta. Tiếng
Hmông thuộc họ Nam Á, ngữ hệ Mèo – Dao. Người Hmông có 5 ngành là 5 phương
ngữ. Về cơ bản, tiếng Hmông là một ngôn ngữ thống nhất. Hiện nay, chữ viết của người
Hmông trên thế giới đã thống nhất cùng 1 loại. Người Hmông trên khắp thế giới cùng
thống nhất được một tiếng nói, đó là tiếng Hmông Đơư (Hmông Trắng). Bởi người
Hmông ở các nước có nền văn hóa phát triển như Thái Lan, Mỹ, Pháp, Úc, Lào …đều
chủ yếu là người Hmông trắng.
Người H’mông có đời sống văn nghệ khá phong phú, đặc biệt là văn học truyền
miệng có rất nhiều thể loại, như Truyện thần thoại về anh hùng văn hóa tìm ra loại
giống và dạy người H’mông cách trồng ngô, lúa, trồng lanh làm vải mặc … Truyện cổ
tích về các con vật chiếm khá nhiều, đặc biệt là truyện về hổ…Người H’mông say đắm
dân ca dân tộc mình, đó là Tiếng hát tình yêu (gầu plềnh), Tiếng hát cưới xin (gầu
xuống)… mà họ thường hát khi lao động nương rẫy, trong lúc se sợi dệt vải, trong khi đi
chợ, đi hội. Trong những dịp lễ hội, đặc biệt là hội Gầu tào (đón năm mới), những bài
hát dân ca này không chỉ thể hiện bằng lời mà còn có thể giãi bày thông qua những nhạc
cụ dân tộc (sáo, khèn, kèn lá, đàn môi…). Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa
múa. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình. Sau một ngày lao
động mệt mỏi, thanh niên dùng khèn, đàn môi gửi gắm và thể hiện tiếng lòng mình với
bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, của quê hương, đất nước.
Bên cạnh đó thi ca hiện đại cũng đang rất phát triển và từng bước khẳng định mình

trong nền văn học, thi ca các dân tộc thiểu số. Thơ ca hiện đại dân tộc H’mông xuất
hiện vào khoảng những năm 60 của thế kỉ XX, nó được phổ biến chủ yếu ở các khu tự
trị Đông Bắc, Tây Bắc và các tỉnh Hà Giang, Lào Cai là những khu có đông người
H’mông sinh sống.
Người Hmông có một kho tàng thơ ca phong phú được hình thành và không ngừng
phát triển trong suốt chiều dài lịch sử. Thơ ca Hmông là sự phản ánh trung thực dời


sống và tâm hồn dân tộc Hmông từ quá khứ đến hiện tại với những nét đặc trưng, giàu
bản sắc.

CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC DÂN TỘC MÔNG
2.1. Khái quát về văn xuôi
2.2. Khái quát về thơ ca
2.2.1. Thơ ca dân gian
Thơ ca dân gian Cùng với chiều dài lịch sử, dân tộc Mông sớm có một nền văn
học dân gian phong phú, đa dạng phản ánh đời sống văn hoá cũng như tâm tư nguyện
vộng của cộng đồng. Các thể loại văn học dân gian của dân tộc Mông cũng giống như
các dân tộc khác như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích và đặc biệt là thơ ca dân gian với
hai mảng chính là truyện thơ và dân ca.
Truyện thơ của người Mông không chỉ chứa đựng những phong tục tập quán,
những cách cảm nhận về đời sống rất đặc trưng của người Mông, mà còn thể hiện
những khát vọng mãnh liệt về tình yêu và hạnh phúc. Nó còn là một quá trình tự sự hoá
dân ca trữ tình. Mỗi truyện thơ là một tác phẩm hoàn chỉnh cả về cốt truyện lẫn hệ thống
nhân vật. Có thể tìm thấy trong truyện thơ quá trình phát triển của xã hội người Mông;
những truyền thống văn hoá và đạo lí, những phong tục tập quán qua nhiều thế kỷ đã tạo
nên bản sắc riêng của cả một cộng đồng. Tiêu biểu như các truyện thơ “A Thào Nù
Câu”, “Nàng Dợ Chà Tăng”, “Dìa Pàng - Dùa phông”, “Nàng Phan- Nồng Dí”...
Dân ca là một thể loại rất phổ biến trong đời sống sinh hoạt tinh thần của người
Mông. Đó là những bài hát mang nội dung trữ tình, biểu lộ tình cảm, tâm tư, nguyện



vọng của đồng bào trong cuộc sống thường ngày. Ẩn chứa trong đó bao niềm vui, nỗi
buồn các sắc thái, cung bậc tình cảm khác nhau. Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu,
dân ca Mông có thể được phân chia nội dung thành 5 mảng đề tài chính bao gồm: Tiếng
hát tình yêu (gầu plềnh), tiếng hát cưới xin (gầu xống), tiếng hát làm dâu (gầu ua
nhéng), tiếng hát mồ côi (gầu tú giua) và tiếng hát cúng ma (gầu tuờ). Người dân tộc
Mông họ yêu bằng bản năng nên cuộc sống như nằm trong dân ca. Bởi vậy, nên dân ca
trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của người Mông trong cuộc sống hàng
ngày.
Tục ngữ của người Mông phản ánh những tri thức và kinh nghiệm sống của dân
tộc trong lịch sử. Trong đời sống và tư duy, tục ngữ thể hiện những kinh nghiệm sản
xuất, cách thức ứng xử, các mối quan hệ xã hội. Đặc điểm nghệ thuật của tục ngữ nói
chung và tục ngữ Mông nói riêng là ngắn gọn, xúc tích, tuy chứa đựng những nội dung
tương đối lớn, nhưng hình thức mỗi câu lại rất nhỏ. Tuy nhiên, tục ngữ có tính bền
vững, ổn định, là những câu nói ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc, ít dị bản, là lời ăn tiếng nói
của nhân dân. Tục ngữ Mông rất phong phú về ý nghĩa, cái cụ thể thường gắn liền với
cái khái quá và ngược lại. Có những câu tục ngữ mang ý nghĩa biểu tượng, ẩn dụ: “Bò
có đường bò cày/ Ngựa có đường ngựa đi”, câu văn ngắn gọn mà phản ánh được nhiều
ý muốn diễn đạt, có nghệ thuật, như một chân lý “Gừng già gừng càng cay/ Người già
hiểu điều hay”. Tục ngữ Mông mặc dù ngắn gọn nhưng không khô khan vẫn là những
hình ảnh đẹp được ví von sinh động “Tiền bạc trên đá/ Không làm khó nhọc thì không
có tiền”. Nhìn chung, “Tục ngữ có bao nhiêu hiện tượng phong phú…Và tất cả bao
nhiêu thứ đó được chồng lên một diện tích ngôn ngữ nhỏ hẹp” (L. Ôzêrốp)
Ngoài ra, trong mảng thơ ca dân gian thì người Mông cũng rất ưa sử dụng câu đố.
Nó vừa là một phương thức giải trí lại vừa là phương tiện để nhận thức thế giới. Đồng
bào Mông thể hiện những hiểu biết của mình về giới tự nhiên thông qua các câu đố. Câu
đố Mông có vần điệu nhịp nhàng, cân xứng, với cách kết cấu ngắn gọn, cách gieo vần,



nó còn uyển chuyển với cách sử dụng vần điệu như tục ngữ: “Không phải đồng, không
phải sắt/ Chặt không đứt, ăn không được” (Nước), “Năm anh em địu năm viên ngói”
(Năm ngón tay). Câu đố Mông không chỉ giàu âm thanh mà còn giàu hình tượng. Có
khi, hình tượng được gợi lên bằng cách miêu tả trực tiếp đặc điểm của sự vật: “Không
có cành/Lại có lá/Đầu hoa nhọn, thân quả nhẵn” (Cây chuối). Như vậy, câu đố có khả
năng làm cho cuộc sống của người Mông thêm sinh động, đồng thời nâng cao kiến thức
và rèn luyện kỹ năng quan sát, óc thông minh rất cần thiết cho cuộc sống.
Thơ ca dân gian Mông tồn tại dưới dạng các làn điệu dân ca, tục ngữ, câu đố phong
phú cả về nội dung lẫn hình thức, những hình thức dân gian ấy thể hiện quan niệm nhân
sinh, về thiên nhiên, con người và các mối quan hệ tình cảm như: tình yêu, hôn nhân,
quan hệ gia đình, xã hội, lối sống và phương thức ứng xử, những kinh nghiệm trong lao
động sản xuất.
2.2.2. Thơ ca hiện đại
Thơ ca hiện đại dân tộc Mông được xuất hiện dưới hình thức các tập thơ in riêng
của các tác giả người Mông thì phải đợi đến những năm 90 của thế kỷ XX với các tập
thơ: “Người Mông nhớ Bác Hồ” (1993); “Chỉ vì quá yêu” (1998) của Hùng Đình Quí.
Nhà thơ Mã A Lềnh với các tập “Bên suối Nậm Mơ” (1995), “Mã A Lềnh thơ” (2002);
rồi đến các tác giả trẻ hơn như Hờ A Di và thế hệ sau này có sáng tác đôi chút thơ văn
như Mã Anh Lâm, Mã Én Hằng, Hùng Thị Hiền xuất hiện trên các báo, tạp chí của các
Hội Văn học Nghệ thuật Trung ương và địa phương. Thơ ca Mông cũng đã xuất hiện và
phát triển, tạo nên một mảng màu riêng biệt, đậm đà bản sắc dân tộc Mông, trong bức
tranh nhiều màu sắc rực rỡ của thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Các tác
giả dân tộc Mông có hai gương mặt nhà thơ tiêu biểu cho dân tộc mình là Mã A Lềnh
(Lào Cai) và Hùng Đình Quí (Hà Giang). Bên cạnh đó còn có các nhà thơ người Mông
khác là hội viên các hội văn học nghệ thuật các tỉnh và các địa phương.


Cuộc sống hiện đại, sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc ngày càng phát
triển làm cho các dân tộc thiểu số ngày càng tiếp cận và hội nhập với cuộc sống văn
minh. Thơ ca Mông hiện đại, trước hết, phản ánh những nét đặc trưng về cuộc sống,

thiên nhiên, con người của cộng đồng Mông. Thiên nhiên ở đây thật hùng vĩ, tươi đẹp
nhưng cũng rất đỗi khắc nghiệt; con người hết sức trung thực, mộc mạc, nhưng cũng rất
mạnh mẽ và phóng túng; cuộc sống ở đây đầy khó khăn, gian khổ cộng với những hủ
tục lạc hậu - nhưng cũng rất phong phú, đáng yêu và giàu bản sắc. Thơ ca hiện đại dân
tộc Mông mang những đặc trưng riêng về nghệ thuật. Nhiều bài thơ mang hình thức và
âm điệu của dân ca với kết cấu đối ngẫu và lối so sánh ví von trùng điệp. Thơ Mông
hiện đại dường như có sự phân chia thành những xu hướng rõ rệt; Xu hướng trung thành
với hình thức và ngôn ngữ thơ mang tính truyền thống; đại diện cho xu hướng này là
các tác giả: Hùng đình Quí, Mùa A Sấu, Giàng A Páo…; lối thiên về cách tân và những
khám phá thể nghiệm như các tác giả: Mã A Lềnh, Giàng Xuân Hồ và đặc biệt là các tác
giả trẻ như Mã Anh Lâm, Mã Én Hằng… Những năm đầu của thế kỷ XXI, một lớp trí
thức trẻ người Mông đã làm thơ, viết văn bằng tiếng phổ thông, bình đẳng chan hoà với
các dân tộc anh em khác. Thơ của họ mang sức sống và hơi thở của cuộc sống hiện đại.
Cả cách nghĩ, cách cảm, cách biểu hiện cũng đã có sự khác biệt rạch ròi vói thơ ca
truyền thống: “Mùa đông về trên vòm lá/ Rụng dần những mắt thời gian/ Mùa đông
chạy trên sườn núi/ Ngập ngừng cây cỏ xám dần” (Mã Anh Lâm).
Từ sau năm 1975, thơ hiện đại dân tộc Mông có sự chuyển hướng về nội dung đề
tài, từ những vấn đề chung, lớn lao của dân tộc sang chiều hướng suy tư, chiêm nghiệm
của mỗi cá nhân về cuộc đời. Thơ dân tộc Mông đi vào chiều sâu của trí tuệ bằng những
suy nghĩ cảm nhận mang dấu ấn cá nhân rõ rệt: “Đêm thức cùng cha/ Sao khuya nhỏ
giọt bên thềm/ Lặng thầm/ Cha miệt mài trang sách/ Trang sách nối dài rộng bao la…”
(Mã Ngân Hà).


Như vậy, Thơ ca hiện đại Mông đã đóng góp cho thơ ca các dân tộc thiểu số nói
riêng và thơ ca Việt Nam nói chung một số thành tựu không thể phủ nhận. Nó như một
tấm hoa văn thổ cẩm của thơ ca các dân tộc thiểu số hay một tiếng khèn Mông trầm
bổng đầy quyến rũ trong bản hoà tấu của thơ ca hiện đại Việt Nam. Chính vì vậy mà
những sáng tác của các nhà thơ Mông đã được ghi nhận bằng nhiều giải thưởng quan
trọng của Hội nhà văn và các Hội Văn học nghệ thuật từ Trung ương. Mặc dù thơ hiện

đại Mông vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định: Với một đội ngũ sáng tác còn mỏng
và không đồng đều; với những hạn chế trong việc sử dụng ngôn ngữ thơ bằng tiếng phổ
thông của một số tác giả; với vốn sống, vốn văn hoá và năng lực bản thân của người
cầm bút, chưa thể phản ánh, biểu hiện được đầy đủ về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống
và con người của dân tộc Mông; những phong tục tập quán, đời sống tinh thần, sinh
hoạt phong phú và giàu bản sắc chưa được chuyển tải vào thơ nhưng chúng ta không thể
phủ nhận sự góp mặt của thơ ca hiện đại Mông trong đời sống văn học đương đại nói
chung và nền thơ Việt Nam hiện đại nói riêng.
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA THƠ CA MÔNG QUA NỘI DUNG VÀ
NGHỆ THUẬT
3.1. Nội dung và nghệ thuật
3.1.1. Nội dung
a. Tư tưởng chủ đề, đề tài
Cùng với chiều dài của lịch sử, dân tộc Mông đã sơm cómọt nền văn học phong
phú, đa dạng phản ánh đời sống văn hóa cũng như tâm tư, tình cảm, nguyên vọng của
cộng đồng. Thơ ca dân tộc Mông không chỉ phản ánh những phong tục tập quán, những
cách cảm nhận về đời sống của con người mà nó còn thể hiện khát vọng mãnh liệt về


tình yêu, hạnh phúc. Thơ ca Mông như những chiếc váy của các cô gái Mông đậm màu
sắc của dân tộc mình, nó còn khoe những nét đẹp thơ ca qua chủ đề và đề tài.
Đề tài trong thơ ca văn học dân tộc Mông trước hết phản ánh những nét đặc trưng
về cuộc sống, thiên nhiên, con người, tình yêu, sự ca ngợi và lòng biết ơn của cộng đồng
Mông. Trước hết hình ảnh thiên nhiên ở trong thơ ca thật hùng vĩ, tươi đẹp nhưng cũng
thật khắc nghiệt. Nơi thiên nhiên chót vót trên những đỉnh núi , quanh năm mây mù bao
phủ, khí hậu khắc nhiệt như một thách thức cho sức sống sinh tồn của con người. Hình
ảnh người đàn ông dân tộc Mông với “mái đầu trơ một mỏm đá hoang” gợi lên hình ảnh
so sánh liên tuởng rất thú vị độc đáo về sự từng trải hết sức chai sạn, vượt lên sương gió
cuộc đời, khắc phục thiên nhiên hung dữ, thiên nhiên cũng như một con người sống
động với tính cách con người:

“Đá nằm như hổ rình mồi
Đá đứng như trâu gặm cỏ
Đá vươn như ngựa phi giữa nắng chiều tà”
( Đá ở Sa Pa – Mã A Lềnh)
Đề tài về thiên nhiên không chỉ dữ dội, khắc nghiệt mà nó còn hiện lên một cách
đáng yêu, lãng mạn và không kém phần thơ mộng, thiên nhiên nơi vùng cao không chỉ
có đá có núi mà nó còn đẹp lạ thường khi có tiếng chim ca “ Cúc cu kêu tiếng rõ rành
rọt/ Kêu cho trời nắng thúc ngô vàng” (Hùng Đình Quý) hay tiếng chim Câu Kỉ Giàng
gọi mùa, tiếng chim“ Đá Lâu” bên sườn núi. Sơn thủy hữu tình có chim nên phải có hoa
“ hoa rừng hoa núi đua nhau nở”, núi tuy “cằn cỗi” nhưng lại là nơi trú ngụ của cây
vàng, măng bạc “ Triền núi cao sinh ra cây vàng / Lòng núi cao sinh ra măng bạc”.
Thiên nhiên còn thơ mộng như “ Bầy ong tung tăng đi hút nhụy hoa gianh”; nó ấm áp,
no đủ qua những cánh ruộng bậc thang chênh vênh sườn núi mà vẫn cho con người


những bông lúa thơm, thiên nhiên mang vẻ đẹp kiều diễm “ mặt trời nâng hoa mây /
Bồng bềnh sáng núi đá”. Thiên nhiên núi rừng của người Mông thật tuyệt diệu nó không
hề vô tình mà đó là một vật thể hữu tình. Có dữ dội, có đẹp dịu dàng và cũng có cả sự
ấm áp,nó còn là nơi để người Mông có thể tự hào, mặc dù sông ở một nơi địa hình cao,
hiểm trở và khó nhọc nhưng con người vẫn yêu thiên nhiên, sống “đoàn kết” với thiên
nhiên như những người bạn thân thiết.
Đề tài về con người Mông sống giữa một nơi thiên nhiên hùng vĩ và hoang sơ, con
người Mông đầy cá tính và bản lĩnh, họ mang những nét đẹp riêng cả về hình thức, tâm
hồn và tính cách mà khó có dân tộc nào lại có bản sắc riêng đến vậy. Ở đó những con
người sống như những người nghệ sĩ tài hoa của núi rừng vừa mạnh mẽ, phóng túng
nhưng lại vừa mộc mạc, chân thành. Họ là những con người sống hồn nhiên, ngây thơ,
sống hết mình, đam mê mãnh liệt, họ quây quần bên nhau quanh những chén rượu ngô
ngây ngất men đất, men rừng “hồn nhiên như chim khướu chim ri” (Mã A Lềnh) hay
bản tính hiền lành đến ngây thơ “ sống hiền hậu như con gà”, “sống hiền lành như con
chim núi” ( Hùng Đình Quý), họ vô tư giữa cao nguyên đá, những mái nhà làng xóm

chụ vào nhau. Trang phục tiêu biểu cho tính cách con người Mông chính là những chiếc
váy mông xòe đủ sắc “những chiếc váy hoa phơi trên những tảng đá xòe như con bướm
sặc sỡ “núi rừng Tây bẳc trở nên thơ mộng, quyến rũ và say mê biết bao” , hình ảnh
những cô gái Mông đôi gò má ửng hồng, cái nhìn tinh anh, rụt rè và táo bạo với những
bắp chân to khỏe, dáng đi uyển chuyển mềm mại trong những chiếc váy Mông “trắng
đẹp trắng xinhnhư hoa mạch lan nở lưng rừng”, những cô gái ngây thơ ấy còn “ Vẽ vào
gấu váy của mình / và thêu ngọn gió hoang thổi vào mơ ước”. Những chàng trai Mông
mắt sáng, mày sắc, mạnh mẽ tài hoa, các chàng trai hào hoa ấ còn bộc lộ tình yêu một
cách khẳng khái, bộc trực đến “ chín rụng cõi lòng” đam mê yêu đương mãnh liệt:
“Nếu ta là bông tuyết trắng


Ta xin tan dưới bàn chân nàng
Là chàng trai rừng núi
Ta xin tan trên thân thể nàng”
( Mã A Lềnh)
Đề tài về tình yêu là đề tài hay của thơ ca Mông. Họ yêu nhau vì bản tính chân
thực, yêu ghét rõ ràng. Khi yêu thì yêu đến đắm say còn khi ghét thì căm giận hết sức
quyết liệt “ kẻ nào bụng không tốt tỏ lời từ trong quả bầu ta sẽ bóp chết ngay từ trong
trứng” ( Mùa A Sấu) . Nhưng đó lại là một nét đặc trưng của người dân tộc thiểu số, nói
những suy nghĩ nói thẳng, nói thật không e dè, vòng vo, bóng bẩy. Bản tính chân thực
của người Mông đi vào thơ ca Mông và nó đã trở thành một nét bản sắc để người đọc
thấy yêu thích thơ ca Mông. Thơ ca Mông còn to điểm lên vẻ đẹp hình thể của con
người với những bước đi chắc nịch “ đôi chân trần đạp trên đá sắc” ( Mã A Lềnh), họ
luôn mạnh mẽ và không bao giờ khuất phục trước khó khăn đó chính là bản lĩnh kiên
cường của người Mông. Tuy nhiên, bằng sự khéo léo và tài hoa thì người Mông còn yêu
ca hát, yêu âm nhạc mà khèn Mông và múa Xòe là những nét đặc trưng riêng biệt của
người Mông, họ cho rằng “ không xòe lúa không tốt, không xòe thóc không đầy bồ” nen
người Mông họ yêu nghệ thuật. Nghệ thuật cũng được đi vào thơ ca Mông một cách êm
dịu:

“Nhớ buổi tiễn chân ta qua đồi
Em ngắt lá thổi bài kèn réo rắt”
(Dân ca Mông)
Đề tài về cuộc sống của người Mông. Cuộc sống du canh du cư nghèo đói và lạc
hậu đã dần qua nó đã hun đúc cho con người những phẩm chất và ý chí. Giờ đây chính


vì họ có ý chí kiên cường đó mới tạo nên thành quả đó là một cuộc sống ổn định, ấm no
và đủ đầy hơn trước. Mạnh mẽ trong lao động sản xuất để tạo ra bắp ngô, hạt thóc nơi
cao nguyên khắc nghiệt “ Be vờ ruộng bậc thang mỗi năm một vụ” ( Mã Én Hằng), âm
vang của cuộc sống thời đổi mới vang vọng trong thơ Mông hiện đại với những giai
điệu ngọt ngào “ Đồi nương ngô chín vàng / rộn ràng từng hốc đá” họ luôn thích khám
phá, tìm tòi nên thành quả của họ thu được là tất yếu, người Mông luôn yêu quê hương,
tự hào về quê hương mình và Bác Hồ cũng được các nhà thơ ca ngợi hết sức tôn vinh
mà gần gũi qua bài thơ “Người Mông nhớ Bác” ( Mã A Lềnh). Cuộc sống bình yên ấy
đã no ấm ngấm vào tim vào não người Mông để họ ca vang bài ca hạnh phúc:
Từ đá
Sinh ra những chàng thi sĩ
Hát về đất trời, tình yêu của mình
( Đá ở Sa Pa – Mã A Lềnh)
Cuộc sống phát triển nên con người được làm chủ bản thân và tương lai mình, được tự
do học hành niềm vui phơi phới. Những cô gái Mông ngây thơ giờ đây đã thành những
cô giáo toát lên một vẻ đẹp lạ thường và cái nhfn hoàn toàn khác về ngườu phụ nữ dân
tộc thiểu số. Họ đem cái chữ đến với dân tộc mình làm cho hình ảnh thơ thêm phần thi
vị về cuộc sống trong xã hội mới:
“Đom đóm thắp đuốc dầu
Đom đóm thắp đuốc sáng
Sáng soi Vần Chải những mái nhà tranh
Đấy là cô giáo Gầu Mông
Tay giỏi cầm sách



Tay trắng cầm đèn
Đi dạy học xuống giữa thôn”
( Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải – Hùng Đình Quý)
Đề tài ca ngợi và biết ơn chữ, Bác Hồ, Đảng, Chính phủ được các nhà thơ Mông
đặc biệt quan tâm vì lớp thế hệ người nhà thơ Mông sống trong hòa bình nên hiểu sâu
sắc giá trị cuộc sống , hểu rõ cái nghèo. Người Mông cho rằng học tự hào vì có chữ nên
thể hiện tấm lòng tri ân với Đảng và bác Hồ:
“Có chữ giúp ghi lại cuộc đời
Học chữ người Mông nhớ công ơn Đảng khôn nguôi
Có chữ giúp ghi lại cuộc sống
Học chữ người Mông nhớ công ơn Bác Hồ mãi mãi”
(Người Mông có chữ)
Lòng biết ơn là môt thứ tình cảm đặc biệt và nổi trội luôn được biểu hiện một cách chân
thành và cảm động trong thơ ca Mông. Các tác giả Mông đã dùng cây bút để bày tỏ tâm
tình của mình đối với Cách mạng và bác Hồ đã đem ánh sáng đến các bản làng, mang
lại cuộc đời mới, nguồn sinh lực mới thể hiện qua một số bài thơ: Ơn Đảng (1969), Nhớ
Bác Hồ (1969), Nhớ đến Chính phủ… Những baif thơ đều tỏ lòng biết ơn đối với Đảng,
Chính phủ và Bác Hồ
b.Những mạnh nguồn cảm hứng thơ ca Mông
Cảm hứng là trạng thái tâm lý đặc biệt khi sức chú ý được tập trung cao độ kết hợp
với cảm xúc mãnh liệt, tạo điều kiện cho óc tưởng tượng và năng lực sáng tạo hiệu quả
nhất ( Từ điển Tiếng Việt)


Thơ ca dân tộc Mông không chỉ mở rộng phạm vi chủ đề, đề tài gắn với sự thay
đổi và phát triển của cả cộng đồng mà đó còn là quá trình tìm đến cái đặc trưng và khác
biệt của dân tộc Mông đểthấy được dân tộc Mông đầy cá tính và bản lĩnh núi rừng .Bởi
vậy khi xem xét thơ ca dân tộc Mông từ truyền thống đến hiện đại bởi các gia đoạn lịch

sử thấy được sự chuyển mình rõ rệt của thơ ca Mông: Nó bắt đầu đi từ cảm hứng cảm
thương – bi kịch rồi đến cảm hứng trữ tình ngợi ca và bao trùm lên cả đó là một cảm
hứng suy tư – chiêm nghiệm nó mang nét đặc trưng thể hiện tư duy nổi bật và đậm đà
bản sắc Mông.
Trước hết là cảm hứng cảm thương – bi kịch là những rung động mạnh, sự thương
cảm sâu sắc về những hiện thực nghiệt ngã bi kịch của xã hội. Cảm hứng này giũa vai
trò chủ đạo của thơ ca Mông trước Cách Mạng. Vì trước Cách mạng cuộc sống của con
người khi ấy còn là hình thức du canh du cư nên họ luôn bị bất ổn về cuộc sống, niềm
tin dường như bị đánh cắp khiến cho họ sống khép kín ít cở mở, giao lưu với bên ngoài.
Sự “khép lòng” của người Mông đã tác động không nhỏ đến thơ ca vì vậy, thơ ca Mông
truyền thống chủ yếu viết theo lối giãi bày tâm trạng và giọng điệu chủ đạo là những
tiếng than. Nó được thể hiện qua những câu truyện thơ đau khổ bất tận. cảm hứng bi
thương này còn là sự soi chiếu bi kịch nghiệt ngã của lịch sử đó là sự ám ảnh mất tự do,
mặc cảm tâm lí tự ti dân tộc:
Người Hmông ta ở Quí Chân đến
Vì người Hmông ta không có chữ
Thua kiện người Hán ta mới đi
Người Hán có chữ
Người Hán ăn không hết tài hết phép
Người Hmông không có chữ


Quanh năm suốt tháng cơ hàn
(Dân ca Hmông)
Bi kịch cộng đồng của người Mông đó là địa hình không ưu ái cho họ phát triển kinh tế
như các vùng khác núi chồng lên núi, đá nằm trên đá, khí hậu khắc nghiệt: Từ một đến
hai tháng tuyết phủ trắng phau/Giống nương, giống rẫy khoanh tay, xếp chân, co ro ngồi
(Dân ca Hmông) nhưng họ vẫn kiên trì, chịu đựng dẻo dai để chống lại những thách
thức của thiên nhiên. Ngoài ra một bi kịch nữa cũng được nói đến trong cảm hứng bi
thương đó là thân phận và quyền sống của con người, đó là bi kịch của những con người

cô đơn, bi kịch của những người phụ nữ đáng thương trong xã hội phụ quyền không thể
tự mình quyết định tương lai và số phận của bản thân mình và họ cũng chẳng thể nào
thực hiện được ước mơ, những người phụ nữ bị chà đạpkhông có chuyện tự do yêu
đương và chọn lựa hạnh phúc. Biết bao những lứa đôi yêu nhau tha thiết để rồi phải chia
lìa nên bi kịch tình yêu cũng từ đó mà nảy sinh. Từ những kịch thì sẽ sinh ra sự phản
kháng của con người giống như câu nói “ ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh” nhưng
họ đấu tranh một cách tiêu cực và qua hành động phổ biến là tự tử bằng lá ngón. Bởi
vậy, hình ảnh lá ngón và cái chết cũng được xuất hiện nhiều trong thơ ca Mông trước
kia. Người Hmông thường tìm đến cái chết bằng cách ăn lá ngón. Hình tượng cây lá
ngón hoa vàng trở nên quen thuộc trong thơ ca Hmông như một phương thuốc hữu hiệu
cho sự giải thoát khỏi cuộc đời và số phận:
“Em ơi! Chị ngắt lá thuốc độc đắng thật đắng
Đưa lên mồm, nuốt ực cho nát quách lá gan
Chị ngắt lá thuốc độc cay thật cay
Đưa lên miệng nuốt ực...”


Cái chết là biểu hiện của cảm hứng cảm thương trước số phận bi kịch của con
người, nó làm cho người đọc thêm đồng cảm và xót xa cho những bất hạnh của thân
phận con người Mông trong xã hội cũ. Tuy nhiên “tiếng hát tình yêu” (Gầu Plềnh) đã
mở ra nguồn sống cho thơ ca Mông dù mong manh của ước mơ, hy vọng nhưng cũng
làm bùng cháy được cảm xúc con người.
Thơ ca đối với dân tộc Hmông, trước cách mạng tháng Tám, chỉ là phương tiện để
bộc lộ, giãi bày tâm trạng chứ không phải là phương tiện để nhìn nhận cuộc sống một
cách phong phú, đa dạng. Bước sang thời kì hiện đại, thơ ca Hmông có một bước
chuyển mình quan trọng. Từ điểm nhìn mang tính hướng nội đã được thay thế bằng
điểm nhìn xã hội mang tính hướng ngoại, mà dấu ấn rõ rệt nhất là từ phương diện cảm
hứng nghệ thuật.
Thứ hai đó là cảm hứng trữ tình ngợi ca. Sau cách mạng tháng Tám, khi số phận
cộng đồng Hmông có sự thay đổi, cảm hứng cảm thương – bi kịch mới dần dần mất đi

và thay vào đó là cảm hứng trữ tình- ngợi ca. Đồng bào miền núi nói chung và đồng bào
dân tộc Hmông nói riêng cũng đã thoát khỏi cảnh đời tăm tối để bắt tay vào xây dựng
một cuộc sống mới, một tương lai mới cho dân tộc mình.Chính vì vậy mà cảm hứng nổi
trội nhất trong thơ ca dân tộc Hmông thời kỳ hiện đại là cảm hứng ngợi ca cuộc sống
mới do Cách mạng, Đảng và Bác Hồ đem lại.
Thơ ca Hmông thời kì hiện đại là một bài ca ca ngợi cuộc sống và tình yêu mà biểu
hiện sâu sắc và chân thực nhất là lòng biết ơn. Dường như, với các tác giả người Hmông
bằng ngòi bút của mình họ luôn thể hiện được tấm lòng của mình, của dân tộc mình,
lòng biết ơn đối với Cách mạng đã khai sinh cho người Hmông có được một cuộc đời
mới. Hùng Đình Quí có các bài thơ Người Mông có chữ (1968), Ơn Đảng (1969), Nhớ
Bác Hồ (1969)… Cuộc sống dần văn minh, xoá bỏ những hủ tục cũ kỹ, lạc hậu là đối
tượng miêu tả, biểu hiện của các nhà thơ Hmông. Những thửa ruộng bậc thang lúa vàng


trĩu hạt; những mái trường có con em của người Hmông theo học, như những “bầy ong
tung tăng đi hút nhị hoa”; Những chính sách của Đảng tựa như những làn điệu dân ca
bay bổng, lay động, thấm sâu vào tâm hồn người Hmông. Cảm giác hân hoan của con
người khi được giải phóng, được tự do thật là kì diệu, để người Hmông có thể nhìn thiên
nhiên cũng thấy có tâm hồn, sự đồng điệu, say mê một cuộc sông bình lặng, trữ tình đến
lạ thường:
“Mặt trời nâng hoa mây
Bồng bềnh sáng núi đá”
(Mặt trời hoa mây - Giàng A Páo)
Cảm hứng trữ tình - ngợi ca cũng không phải chỉ mới xuất hiện trong thơ ca
Hmông thời kì hiện đại. Nó đã có mầm mống từ thơ ca dân gian Hmông rất rõ nét.
Trong những câu dân ca hay nhất của dân tộc Hmông, đều chứa đựng những nét trữ tình
lãng mạn. Đặc biệt là những lời ca về tình yêu, nó bộc bạch một cách trung thành các
trạng thái và cung bậc cảm xúc:
“Gió về gió thổi lá cây lật lả lướt bên khe
Nếu ta là hạt mưa hạt sương

Ta xin tan trên bàn tay nàng;
Đêm đã qua, sao lượn vòng đổi chỗ
Ngày đã rạng, lối đi đã toe
Ta lê bước về nhà
Mà hồn như còn ngủ ở thắt lưng em”
(Dân ca Hmông)


Cuộc sống của người Hmông không thiếu sự thơ mộng đến lãng mạn, những chủ
nhân của núi đá vùng cao có đời sống tinh thần phong phú, trước hết và trên hết, họ có
một tình yêu nồng nàn. Từ những đỉnh núi - cao nguyên vừa hùng vĩ nên thơ vừa rất đỗi
khắc nghiệt đã sinh ra những nhà thơ Hmông để cất lên những tiếng ca ca ngợi quê
hương và tình yêu của mình:
“Từ đá
Sinh ra những chàng thi sĩ
Hát ca về đất trời, tình yêu của mình”
(Đá ở Sapa - Mã A Lềnh)
Âm nhạc chính là một chất men say trong tâm hồn người Hmông. Người Hmông
yêu âm nhạc bằng một tình yêu gần như là bản năng, đầy chất nghệ sĩ. Cuộc sống của
đồng bào dân tộc Hmông không thể thiếu những tiếng khèn, tiếng đàn môi, kèn lá những nhạc cụ quen thuộc và gần gũi của dân tộc Hmông. Những chàng trai Hmông múa
khèn tài hoa như những nghệ sĩ đích thực trong các buổi chợ phiên, những đêm trăng
hay trong các lễ hội “Gầu tào”: “Điệu khèn vui xóm núi/ Tiếng đàn môi giục lòng”
(Giàng Xuân Hồ).Không kém phần điệu đà những thiếu nữ Mông cũng thả tâm tình trong
tiếng đàn môi dìu dặt, trong tiếng kèn lá ẩn chứa những tâm sự vui buồn: “Nhớ buổi tiễn
chân ta qua đồi/ Em ngắt lá thổi bài kèn réo rắt” (Dân ca Hmông). Âm nhạc Hmông dịu
dàng nhưng cũng sôi động đến từng cung bậc thanh âm, chót vót cao và thăm thẳm sâu.
Có lẽ đó cũng chính là cá tính của một dân tộc chứa bao điều bí ẩn trong tâm hồn.
Và cuối cùng là một cảm hứng bao trùm trong văn học Hmông đó là cảm hứng suy
tư – chiêm nghiệm. Thời kì đổi mới của đất nước nên thơ ca Mông cũng có sự chuyển
đổi rõ rệt về cảm hứng nghệ thuật, con người Hmông bắt đầu có những suy tư, chiêm

nghiệm, có sự quan tâm hơn đến những vấn đề mang tính thế sự, và cả nhu cầu tự bộc lộ


và khám phá bản thân.Thơ ca Mông đi vào chiều sâu trí tuệ bằng những suy nghĩ, cảm
nhận mang dấu ấn cá nhân rõ rệt. Họ ưa triết lí, nên trong thơ có yếu tố rất rõ của lí trí,
những triết lí về cuộc đời: Đời người như củ cải phơi nắng hay: Đời người như bóng
râm từ từ ngả bên đồi, hoặc: Mình ơi!/ Sống là khổ đấy/ Chết là nát tan… Nhà thơ Hùng
Đình Quí trăn trở với những giá trị đạo đức truyền thống, những tinh hoa văn hoá của
người Hmông đã được gìn giữ từ bao đời. Ông khuyên người Hmông phải biết sống
thuỷ chung, tình nghĩa hay ông còn khẳng định một chân lí vĩnh hằng trong quan niệm
về sự sống và cái chết của người Mông. Còn đối với nhà thơ Mã A Lềnh quan tâm đặc
biệt đến những vấn đề tưởng như bình dị, nhưng rất đỗi lớn lao của dân tộc mình: Phát
hiện những nét đẹp trong sự lặng thầm nhỏ bé của con người và cuộc sống rất đỗi đơn
sơ, bình dị đó chỉ là một tiếng gà gáy,tiếng chim và chỉ là một “Bữa cơm Hà Giang”.
Đó còn có thể là nỗi cô đơn thoáng chốc khi chiều về “ Cũng cô đơn, cháy sáng hết
mình”. Đó còn là cái lạnh vùng cao, những hủ tục, tệ nạn hay niềm tin mù quáng…
Chung quy lại thì ông luôn suy tư, trăn trở về số phận và tương lai của dân tộc mình, để
rồi chiêm nghiệm và khẳng định: “Ở đâu có bầu trời/ đó là Tổ quốc”. Ông bằng lòng và
ca ngơi sự lựa chọn cuộc sống như là một nét đặc trưng riêng của dân tộc mình: “Chiếc
nôi êm là tảng đá giữa non ngàn”. Ở đó, con người sống đơn giản, tự do bộc lộ những
vui buồn của mình.Họ còn có bản lĩnh và ý chí, đó chính là cội nguồn sức mạnh của dân
tộc Hmông. Đặc biệt, hình ảnh người đàn ông dân tộc Mông với đôi chân trần đạp trên
đá sắc và mái đầu trơ một chỏm đá hoang là sự bộc lộ sâu sắc vùng đất và con người
Mông miền sơn cước.
Có thể nói cảm hứng này đã góp phần tạo nên những câu thơ có dấu ấn rất rõ của lí
trí, của triết lí nhân sinh trong thơ của các nhà thơ Hmông thời kì hiện đại. Từ đó, dấu
ấn xã hội hiện đại hiện lên rõ ràng và chân thực. Mặc dù triết lí song thơ của các tác giả
Hmông vẫn mang nét bản sắc rất rõ, đó là điệu tâm hồn của dân tộc. Tóm lại, thơ ca
Mông với những cảm hứng nghệ thuật đã góp phần bộc lộ một cách sâu sắc và chân



thực con người và cuộc sống , cảm hứng nói trên không tồn tại độc lập mà có sự đan
xen, tiếp biến trên hành trình vận động từ quá khứ tới hiện tại. các cảm hứng nghệ thuật
đó đã tạo nên sự đồng điệu tâm hồn nhằm thấy được cái nhìn đa chiều của thơ ca Mông
qua các giai đoạn lịch sử.
3.2. Nghệ thuật thơ ca dân tộc Hmông.
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nói “ Thơ ca Mông là công cụ thực dụng trong đời
sống, chứ không phải chỉ giúp cho con người đôi cánh hư ảo để bay lên trên , thoát ra
ngoài. Đời sống do đó vào cụ thể, tràn đầy trong thơ”. Trải qua một quá trình tôi luyện
và không ngừng làm mới thơ ca dân tộc Mông nên thơ ca giờ đay không phải là tiếng
thở than, giãi bày tình cảm của con người mà nó chính là những cảm xúc chân thành và
tình cảm thiết tha yêu cuộc sống, yêu dân tộc. Nhà thơ chính là người đại diện cho tư
tưởng, tình cảm và nói thay tiếng nói của dân tộc Mông.
3.2.1. Sự tiếp thu, ảnh hưởng dấu ấn của văn học dân gian
Sức sống của thơ ca dân gian lan tỏa đến từng người, từng nhà, từng bản làng thôn
xóm, từng vùng miền nên vấn đề ảnh hưởng văn hóa, văn học dân gian là hết sức bình
thường. Đối với dân tộc Mông có cả kho tàng thơ ca dân gian vì thế sự tiếp thu chọ lọc
mang đến những cái mới lạ cho thơ ca Hmông hiện đại
Thơ ca dân tộc Mông mang đậm chất dân ca truyền thống. Việc vận dụng các hình
thức diễn đạt dân gian, có khi là các nhà thơ đã mượn nguyên hình thức diễn đạt của
dân ca như một cách viết lời của những làn điệu dân ca truyền thống của người Mông.
Lời thơ như thỏ thẻ tâm tình, nhẹ nhàng như giai điệu được toát lên qua những câu thơ:
“Vòm trời trên mây quang
Vòm trời dưới sao sáng
Mùa xuân này ta còn gặp nhau
Cuộc hát giao duyên này ta còn có bạn
Khéo rồi mai mình đi đường mình ta đi đường ta mau
Đôi ta chẳng còn được lấy tay che mắt nhìn nhau”
( Hội Xuân – Mã A Lềnh)



Mặc dù không sử dụng cụ thể những câu tục ngữ, ca dao hay những hình thức làn điệu
quen thuộc của dân ca Mông nhưng trong tâm hồn nhà thơ đã có sự hòa quyện giữa
truyền thống và hiện đại mà lại thể hiện được tâm hồn mê say. Mỗi bài thơ như một bản
nhạc trữ tình lúc thì đắm say, lúc lại trầm tư sâu lắng:
“Lời hát sắp hết lời hát lại về
Ta đang chung lòng dù mai có xa cách nhau
Lời hát sắp hết lời hát lại đến ngay
Ta đã kết thân với nhau dù mai có chia ta ta cũng
nhớ cuộc hát giao duyên này”
(Hội Xuân - Mã A Lềnh)
3.2.2. Kết cấu trong thơ Hmông
Kết cấu bài thơ là sự biểu đạt những đặc điểm tâm lý, bày tỏ tình cảm cũng như ý
nghĩa cả bài thơ. Bài thơ có thể theo hai xu hướng kết cấu: xu hướng kết cấu truyền
thống và xu hướng kết cấu hiện đại.
Chịu ảnh hưởng của dân ca thơ Mông hiện đại mang hơi hướng của lối trò chuyện,
giãi bày, tâm sự. Điều nhận biết được là các nhà thơ ở đay sử dụng lối kết cấu đối đáp
như một nhu cầu để thổ lộ, bày tỏ cảm xúc của nhân vật. Nhiều bài thơ mang dấu ấn trò
chuyện, đối đáp:
“Em gầu Mông
Người Kinh người Tày cũng khó khăn
Những nói đến con đường học
Anh em đi rầm đường
Còn ta cứ giả như không biết gì
Thế định làm người hay làm con ma?”
(Phải học – Hùng Đình Quý)


Có thể nói nhà thơ Hùng Đình Quý là nhà thơ mà chịu ảnh hưởng sâu sắc của thơ ca
truyền thống dân tộc Mông. Kết cấu đối đáp chủ yếu sử dụng phép đối ý, đối lời để tạo

nên đối câu thơ, đối đoạn thơ nhằm nhấn mạnh nội dung và nghệ thuật. Có thể thấy qua
bài thơ “ Đợi chờ” của Hùng Đình Quý, bài thơ dài 42 khổ, khổ ít nhât 4 câu và dài nhất
26 câu. Cả bài thơ là hình thức đối của “Anh trai Mông” và “Em gái Mông” với một
giọng điệu sâu lắng. Hình thức đối đã thấy được nội dung hay và ý nghĩa đẹp của bài
thơ.
Ngoài kết cấu đối đáp thì thơ ca Mông còn tiêu biểu với kết cấu trùng điệp, nó là
một hình thức nghệ thuật tiêu biểu trong thơ hay còn có kết cấu “đánh rơi”. Đó là sự lặp
lại chi tiết, hình ảnh, câu thơ, hay diện mạo, nội tâm và hành động nhân vật trữ tình. Sử
dụng kết cấu này tùy thuộc vào mức độ đậm nhạt của mỗi tác giả. Đây là sự kế thừa tinh
hoa truyền thống dân tộc vì thơ ca dân gian rất hay sử dụng kết cấu này:
Bố mẹ sinh ra em nổi tiếng xinh đẹp
Ta thường lấy núi đồi làm thang bắc lên thăm
Bố mẹ sinh ra em lừng danh tươi giòn
Ta thường lấy núi đồi làm thanh bắc lên hỏi
( Dân ca Mông)
Lối kết cấu này tạo nên mạch nguồn cảm xúc thi ca, nó như một sự khẳng định, nhấn
mạnh vấn đề. Sự lặp lại từ ngữ nhưng đều có sự biến đổi nên không bị nhàm chán, đơn
điệu ngược lại nó còn làm cho câu thơ thêm phần sinh động thấy rõ hơn ý đồ nghệ thuật
của tác giả.
3.2.3.Tính trần thuật


×