Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

nghệ thuật trong người xa lạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.04 KB, 25 trang )

Bộ giáo dụ và đào tạo
Khoa: Ngữ Văn – trường ĐHSP TP. HCM

Bài làm môn: Văn học phương tây

The Stranger
(Albert Camus)
GVHD: Nguyễn Thành Trung.
Nhóm : Nguyễn Thị Thu Hồng
Phạm Thị Hồng
Đặng Thị Thu Hiền
Phan Thị Thu Hiền
Vũ Thị Hiền
Hoàng Thị Hiền
Lớp:
Cử Nhân Văn 4

1


I.

MỤC LỤC
Chủ nghĩa hiện sinh và văn học hiện sinh....................................

1.1
1.1.1
1.1.2
1.1.3
1.1.4
1.1.5



Chủ nghĩa hiện sinh – văn học hiện sinh và sự phát triển của nó..............
Chủ nghĩa hiện sinh và văn học hiện sinh.....................................................
Sự phát triển của chủ nghĩa hiện sinh............................................................
Nội dung, đặc điểm của chủ nghĩa hiện sinh..............................................
Nội dung.........................................................................................................
Đặc điểm........................................................................................................

II.

Chủ nghĩa hiện sinh biểu hiện trong tác phẩm “The stranger”
của Camus........................................................................................

2.1
2.1.1
2.1.2
2.2

Cái phi lý..........................................................................................................
Nhan đề.............................................................................................................
Nhận thức của nhân vật....................................................................................
Meursault – con người của hành động nổi loạn...........................................

III. Vài nét nghệ thuật............................................................................
3.1 Chủ đề ..................................................................................................................
3.2 Cốt truyện – cấu trúc............................................................................................
3.3 Ngôn ngữ..............................................................................................................
3.4 Không gian – thời gian nghệ thuật......................................................................
3.5 Biểu tượng cây thập
giá........................................................................................


2


2.2.1 Chủ nghĩa hiện sinh và Văn học hiện sinh.
III.1. Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa hiện sinh.
III.1.1.
Sự hình thành của chủ nghĩa hiện sinh và văn học hiện sinh.
Người sáng lập Chủ nghĩa hiện sinh (CNHS) là Martin Heidegger (1889 1976), một giáo sư, triết gia của tây nam nước Đức. Ông cho rằng: “Hiện sinh là sự
tồn tại, mà sự tồn tại mãi mãi chính là cái tôi”. Nhưng cái tôi đích thực bị tập thể,
xã hội bao vây lấn chiếm, cuối cùng đã biến thành cái “người ta”, nên con người
chẳng qua cũng chỉ là bóng ma hư vô của cuộc sống. Nó tồn tại là để chết đi, hơn
nữa nó là một hữu thể đang chết dần. Cho nên con người vừa sinh ra đã đủ tuổi già
và chết.
Văn học hiện sinh hình thành vào nửa đầu thế kỉ XX và thịnh hành ở
phương Tây trong bối cảnh đổ nát của một châu Âu bị tàn phá khủng khiếp sau
chiến tranh thế giới thứ II, năng lực hạt nhân trong tay đế quốc Mỹ trở thành mối
đe dọa của toàn nhân loại. Trong hoàn cảnh đó, một bộ phận người dân Châu Âu
cảm thấy ngao ngán bi quan. Với họ, tất cả sẽ chỉ là hư vô; quá khứ sẽ bị xóa sạch,
tương lai sẽ là nỗi trống không. Người ta ngạc nhiên và hoài nghi tất cả, không còn
tin ai ngoài cá nhân mình. Họ cảm thấy cô đơn, bơ vơ và dường như mọi sự đều
phi lý.
III.1.2.

Sự phát triển của Chủ nghĩa hiện sinh.

Từ khi ra đời, CNHS được lan rộng ra nhiều nước Châu Âu, trong đó có
nước Pháp. CNHS thịnh hành ở Pháp với những tên tuổi như: Merleau Ponty,
Albert Camus, Gabriel Marcel...
Martin Heidegger cho rằng con người có được một sự cảm nhận đối với sự

tồn tại, có thể quyết định phương thức tồn tại của chính mình, hướng bản thân
mình nên tồn tại như thế nào.
Jean Paul Sartre (1905 - 1980) coi “phi lý” là cơ sở của sự bất hạnh và cô
độc.

3


Đến Albert Camus, CNHS đã được sáng tạo và phát triển thêm một bước:
Trong số những nhà văn thuộc các khuynh hướng khác nhau của CNHS,
Albert Camus là nhà hiện sinh tiêu biểu nhất. Dù không phải là một nhà triết học
nhưng ông lại xây dựng được một lý thuyết độc đáo: lý thuyết hiện sinh phi lý. Ở
đây, ông không bàn đến những vấn đề siêu hình phức tạp như thực tế và hư vô, tồn
tại và bản thể mà chỉ nói về ý nghĩa của “hiện sinh” và thân phận con người. Ông
muốn đi theo hướng của nhà triết học hiện sinh Đan Mạch Kierkegaard, nhưng chủ
yếu bằng những tác phẩm văn chương theo mẫu của Angdre, Manro mà ông đã say
mê nghiền ngẫm với nhiều hình tượng kịch và tiểu thuyết sống động mới mẻ.
Camus muốn làm nổi bật một đường dây lý luận về cuộc đời, một thứ triết
học về nhân sinh tìm đường xuyên thấm vào con người trong thời đại ngày nay.
Tiếp thu triết học của Becxong: đề cao cái tôi bề sâu và thâm nhập thế giới
tâm linh bằng trực giác, học tập tinh thần “thờ phung cái tôi” của nhiều nhà văn
đương thời, Camus đi tới một luận đề nổi tiếng về cái phi lý. Ông xem “phi lý” là
một quan niệm chủ quan về quan hệ giữa con người với bản thân mình và đối với
thế giới, về việc con người tất yếu phải đến lúc đối diện với tử thần. Thế giới là
phi lý. Phi lý không phải là sản phẩm riêng lẻ mà là sản phẩm của chúng trong
mối liên hệ giữa con người và thế giới. Nhưng như thế cũng có nghĩa là nếu con
người mất đi thì sự phi lý cũng tiêu vong.
Điều tiến bộ của Camus so với các nhà hiện sinh chủ nghĩa là ở chỗ: tuy đề
cao trực giác nhưng ông không hoàn toàn phủ nhận lý tính. Cái phi lý không phải
là cái mời gọi đi tới việc can đảm nhận lãnh trách nhiệm ở đời. Cuộc đời đã phi lý

thì con người phải tìm cách chiến thắng nó bằng cách sống hết mình trong sự thụ
cảm cái phi lý ấy, bằng cách sống mà không cần hy vọng, hành động mà không
cần xác định rõ động cơ và lường trước hậu quả. Thế nhưng, bên kia điều ảo ảnh,
bên kia sự tuyệt vọng vẫn ngự trị. Cái ý chí sinh tồn, một sự cao quý nào đó của
con người.
4


Theo Camus: “Nếu không có Chúa, nếu linh hồn của người ta không phải là
bất diệt thì con người muốn làm gì cứ tha hồ làm” (Huyền thoại Sisyphe).
Camus đề xướng một phản kháng dữ dội và nêu lên cho cá nhân một cách
sống sung mãn, đối đầu với cái phi lý của cuộc đời. Từ khái niệm phi lý đó,
Camus rút ra 3 kết luận: nổi loạn, tự do và ham mê.
Tự do có nghĩa là “tôi chỉ là tôi”, “tôi là đối tượng của tôi”, không chấp
nhận những gì sẵn có, không chấp nhận một lí thuyết, một đường lối giải thích
nào, không đặt ra để làm tiền đề một vị thượng đế, một lí thuyết phổ quát nào.
Ham mê là hình thức sống đến mức tối đa “sống với những hiện tại” và sự
tiếp diễn của hiện tại. Đó chính là lý tưởng của những người phi lý.
Nổi loạn là sắc thái đáng chú ý nhất trong CNHS của Camus: “Sự cao cả
của con người là ở thái độ nổi loạn chống lại tính phi lý của thế giới”.
Lý thuyết hiện sinh phi lý của Camus có một số mặt nào đó ít nhiều tích cực
với ý nghĩa phê phán sự sa đọa và những bế tắc, sự tàn bạo và những bất công của
xã hội tư bản.
III.2. Nội dung và đặc điểm của chủ nghĩa hiện sinh.
III.2.1.

Dù phát triển và có sáng tạo nhưng nhìn chung CNHS có 3 nội dung

cơ bản sau:
Các triết gia hiện sinh đều phản đối nhìn thế giới bằng con mắt duy vật và lý

tính.
Xem sự tồn tại của những con người cô lập là cơ sở, là điểm xuất phát của toàn
bộ triết học
Xem thế giới bên ngoài là ngẫu nhiên không xác định, hoang đường, vô nghĩa,
hoàn toàn xa lạ và đối nghịch với cá nhân.
III.2.2.

Đặc điểm của CNHS.
Con người không có một bản chất có sẵn. Con người phải hiện sinh bằng

cách tự tạo nên bản thân, tự do lựa chọn trong lo âu. Hiện sinh không tồn tại
5


êm đềm mà luôn vượt qua bình diện sự vật để tự sáng tạo ra nó. “Hiện sinh
có trước bản chất”.
Tư tưởng hiện sinh coi con người là phản ứng với thế giới đồ vật. (Thế giới đồ
vật chi phối không gian sống của con người. Cái thế giới máy móc làm cho con
người mất dần tính tự chủ và cá tính). Người hiện sinh chủ nghĩa phản ứng cái thế
giới máy móc đó gợi cho con người trở về với bản thân chủ thể và tự do của chính
mình.
Chủ nghĩa hiện sinh làm sống lại những tín điều xưa cũ, coi cuộc đời là bể khổ,
là thung lũng nước mắt, coi mọi cố gắng của con người đều là vô nghĩa.
Văn học hiện sinh phủ nhận mọi lý thuyết, mọi quan niệm đi tìm bản chất của
triết học xưa nay; chỉ cần quan tâm đến hiện tượng sống cá biệt, đơn nhất của hiện
sinh; cần quan tâm đến thân phận cụ thể của mỗi người.
Chúng ta cũng biết hai nhà hiện sinh tiêu biểu và cũng là những nhà văn lớn của
nước Pháp: Jean Paul Sartre và Albert Camus. Hai nhà hiện sinh có những điểm
tương đồng, và cũng có những điểm khác nhau. Chúng tôi đưa ra bảng sau:
NDSS

Chủ

Jean Paul Sartre
Chủ nghĩa hiện sinh hành

Albert Camus
Chủ nghĩa hiện sinh phi lý:

nghĩa

động: Xuất phát điểm cho

Cuộc đời, thực ra tự thân

hiện

lý thuyết hành động của

nó không phi lý, cũng như

sinh

Sartre là con người hiện

tự thân con người cũng

đại sống trong một thế

không phi lý. Mà tính chất


giới vắng mặt thượng đế,

phi lý ở đây là một bên là

chỉ còn trơ lại có hiện

cuộc đời đầy rẫy những

sinh. Bởi vậy không có

trái ngang, và bên kia con

một bản chất có trước, mà

người lại đòi hỏi mọi sự

con người bằng hành

phải rạch ròi. Cảm nhận

động của mình phải tự tác

được bản chất vô nghĩa của
6


thành lấy cuộc sống của

cuộc đời và tính chất phi lý


mình.

của nó, con người phải cố

Khi hoạt động con người

gắng tìm kiếm cho mình

phải tự do, hoàn toàn tự

một thái độ sống phù hợp

Quan

do.
Sartre quan niệm tự do là

với tình cảm phi lý đó.
Tự do là sống hết mình,

niệm

một tự do cụ thể, tự do để

sống mà không cần hy

sự tự

hành động. nhưng là hành


vọng, hành động mà không

do

động đích thực, tức là

cần định rõ động cơ và

hành động con người đảm

lường trước hậu quả.

nhận và chịu trách nhiệm

Quan niệm sống hết mình

về hành động của mình,

cũng là một biểu hiện của

rồi vượt lên hoàn cảnh

“nổi loạn”.

Hành

bằng chính hành động đó.
Hành động là không tuân

Không làm theo cái có sẵn,


động

theo một sự sắp xếp có

mà làm ngược lại với

sẵn, mà phải theo sát với

những chuẩn mực của xã

hoàn cảnh hiện thời, trong

hội, là hành động phản

tình thế con người đang

kháng lại với xã hội hiện

sống.

thời, hành động nổi loạn
khi nhận thức được tình

Phủ định việc nhìn thế

cảnh mình đang sống.
Mặc dù đề cao trực giác

giới bằng con mắt duy vật


nhưng Camus không hoàn

và lý tính, phê phán lý

toàn phủ nhận lý tính. Nhờ

tính biện chứng.

lý tính mà ông mới nhận ra

->đề ra quan niệm triết

thế giới và cuộc đời là phi

học hiện sinh: hiện sinh

lý.
7


Quan

có trước bản chất.
“Văn nghệ có nghĩa lý gì

Văn nghệ phải phục vụ

điểm


trong một thế giới đói

quần chúng, mục đích bộc

văn

khát?... Điều đáng kể

lộ cảm xúc, với những vấn

học

trước tiên là giải phóng

đề xã hội và con người...

nghệ

con người.”

Đề cao vai trò của người

thuật

Mặc dù vậy nhưng ông

sáng tạo, là lao động hay

cũng viết khá nhiều thể


tri thức.

loại từ những tác phẩm

Ở Camus là con người triết

triết học đến những tác

học hòa vào con người nhà

phẩm văn học. Nhưng chủ

văn. Tư tưởng hiện sinh

nghĩa hiện sinh được thể

thể hiện qua những tác

hiện chủ yếu trong các tác

phẩm văn học.

phẩm triết học hiện sinh
thuần túy tư biện.

IV. Chủ nghĩa hiện sinh biểu hiện trong tác phẩm “The stranger”
của Camus.
IV.1. Cái phi lý.
IV.1.1.


Nhan đề tác phẩm và đoạn mở đầu tác phẩm.
Nhan đề tác phẩm là “The stranger” được dịch giả dịch ra là “Người xa

lạ” hoặc “Người dưng”. Với nhan đề như vậy, người đọc hiểu đôi phần về
nội dung của truyện, đó là câu chuyện về một người xa lạ: xa lạ với bản
thân, với mọi người, với cuộc sống. Song có khi nào chúng ta tự hỏi “Người
xa lạ có thật sự xa lạ hay không?” Một cốt truyện tưởng chừng đơn giản như
thế nhưng kỳ thực lại không hề đơn giản chút nào.

8


Chúng ta cần hiểu, ý nghĩa của tác phẩm trong ý đồ của Camus phức tạp
hơn nhiều, thậm chí để hiểu đúng và đầy đủ về nhân vật và tác phẩm, ta còn
phải vận dụng các nói “nước đôi” – một thủ pháp quen thuộc trong phong
cách tiểu thuyết của tác giả. Nghĩa là, Người xa lạ cũng có khi không phải xa
lạ...
Nếu theo nghĩa bình thường, Người xa lạ phải là người khác hẳn với mọi
người. Trong khi Meursault, nếu tìm hiểu từ trong bản chất, so với một
người bình thường, anh ta không hề khác biệt. Bảo anh ta là Người xa lạ vì
anh ta không sống chung với mẹ mình, thì chính anh đã giải thích: “Tôi trả
lời rằng vì tôi không đủ tiền mướn người chăm sóc bà...và hai mẹ con chúng
tôi đều quen v ới cuộc sống mới của mình...” (tr.112). Kết tội Meursault
không chịu nhìn mặt mẹ ngày chịu tang, thì chính anh ta đã nói “Tôi muốn
trông thấy ngay mẹ tôi nhưng người gác cổng cho biết là tôi cần phải gặp vị
giám đốc”. Rồi sau đó khi từ chối nhìn mặt mẹ, Meursault cảm thấy có lỗi
“đáng lẽ tôi không nên nói câu đó”. Ngay cả hành động hút thuốc, uống cà
phê trước linh cữu mẹ mình, bản thân nhân vật cũng đã tự nhật ra điều
không phải khi thú nhận “tôi ngần ngại vì không biết mình có thể làm như
thế trước thi hài mẹ hay không”. Chính ông giám dốc viện dưỡng lão, nơi

mẹ Meursault sống, ngay từ lần gặp đầu cũng đã bày tỏ sự chia sẻ cảm
thông: “Anh không có gì để biện hộ hết, anh bạn. Tôi có đọc hồ sơ mẹ anh,
anh không thể trợ cấp mọi nhu cầu cho bà. Lương anh thì khiêm tốn. Và dù
sao ở đây bà cũng thấy sung sướng hơn.” (tr.9) Và cho Meursault xa lạ vì
ngay cả ngày mẹ chết cũng không biết, thì chính Camus đã giải thích cho
chúng ta: anh ta đã sống xa mẹ đã ba năm. Đường đi từ cho anh ta đến viện
dưỡng lão tuy không xa nhưng với ý nghĩ đơn giản rằng mẹ đã có nơi nương
tựa nên những chuyến viếng thăm thưa dần.

9


Xét bề ngoài anh ta có vẻ lạnh lùng, nhưng chưa hẳn đã là người dửng
dưng. Anh đã bao lần khẳng định: “tôi rất yêu mẹ của mình thôi”, “ai mà
không yêu mẹ của mình”, “thực lòng tôi không muốn mẹ chết”, “gần sát vơi
cái chết chừng đó, hẳn mẹ phải cảm thấy được giải thoát và sẵn sàng sống lại
trọn vẹn cuộc đời đã qua. Không ai có quyền khóc bà. Và tôi cũng vậy, tôi
sẵn sàng làm lại cuộc đời mình”.
Để làm rõ hơn chúng tôi xin kiến giải đoạn mở đầu: khi nhận được bức
điện tín từ viện dưỡng lão với nội dung quá ngẵn ngủi: “Mẹ chết. Mai đưa
tang. Thành thật phân ưu”. Ý nghĩ bất chợt thốt ra trong đầu Meursault:
“Những chữ đó chẳng nói lên điều gì. Có lẽ hôm qua.”
Ngay đại từ Meursault dùng để gọi mẹ mình, Camus đã cố tình để cho
người đã không còn trẻ con này nói rất trẻ con: Maman. Cứ cho rằng đây chỉ
là thói quen của nhân vật hay một cách để nhận biết độc thoại nội tâm của
nhân vật, thì chúng tôi tin đó vẫn là cách để Meursault thiết lập tình cảm
thương mến với mẹ. Như vậy, câu mở đầu đã tiềm ẩn tất cả các hướng của
chủ đề và nhân vật. Quả vậy, chỉ một từ ngữ có vẻ dung tục, lạ lẫm – người
thanh niên này gọi mẹ mình là Maman như một đứa trẻ - cái vỏ phi văn học
đó lại nói lên tình âu yếm của anh.

Như vậy có thể nói, qua đoạn mở đầu ta thấy với những câu chữ rất đơn
giản, có khi xa lạ nhưng lại nói lên tình cảm của Meursault với mẹ mình.
Anh hoàn toàn yêu thương mẹ. Qua đó thấy được nét tương đồng trong tình
cảm của Meursault với tác giả Camus.

10


2.1.2 Nhận thức của nhân vật.
Con người phi lý trong xã hội phi lý, chính trong nhận thức như vậy
Meursault có cuộc sống như một người máy lập trình sẵn. anh ta không tìm
ra mình, không hiểu nổi thế giới xung quanh... Meursault không phải đang
sống mà bi thảm chỉ là đang tồn tại. Với anh mọi sự là “thế nào cũng được”,
“với tôi chuyện đó cũng được thôi”, “quả đúng thế và tôi cũng công nhận
điều anh nói”... Anh ta không suy nghĩ, cuộc đoiừ anh ta được lập trình bởi
sự ngẫu nhiên và những hành động lặp đi lặp lại một cách bản năng, không
cảm xúc. Với anh, cuộc đời này vô nghĩa như vậy thì những cấu thành nó
còn có nghĩa lý gì? Vì vậy tất nhiên từ nhận thức ấy, hành động của anh tất
cả cũng vô nghĩa lý: lúc nào anh cũng bị chi phối bởi sự chán nản, cảm giác
mệt mỏi, đơn điệu. Cuộc sống hiện tại thì chết, không dự phóng vào tương
lai, “sống ba mươi hay bảy mươi cũng vậy, rồi cũng chết. Vậy có khác gì khi
chết trước hay sau”.
Thế giới này tồn tại là phi lý, vì nó chẳng ăn nhập gì đến anh cả. Vậy
anh cũng có “ăn nhập” gì đén ai mà anh phải quan tâm. Và do đó, anh ta hờ
hững.
Meursault hờ hững với chính bản thân mình, cuộc sống của anh diễn
ra theo một thời gian mang tính chu kì, chủ nhật này sang chủ nhật khác và
anh lấp đầy những ngày ấy bằng những công việc không vui cũng không
buồn, chẳng ý nghĩa gì: đọc tờ báo cũ, cắt dán những bài anh thấy hay, đững
cả buổi ở trên ban công nhìn xuống đường... Anh cũng tham gia vào cuộc

sống xã hội như bao con người khác, nhưng nó như là bản năng: xem phim,
trò chuyện, tắm biển, yêu đương, làm tình... chủ để thỏa mãn dục vọng,
chẳng ý nghĩa gì. Vì vậy khi Marie nói muốn kết hôn, một vấn để quan trọng
của đời người, mà anh ta cũng thú thật là “chẳng yêu cô ra nhưng vẫn có thể

11


kết hôn nếu cô muốn thế... và vì chuyện đó chả quan trọng gì”. Tình yêu
“chẳng có ý nghĩa gì” và “cuộc sống cũng đều như nhau cả thôi”.
Một đời sống tinh thần như vậy, hờ hững thờ ơ, nên vật chất đối với
anh càng trở nên xa vời, vô nghĩa lý: làm thì làm, chỉ để hết ngày, không cần
tăng lương, tăng chức, vì những thứ ấy có đem lại ý nghĩa gì đâu. Sự tồn tại
của bản thân là phi lý, cuộc đời là phi lý. Có người nhận xét, Meursault quả
là một người tốt, và nhận thức đúng về vai trò của vật chất, vì anh ta “không
coi trọng” vật chất, vật chất chỉ giúp anh thỏa mãn những nhu cầu hàng
ngày, những dục vọng và bản năng. Nhưng cần phải xem xét kĩ, không nên
đồng nhất “không coi trọng vật chất” với “dửng dưng”. Một người không
quá coi trọng vật chất, là biết dừng lại đúng lúc, vẫn có mong muốn làm
thêm nhiều, hưởng nhiều hơn, nhưng mà trong khuôn khổ của họ, và vì thế
vật chất có vai trò quan trọng trong đời sống. Còn Meursault “dửng dưng”,
vật chất không có ý nghĩa với anh, cuộc đời con người còn không có nghĩa
lý gì thì những thứ vật chất nhỏ bé tầm thường thì sao có vai trò chứ!
Meusault thờ ơ với thiết chế xã hội, với chuẩn mực đạo đức mà xã hội
gán cho nó. Anh không có mối quan hệ xã hội mà chỉ tồn tại những mối
quan hệ cá nhân mà thôi. Và trong mối quan hệ cá nhân giữa người với
người đó, anh đâm ra tàn nhẫn. Mẹ chết, anh không buồn, vì sống hay chết
thì có sao? Mà không buồn thì không thể khóc. Anh uống cà phê, hút thuốc
và ngủ bên quan tài mẹ. Cơ thể anh muốn thế, vậy anh làm thế, tự do không
ảnh hưởng đến ai.

Những chuẩn mực đạo đức bị anh vô hiệu hóa vì chúng với anh là Phi
lý. Những con người xuất hiện trước Meursault được gọi bằng chức vụ, hay
là những khuôn mặt vô hồn mà anh chỉ nhìn thấy một bộ phận nào đó trên
khuôn mặt bằng dấu hiệu của sự máy móc hau sự tàn phá của thời gian...
Một phụ nữ ở quán ăn quen thuộc anh cũng không nhớ tên, một cô y tá ở
12


viện dưỡng lão anh cũng không nhận ra sự có mặt dù chị ta đứng ngay trước
mắt. Những người trong phiên tòa xét xử, cả tòa án, anh cũng cảm thấy mình
chỉ đứng bên ngòai những con người ấy, những vấn đề ấy. Tất cả với anh
dường như sự tồn tại đó chẳng có ý nghĩa gì, và họ tồn tại ở thế giới khác,
không có anh. Khi mọi người tìm cách bênh vực cho anh thì chính bản thân
anh lại chẳng cần. Họ bảo anh nói dối để giảm tội. Anh không nói dối. Đơn
giản vì anh không thích. Bản thân anh ta không biết đâu là thật, là giả.
Những gì anh ta cho là thật thì anh làm. Anh thụ động, làm cái điều mà bản
năng mách bảo hoặc do người khác vạch ra, những cái đó anh cho nó là thật.
Anh ta chấp nhận hiển nhiên, vô thức... Meursault đã ở tù, anh bị giam
không chỉ trong nhà tù bốn bức tường, mà anh bị giam cầm ngay trong nhận
thức của mình. Và cái nhà tù do thiết chế xã hội lập nên hãm thân xác anh,
cái nhà tù chẳng ăn nhập gì với anh giờ đây đang giam anh, và sẽ kết thúc
cuộc đời anh.
Không chỉ nhận thức cái phi lý của xã hội, mà Meursault còn cảm
thấy vũ trụ thiên nhiên cũng là phi lý. Anh chấp nhận biển xanh vì biển làm
cho anh thoải mái mát mẻ, biển có thể để anh “trần truồng” là mình trước vũ
trụ. Nhưng đối lập với biển là nắng, nắng quá để làm gì, không cần nắng,
anh ghét nắng và cũng vì nắng nên anh mới phạm tội giết người.
Meursault đã để đời mình luẩn quẩn trong chính nhà tù mình tạo ra,
sống vô thức, nhàm chán và không hy vọng. Nhưng có phải tâm hồn anh chỉ
toàn là bóng đen của điều phi lý anh cảm thấy đó không? Có giây phút nào

tâm hồn anh lóe lên ánh sáng của sự nhận thức?
Có! Meursault đã từng có thắc mắc về thái độ của mọi người đối với
mình, nhưng rồi anh ta vẫn cảm thấy mọi sự xảy ra thế nào cũng được, nếu
sự việc khác đi thì cũng chả có ý nghĩa gì. Anh ta thích biển với những cảm
giác êm đềm, biển gắn liền với anh ta những kỉ niệm tuổi thơ. Anh ta giết
13


người một cách vô thức, nhưng anh nhận ra rằng mình đã “gõ bốn cái vào
cánh cửa bất hạnh”. Và khi ở trong nhà giam, khi thân xác anh bị tù hãm thì
tâm hồn anh lại mở ra. Anh đã có những hồi tưởng. Trước đây anh sống và
hành động theo thời gian có chu kì, thì bây giờ anh lại sống trong thời đoạn
phức tạp hơn của thời gian, anh nghĩ về quá khứ, nghĩ đến mẹ. Anh nhận
thức được thời gian trôi chảy đã đưa anh từ hành động giết người đến án tử
hinh. Song những nhận thức đó không giải thoát được anh, nó lại đưa anh từ
bi kịch này sang bi kịch khác, cuộc đời với anh là phi lý, nhưng giờ đây,
trong tù và qua các lần xử án, anh đã nhận thức được cái phi lý ấy và anh
thanh thản đón nhận cái chết. Khi nhận thức có sự thay đổi qua hồi tưởng, ta
biết rằng tâm hồn anh có nhận thức tiến bộ. Trong đêm đầy sao anh nhận
thức rằng lần đầu tiên trải mình ra với thiên nhiên và nhận thấy sao “nó” lại
giống mình đến thế. Thiên nhiên “dửng dưng âu yếm”, và anh cũng vậy.
Ngỡ tưởng rằng có sự dung hợp nhưng trái lại cả hai đều dửng dưng thì chỉ
còn lại nỗi cô đơn mà thôi. Vẫn là bi kịch.
Vậy có thể nói, nhận thức của Meursault là nhận thức về cái phi lý của
cuộc đời. Không sai, cuộc sống đầy dẫy những điều Phi lý và không ai khi
dừng lòng lại không cảm thấy xót xa, một chút chạnh lòng cho những phù
vân. Thế nhưng những cái đó không phải kà cái quyết định cuộc sống. Cuộc
đời, xã hội tự nhiên vẫn thế vẫn tuân theo quy luật ngàn đời của nó. Con
người cũng vậy, tồn tại hay mất đi đều không phi lý chút nào, quan trọng ta
nhìn nhận bản thân và mối quan hệ xã hội ra sao. Con người – xã hội là mối

quan hệ biện chứng không thể tách rời nhau ra mà nhìn nhận một cách phiến
diện.
2.2 Meursault – con người của hành động nổi loạn.
Camus đã từng viết: “Chính ở trong thế giới này mà tôi đáp lại cái phi
lý bằng sự nổi loạn của tôi, tự do của tôi và sự say mê của tôi. Chỉ bằng hoạt
14


động của lương tâm, mà tôi biến đổi cái gì đó mời mọc đến cái chết thành
quy tắc sống, và tôi khước từ sự tự vẫn”.
Vâng! Quả thật Albert Camus đã làm như thế, thông qua nhân vật
trung tâm của truyện “The stranger” là Meursault. Nhân vật Meursault chính
là nhân vật tiêu biểu cho “con người của hành động nổi loạn”. Sự nổi loạn
của nhân vật này có ý nghĩa chống lại thế giới phi lý, là sự nổi loạn của cá
nhân có tính chất siêu hình và vô nguyên tắc, là sự thách thức cái phi lý của
đời người. Tự do có nghĩa là “tôi chỉ là tôi”, “tôi là đối tượng của tôi”,
không chấp nhận một cái gì sẵn có... Bằng cái hành động của nhân vật,
Camus muốn xây dựng một “anh hùng” kiểu mới, dũng cảm đương đầu với
cái phi lý bằng cách vạch trần cái vô nghĩa của chính bản thân cuộc đời.
Hành động xuyên suốt tác phẩm của Meursault bị coi là hành động
“nổi loạn” bởi hành động đó nằm ngoài những chuẩn mực mà xã hội quy
gán cho nó. Ngay từ đầu tác phẩm, trước cái chết của mẹ, anh ta có những
biểu hiện bên ngoài khiến cho những con người trong xã hội lên án: về chịu
tang mẹ mà anh ta thậm chí từ chối không nhìn mặt mẹ lần cuối, không thức
đêm canh bên linh cữu mẹ và anh ta còn cảm thấy khó chịu bởi tiếng khóc
của những người khác, anh ta cho rằng không thể tỏ ra thương tiếc khi mà
con người ta không thực sự thương tiếc; khi đưa linh cữu của mẹ ra nghĩa
trang với thái độ dửng dưng, anh chỉ quan tâm đến thời tiết nóng bức ngột
ngạt làm anh khó chịu: “Nỗi vui mừng của tôi khi chuyến xe tiến vào vùng
ánh sáng của thành phố Alger và ý nghĩ rằng sắp được ngã mình và ngủ luôn

một giấc mười hai tiếng đồng hồ” (tr.23). Meursault nghĩ rằng: “mẹ tôi giờ
đã mồ yên mả đẹp, rằng... tóm lại chẳng có gì thay đổi”. Khi ông chủ của
Meursault muốn cất nhắc anh trong công việc và sống ở một thành phố khác,
Meursault đã trả lời: “Vâng...nhưng xét cho cùng ở đâu cũng thế thôi”
(tr.49). Lão chủ tỏ ý ngạc nhiên, hỏi Meursault có quan tâm đến sự thay đổi
15


đời sống không, Meursault nói: “Chẳng thấy lý do gì để thay đổi đời tôi, tất
cả chẳng có gì thực sự quan trọng” (tr.49). Gần gũi Marie, Meursault khao
khát thèm muốn nàng nhưng hầu như là không yêu nàng. “Nàng hỏi tôi có
yêu nàng không? Tôi trả lời: điều ấy có nghĩa gì, dường như là không”.
Muốn Meursault cưới mình, Marie đã trực tiếp đề nghị điều ấy, Meursault
hờ hững: “Tôi đáp đối với tôi thế nào cũng được và rằng chúng tôi sẽ cưới
nhau nếu nàng muốn thế” (tr.50)... Cuộc sống của Meursault cứ thế trôi qua
cho đến một ngày khi anh ta trở thành kẻ sát nhân, và anh bị kết án tử hình
không hẳn vì tội giết người mà vì những ứng xử thường ngày của anh ta
trong cuộc sống với một thái độ dửng dưng: anh ta không biện luận về hành
động của mình trong phiên tòa, cũng như từ chối gặp mục sư, từ chối rửa
tội...
Như vậy, Meursault là nhân vật nổi loạn trong sự phi lý, một sự phản
kháng từ vô thức đến ý thức, từ tự phát đến tự giác. Khi anh ta ý thức được
sự phi lý đó thì anh ta hành động bằng việc không chấp nhận nói dối và bằng
chính sự thấu hiểu và chấp nhận cái phi lý.
Tất cả những hành động của anh đều xuất phát từ một nguyên nhân:
từ chối nói dối. nói dối không phải chỉ là nói điều gì không có. Mà thường là
nói quá đi điều vốn có, về cái gì đó của trái tim con người, nói quá đi điều
mà người ta không cảm thấy. đó là điều mà chúng ta thường làm để đơn giản
hóa đời sống. Nhưng Meursault trái ngược với vẻ bề ngoài, anh không muốn
đơn giản hóa cuộc sống, anh ta nói điều gì vốn có, anh từ chối che giấu

những tình cảm của mình. Vì thế Meursault, như lời của Camus, là một con
người sẵn sàng chết cho sự thật. Hành động chết ở đây không mang ý nghĩa
cao cả như trong quan niệm thông thường. Meursault chết vì anh nói thật,
nhưng không phải để tuyên dương sự thật, cũng không có ý vinh danh sự
thật. Anh chết vì anh chọn một lối sống mà người ta phải ghi nhớ một bài
16


học đắt giá từ cái phi lý của cuộc đời: “Người ta đừng có bao giờ đóng
kịch.”
Trước trò chơi của xã hội, anh đã dũng cảm khước từ bằng thái độ
dửng dưng, thờ ơ đầy thách thức. Trong buổi xử án, trong vai trò là một bị
cáo nhưng Meursault không quan tâm đến số phận của mình sẽ ra sao: “Tôi
thích được xem tòa xử... Tôi chỉ có một cảm tưởng: Tôi đang đứng trước
chiếc ghế dài trên xe điện và tất cả đám hành khách vô danh rình mò người
mới bước lên để khám phá những điểm lố bịch” (tr.95)
Nhưng thực sự anh ta cũng mơ ước được tự do, nhưng là tự do khi anh
không phải đóng kịch. Nhưng khi nhận ra cuộc đời là phi lý, thì đồng thời
anh cũng nhận ra “cuộc đời không đáng sống.” Nhận ra cái chết là một lẽ tất
nhiên, và cũng chính khi đó anh ta quyết định sòng phẳng: “Người ta chỉ cho
tôi biết rằng tôi là một tội phạm. Tôi phạm tội thì tôi phải trả giá, người ta
không thể yêu cầu gì hơn nữa.” Anh ta nhận ra điều đó, và anh ta không cần
phải nói dối để được sống. Anh ta chấp nhận, và như vậy chính là anh ta
phản kháng, một hình thức nổi loạn.
Meursault là một nhân vật của hành động nổi loạn, và chỉ có sự nổi
loạn đó của anh ta mới không làm cho anh ta trở thành nô lệ của sự phi lý.
Trong một cái xã hội đầy những tục lệ, nghi thức trói buộc con người,
Meursault đã “nổi loạn” chống lại xã hội và thân phận của nó, không chấp
nhận “đạo đức”, tôn giáo, tòa án. Và dù khác với nghĩa “anh hùng” như
trong quan niệm truyền thống nhưng Meursault vẫn là một “anh hùng”, và

anh ta đã đạt đến “tự do đích thực”.

V.

Vài nét về nghệ thuật.
3.1 Chủ đề trong tác phẩm.
3.1.1 Người mẹ

17


Camus rất thương mẹ, ông đã từng khẳng định: “Tôi tin công lý,
nhưng tôi sẽ bảo vệ mẹ trước khi bảo vệ công lý”. Thế nhưng nhân vật của
ông – Meursault lại có những biểu hiện rằng anh ta rất thờ ơ với mẹ. Người
mẹ trong truyên là người vắng mặt, nhưng lại hiện diện trong lời nói của kẻ
khác mà Meursault đã cố gặp lại mỗi khi người ta nhắc đến bà. Người mẹ im
lặng ở viện dưỡng lão, im lặng khi còn ở với anh. Sự im lặng đó đã chấm dứt
sau cái chêt của bà và được tìm thấy ở phòng khách nhà tù khi Meursault
chứng kiến một người mẹ vào thăm con. Kí ức về mẹ hiện về, anh ta nghe
thấy tiếng mẹ nhớ lại lời mẹ nói. Anh ta biết, khi mẹ gần chết, anh ta nghĩ
chắc mẹ cảm thấy được giải thoát và sẵn sàng sống lại tất cả. “người mẹ ngự
trị trong một sự im lặng kỳ lạ và sâu thẳm trong tâm hồn của Meursault”.
3.1.2 Biển và nắng
Tuổi trẻ của Meursault hòa hợp với thiên nhiên với biển cả. sau khi
đưa tang mẹ, anh trở lại với sự tươi mát của biển, anh ta tìm được ở biển tính
vô tội và sự quên lãng. Biển đem lại cho anh ta những thú vui, sự quên lãng
sau khi mất mẹ. trái lại, nắng không có bộ mặt thuận lợi, không đem lại may
mắn cho cuộc sống, nắng làm đất khô cằn, chống đối lại con người. Trên
suốt đường đến nghĩa trang, nắng có bộ mặt tàn bạo, nó làm hắc ín nổ, nó
đập vào mặt Meursault như một cái tát, ánh nắng chói lòa, nặng nề khiến

người ta không chịu nổi. Nắng có tác động trong việc Meursault bắn chết tên
Ả rập, khi giết người Ả rập anh ta không biết là ánh sáng của nắng hay của
súng.
3.1.3 Tiếng cười và sự im lặng
Công chúng đến dự các phiên tòa xử vụ án của Meursault có khi cười
có khi im lặng. tiếng cười diễn ra như một sự mỉa mai của một định mệnh đã
bị quyết định vĩnh viễn. khi ông già Perez trả lời câu hỏi của trạng sư thì
công chúng cười, khi Meursault trả lời lý do giết người của anh ta là vì nắng
18


thì mọi người cười... Có một không khí vui của ngày hội tại phiên tòa và
trước khi xét xử bắt đầu, tiếng cười đối với Meursault là sự hòa hợp hạnh
phúc.
Tiếng cười gắn với Marie bởi cô là con người của tiếng cười. cuối
phiên xử anh ta nghĩ đến tiếng cười và cái áo của Marie, khi vào nhà tù tiếng
cười của Marie biến thành nụ cười liên quan đến sự im lặng, đó không còn là
tiếng cười vui tươi mà đã nhăn nhúm đau khổ. Tiếng cười và sự im lặng theo
anh ta suốt quá trình xét xử. Meursault xa lạ với thế giới con người, với
những tục lệ mưu mẹo xảo trá, tuy nhiên anh ta cảm thấy được cái thế giới
đó đúng lúc nó loại trừ anh ta ra.
3.2 Cốt truyện.
The stranger được chia thành hai phần, cốt truyện có một kết cấu độc
đáo.
Mở đầu bằng một cái chết, kết thúc bằng một cái chết.
Chúng tôi có bảng sau:
Bảnh so sánh tình tiết của hai phần:

Chương


Tình tiết phần 1
Cái chết của người mẹ.

Tình tiết phần 2
Trong phòng giam – các

1

trực linh cữu – ông già

cuộc

Perec. Đám tang mẹ - trở

Meursault với viên dự

về Alger.

thẩm và luật sư – hỏi

Chương

Tắm biển – gặp Marie –

cung.
Viếng thăm của Marie –

2

xem phim hài – qua đêm


đối mặt với các tù nhân

Chương

với Marie - ở ban công.
Trở lại công sở - gặp

Ả rập.
Đến tòa án – nhà báo,

gặp

gỡ

giữa

19


3

Salamano ở cầu thang –

luật sư, thẩm phán – gặp

gặp Raymond – chứng

lại


kiến cảnh cãi cọ giữa

Raymond,

Raymond và người tình –

Salamano, Marie. Trở lại

Chương

viết thư giùm Raymond.
Làm việc ở công sở - xem

phòng giam.
Phiên tòa – luận tội

4

phim với Marie – cãi cọ

Meursault – bào chữa

giữa Raymond và người

của luật sư – thái độ lạnh

tình – cảnh sát can thiệp –

lùng của Meursault –


nhận lời làm chứng cho

tuyên án tử hình.

Thomas,

Perez,
Masson,

Raymond – đi dạo cùng
Raymond – trở về nhà –
Chương

gặp Salamano và con chó.
Trò chuyện qua điện thoại

Bình thản đón nhận cái

5

với Raymond – gặp Marie

chết.

– nói chuyện cưới xin – đi
ăn tại nhà hàng Céleste –
về nhà gặp và trò chuyện
với Salamano về người
Chương


mẹ và con chó.
Qua đêm với Marie – gặp

6

Raymond – nhận lời mời
đi chơi ở nhà Masson –
gặp toán người Ả rập trên
xe bus – gây gổ giữa
Raymond và toán Ả rập –
tắm biển với Marie – buổi
chiều trở lại bãi biển – bắn
20


chết người Ả rập – bị bắt.
Đặc điểm cấu trúc tình tiết phần 2 cốt truyện:
Chương

Tình tiết mới – diễn tiến

Tình tiết được nhắc lại –

1

cốt truyện
Trong phòng giam – gặp

đoạn dừng
Thái độ thờ ơ trong đám


gỡ của dự thẩm và luật

tang mẹ - làm quen với

sư – hỏi cung Meursault.

Raymond – tắm biển cùng
Marie - ẩu đả với người Ả
rập (lời kể của Meursault

2

3

Viếng thăm của Marie –

cho đám tù nhân Ả rập).
Giết chết người Ả rập (lời

đối mặt với đám tù nhân

kể của Meursault cho đám

Ả rập. Câu chuyện trong

tù binh.) mơ ước trở lại

bài báo về đứa con trai bị


bãi cát, bãi biển, nơi từng

giết chết ở Tiệp Khắc.

gặp Marie (trong tâm

Lần đầu có mặt ở phiên

tưởng của Meursault).
Thờ ơ với mẹ trong ngày

tòa – thẩm phán, luật sư,

đưa tang – không muốn

nhà báo – gặp Thomas,

nhìn mặt mẹ, hút thuốc,

Perez,

Raymond,

uống cà phê, tắm biển và

masson,

Salamano,

xem phim với Marie – can


Marie,

Céleste

trong

phiên tòa – thẩm vấn.

dự

chuyện

riêng

của

Raymond – giết người Ả
rập

(tranh

luận

của

Meursault tại phiên tòa,
những

lời


người

làm

chứng).

21


4

5

Tiếp tục phiên tòa – sự

Đám tang mẹ - tắm biển,

dửng dưng lạnh lùng của

xem phim hài, bắt nhân

anh ta – luận tội của viên

tình với Marie – làm quen

công tố - tranh luận của

với Raymond, đồng lõa


luật sư – tuyên án tử hình

với Raymond, gây sự với



Marie,

người Ả rập, phát súng

Raymond, Céleste trong

định mệnh (luận tội của

phiên tòa.
Trong nhà giam – từ chôi

viên công tố).
Hồi ức về người mẹ, cha,

lần thứ 3 viên mục sư – ý

Marie – hương vị đêm,

nghĩ về guồng máy Pháp

biển, đất – những ngày

luật, về án tử hình – từ


cuối của mẹ - tâm trạng

chối xá tội – chờ đợi cái

bình thản, hạnh phúc khi

chết – kết thúc.

nghĩ về cái chết (trong

nhìn

thấy

tâm tưởng của Meursault).
Ta thấy, ba cái chết đã chi phối toàn bộ tình tiết tác phẩm, trở thành
sợi dây liên kết hai phần lại với nhau. Chia thành hai phần rõ ràng: Phần 1 là
sự dàn trải các sự kiện mang đậm tính khách quan của biện pháp thống kê.
Phần 2 là sự chồng chéo giữa quá khứ, hiện tại và những dự cảm về tương
lai. Điều này đã tạo cho tác phẩm có tính nước đôi và tính triết lý sâu sắc.
3.3 Thời gian và không gian nghệ thuật.
3.3.1 Thời gian
Tiểu thuyết “The stranger” được chia thành hai phần song sơng với
nhau, nhưng thời gian không cân đối. Phần 1 trải dài 17 ngày, phần 2 kéo dài
một năm, phần dự thẩm chiếm 11 tháng và việc tuyên án xảy ra một năm sau
án mạng. Meursault đã đi từ thời gian tính này sang thời gian tính khác, từ

22



một thời gian chu kì sang thời gian tuyến tính. Đầu tiên anh ta đi từ chủ nhật
này sang chủ nhật khác và coi đây là cái mốc. Sau đó khi vào tù anh ta chìm
vào một thời gian mà anh ta khó lòng đoán được sự mới lạ. Thời gian tuyến
tính được người gác tù nhắc nhở rằng anh ta ở tù đã năm tháng rồi. Thời
gian này đưa anh ta từ vụ giết người đến cái chết. khi cận kề cái chết anh ta
mới hiểu rõ ý nghĩa của thời gian và anh ta đón nhận thời gian vĩnh cửu của
cái chết.
3.3.2 Không gian
Meursault sống trong hai không gian mâu thuẫn: một không gian đóng
kín là căn phòng của anh ta ở đầu truyện và cái xà lim nơi cuối truyện.
Nhưng Meursault cũng từng sống trong một không gian rộng lớn: bãi biển
nơi anh ta tắm biển vơi Marie, cánh đồng lúc đưa tang...
Không gian thể hiện niềm mong ước của con người bị giam cầm trong
những thứ bắt buộc. Và Meursault đã không chịu được sự giam cầm ấy nên
anh ta “nổi loạn”.
3.4 Ngôn ngữ.
Câu văn được viết hết sức ngắn gọn, với một giọng văn đều đều,
không chút âm sắc, giống như một “giọng văn trắng”, câu văn rời rạc, một
kiểu văn – điện tín. Và theo nhiều nhà nhận định “đó là một lối kể gây
sốc”...
Với lối kể đó, Camus đã tạo được ảo giác về thời gian, khiến người
đọc cảm thấy cái đã xảy ra rồi xen lẫn với những cái đang xảy ra. Không
phải ngẫu nhiên mà ta thấy thường xuất hiện những cụm từ như: hôm nay,
mẹ mất..., chính hôm nay chủ nhật, luôn luôn là một ngày chủ nhật đã qua...
được tác giả nhắc lại nhiều lần. Như vậy, hòa vào văn bản người đọc như
cảm thấy người kể hiện diện bên cạnh mình. Lối kể đó khiến lời văn gần như
những “độc thoại nội tâm” được phát thành tiếng.
23



Theo Sartre “đó là lối kể cà giật”, nhát gừng, gặp chăng hay chớ...
3.5 Biểu tượng cây thập giá trong tác phẩm.
Trước khi sang Pari, Camus có viết trong Carneto: “Và nếu Kito giáo
làm chúng ta xúc động chính la do thượng đế của tôn giáo đó làm người.
Nhưng chân lý và sự cao cả của Kito giáo dừng lại ở thập giá và dừng lại ở
cái lúc mà chúa Kito kêu lên ngài bị bỏ rơi”.
Cây thập giá là nơi đấng Kito bị đóng đinh vào đó. Nó là biểu tượng
cho hình phạt mà người ra gọi là khổ hình. Đây là hình phạt nặng nề đối với
con người. Cây thập giá xuất hiện trong “The stranger” như là sự khơi gợi
lên nét tương đồng giữa đấng Kito và Meursault. Đó là sự từ chối lòng căm
ghét, lòng oán hận của Meursault với những ai gán tội cho anh ta và một
hình thức tha thứ. Nhưng ngược lại với đấng Kito, Meursault không giảng
không báo hiệu gì cả, không đòi hỏi phải từ bỏ thế gian để đạt đến một siêu
hình nào. Nếu anh ta có gương mặt gần với đấng Kito, đó là do thân phận
của anh ta trở thành thân phận của con người. Meursault không mang gánh
nặng tội lỗi của loài người như đấng Kito mà anh ta phạm một tội, và đây là
tội nặng nhất: tội giết người!
Biểu tượng cây thập giá có lẽ còn nhiều ý nghĩa, và bên cạnh ý nghĩa
trên chúng tôi xin đưa ra một cách diễn giải về biểu tượng thập giá. Trong
đoạn cuối tác phẩm, khi linh mục vào tù rửa tội cho anh ta, anh ta đã từ chối
linh mục đến ba lần. Như vậy anh ta từ chối Chúa, từ chối tôn giáo. Vị mục
sư đã phải thốt lên rằng anh ta là người có trái tim bằng đá.
Và theo nhóm chúng tôi, cây thập giá còn là biểu tượng cho những
chuẩn mực mà con người tôn thờ, nhưng anh ta từ chối nó, anh ta hành động
ngược lại với những chuẩn mực đó. Vì thế anh ta bị coi là người “nổi loạn”.

24


25



×