Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của luật thương mại việt nam năm 2005 và các quy định của pháp luật quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.14 KB, 14 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

vũ khắc th-

hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
theo quy định của luật th-ơng mại việt nam
năm 2005 và các quy định của pháp luật quốc tế
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 60 38 60

luận văn thạc sĩ luật học

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Bùi Xuân Nhự

Hà nội 2009

1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề
Trong quá trình hội nhập sâu và rộng của nền kinh tế nước ta với các
nên kinh tế thế giới hiện nay, đặc biệt là sau thời điểm Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO). Quan hệ thương mại toàn diện giữa các tổ
chức, cá nhân Việt Nam với các tổ chức, cá nhân nước ngoài ngày càng mở
rộng, nhất là trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ. Do
đó, hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta rất đa dạng bao gồm mua bán


hàng hóa quốc tế (MBHHQT), đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ, hợp
tác lao động quốc tế... Trong đó, MBHHQT là hoạt động phổ biến và quan
trọng nhất trong bối cảnh Việt Nam đã, đang và sẽ ký kết nhiều điều ước quốc
tế về thương mại trong khuôn khổ của WTO và của nhiều tổ chức quốc tế
khác như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)…
Các quan hệ MBHHQT giữa các chủ thể hiện nay được thể hiện dưới
hình thức pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (HĐMBHHQT) hay
còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu (HĐXNK). Quan hệ HĐMBHHQT là
quan hệ pháp lý quan trọng trong việc xác lập căn cứ pháp lý cho các hoạt
động MBHHQT của các chủ thể. Hoạt động thương mại hàng hóa chủ yếu
thông qua các hợp đồng mua bán hàng hóa và giữ vị trí trung tâm trong các
giao dịch thương mại quốc tế, HĐMBHHQT là dạng hợp đồng được các chủ
thể của quan hệ thương mại quốc tế sử dụng phổ biến và thường xuyên nhất
trong trong các hoạt động thương mại của mình. Do đó, các quan hệ này đã
được pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật của Việt Nam cũng như
pháp luật các nước trên thế giới, các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế...
Đối với Việt Nam, đã xác định xây dựng và hoàn thiện chế độ pháp lý
về HĐMBHHQT là một vấn đề rất quan trọng trong tiến trình xây dựng và

2


hoàn thiện pháp luật thương mại quốc tế ở nước ta. Trong điều kiện cạnh
tranh gay gắt hiện nay, các quan hệ MBHHQT chỉ mang lại hiệu quả kinh tế
xã hội khi nó được thiết lập dựa trên chế độ pháp lý về HĐMBHHQT chặt
chẽ, hợp lý và sự hiểu biết sâu sắc của các chủ thể tham gia về pháp luật nói
chung, pháp luật HĐMBHHQT nói riêng. Nhận thức được tầm quan trọng
này, nhà nước đã ban hành Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại năm 2005
trong đó các quy định về hợp đồng và HĐMBHHQT đã được quy định chi tiết

cho phù hợp hơn các các quy phạm pháp luật quốc tế.
Tuy nhiên, chỉ trong thời gian ngắn sau khi Việt Nam gia nhập WTO
trước những thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế đối
ngoại và những tác động và ảnh hưởng sâu sắc của nền kinh tế thế giới, pháp
luật về HĐMBHHQT của Việt Nam đã bộc lộ những hạn chế, gây khó khăn
cho các chủ thể kinh doanh khi tham gia quan hệ MBHHQT. Thêm vào đó,
hiểu biết về luật pháp nói chung, pháp luật về HĐMBHHQT nói riêng của các
chủ thể kinh doanh còn hạn chế làm giảm hiệu quả của hoạt động MBHHQT.
Luật Thương mại năm 2005 về cơ bản đã có các quy định về hoạt động
mua bán hàng hóa và HĐMBHHQT đã được sửa đổi toàn diện cho phù hợp
với thực tiễn quan hệ kinh tế đã đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi đặt ra về
mặt pháp lý. Tuy nhiên, việc triển khai thực thi, áp dụng có hiệu quả quy định
này trong hoạt động MBHHQT mới là vấn đề quan trọng giúp cho các quy
định này thực sự đi vào cuộc sống và phát huy vai trò của mình.
Đồng thời cũng cần phải tìm hiểu và nghiên cứu trong quan hệ so sánh
với các quy định của pháp luật các nước, điều ước quốc tế, tập quán

quốc tế

về HĐMBHHQT mới mang lại nhận thức toàn diện và sâu sắc về những vấn
chế độ pháp lý của quan hệ hợp đồng.
Do vậy, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ nội dung và hoàn thiện chế độ
pháp lý nâng cao khả năng nhận thức và vận dụng pháp luật Việt Nam và pháp
luật quốc tế vào các quan hệ pháp lý về HĐMBHHQT là nhiệm vụ quan trọng
và cần thiết hiện nay nhằm ổn định các quan hệ HĐMBHHQT và đảm bảo sự

3


tham gia có hiệu quả của các chủ thể kinh doanh vào quan hệ MBHHQT hạn

chế thấp nhất những rủi ro và tranh chấp.
Những điều dẫn ở trên là lý do chúng tôi chọn đề tài "Hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế theo quy định của Luật Thương mại Việt Nam năm
2005 và các quy định của pháp luật quốc tế" để nghiên cứu trong khuôn khổ
luận văn thạc sĩ của mình.
Với đề tài này, chúng tôi đi sâu phân tích về lý luận và thực tiễn, những
vấn đề pháp lý cần lưu ý trong quá trình ký kết và thực hiện HĐMBHHQT,
đồng thời làm rõ những hạn chế của các chủ thể kinh doanh trong việc
nhận thức và áp dụng pháp luật về HĐMBHHQT qua đó góp phần nhỏ bé vào
việc đổi mới và hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi của pháp luật trong
thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2.1. Mục đích
Trên cơ sở những tri thức đã tiếp thu được trong học tập, nghiên cứu
và thực tiễn công tác, đề tài góp phần làm sáng tỏ vấn đề pháp lý trong việc
thực thi áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế
trong quá trình ký kết và thực hiện HĐMBHHQT, giải quyết tranh chấp phát
sinh có liên quan. Qua đó tìm ra những giải pháp thiết thực và hữu hiệu nhất
để từng nâng cao nhận thức, kỹ năng vận dụng có hiệu quả pháp luật về
HĐMBHHQT trong thực tiễn kinh doanh ở nước ta.
2.2. Nhiệm vụ
Việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận
về nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về
HĐMBHHQT và thực tiễn áp dụng các quy định này, từ đó phát hiện những
tồn tại và nguyên nhân của nó từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao
nhận thức và kỹ năng áp dụng pháp luật về HĐMBHHQT.

4



3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài giới hạn trong những quy định của pháp
luật Việt Nam, pháp luật một số quốc gia có quan hệ thương mại song phương
với Việt Nam, một số điều ước quốc tế, tập quán quốc tế vê HĐMBHHQT
được áp dụng phổ biến hiện nay trong quan hệ MBHHQT.
4. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là dựa trên phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành bằng các phương pháp nghiên
cứu như:
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp quy nạp.
- Phương pháp tổng hợp, phản ánh thực tiễn và rút ra kết luận.
5. Tình hình nghiên cứu, những điểm mới và ý nghĩa thực tiễn của
đề tài
Cho đến nay, vấn đề HĐMBHHQT đã có một số công trình, bài báo,
tạp chí nghiên cứu. Các công trình này đã đề cập đến khái niệm, bản chất,
những lưu ý khi ký kết và thực hiện, những hạn chế của pháp luật Việt Nam
về HĐMBHHQT... ở những mức độ khác nhau. Điều này được thể hiện trong
các công trình của một số nhà khoa học như: Giáo trình trình pháp luật trong
hoạt động kinh tế đối ngoại - Trường Đại học Ngoại thương, 1997; Giáo trình
Luật Thương mại Việt Nam - Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006; Tư pháp
quốc tế Việt Nam và vấn đề dẫn chiếu trong lĩnh vực hợp đồng, của tác giả Đỗ
Văn Đại... Tuy nhiên, những công trình này nhìn chung mới chỉ tháo gỡ, giải
quyết những vấn đề mang tính lý luận, nhiều vấn đề có tính chất tổng thể liên
quan đến thực tiễn áp dụng pháp luật và thực hiện HĐMBHHQT còn chưa

5



được giải quyết. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này một cách cơ bản là rất
thiết thực, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của WTO và một số
tổ chức quốc tế khác.
Với mong muốn đưa ra một sự phân tích sâu và rộng về mặt lý luận và
thực tiễn, những vấn đề pháp lý cần lưu ý khi ký kết, thực hiện và giải quyết
tranh chấp HĐMBHHQT, đồng thời làm rõ những bất cập trong thực tiễn
nhận thức và áp dụng của pháp luật về HĐMBHHQT, tác giả rút ra những
kiến nghị, đổi mới tư duy, kỹ năng áp dụng, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực
hiệu quả thực thi chế độ pháp lý về HĐMBHHQT.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về HĐMBHHQT.
Chương 2: Các quy định của Luật Thương mại Việt Nam 2005 và pháp
luật quốc tế về HĐMBHHQT.
Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
HĐMBHHQT nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động MBHHQT ở
Việt Nam.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ

1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA QUỐC TẾ


1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 chưa định nghĩa về HĐMBHHQT,
nhưng HĐMBHHQT trước hết là hợp đồng mang đầy đủ những đặc điểm của
hợp đồng mua bán tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm
2005: hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên
bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa
vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán.
Đồng thời, HĐMBHHQT còn mang các đặc trưng cơ bản của hợp đồng
thương mại quốc tế. Tính quốc tế của quan hệ chính là điểm khác biệt của
HĐMBHHQT với hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường. Tính quốc tế có
thể được quy định khác nhau trong pháp luật của các quốc gia, pháp luật quốc
tế nhưng tựu chung lại đó là các yếu tố nước ngoài liên quan đến quốc tịch,
nơi cư trú hoặc trụ sở của các chủ thể, liên quan đến nơi xác lập quan hệ hợp
đồng, nơi thực hiện hợp đồng hoặc nơi có tài sản là đối tượng của hợp đồng.
HĐMBHHQT mang những đặc trưng cơ bản của hợp đồng mua bán
tài sản, tức là có sự thỏa thuận giữa bên bán và bên mua, nhằm xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quan hệ mua bán, hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng
song vụ, có đền bù [28, tr. 207] Về bản chất, hợp đồng mua bán tài sản là sự
thỏa thuận giữa ít nhất là hai bên. Sự thỏa thuận này có thể bằng lời nói hoặc
bằng văn bản. Chủ thể của hợp đồng mua bán tài sản là người bán và người
mua. Người bán và người mua có thể là thể nhân, pháp nhân hoặc cũng có thể
là Nhà nước. Nội dung của hợp đồng là toàn bộ nghĩa vụ của các bên xung

7


quanh việc chuyển giao quyền sở hữu về hàng hóa từ người bán sang người
mua, xung quanh việc làm thế nào để người bán lấy được tiền và người mua
nhận được hàng… Xét về tính chất pháp lý, hợp đồng mua bán tài sản là loại
hợp đồng song vụ, có bồi hoàn và là hợp đồng ước hẹn. Những đặc trưng này

là điểm phân biệt giữa HĐMBHHQT với các loại hợp đồng được ký kết trong
các lĩnh vực khác của thương mại quốc tế như dịch vụ, đầu tư... Luật pháp của
các nước trên thế giới đều có quan điểm thống nhất với nhau về những điểm
nêu trên.
HĐMBHHQT được thực hiện dưới các hình thức hợp đồng xuất khẩu,
nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu. HĐMBHHQT
là sự thỏa thuận giữa các chủ thể có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau,
theo đó một bên gọi là bên bán có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu tài sản
cho một bên khác gọi là bên mua một tài sản nhất định gọi là hàng hóa; bên
mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng. Định nghĩa trên nêu rõ bản chất
của hợp đồng này là sự thỏa thuận của các bên ký kết.
Các chủ thể của HĐMBHHQT là bên bán và bên mua. Họ có trụ sở
kinh doanh ở các nước khác nhau. Bên bán giao một giá trị nhất định, và để
đổi lại, bên mua phải trả một đối giá cân xứng với giá trị đã được giao.
Ðối tượng của hợp đồng này là tài sản; do được đem ra mua bán tài
sản này trở thành hàng hóa. Khách thể của hợp đồng này là sự di chuyển
quyền sở hữu hàng hóa (chuyển chủ hàng hóa). Ðây là sự khác biệt so với hợp
đồng thuê mướn (vì hợp đồng thuê mướn không tạo ra sự chuyển chủ sở hữu),
so với hợp đồng tặng cho (vì hợp đồng tặng cho không có sự cân xứng giữa
nghĩa vụ và quyền lợi).
Tính chất quốc tế của HĐMBHHQT được hiểu không giống nhau tùy
theo quan điểm của luật pháp các nước.
Do đó, để xác định một hợp đồng mua bán là hợp đồng mua bán quốc
tế, các luật gia thường dựa trên một số tiêu chí như sau:

8


Thứ nhất, hợp đồng mua bán có tính quốc tế nếu trụ sở kinh doanh của
bên mua và bên bán được đăng ký tại hai quốc gia khác nhau.

Thứ hai, hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế nếu đối tượng của
hợp đồng là hàng hóa phải được giao tại một nước khác với nước mà hàng
hóa đó đang được tồn trữ hoặc sản xuất ra khi hợp đồng được ký kết.
Thứ ba, được coi là HĐMBHHQT khi:
+ Có sự vận chuyển hàng hóa là đối tượng của hợp đồng từ lãnh thổ
của quốc gia này sang lãnh thổ của quốc gia khác.
+ Tất cả các hành vi cấu thành sự chào hàng và sự ưng thuận không
được thực hiện trên lãnh thổ của cùng một quốc gia.
+ Sự giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của một quốc gia khác với
quốc gia mà ở đó các hành vi cấu thành sự chào hàng và sự ưng thuận đã được
hoàn thành. Quan điểm trên đã được đề nghị trong dự thảo luật Roma 1956.
Công ước Viên ngày 11/04/1980 đã không chấp nhận quan điểm trong
dự thảo luật Roma và chấp thuận tiêu chuẩn thứ nhất: Hợp đồng mua bán có
tính chất quốc tế khi hai bên có trụ sở tại hai quốc gia khác nhau. Dấu hiệu
quốc tịch của các bên không phải là yếu tố để phân biệt.
+ Theo Công ước Lahay năm 1964 về mua bán quốc tế những động sản
hữu hình, HĐMBHHQT là tất cả các hợp đồng mua bán trong đó các bên ký
kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng hóa được chuyển từ
nước này sang nước khác, hoặc là việc trao đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa các
bên ký kết được lập ở những nước khác nhau (Điều 1 Công ước) [27, tr. 144].
Như vậy, tính chất quốc tế, theo Công ước này gồm có:
- Chủ thể ký kết là các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau.
- Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng được chuyển hoặc sẽ được chuyển
từ nước này sang nước khác.
- Chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể được lập ở những nước
khác nhau.

9



Nếu các bên ký kết không có trụ sở thương mại thì sẽ dựa vào nơi cứ
trú của họ. Vấn đề quốc tịch của các bên không có ý nghĩa trong việc xác định
yếu tố nước ngoài của HĐMBHHQT.
Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế (United Nations Convention on Contracts for international
sale of goods, Vienna 1980) chỉ đưa ra một tiêu chuẩn để khẳng định tính chất
quốc tế của HĐMBHHQT, đó là các bên ký kết hợp đồng có trụ sở thương
mại đặt ở các nước khác nhau. Cũng giống như Công ước Lahay 1964, Công
ước Viên 1980 cũng không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên khi
xác định yếu tố nước ngoài của HĐMBHHQT.
Pháp luật một số nước Châu Âu, khi xác định tính chất quốc tế của
HĐMBHHQT, người ta căn cứ vào hai tiêu chuẩn kinh tế và pháp lý.
- Theo các tiêu chuẩn kinh tế, một hợp đồng quốc tế là hợp đồng tạo
ra sự di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước,
nói cách khác, hợp đồng đó thể hiện quyền lợi của thương mại quốc tế.
- Theo tiêu chuẩn pháp lý, một hợp đồng mua bán hàng hóa được coi
là HĐMBHHQT nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc
gia như quốc tịch của các bên, nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng, đồng tiền thanh toán...
Theo quy định pháp luật về hợp đồng của Pháp, một hợp đồng mua
bán hàng hóa mang tính quốc tế khi các bên ký hợp đồng này ở các nước khác
nhau, hoặc quá trình đàm phán hợp đồng diễn ra ở một nơi khác với ký kết
hợp đồng đó, hoặc có một khoản nộp quốc tế, dịch vụ chuyển khoản hay
chuyển hàng hóa từ một nước này đến một nước khác, tựu chung lại một hợp
đồng được gọi là HĐMBHHQT khi nó bao hàm các điều khoản gắn liền với
nhiều hệ thống luật.
Theo quy định tại Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương
mại quốc tế 2004 thì tính chất quốc tế của một hợp đồng có thể được xác định

10



bằng nhiều cách. Nếu như pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế đưa ra
nhiều phải pháp, từ việc căn cứ vào trụ sở hay nơi cư trú thường xuyên của
các bên tại các quốc gia khác nhau đến việc áp dụng những tiêu chí tổng quát
hơn như việc hợp đồng có các mối liên hệ mật thiết với hơn một quốc gia, hay
hợp đồng đòi hỏi sự lựa chọn giữa pháp luật của các quốc gia khác nhau, hay
hợp đồng có ảnh hưởng đến các lợi ích trong thương mại quốc tế. Trong quy
định của Bộ nguyên tắc UNIDROIT không nhấn mạnh bất cứ tiêu chí nào trong
các tiêu chí trên, theo Bộ nguyên tắc UNIDROIT thì quan niệm về các hợp
đồng thương mại quốc tế cần được giải thích theo nghĩa rộng nhất có thể, chỉ
loại trừ những trường hợp tất cả các yếu tố cơ bản của hợp đồng chỉ liên quan
đến một quốc gia, tức là không có bất kỳ một yếu tố quốc tế nào [17, tr. 32].
Đối với Việt Nam, khái niệm về HĐMBHHQT chưa được quy định
chính thức trong bất kỳ một văn bản pháp luật nào. Tuy nhiên, trong Quy chế
tạm thời số 4794 TN-XNK ngày 31/7/1991 của Bộ Thương nghiệp (nay là Bộ
Công thương) hướng dẫn việc ký kết HĐMBHHQT hay còn gọi là HĐXNK,
trong đó đưa ra ba tiêu chuẩn để hợp đồng mua bán được thừa nhận là
HĐMBHHQT, đó là:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng là các bên có quốc tịch khác nhau.
Thứ hai, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng thông thường được di
chuyển từ nước này qua nước khác.
Thứ ba, đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ đối với một
hoặc hai bên ký hợp đồng.
Khái niệm và cách hiểu này đã được thừa nhận trong thực tiễn hoạt
động MBHHQT của Việt Nam trong nhiều năm. Tuy nhiên, quy định trên khi
áp dụng vào thực tiễn hoạt động MBHHQT bộc lộ nhiều hạn chế và không
phù hợp.
Ví dụ 01: Một công ty ở Việt Nam ký hợp đồng bán hàng hóa cho một
thương nhân ở Nhật. Thương nhân này có trụ sở đặt ở Nhật nhưng vẫn mang


11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC

1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Thông tư số 32/TT-BNN
ngày 8/5 hướng dẫn thi hành Nghị định số 12/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 23/1/2006 về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, Hà Nội.
2. Bộ Thương mại (2006), Thông tư số 04/TT- BTM ngày 6/4 hướng dẫn thi
hành Nghị định số 12/NĐ-CP ngày 23 /01/2006 của Chính phủ về
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, Hà Nội
3. Bộ Thương mại và Du lịch (1994), Quy định số 229/TMDL-XNK ngày 09/4
về ký kết và quản lý Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Hà Nội.
4. Bộ Thương nghiệp (1991), Quy chế tạm thời số 4794 ngày 31/7 hướng
dẫn ký kết Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Hà Nội.
5. Chính phủ (1994), Nghị định 33/CP ngày 19/4 về quản lý nhà nước đối
với hoạt động xuất, nhập khẩu, Hà Nội.
6. Chính phủ (1998), Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7 quy định chi tiết
về xuất nhập khẩu, gia công, đại lý mua bán hàng hóa với nước
ngoài, Hà Nội.
7. Chính phủ (1999), Quyết định 242/1999/QĐ-TTg ngày 30/12 của Thủ tướng
Chính phủ về điều hành xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2000, Hà Nội.
8. Chính phủ (2006), Nghị định số 12/NĐ-CP ngày 23/01 quy định chi tiết thi
hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và
các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với
nước ngoài, Hà Nội.
9. Quốc hội (1997), Luật Thương mại, Hà Nội.

10. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
11. Quốc hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội.

12


12. Tổng cục Hải quan (1998), Thông tư 04-1998/TT-TCHQ ngày 29/8 hướng
dẫn thi hành Chương II, chương IV của Nghị định 57/1998/NĐ-CP
ngày 31/7/1998 của Chính phủ, Hà Nội.
13. Tổng cục Hải quan (1998), Thông tư 06-1998/TT-TCHQ ngày 03/9 hướng
dẫn thi hành đăng ký, quản lý sử dụng mã số doanh nghiệp tiến hành
hoạt động xuất, nhập khẩu, Hà Nội.
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC

14. Bộ luật Dân sự Pháp (2005), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
15. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan (quyển I - VI) (1995), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
16. Bộ luật thương mại và những ngoại lệ đặc biệt về kiểm soát của Nhật Bản
(The commercial code anh the audit special exceptions law of Japan)
(1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004
(2005), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
18. Các quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của ICC - ICC
uniform customs and practice for documentary creadits. Revision
1993 no 500 (viết tắt là UCP 500) (2006), Bản tiếng Việt kèm theo
phụ lục Giáo trình Thanh toán quốc tế - Trường Đại học Ngoại
thương, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội.
19. Kinh nghiệm thực tế giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại, hàng hải
(2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Kỹ thuật soạn thảo hợp đồng ngoại thương (1994), Nxb Thống kê, Hà Nội.

21. Luật mua bán hàng quốc tế (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2002), Đại cương pháp luật về hợp đồng, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
23. Những quy định chung của Luật hợp đồng ở Pháp, Đức, Anh, Mỹ (1993),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13


24. Những quy định pháp lý của Việt Nam và Công ước quốc tế về giao nhận
hàng hóa xuất nhập khẩu (1993), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
25. Võ Thu Thanh, Đoàn Thị Hồng Vân (2005), Incoterms 2000 & hỏi đáp về
Incoterms, Nxb Thống kê, Hà Nội.
26. Trung tâm thông tin - Tư liệu - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(1998), Luật Thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại, Hà Nội.
27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
28. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Thương mại quốc tế,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
29. Trường Đại học Ngoại thương (1997), Giáo trình Pháp luật trong hoạt
động kinh tế đối ngoại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Trường Đại học Ngoại thương (1997), Thực tiễn giải quyết tranh chấp
phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Bài học kinh
nghiệm, Hà Nội.
31. Trường Đại học Ngoại thương (2005), Giáo trình vận tải và giao nhận
trong ngoại thương, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
32. Trường Đại học Ngoại thương (2006), Giáo trình thanh toán quốc tế,
Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
33. Trường Đại học Ngoại thương (2007), Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại
thương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

34. Tuyển tập các văn bản pháp luật cơ bản về thương mại của Cộng hòa Pháp
(2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. UCP 600 ICC’s New Rules on Documentary Credits, Quy tắc thực hành
thống nhất về tín dụng chứng từ (có hiệu lực từ 1/7/2007), (Song ngữ
Anh - Việt), Nxb Thống kê, Hà Nội.

14



×