Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong truyện ngắn của kim lân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 142 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

DƢƠNG THỊ ĐẠT

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ MIÊU TẢ
CỬ CHỈ TRONG TRUYỆN NGẮN
KIM LÂN
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 602.20102

LUẬN
THẠC
SĨthể
KHOA
NGỮmục
VĂNlục
Bố cụcVĂN
của luận
văn
hiện HỌC
qua trang

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Văn Khang

SƠN LA, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Đặc điểm ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong


truyện ngắn Kim Lân” do thầy GS-TS. Nguyễn Văn Khang hướng dẫn là
công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả trong luận văn là
trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Dƣơng Thị Đạt


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Quý
thầy, cô, bạn, bè.
Trước tiên với lòng kính trọng, tôi xin được tỏ lòng biết ơn và gửi lời cám ơn
chân thành đến Thầy giáo GS. TS. Nguyễn Văn Khang người đã định hướng cho
chủ đề nghiên cứu và tận tình giúp đỡ tôi về mọi mặt để hoàn thành Luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu; các Thầy giáo, Cô giáo; cán bộ và
chuyên viên Phòng Sau Đại học - Trường ĐH Tây Bắc đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi
về các điều kiện trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo Sở Giáo dục - Đào tạo Sơn la, tập thể cán bộ
giáo viên Trường THPT Chiềng Sinh - TP. Sơn La - tỉnh Sơn La đã tạo điều kiện,
giúp đỡ để tôi được tham gia học tập, nghiên cứu.
Để có được kiến thức như ngày hôm nay, cho phép em gửi lời cảm ơn sâu
sắc đến Quý thầy, cô, các nhà khoa học trong thời gian qua đã truyền đạt cho em
những kiến thức quý báu. Trân trọng cảm ơn sự quan tâm của bạn bè, đồng nghiệp
đã cung cấp thông tin, tài liệu và hợp tác giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận
văn này.
Sơn La, tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn

Dƣơng Thị Đạt



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................................. 3
2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngôn ngữ theo quan điểm phân tầng xã hội .. 3
2.1.1. Các công trình nước ngoài nghiên cứu về sự phân tầng xã hội trong ngôn ngữ. ......4
2.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề phân tầng xã hội trong ngôn ngữ ở Việt Nam ................ 5
2.2. Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ nói chung ................................................... 7
2.2.1.Lịch sử vấn đề về ngôn ngữ cử chỉ nói chung .................................................... 7
2.2.2 Các công trình, các bài nghiên cứu của các tác giả nước ngoài ......................... 8
2.2.3. Các công trình, các bài nghiên cứu của các tác giả trong nước ............................... 10
2.3. Khái quát về tác giả tác phẩm: Kim Lân và truyện ngắn của tác giả......................... 12
2.3.1. Đôi nét về tác giả .............................................................................................. 12
2.3.2. Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ trong truyện ngắn Kim Lân .................. 14
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 16
3.1. Mục đích nghiên cứu: .......................................................................................... 16
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: ......................................................................................... 16
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 16
5. Phạm vi tư liệu khảo sát ......................................................................................... 17
6. Cấu trúc luận văn .................................................................................................... 17
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT .............................................................................. 18
1.1. Một số vấn đề về ngôn ngữ cử chỉ ....................................................................... 18
1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ cử chỉ ............................................................................... 18
1.1.2. Cơ chế hoạt động và tính chất của ngôn ngữ cử chỉ ......................................... 21
1.1.2.1.Cơ chế hoạt động của các yếu tố phi ngôn ngữ............................................... 21
1.1.2.2. Tính chất của ngôn ngữ cử chỉ ....................................................................... 23
1.1.3. Phân loại ngôn ngữ cử chỉ ................................................................................. 25
1.1.3.1. Phân loại theo ý nghĩa biểu hiện của ngôn ngữ cử chỉ ................................... 26
1.1.3.2. Phân loại theo các bộ phận thực hiện cử chỉ điệu bộ ..................................... 29



1.1.3.3. Phân loại ngôn ngữ cử chỉ theo mối tương quan của nó với ngôn ngữ bằng lời
(hay phân loại ngôn ngữ cử chỉ theo chức năng) ........................................................ 32
1.1.4. Chức năng của ngôn ngữ cử chỉ ........................................................................ 32
1.1.4.1. Ngôn ngữ cử chỉ có chức năng thay lời: ........................................................ 32
1.1.4.2. Ngôn ngữ cử chỉ có chức năng kèm lời ......................................................... 33
1.2. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ ...................................................................................... 35
1.2.1. Khái niệm ngôn ngữ miêu tả cử chỉ .................................................................. 35
1.2.2. Giá trị của ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong tác phẩm văn học .................... 35
1.2.2.1. Giá trị của ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong việc thể hiện nội dung tác phẩm và
cá tính nhân vật………………………………………………………….………….35
1.2.2.2.Giá trị của ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong việc thể hiện tài năng của tác giả .. 38
1.3. Sự phân tầng xã hội trong sử dụng ngôn ngữ ...................................................... 40
1.3.1. Sự phân tầng xã hội trong xã hội học ................................................................ 40
1.3.1.1. Khái niệm phân tầng xã hội ........................................................................... 40
1.3.1.2. Đặc trưng của phần tầng xã hội...................................................................... 41
1.3.1.3. Nguyên nhân của hiện tượng phân tầng xã hội .............................................. 41
1.3.1.4. Tính cơ động xã hội ....................................................................................... 42
1.3.2. Sự phân tầng xã hội trong sử dụng ngôn ngữ ................................................... 44
1.3.2.1. Sự phân tầng xã hội trong sử dụng ngôn ngữ nói chung ................................ 44
1.3.2.2. Sự phân tầng xã hội trong ngôn ngữ cử chỉ ................................................. 46
1.4. Mấy vấn đề về giới và giới tính trong ngôn ngữ .................................................. 47
1.4.1. Những khái niệm cơ bản về giới ....................................................................... 47
1.4.1.1. Giới và giới tính ............................................................................................. 47
1.4.1.2. Phương pháp tiếp cận giới.............................................................................. 47
1.4.2. Ảnh hưởng của giới tính trong ngôn ngữ nói chung ......................................... 48
1.4.2.1. Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt trong sử dụng ngôn ngữ của mỗi
giới…………………………………………………………………………………48
1.4.2.2. Biểu hiện của sự khác nhau về ngôn ngữ giữa nam và nữ ............................. 49

1.4.3. Ảnh hưởng của giới tính trong sử dụng ngôn ngữ cử chỉ nói riêng .................. 50
1.5. Quan niệm về cuộc đời, con người và văn chương của Kim Lân ........................ 50
1.5.1. Quan niệm về cuộc đời, con người và văn chương ........................................... 50


1.5.2 Ngôn ngữ nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân .................................................... 53
1.5.3 Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Kim Lân ........................................... 55

Tiểu kết chương 1 ……………………………………………….…………...55
Chƣơng 2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KHÁI QUÁT VỀ NGÔN NGỮ MIÊU TẢ CỬ
CHỈ TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN THEO PHÂN TẦNG XÃ HỘI ..... 58
2.1. Đặt vấn đề ............................................................................................................ 58
2.2. Khảo sát cụ thể .................................................................................................... 62
2.2.1. Phân loại ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong truyện ngắn Kim Lân theo giai cấp
và tầng lớp xã hội ....................................................................................................... 62
2.2.1.1. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của giai cấp vua quan, địa chủ phong kiến................. 64
2.2.1.2. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của tầng lớp tiểu tư sản ........................................ 68
2.2.1.3. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của giai cấp nông dân .......................................... 76
2.2.2. Phân loại ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong truyện ngắn Kim Lân theo nghề
nghiệp ......................................................................................................................... 87
2.2.2.1. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của vua chúa, quan chức ...................................... 90
2.2.2.2. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của chức sắc, chức dịch, viên chức ................. 91
2.2.2.3. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của người kinh doanh, buôn bán ......................... 92
2.2.2.4. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của nhà văn, nhà báo, diễn viên, cán bộ ...................... 95
2.2.2.5. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của những người thượng võ (đấu vật) ............. 99
2.2.2.6. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của những người làm ruộng, làm thợ ............ 103
2.2.2.7. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của người làm thuê, đi ở ........................................ 104
2.2.2.8. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của những đối tượng không rõ nghề nghiệp hoặc
không có nghề nghiệp............................................................................................... 106
2.3. Ý nghĩa của việc phân loại ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong truyện ngắn Kim Lân

theo phân tầng xã hội ................................................................................................. 107
2.3.1. Thể hiện đặc điểm từng loại nhân vật............................................................... 107
2.3.2. Thể hiện nghệ thuật độc đáo trong truyện ngắn Kim Lân................................. 108
2.3.3. Thể hiện đôi nét bộ mặt xã hội thuộc địa Việt Nam những năm 1930 - 1945
và xã hội Việt Nam trong những năm 1945-1975 .................................................. 110
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 111


Chƣơng 3. NGÔN NGỮ MIÊU TẢ CỬ CHỈ TRONG TRUYỆN NGẮN KIM
LÂN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ GIỚI ............................................................................ 112
3.1. Đặt vấn đề ......................................................................................................... 112
3.2. Khảo sát cụ thể ................................................................................................. 113
3.2.1. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của nữ giới .............................................................. 113
3.2.1.1. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của nữ giới trong ứng xử ở gia đình .................... 113
3.2.1.2. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của nữ giới trong ứng xử ngoài xã hội................. 119
3.2.2. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của nam giới ........................................................... 120
3.2.2.1. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của nam giới trong ứng xử gia đình..................... 120
3.2.2.2. Ngôn ngữ miêu tả cử chỉ của nam giới trong ứng xử ngoài xã hội .............. 123
3.2.3. Nhận xét .......................................................................................................... 128
3.2.3.1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ trong truyện ngắn Kim Lân
nhìn từ góc độ giới .................................................................................................... 128
3.2.3.2. So sánh phong cách ứng xử bằng ngôn ngữ cử chỉ ở hai giới trong truyện
ngắn Kim Lân ........................................................................................................... 129
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 130
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 131
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 133


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1.1. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt. “Ngôn ngữ chỉ có thể
phát sinh và phát triển gắn liền với xã hội, trong xã hội loài người. Ngoài xã
hội, ngôn ngữ không thể tồn tại được” [6, 14]. Sở dĩ như thế bởi ngôn ngữ
sinh ra và phát triển để phục vụ nhu cầu giao tiếp ngày càng phong phú của
con người. Do mối quan hệ phức tạp này mà bộ môn Ngôn ngữ học xã hội ra
đời, thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà ngôn ngữ học và đã
có những đóng góp phong phú, thiết thực vào việc nghiên cứu ngôn ngữ học
nói chung. Ngôn ngữ học xã hội là một bộ môn giáp ranh, các vấn đề nghiên
cứu của nó là sự giao thoa của nhiều ngành khoa học khác nhau như Xã hội
học, Lịch sử, Triết học, Văn hóa,…Chính sự liên ngành phong phú này đã mở
ra nhiều hướng nghiên cứu thú vị cho những vấn đề ngôn ngữ tưởng chừng như
đã cũ.
Ngôn ngữ học xã hội ra đời giải quyết một số vấn đề ngôn ngữ liên
quan tới xã hội như: hiện tượng song ngữ, đa ngữ, hiện tượng ngôn ngữ lai
tạp, song thể ngữ, đa thể ngữ…Một trong số những vấn đề thú vị của Ngôn
ngữ học xã hội đó chính là hiện tượng phân tầng xã hội trong sử dụng ngôn
ngữ. “Phân tầng xã hội” vốn là một trong 10 vấn đề cơ bản của Xã hội học,
đó là sự xắp xếp mỗi một thành viên trong xã hội vào các “nhóm xã hội”
(hay còn gọi là “giai tầng xã hội”, “phân tầng xã hội”) khác nhau trên cơ sở
hàng loạt các tiêu chí như giai cấp, giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp,... “Các
đặc điểm về giai tầng xã hội có tác động trực tiếp và tạo nên các đặc điểm
về ngôn ngữ trong sử dụng” [18, 115-116]. Nghiên cứu sự đồng nhất và
khác biệt trong cách sử dụng ngôn ngữ của các thành viên trong cùng một
nhóm xã hội, giữa các nhóm xã hội, trong cùng một thời kì, hay qua các giai
đoạn lịch sử khác nhau sẽ là một hướng đi tiềm năng hứa hẹn nhiều kết quả
thú vị.

1



1.2. Loài người khi mới sinh ra chưa phải đã có ngôn ngữ nói hay viết,
nhưng nhu cầu giao tiếp với đồng loại thì đã có. Vậy, trước khi ngôn ngữ nói
và viết ra đời, con người giao tiếp với nhau bằng phương thức nào? Có thể
nói, phương thức giao tiếp sơ khai, cổ xưa nhất của con người chính là ngôn
ngữ cử chỉ, hay còn gọi là ngôn ngữ điệu bộ, ngôn ngữ cơ thể (body
language). Sau này, khi ngôn ngữ âm thanh đã hình thành thì ngôn ngữ cử chỉ
vẫn tồn tại và đi liền với ngôn ngữ âm thanh. Con người không thể giao tiếp
mà không cử động, không ra hiệu, không thay đổi nét mặt. Xét ở một khía
cạnh nào đó, ngôn ngữ cử chỉ chính là sự bổ sung, và đôi khi là sự bù đắp cho
những thiếu hụt của ngôn ngữ lời nói. Theo Albert Mahbrabian “7% ý nghĩa
thông điệp truyền qua nội dung lời nói, 38% ý nghĩa thông điệp thể hiện qua
cách nói và 55% thể hiện qua biểu cảm gương mặt khi nói” [23] Trong giao
tiếp trực tiếp, đối mặt giữa người với người, các đối tượng giao tiếp có thể
trực tiếp lắng nghe ngôn ngữ lời nói và quan sát ngôn ngữ cử chỉ của đối
phương để nắm được rõ nhất nội dung giao tiếp. Nhưng không ít trường
hợp, chúng ta phải tiếp xúc với các cuộc thoại được ghi lại bằng chữ viết.
Trường hợp này đặc biệt phổ biến khi ta tiếp cận với các tác phẩm văn
chương, nhất là văn xuôi. Do đó, khi ghi lại các cuộc thoại giữa các nhân
vật, nhà văn không chỉ ghi lại những gì nhân vật nói với nhau mà còn miêu
tả lại cử chỉ của các nhân vật trong lúc giao tiếp. Bỏ qua hệ thống ngôn ngữ
miêu tả cử chỉ của các nhân vật văn học trong giao tiếp, ta sẽ không thể
hiểu hết được ý nghĩa lời nói của nhân vật, đồng nghĩa với không thể hiểu
hết tác phẩm. Vậy, nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ trong các tác phẩm văn
chương cũng là một hướng đi giàu ý nghĩa và khá thú vị. Đặc biệt, sẽ càng
hấp dẫn hơn nếu kết hợp tìm hiểu ngôn ngữ cử chỉ trong tác phẩm văn
chương với bộ môn Ngôn ngữ học xã hội, mà cụ thể là theo định hướng
phân tầng xã hội. Tức là nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ của nhân vật văn học
chia theo các nhóm xã hội khác nhau để thấy được nét chung và nét riêng
giữa chúng.


2


1.3.Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi sẽ chỉ dừng lại tìm hiểu
ngôn ngữ cử chỉ dưới góc nhìn Ngôn ngữ học xã hội trong sáng tác của tác giả
Kim Lân - Cây bút nổi tiếng viết về nông dân và nông thôn Việt Nam. Kim
Lân đến với văn chương bằng sự say mê, ham thích như lời ông tâm sự: “Viết
văn, trước tiên tôi viết cho mình, cho những mơ ước, gửi gắm của chính
mình. Sau nữa, đó là những lời bộc bạch, tâm sự với bạn đọc những điều
đang nhức nhối, đang thôi thúc”. Có thể khẳng định: Kim Lân đặc biệt thành
công trong việc xây dựng thế giới nội tâm nhân vật. “Các nhân vật người
nghèo, chủ yếu là nông dân trong các truyện ngắn của ông đều được mô tả hết
sức chân thật, từ cách nghĩ, cách cư xử đến lời ăn tiếng nói, dù đó là các nhân
vật phụ hay là các nhân vật chính” (Nguyễn An - Đặc san văn học tuổi trẻ, tập
12,1996). Mỗi loại nhân vật của Kim Lân lại có một kiểu ngôn ngữ đối thoại
riêng, không hề trộn lẫn. Và dĩ nhiên, đi liền với ngôn ngữ lời thoại độc đáo là
một hệ thống ngôn ngữ cử chỉ vô cùng sống động. Do đó, luận văn lựa chọn
đề tài “Đặc điểm ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong truyện ngắn của Kim Lân”.
Với luận văn này, chúng tôi mong muốn có thể hiểu rõ hơn một số vấn đề của
ngôn ngữ cử chỉ, đặc biệt là ngôn ngữ cử chỉ dưới góc nhìn của Ngôn ngữ học
xã hội. Mặt khác, thấy được cái hay, cái độc đáo trong bút pháp bậc thầy về
truyện ngắn của một nhà văn tài năng như Kim Lân.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngôn ngữ theo quan điểm
phân tầng xã hội
Lí thuyết phân tầng xã hội là một trong mười vấn đề lí thuyết cơ bản
nhất của xã hội học. Ngôn ngữ học xã hội lại là một bộ môn có sự giao thoa
rộng rãi giữa nhiều ngành khoa học, đặc biệt là Ngôn ngữ học và Xã hội
học. Do đó, lí thuyết phân tầng xã hội cũng là vấn đề lí thuyết có sự chi
phối không nhỏ tới Ngôn ngữ học xã hội. Nghiên cứu ngôn ngữ học theo

định hướng phân tầng xã hội có thể hiểu một cách đơn giản là: nghiên cứu
việc sử dụng ngôn ngữ của các cá nhân trong các nhóm xã hội (chia theo

3


tuổi tác, nghệ nghiệp, giới tính,...), có thể nghiên cứu theo nội bộ mỗi
nhóm, hay so sánh, liên hệ giữa các nhóm với nhau tùy theo quy mô và mục
đích nghiên cứu.
2.1.1. Các công trình nước ngoài nghiên cứu về sự phân tầng xã hội
trong ngôn ngữ.
Vấn đề phân tầng xã hội trong ngôn ngữ được các nhà xã hội học tiếp
cận từ khá sớm, các công trình nghiên cứu đầu tiên là của Fischer (1958),
Kucera (1961) và thực sự được đi sâu tìm hiểu vào những năm 60 của thế kỉ
XX bởi các nhà ngôn ngữ học xã hội hàng đầu như Labov, Wolfram,
Anshen,…
Trong tác phẩm mang tên “Nghiên cứu ngôn ngữ trong bối cảnh xã hội”
(1972), dẫn theo cuốn “Ngôn ngữ văn hóa và xã hội, một cách tiếp cận liên
ngành”, Labov đã đưa ra một số kết luận về sự phân tầng xã hội trong cách
phát âm của âm vị /th/ trong các từ “thing, three,…” của người dân thành phố
New York thuộc bốn giai tầng Kinh tế - Xã hội khác nhau: giai tầng thấp, giai
tầng công nhân, giai tầng trung lưu thấp và giai tầng trung lưu cao. Labov
cũng nghiên cứu cách đọc câu và đọc bảng từ theo học vấn và giới tính ở
Hillsboro, Bắc California. Qua việc đưa ra các kết quả nghiên cứu này, Labov
rút ra một số nhận xét thú vị liên quan tới sự chuyển đổi phong cách sử dụng
ngôn ngữ giữa các nhóm xã hội mà ông đã tìm hiểu và rút ra các công thức
liên quan tới liên quan tới việc sử dụng ngôn ngữ trong các nhóm xã hội. Để
từ đó, ông rút ra quan điểm chung, điểm mang tính quy luật trong cùng một
nhóm người, một cộng đồng người cũng như sự khác nhau giữa các nhóm, các
cộng đồng riêng biệt.

Phân nhóm xã hội theo giới cũng là một cách thức quen thuộc khi nghiên
cứu các vấn đề xã hội nói chung và ngôn ngữ nói riêng. Tác phẩm nghiên cứu
chính thức đầu tiên về sử dụng ngôn ngữ giữa nam và nữ có lẽ là nghiên cứu
của Sapir với tựa đề “Male and female forms of speech in Yana” (Phong cách
nói của nam và nữ trong tiếng Yana) nghiên cứu sự khác nhau khi dùng một

4


số biến thể âm vị luân phiên trong tiếng Yana giữa nam giới và nữ giới [Dẫn
theo 7]
Trong bài viết “Giới tính, uy tín chìm, và sự biến đổi ngôn ngữ trong
phương ngữ đô thị vùng Norwich”, tác giả Per Trudgill cũng khẳng định nữ
giới dùng các dạng thức ngôn ngữ có liên quan đến chuẩn nhiều hơn nam
giới. Tác giả này cũng bước đầu lí giải nguyên nhân của hiện tượng này là do
vị trí xã hội của phụ nữ thấp hơn và ít được đảm bảo hơn so với nam giới. Dó
đó, có thể vì thế mà phụ nữ thấy cần phải ghi nhận vị trí xã hội của mình bằng
các phương tiện ngôn ngữ và các phương tiện biểu trưng khác ở mức độ cao
hơn nam giới.
Nhà ngôn ngữ học người Mỹ R. Lakoff (1975) cũng khảo sát cách sử
dụng tiếng Anh của nữ giới trung lưu ở Mỹ trong môi trường sống và làm
việc của họ về âm/ từ vựng/ cú pháp/ phong cách và rút ra kết luận rằng phụ
nữ thường thích lối nói nhẹ nhàng, rào đón bằng từ vựng hoặc cú pháp, ...
2.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề phân tầng xã hội trong ngôn
ngữ ở Việt Nam
Nói tới các công trình nghiên cứu vấn đề phân tầng xã hội trong ngôn
ngữ ở Việt Nam phải kể đến cuốn “Ngôn từ, giới và nhóm xã hội từ thực tiễn
tiếng Việt” do Lương Văn Hy chủ biên. Tác phẩm là sự tập hợp mười bài
nghiên cứu về hiện tượng phân tầng xã hội trong sử dụng ngôn ngữ của các
đối tượng xã hội khác nhau phân chia theo giới, theo các thế hệ trong gia

đình, theo vùng địa lý,…. Tiêu biểu là các bài viết của các tác giả như Phạm
Thị Yến Tuyết và Lương Văn Hy với “Vài nét về ngôn ngữ giao tiếp trong
các cuộc nói chuyện giữa 3 thế hệ Ông bà - Cha mẹ - Con cháu tại một số gia
đình ở thành phố Hồ Chí Minh”, Nguyễn Thị Thanh Bình với “Xưng và gọi:
Bằng chứng về giới trong ngôn từ của trẻ em trước tuổi đến trường ở Hà Nội
và Hoài Thị”, …
Nghiên cứu ngôn ngữ nhìn từ góc độ giới cũng là vấn đề được nhiều nhà
ngôn ngữ học quan tâm.

5


Bài viết “Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ gia đình người
Việt” của tác giả Nguyên Văn Khang trích trong cuốn “Ứng xử ngôn ngữ
trong giao tiếp gia đình người Việt” (1996) có thể nói là một trong những bài
viết đầu tiên trực tiếp bàn tới vấn đề ngôn ngữ và giới. Bài viết này khảo sát
yếu tố giới trong ngôn ngữ giao tiếp thuộc môi trường gia đình - nơi mà mỗi
cá nhân tham gia giao tiếp được bộc lộ bản chất nhiều nhất. Bài viết cho ta
thấy một hiện tượng khá thú vị về sự khác nhau trong ngôn từ của trẻ em trai
và trẻ em gái, ở độ tuổi dưới 4 tuổi, các bé nói ngôn ngữ của mẹ - ngôn ngữ
nữ giới, và chỉ từ sau 4 tuổi, các bé mới có sự phân biệt giới tính trong ngôn ngữ.
Trần Xuân Điệp trong công trình “Sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ qua
ngữ liệu tiếng Anh và tiếng Việt” (2003) đã so sánh, đối chiếu những biểu
hiện kì thị giới tính trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Trong cuốn “Ngôn ngữ học xã hội, những vấn đề cơ bản” (1999), tác giả
Nguyễn Văn Khang cũng đề cập tới mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính
như một trong những vấn đề lớn của bộ môn Ngôn ngữ học xã hội, trong công
trình này, tác giả đã chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt trong sử dụng
ngôn ngữ giữa nam và nữ cũng như các dạng biểu hiện của sự khác biệt đó.
Năm 2011, tác giả Nguyễn Văn Khang cũng có một bài viết với tựa đề

“Sự kì thị và sự chống kì thị đối với nữ giới trong sử dụng ngôn ngữ”. Bài
viết đề cập tới vấn đề ngôn ngữ và giới tính nói chung, những biểu hiện của
sự kì thị đối với nữ giới trong ngôn ngữ và sau đó đề ra kế hoạch hóa ngôn
ngữ chống thiên kiến đối với nữ giới và góp phần tạo sự bình đẳng giới.
Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ theo hướng phân tầng xã hội
và đặc biệt là dưới góc độ giới cũng là vấn đề đã được không ít các nhà khoa
học đề cập tới. Tuy nhiên, đây là một vấn đề khá “động” bởi sự phân tầng xã
hội phụ thuộc rất lớn vào yếu tố văn hóa xã hội, mà xã hội và văn hóa cũng là
những yếu tố có sự chuyển mình không ngừng theo thời gian. Do đó, nghiên
cứu ngôn ngữ theo theo định hướng phân tầng xã hội và giới là một con
đường luôn mới mẻ. Đặc biệt, riêng với loại hình ngôn ngữ cử chỉ, hầu như

6


chưa có công trình nghiên cứu nào trong nước nghiên cứu về nó theo định
hướng phân tầng xã hội và dưới góc độ giới. Đây vẫn là một hướng đi còn bỏ
ngỏ hứa hẹn nhiều thú vị và bất ngờ giàu ý nghĩa đối với lí luận ngôn ngữ nói
chung và ứng dụng ngôn ngữ nói riêng.
2.2. Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ nói chung
2.2.1. Lịch sử vấn đề về ngôn ngữ cử chỉ nói chung
Trong suốt những năm đầu tiên của đời sống, đa số trẻ em chưa nói được
những từ có nghĩa, người ta gọi đây là giai đoạn giao tiếp không dùng lời nói
(nonverbal communication). Khoảng 18-20 tháng tuổi trẻ mới bắt đầu biết
ghép 2 từ riêng biệt thành một câu có cấu trúc ngữ pháp đơn giản nhất: câu 2
từ. Sau sinh nhật lần thứ 2, trẻ mới có thể nói được những câu ngắn một cách
khá hoàn chỉnh. Vậy, làm thế nào để cha mẹ và những người lớn khác có thể
giao tiếp cùng bé khi bé chưa biết nói? Theo tác giả Phạm Thị Cơi trong công
trình nghiên cứu mang tên: “Quá trình hình thành ngôn ngữ nói ở trẻ điếc
Việt Nam” thì “không riêng gì trẻ điếc câm, bất cứ đứa trẻ nào trước khi học

được ngôn ngữ nói cũng đều sử dụng ngôn ngữ điệu bộ. Nhiều công trình
nghiên cứu gần đây đã khẳng định giả thuyết của nhà tâm lí học L.S. Vugotski
cho rằng trước khi sử dụng ngôn ngữ nói, đứa trẻ đã biết sử dụng một số cử
chỉ đơn giản cho phép nó định hướng trong không gian và thời gian” [31/39].
Quay về với thời kì xa xưa của lịch sử loài người, có một sự thật là, ngôn ngữ
nói cũng không phải tự nhiên con người sinh ra đã có, là khả năng trời phú.
Nó mới chỉ phát triển cách đây khoảng 500 nghìn đến 2 triệu năm. Vậy, trước
khi có ngôn ngữ nói, con người giao tiếp với nhau bằng phương tiện gì? Các
nghiên cứu của các nhà nhân chủng học và xã hội học cho rằng, giống như
đứa trẻ, con người giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ cử chỉ. Ngôn ngữ cử chỉ
chính là ngôn ngữ cổ xưa nhất của xã hội loài người. Nói là ngôn ngữ cổ xưa
nhất nhưng nó lại không phải ngôn ngữ “cũ kĩ” nhất, cho tới ngày nay, ngôn
ngữ cử chỉ vẫn đồng hành với ngôn ngữ lời nói trong giao tiếp của chúng ta

7


hằng ngày. Dù muốn hay không, mỗi lời nói của chúng ta ít nhiều đều kèm
theo ngôn ngữ cử chỉ.
Có vai trò quan trọng là thế, nhưng ngôn ngữ cử chỉ lại chỉ mới chính
thức được tập trung quan tâm nghiên cứu trong khoảng 50 năm trở lại đây, từ
những năm 50 của thế kỉ 20.
Có thể điểm qua một số công trình, các bài nghiên cứu của các tác giả
trong và ngoài nước về đối tượng nghiên cứu này như sau.
2.2.2 Các công trình, các bài nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Thực ra, ngôn ngữ cử chỉ đã được đề cập tới từ rất sớm, tuy không phải
là trọng tâm, trong cuốn “Những biểu cảm ở con người và động vật” (1872)
của Charles Darwin - ông tổ của thuyết tiến hóa. Trong tác phẩm của mình,
Darwin đã trích dẫn lời của các nhà tâm lí học thời đại Hy Lạp cổ đại về ngôn
ngữ biểu cảm ở con người như sau: “Ngôn ngữ cảm xúc đẹp đẽ và xấu xa đều

để lại dấu ấn trên gương mặt chúng ta với những biểu cảm của riêng nó”.
Khoảng những năm 50, thế kỉ XX, nhà nhân loại học người Mỹ Ray
Birdwhistell - một trong những nhà nghiên cứu ngôn ngữ cơ thể tiên phong,
tập trung nghiên cứu phương thức truyền đạt thông điệp của các bộ phận khác
nhau của cơ thể hay toàn bộ cơ thể và đặt tên cho môn học này của mình là
“Kinesics” - khoa học về ý nghĩa của ngôn ngữ cơ thể [15/41].
Năm 1970, mô hình nghiên cứu ý nghĩa của ngôn ngữ cơ thể đã được Paul
Ekman và Wallace Friesen (ĐH California) mở rộng, phân chia sự nghiên cứu ý
nghĩa của ngôn ngữ cơ thể thành 5 nhóm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
nghiên cứu.
Năm 1999, nhà xuất bản trẻ cho xuất bản cuốn “Cử chỉ, những điều nên
làm và nên tránh trong ngôn ngữ cử chỉ khắp thế giới” của Roger E. Axtell.
Cuốn sách tập hợp những ngôn ngữ cử chỉ nổi bật trên bề mặt của một nên
văn hóa để giúp người đọc am hiểu hơn về văn hóa các nước khi mà khoảng
cách giữa các quốc gia ngày càng gần do tốc độ phát triển của khoa học
và kĩ thuật.

8


Năm 2001, cuốn “Ngôn ngữ của cử chỉ - Ý nghĩa của cử chỉ trong giao
tiếp” của tác giả Allan Pease được phát hành tại Việt Nam. Cuốn sách này
nghiên cứu một số biểu hiện cụ thể của ngôn ngữ cử chỉ ở dạng riêng lẻ như:
cử chỉ của bàn tay, dấu hiệu của ánh mắt, cử chỉ của khuôn mặt,… với mục
đích giúp người đọc nhận ra các tín hiệu ngôn ngữ không lời riêng biệt của
mình và của đối phương để có thể đạt hiệu quả giao tiếp tốt nhất. Đối tượng
chính mà Allan Pease muốn hướng đến trong công trình của mình là các nhân
viên thương mại, các nhà kinh doanh và lãnh đạo sản xuất, cuốn sách như một
giáo trình để họ nghiên cứu, học hỏi và áp dụng vào lĩnh vực hoạt động kinh tế.
Cũng trong năm 2001, một cuốn sách khác về ngôn ngữ cơ thể được giới

thiệu tại Việt Nam là cuốn “Ngôn ngữ cử chỉ” của Gregory Hartley và
Maryann Karinch. Cuốn sách hướng dẫn người đọc cách hiểu ngôn ngữ cử chỉ
và sử dụng nó để tác động lên cảm xúc của mình và những người khác.
Cuốn “Ngôn ngữ của cơ thể” viết bởi Julius Fast được nhà xuất bản trẻ
phát hành năm 2001. Cuốn sách thú vị này khiến người đọc phải ngỡ ngàng
nhận ra mình đã sử dụng ngôn ngữ cử chỉ vô thức thế nào trong giao tiếp khi
chúng ta cố giữ cho mình một không gian riêng khi đi thang máy, xâm lấn
không gian của người khác khi muốn thể hiện quyền lực, hay khi chúng ta
nháy mắt, gật đầu,…Tác phẩm kết hợp các vấn đề sinh học, tâm lí với những
câu chuyện thực tế sinh động để người đọc dễ nắm bắt.
Một cuốn sách nữa về ngôn ngữ cử chỉ của Allan Pease viết cùng
Barbara được giới thiệu tại Việt Nam là cuốn “Cuốn sách hoàn hảo về ngôn
ngữ cơ thể”. Cuốn sách như một sự phát triển lên của cuốn “Ngôn ngữ của cử
chỉ - Ý nghĩa của ngôn ngữ cử chỉ trong giao tiếp”. Cuốn sách mới này gồm
19 chương với nhiều nội dung đa dạng kết hợp hình ảnh minh họa, trình bày
rất chi tiết. Nó bao gồm các nội dung như: quyền lực nằm trong tay bạn, điều
kì diệu của nụ cười và tiếng cười, dấu hiệu của cánh tay, 13 điệu bộ phổ biến
mà bạn nhìn thấy mỗi ngày,…

9


“Ngôn ngữ cơ thể - 7 bài học để làm chủ ngôn ngữ cơ thể” của James
Borg được nhà xuất bản Tổng hợp TP HCM xuất bản tại Việt Nam. Đúng như
tựa đề cuốn sách, ngoài những thông tin về lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ cử
chỉ, ý nghĩa của một số cử chỉ thông dụng, tác giả James Borg đã tổng kết 7
bài học giúp người đọc có thể sử dụng ngôn ngữ cử chỉ một cách hiệu quả nhất
trong giao tiếp.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ hiện đại đều tập
trung nghiên cứu theo hướng ứng dụng thực tế. Tức là ngoài việc cung cấp

những hiểu biết chung nhất và đơn giản nhất về ngôn ngữ cử chỉ, những cuốn
sách này tập trung hướng dẫn người đọc cách sử dụng ngôn ngữ cử chỉ và đọc
ngôn ngữ cử chỉ để đạt hiệu quả giao tiếp một cách tốt nhất.
2.2.3. Các công trình, các bài nghiên cứu của các tác giả trong nước
Cuốn sách “Giao tế nhân sự, giao tiếp phi ngôn ngữ” của tác giả
Nguyễn Văn Lê xuất bản năm 1996 là sự tập hợp 14 bài thi xuất sắc của
các sinh viên chuyên ngành báo chí về giao tiếp phi ngôn ngữ. Mục đích
của cuốn sách là góp phần thông qua những kiến thức lí thuyết chung nhất
và thông qua những ví dụ minh họa sinh động giúp người đọc, đặc biệt là
những người đang học và làm việc trong hai lĩnh vực quản trị kinh doanh
và báo chí có thể áp dụng ngôn ngữ cử chỉ vào cuộc sống nói chung và
công việc nói riêng.
Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Đại cương ngôn ngữ - Tập II” cũng
có đề cập tới ngôn ngữ cử chỉ với một cái tên khác: yếu tố phi lời - một yếu tố
của vận động hội thoại. Ngoài việc đề cập tới một cách khái quát về “yếu tố
phi lời”, Đỗ Hữu Châu còn chỉ ra vai trò của nó trong vận động hội thoại như
sau: “Những tín hiệu phi lời tuy là thứ yếu nhưng rất quan trọng, thiếu chúng,
cuộc trò chuyện sẽ tẻ nhạt, thậm chí chấm dứt” [5, 222]. Cũng trong sách
này, tác giả đã bước đầu nhắc tới, tuy còn sơ lược, mối quan hệ của ngôn ngữ
cử chỉ với vấn đề phân tầng xã hội “Những yếu tố tĩnh như diện mạo, trang

10


phục,v.v…cung cấp những thông tin về giới tính, tuổi tác, dân tộc, thành phần
xã hội và trong chừng mực nhất định tính cách của người đối thoại” [5, 221].
Cuốn sách gần đây nhất của các tác giả Việt Nam về ngôn ngữ cử chỉ là
cuốn “Những điều cần biết về ngôn ngữ cử chỉ” của hai tác giả Vương Mộc
và Minh Đức. Cuốn sách giới thiệu đến người đọc những nghiên cứu mới
nhất về ngôn ngữ cử chỉ và cách thức thực tế để giúp ta kiểm soát cử chỉ của

bản thân cũng như đọc cử chỉ của người khác.
Vấn đề ngôn ngữ cử chỉ cũng xuất hiện trên các tạp chí về ngôn ngữ học
ở Việt Nam từ rất sớm.
Trong số 3 của tạp chí Ngôn ngữ phát hành năm 1990, tác giả Thục
Khánh có bài viết “Bước đầu tìm hiểu giá trị thông báo của cử chỉ, điệu bộ ở
người Việt Nam trong giao tiếp”. Bài viết đề cập tới hai cách tiếp cận và
nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ, từ hành vi đến tín hiệu hoặc ngược lại, từ tín
hiệu đến hành vi. Tác giả này cũng nêu lên vị trí quan trọng của ngôn ngữ cử
chỉ trong hoạt động giao tiếp và đề cập tới việc nên xây dựng “bộ nghi thức
diễn đạt tín hiệu phi lời của các nhóm xã hội” và “bộ nghi thức giao tiếp của
mỗi cộng đồng” từ đó so sánh giữa các cộng đồng với nhau và rút ra những
bài học giao tiếp hiệu quả.
Tạp chí Ngôn ngữ số 4 năm 1996 có bài “Thử tìm hiểu ngôn ngữ của cử
chỉ, điệu bộ” của tác giả Phi Tuyết Hinh. Trong bài báo, tác giả đã đề cập khá
rõ một số vấn đề như: khái niệm, chức năng, tính chất và ý nghĩa của ngôn
ngữ cử chỉ. Bài báo đã cho người đọc cái nhìn khá bao quát về loại tín hiệu
ngôn ngữ đặc biệt này.
Năm 2009, tác giả Tạ Văn Thông có bài viết “Con mắt liếc lại trong cử
chỉ người Việt” đăng trong tạp chí Ngôn ngữ và đời sống số thứ 5. Bài viết này
ngoài việc khẳng định vai trò của ngôn ngữ cử chỉ nói chung thì tập trung đi
sâu nghiên cứu một loại cử chỉ độc đáo của con người - cử chỉ của đôi mắt, với
những trạng thái khác nhau và những giá trị ý nghĩa phong phú.

11


Ngôn ngữ cử chỉ cũng là một đề tài thú vị trong các công trình nghiên
cứu sau Đại học.
Tác giả Lê Thị Thủy với luận án Thạc sĩ ngôn ngữ học có đề tài “Những
vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ” (2009) đã góp phần làm sáng tỏ những

quan điểm lí luận về ngôn ngữ cử chỉ thông qua việc xác định khái niệm, tầm
quan trọng và phân loại ngôn ngữ cử chỉ, khảo sát những cử chỉ phổ biến
trong giao tiếp hằng ngày của người Việt đặc biệt tập trung khai thác về ngôn
ngữ cử chỉ của bàn tay.
Tác giả Lê Thi Mai Ngân với luận án Thạc sĩ ngôn ngữ học có đề tài
“Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được sử dụng trong một số tiểu
thuyết và truyện ngắn Việt Nam hiện đại” (2009) cũng chỉ ra những đặc tính, ý
nghĩa của phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được miêu tả trong các tác phẩm
văn học hiện đại, qua đó phát hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn khi gán cho
các nhân vật các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ ở các hoàn cảnh cụ thể.
Tức là, việc phân tích các phương tiện phi ngôn ngữ là một trong các nẻo
đường để tìm giá trị nghệ thuật cũng như nội dung của tác phẩm.
2.3. Khái quát về tác giả tác phẩm: Kim Lân và truyện ngắn của tác giả
2.3.1. Đôi nét về tác giả
Kim Lân (1920 - 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê làng Phù
Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó
khăn ông chỉ được học hết bậc tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh
bình phong vừa viết văn. Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hoá cứu
quốc, sau đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng.
Kim Lân nổi tiếng là một cây bút viết truyện ngắn sắc bén và độc đáo.
Với ngôn ngữ biến hoá, mộc mạc mà sinh động ông đã vẽ ra chân dụng các
nhân vật thật hấp dẫn: chất phác, mộc mạc thậm chí là “hồn nhiên” nhưng lại
rất “thơ”, để lại ấn tương độc đáo trong lòng người đọc. Khẳng định về tài
năng viết truyện ngắn của Kim Lân, Hà Minh Đức viết trong Nhà văn nói về
tác phẩm : “Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn

12


học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói

rằng Kim Lân viết không nhiều nhưng những sáng tác của ông đã gây ấn
tượng với bạn đọc”. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân. Ông
có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê - những thú
chơi và sinh hoạt văn hoá cổ truyền của người nông dân vùng đồng bằng Bắc
Bộ, được gọi là những “thú đồng quê”, “phong lưu đồng ruộng” như: chơi núi
non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà... Ông viết chân thật, xúc động về cuộc
sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ - những
con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Dù viết về phong tục
hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc
sống và con người làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời;
thật thà, chất phác mà vẫn thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. Năm 2001ông được
tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Trong “Văn xuôi Kim Lân”, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân khẳng định:
“Một trong những đặc sắc của văn xuôi Kim Lân là ngôn ngữ. Nói chung đây
là ngôn ngữ của văn xuôi phong tục, nó nằm trong cả hướng đi chung của
văn xuôi nghệ thuật Tiếng Việt với những cách xử lí khác nhau của nhiều nhà
văn khác nhau và có nhiều thành công đáng kể” [41,tr647]. Hoài Việt trong
đôi điều về Kim Lân nhận xét: “Kim Lân không ưa đánh bóng, mạ kền con
chữ, hàng chữ. Ông có cái nhìn, cái óc nghĩ, cái lối diễn đạt của người xứ
quê. Nó bình dị chất phác, pha chút hóm hỉnh nữa. Nhưng bình dị, chất phác
mà không nôm na đâu. Nó rất “văn”, chững chạc, trong sáng, tươi tắn nữa”
[72]. Hay nói như Nguyên An: “Ông là nhà văn kĩ lưỡng, tinh tế trong việc
lựa chọn chi tiết, kỳ khu và tài hoa trong việc lựa chọn ngôn từ, hình ảnh”
[2]. Trên báo Văn nghệ số 34(1991), Trần Ninh Hồ có một nhận xét thật xúc
động: “Tuy tầm vóc, vị trí mỗi nhà văn một khác nhưng Kim Lân cũng là một
nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của người đời khó
mà diễn đạt thành lời...”. Đặc biệt, từ năm 1996 khi “Tuyển tập Kim Lân” do
Lữ Huy Nguyên tuyển chọn ra đời thì các bài viết về Kim Lân càng ngày

13



càng đa dạng về hình thức và nội dung. Tuy nhiên lĩnh vực về ngôn ngữ đặc
biệt là ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong các tác phẩm của ông vẫn đang còn là
mảnh đất màu mỡ bỏ ngỏ.
2.3.2. Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ trong truyện ngắn Kim Lân
Đến nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu và Kim Lân và tác
phẩm của ông. Có thể kể tên một số công trình nghiên cứu về tác phẩm của
Kim Lân như:
+) Những giá trị tiêu biểu về tư tưởng và nghệ thuật của truyện ngắn
Kim Lân, ĐHSPHN, 1997 của Nguyễn Văn Bao.
+) Khuynh hướng phong tục trong sáng tác trước 1945 của Tô Hoài,
Bùi Hiển, Kim Lân, ĐHSPHN, 1999 của Trần Văn Hồng.
+) Những đặc sắc truyện ngắn Kim Lân, ĐHSPHN, 2002 của Nguyễn
Tiến Đức.
+) Nông thôn và hình ảnh người nông dân trong sáng tác của Kim Lân,
ĐHSPHN, 2003 của Mã Thu Hà.
+) Phong cách nghệ thuật Kim Lân, ĐHSPHN, 2004 của Nguyễn Thị Thu.
Nhưng lại chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể nào về “Đặc điểm
ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong truyện ngắn Kim Lân. Chính vì vậy, mà trong
phạm vi luận văn này, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu về đặc điểm
ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong truyện ngắn của ông.
Như đã nói ở phần lí do lựa chọn đề tài, thế giới truyện ngắn Kim Lân là
một thế giới đa màu sắc với sự góp mặt của nhiều nhân vật. Nhân vật trong
truyện ngắn của ông không chỉ phong phú về số lượng, mà mỗi nhân vật lại
có những nét cá tính riêng. Một trong số những điều làm nên dấu ấn cá nhân
cho nhân vật truyện ngắn Kim Lân chính là lời thoại và ngôn ngữ cử chỉ đi
kèm lời thoại mà nhân vật sử dụng. Có lẽ, chính bởi sự độc đáo trên mà ngôn
ngữ cử chỉ của nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân đâu đó cũng đã được đề
cập đến trong các công trình nghiên cứu. Ví như trong bài nghiên cứu của

Nguyễn Ân - Ông đánh giá “Kim Lân là nhà văn kĩ lưỡng, tinh tế trong việc

14


lựa chọn chi tiết, kỳ khu, tài hoa trong việc lựa chọn ngôn từ, hình ảnh”. Đi
sâu vào nghiên cứu toàn diện hơn, Nguyễn Ân chỉ ra những thành công cơ
bản của truyện ngắn Kim Lân dựa vào phương diện: miêu tả nhân vật “Các
nhân vật người nghèo, chủ yếu là nông dân trong các truyện gắn của ông đều
được mô tả hết sức chân thật, từ cách nghĩ, cách cư xử đến lời ăn tiếng nói,
dù đó là các nhân vật phụ hay đó là các nhân vật chính.”
Với nhận xét trên, tác giả Nguyễn Ân đã chỉ ra được các nhân vật của
Kim Lân được miêu tả hết sức chân thực từ nhiều phương diện, góc độ như:
Cách nghĩ, cách cư xử và đặc biệt là trong lời ăn tiếng nói có sự kết hợp của
ngôn ngữ cử chỉ... Chính những yếu tố này đã góp phần không nhỏ vào việc
tạo ra thành công cho truyện ngắn của Kim Lân. “Trong Nghề văn cũng lắm
công phu” (tái bản năm 2003), Nguyễn Khải, một nhà văn nổi tiếng của văn
học Việt Nam hiện đại tâm sự: “Về văn xuôi là nghề của tôi, trước sau tôi
thần phục có ba người là ông Nguyễn Tuân, Nam Cao và Kim Lân. Sau này
viết lách được cái gì thường cũng lấy văn của ba ông làm chuẩn”. Theo cách
nói của Nguyễn Khải, nhà văn Kim Lân được xếp vào hàng những nhà văn
xuất sắc của thế kỷ XX. Chẳng thế mà Nguyễn Khải khi đọc “Làng” và “Vợ
Nhặt” của Kim Lân đã ngạc nhiên mà thốt lên rằng: “Đó là thần viết, thần
mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ”.
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi tìm hiểu ngôn ngữ cử chỉ của các
nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân theo quan điểm phân tầng xã hội của
Ngôn ngữ học xã hội. Với hướng nghiên cứu đó, chúng tôi mong rằng có thể
rút ra được những kết luận thú vị về sự giống và khác nhau trong việc sử dụng
ngôn ngữ cử chỉ của các nhân vật thuộc cùng nhóm xã hội hoặc thuộc các
nhóm xã hội riêng biệt. Cũng qua đó, chúng tôi mong rằng có thể thu thập

được các kết luận về một số vấn đề văn hóa, xã hội liên quan tới tầng lớp, các
nhóm xã hội Việt Nam trong thời kì những năm 1930-1945, 1945- 1975 thời
kì lịch sử đầy biến động mà Kim Lân đã phản ánh trong tác phẩm của mình.

15


Hướng nghiên cứu của chúng tôi đi theo cách nhìn của bộ môn Ngôn
ngữ học xã hội với mong muốn vừa có thể làm rõ thêm một số vấn đề liên
quan tới hiện tượng phân tầng xã hội trong ngôn ngữ, vừa là tìm ra một góc
nhìn mới lạ về ngôn ngữ cử chỉ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong truyện
ngắn Kim Lân theo phân tầng xã hội và đặc biệt tập trung nghiên cứu sâu
dưới góc độ giới nhằm thấy được đặc điểm ngôn ngữ cử chỉ của các nhân vật
thuộc giới, nhóm xã hội khác nhau. Qua đó, thấy được không chỉ giá trị giao
tiếp mà còn là giá trị xã hội, giá trị văn học của các yếu tố ngôn ngữ phi lời
trong truyện ngắn Kim Lân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn giải quyết các nhiệm vụ:
- Thống kê phân loại ngôn ngữ cử chỉ trong truyện ngăn Kim Lân theo
giới nam và nữ.
- Phân tích số liệu để rút ra đặc điểm sử dụng các phương tiện ngôn ngữ
cử chỉ của các giới đó.
- So sánh đặc điểm sử dụng ngôn ngữ cử chỉ giữa hai giới nam và nữ.
- Rút ra kết luận về giá trị của ngôn ngữ cử chỉ trong việc thể hiện nội
dung tác phẩm, bút pháp truyện ngắn bậc thầy của Kim Lân và đôi nét về giá
trị văn hóa của các phương tiện ngôn ngữ đó trong việc phản ánh bộ mặt xã
hội Việt Nam những năm 1930-1945, 1945-1975.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháo khảo sát - thống kê - nghiên cứu: phương pháp này áp
dụng để thu thập tư liệu, thống kê và phân loại ngôn ngữ cử chỉ trong truyện
ngắn Kim Lân theo giới.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: đùng để phân tích nguồn tư liệu đã
thống kê, sau đó khái quát các kết quả đã nghiên cứu để tìm ra đặc điểm và

16


giá trị của ngôn ngữ cử chỉ trong việc thể hiện nội dung tác phẩm cũng như
nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân.
Phương pháp đối chiếu, so sánh: dùng để so sánh sự khác biệt về cách sử
dụng ngôn ngữ cử chỉ của mỗi nhân vật thuộc cùng một nhóm xã hội và các
nhóm xã hội khác nhau. Từ đó, rút ra đặc trưng ngôn ngữ cử chỉ của các nhóm
nhân vật đó.
5. Phạm vi tƣ liệu khảo sát
18 truyện ngắn của Kim Lân trong cuốn “Kim Lân tuyển tập”, nxb văn
học, 2012.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính của Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương 2: Khái quát đặc điểm ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong truyện
ngắn Kim Lân theo phân tầng xã hội.
Chương 3: Đặc điểm ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong truyện ngắn Kim
Lân nhìn từ góc độ giới.

17



Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Một số vấn đề về ngôn ngữ cử chỉ
1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ cử chỉ
Mar (đầu thế kỉ XX) khẳng định “ ngôn ngữ cử chỉ tồn tại cách đây 1
triệu đến 1 triệu rưỡi năm; còn ngôn ngữ âm thanh chỉ có cách đây 5 vạn đến
50 vạn năm”. Theo Mar, “ ngôn ngữ cử chỉ có thể biểu thị tư tưởng, khái niệm
hình tượng hóa, có thể dùng làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên trong
cùng một bộ lạc và với các bộ lạc khác, có thể là công cụ phát triển khái niệm
của mình” [10,28]. Ra đời từ rất sớm và có vai trò đặc biệt quan trọng như thế,
nhưng ngôn ngữ cử chỉ lại mới được chính thức quan tâm nghiên cứu từ những
năm 50 của thế kỉ XX nhờ công của nhà nhân loại học người Mỹ Ray
Birdwhistell. Cho đến nay, cũng đã có nhiều nhà khoa học có những công trình
nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ cử chỉ. Nhưng, có một điều đáng chú ý là,
tên gọi loại ngôn ngữ này vẫn chưa hoàn toàn được thống nhất giữa các nhà
khoa học. Ngôn ngữ cử chỉ còn có thể được gọi bằng những cái tên khác như:
ngôn ngữ của cử chỉ, ngôn ngữ cơ thể, ngôn ngữ của cơ thể, ngôn ngữ phi
lời, yếu tố phi ngôn ngữ,…Có những cách gọi tên khác nhau như vậy một
phần bắt nguồn từ sự khác biệt khi dịch các thuật ngữ khoa học nước ngoài ra
tiếng Việt, nhưng một lí do quan trọng nữa chính là ở quan niệm còn có sự
khác biệt giữa các nhà nghiên cứu về phương tiện giao tiếp đặc biệt này.
Các nghiên cứu của Julius Fast, Allan Pease, James Borg, Roger E.Axtell,
Gregory Harthy và Maryann Karinch đề cập tới hai cái tên rất phổ biến “Ngôn
ngữ cơ thể” và “Ngôn ngữ cử chỉ”. Tuy cách gọi khác nhau, nhưng quan niệm
của các nhà nghiên cứu này lại khá đồng nhất, “ngôn ngữ cơ thể” và “ngôn
ngữ cử chỉ” chỉ là hai tên gọi cho cùng một đối tượng. Hầu hết các tác giả trên
đều cho rằng, ngôn ngữ cơ thể hay ngôn ngữ cử chỉ là cách con người truyền
tải thông tin qua việc sử dụng các bộ phận trên cơ thể, như cách cử động chân


18


×