Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Truyện ngắn nguyễn khải thời kì đổi mới từ góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.88 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

ĐÀO THỊ THIẾT

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI THỜI KÌ ĐỔI MỚI
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 02 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Đào Thủy Nguyên

Thái Nguyên, năm 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu
nêu trong luận văn là trung thực và nội dung này chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình nghiên cứu nào trước đó.
Thái Nguyên, tháng 7 năm 2015
Tác giả luận văn

Đào Thị Thiết


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

i




LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Đào Thủy Nguyên - người đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cán bộ, giảng viên khoa Ngữ văn,
khoa Sau Đại học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã chỉ bảo tận tình
và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu để hoàn
thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn những ý kiến nhận xét, đánh giá, góp ý quý báu của
Hội đồng khoa học đánh giá luận văn giúp em hoàn thiện hơn luận văn này.
Thái nguyên, tháng 07 năm 2015
Tác giả luận văn

Đào Thị Thiết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

ii




MỤC LỤC
Trang


Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN. TRUYỆN NGẮN NGUYỄN
KHẢI THỜI KÌ ĐỔI MỚI ............................................................................. 12
1.1. Một số vấn đề lí luận .............................................................................. 12
1.1.1. Khái niệm về “văn hoá” và “văn học” ................................................ 12
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học ................................................. 15
1.1.3. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá ................................................. 17
1.1.4. Diễn trình văn hoá Việt Nam............................................................... 19
1.2. Truyện ngắn Nguyễn Khải thời kì đổi mới ............................................ 23
1.2.1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Khải ... 23
1.2.2. Truyện ngắn Nguyễn Khải trong dòng chảy chung của truyện ngắn
Việt Nam thời kì đổi mới ............................................................................... 25
Chƣơng 2: DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN KHẢI .............................................................................................. 34
2.1. Bức tranh thiên nhiên mang dấu ấn văn hóa Việt Nam.......................... 34
2.2. Con người văn hóa trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kì đổi mới .... 38
2.2.1. Con người giàu tình nghĩa và đức hi sinh ........................................... 39
2.2.2. Con người giàu nghị lực và niềm tin vào cuộc sống ........................... 47
2.2.3. Con người giàu lòng tự trọng, có bản lĩnh và nhân cách cao đẹp ....... 49
2.3. Đời sống văn hóa - xã hội Việt Nam trong truyện ngắn Nguyễn Khải
thời đổi mới.................................................................................................... 55
2.3.1. Những nét đẹp văn hóa trong đời sống xã hội Việt Nam .................... 55
2.3.2. Những mặt trái của đời sống văn hóa - xã hội Việt Nam thời kì
đổi mới .......................................................................................................... 61
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

iii





Chƣơng 3 DẤU ẤN VĂN HÓA

TRONG NGHỆ THUẬT TRUYỆN

NGẮN NGUYỄN KHẢI ................................................................................. 68
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................ 68
3.1.1. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình ...................................................... 68
3.1.2. Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại ........................................ 73
3.2. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải ............................ 79
3.2.1. Ngôn ngữ kể chuyện bình dị, đời thường, đậm tính khẩu ngữ .......... 79
3.2.2. Ngôn ngữ giàu sức biểu cảm, trữ tình ................................................. 82
3.3. Hệ thống biểu tượng văn hóa Việt Nam trong truyện ngắn Nguyễn Khải
thời kì đổi mới ............................................................................................... 83
3.3.1. Biểu tượng và biểu tượng trong văn học ............................................. 83
3.3.2. Biểu tượng văn hóa Việt Nam trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kì
đổi mới ........................................................................................................... 85
KẾT LUẬN....................................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

iv





MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Khải là một trong những cây bút tiêu biểu hàng đầu của nền văn học
Việt Nam hiện đại. Ông thuộc thế hệ những nhà văn trưởng thành từ cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và cũng là một trong những cây bút đi tiên phong trong sự
nghiệp đổi mới văn học nước nhà. Với sức viết dẻo dai, bền bỉ cùng phong cách làm
việc hết sức nghiêm túc và không ngừng tìm tòi, đổi mới, ông đã khẳng định vững
chắc tên tuổi của mình trên văn đàn. Nguyễn Khải sáng tác đều tay và ở thời điểm
nào ông cũng có những tác phẩm kịp thời để phục vụ nhu cầu của bạn đọc. Sau hơn
nửa thế kỉ cầm bút, nhà văn đã để lại một khối lượng khá lớn các tác phẩm thuộc
nhiều thể loại khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tạp văn... Ở mỗi thể loại,
ông đều thể hiện tài năng và tâm huyết của một cây bút luôn tìm tòi đổi mới, luôn
chuyên tâm cho sự nghiệp văn chương. Sức lôi cuốn trong các sáng tác của ông thể
hiện ở những phát hiện nhạy bén, tính triết lý sắc sảo cùng với giọng văn hóm hỉnh
mà đôn hậu, trầm lắng mang đậm cá tính riêng của tác giả.
1.2. Trong văn nghiệp của Nguyễn Khải, truyện ngắn chiếm một vị trí đặc biệt quan
trọng góp phần làm nên tên tuổi của ông. Nhìn chung, truyện ngắn của Nguyễn Khải
khá phong phú về đề tài: về nông dân trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, về bộ
đội trong những năm chiến tranh, về những vấn đề xã hội - chính trị có tính thời sự,
về cả những chuyện thường ngày, những trăn trở về chuyện nghề, chuyện đời trước
những biến động phức tạp của xã hội... Dù viết về đề tài nào, truyện ngắn của ông
cũng thể hiện một cái nhìn đa diện, một sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống, về con
người và xã hội. Và bao giờ cũng vậy, truyện ngắn Nguyễn Khải luôn thấm đượm
một tình yêu tha thiết với đất nước và con người Việt Nam.
1.3. Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu các sáng tác của Nguyễn Khải, chúng tôi
nhận thấy truyện ngắn của ông mang nhiều dấu ấn văn hóa Việt Nam. Có lẽ cuộc đời
trải qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc cùng với những trải nghiệm qua
những chuyến đi thực tế đã tạo nên cho nhà văn sự am hiểu vừa sâu sắc vừa đa dạng,
phong phú về đời sống văn hóa của con người Việt Nam. Phải chăng, đây cũng chính
là cơ sở làm nảy sinh những mạch nguồn cảm hứng sâu xa, góp phần tạo nên những


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

1




trang văn đậm chất văn hóa của Nguyễn Khải. Bởi vậy, chúng tôi chọn cách tiếp cận
truyện ngắn của ông dưới góc nhìn văn hóa.
Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hoá là một cách tiếp cận còn khá mới mẻ
trong đời sống nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, những năm gần đây cũng đã xuất hiện
nhiều công trình nghiên cứu văn học trong mối quan hệ với văn hoá. Văn học là một bộ
phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hóa. Bất kì tác phẩm văn học ở thời kì nào
cũng đều mang dấu ấn văn hóa của thời kì đó. Do vậy, khi nghiên cứu một tác phẩm
văn học, sẽ là thiếu sót vô cùng nếu ta không tìm hiểu những giá trị văn hóa được thể
hiện trong tác phẩm văn học đó. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, việc giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia đang là vấn đề bức thiết được đặt lên hàng đầu. Nhận
biết được điều này nên chúng tôi mong muốn đi sâu nghiên cứu sáng tác của một tác
giả cụ thể theo hướng tiếp cận văn hóa. Chúng tôi lựa chọn truyện ngắn của Nguyễn
Khải làm đối tượng nghiên cứu bởi truyện ngắn của ông rất giàu giá trị văn hóa. Trong
khi đó, mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các sáng tác của Nguyễn Khải
nhưng lại chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống về
truyện ngắn của ông theo hướng liên ngành văn hóa - văn học.
1.4. Sáng tác của Nguyễn Khải đã được đưa vào chương trình học ở đại học và các
trường phổ thông hiện nay. Trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn trước đây có
truyện ngắn Mùa lạc và chương trình sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành có truyện
ngắn Một người Hà Nội. Nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi mong phần nào giúp các
thầy cô giáo và các bạn học sinh, sinh viên trong việc giảng dạy, học tập tác phẩm
của ông ở nhà trường các cấp.

Từ những lí do trên đây cùng với với niềm say mê và lòng kính trọng, khâm
phục tài năng Nguyễn Khải, đặc biệt yêu thích truyện ngắn của ông, chúng tôi lựa
chọn đề tài: “Truyện ngắn Nguyễn Khải thời kì đổi mới từ góc nhìn văn hóa” làm
vấn đề nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Các sáng tác của Nguyễn Khải dù ở thể loại nào thì ngay từ khi mới ra đời cũng
luôn tạo được dư luận và gây được sự chú ý của độc giả cũng như của giới phê bình,
nghiên cứu văn học. Vì thế đã có khá nhiều những bài báo, những công trình nghiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

2




cứu về tác phẩm của ông. Để phục vụ cho những vấn đề mà đề tài nghiên cứu, chúng
tôi chỉ tập trung tìm hiểu các ý kiến đánh giá, nhận xét về văn hóa trong mảng truyện
ngắn của Nguyễn Khải thời kì đổi mới.
2.1. Những ý kiến đánh giá về dấu ấn văn hóa trong nội dung truyện ngắn của
Nguyễn Khải.
Nguyễn Khải cùng các nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng…
xứng danh là những “ngọn cờ tiên phong” trong nền văn học Việt Nam thời kì đổi
mới. Các truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kì này nhận được sự đánh giá cao của
giới phê bình văn học và bạn đọc cả nước. Đáng lưu ý nhất là các bài viết của Vương
Trí Nhàn, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Phan Cự Đệ, Đoàn Trọng Huy, Đào Thủy
Nguyên, Huỳnh Như Phương… Nhìn chung, các nhà nghiên cứu nhận thấy ở nhà văn
một cách tiếp cận hiện thực độc đáo, một cái nhìn sắc sảo, khả năng nắm bắt nhiều
khía cạnh của đời sống, đặc biệt là sự thể hiện những thân phận, những trạng thái tâm
lý của con người một cách sâu sắc, tinh tế. Đó cũng là những tư liệu quý báu, những

gợi ý bước đầu để chúng tôi triển khai luận văn này.
Vương Trí Nhàn trong bài viết Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học
cách mạng từ sau năm 1945 đã ghi nhận thành quả lao động miệt mài, hăng say của
một nhà văn có “phong cách vừa dân dã vừa hiện đại”. Trong bài viết, tác giả đã chỉ
ra rằng: “Những truyện ngắn của Nguyễn Khải viết từ 1988 - 1999 đến thời gian gần
đây, khơi vào hai mạch chính: Một là cuộc sống hôm nay của người xung quanh, bạn
bè đồng nghiệp quen biết, cùng tuổi tác và tâm sự. Hai là số phận những người thân
trong gia đình, họ hàng nội ngoại của tác giả, những ông cậu, bà mợ mà tâm tư tình
cảm của Nguyễn Khải còn nhiều quyến luyến”[43, tr. 116]. Nhà nghiên cứu cũng
khẳng định: Nguyễn Khải là nhà văn hiểu rõ con người và cuộc sống hiện đại ngày
nay hơn ai hết: “Muốn tìm hiểu con người thời đại trong tất cả cái hay cái dở của họ,
nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, đời sống tinh thần của họ, phải đọc Nguyễn
Khải”[43, tr. 121]. Như vậy, Vương Trí Nhàn đã chỉ ra một thành công nổi bật của
Nguyễn Khải về giá trị văn hóa trong truyện ngắn của ông, đó là sự am hiểu sâu sắc
của tác giả về tâm hồn, tính cách con người Việt Nam.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

3




Viết về nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Khải, tác giả Nguyễn Phượng
trong bài viết Nguyễn Khải - vị sứ đồ tự nguyện trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
nhận xét: “Không phải ngẫu nhiên mà các nhân vật của Nguyễn Khải từ 1987 trở đi
phần lớn là những người gặp nhiều rủi ro, thất thiệt, họ cũng là những người già
nua, thất thế, lạc thời. Chọn đối tượng này, nhà văn xây dựng những hình mẫu nhân
vật mới: Con người vật lộn với những hoàn cảnh trớ trêu, với những biến động của
cuộc sống vô thường nhưng luôn khát khao hoàn thiện mình, luôn luôn biết giữ gìn

phẩm giá và nhân cách…”[46, tr. 159]. Tác giả bài viết cũng nhận định: “Nhà văn đã
phát hiện ra nhiều vẻ đẹp vốn có … Đó là vẻ đẹp đơn sơ mà lộng lẫy của cô Hiền
trong Một người Hà Nội, là vẻ đẹp trầm lắng và cao quý ẩn đằng sau cái vẻ ngoài
lầm lũi, tội nghiệp của ông Hai…”[46, tr. 159].
Tìm hiểu truyện ngắn Một người Hà Nội - một trong những truyện ngắn tiêu
biểu của Nguyễn Khải thời đổi mới, Nguyễn Văn Long có bài viết Nguyễn Khải và
sự đổi mới quan niệm về con người trong “Một người Hà Nội”. Nhận xét về nhân
vật bà Hiền, tác giả cho rằng:“Trong quan hệ với xã hội, với thời cuộc, những nét đẹp
trong nhân cách của nhân vật này phải được nhìn nhận từ một quan niệm mới, từ
những giá trị bền vững theo tinh thần nhân văn và dân chủ. Bà Hiền hoàn toàn không
phải là nhân vật thuộc mẫu hình “con người mới” của văn học xã hội chủ nghĩa một
thời” nhưng cái đáng quý ở nhân vật này “chính là biểu hiện của lòng tự trọng, của ý
thức về giá trị nhân cách, không thể để bị đánh mất mình trong hoàn cảnh thay đổi
của thời cuộc”, đó là ý thức giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống. Tác giả cũng khẳng
định một tình yêu, niềm tin của nhà văn đối với Hà Nội gửi vào hình ảnh cây si cổ thụ
đền Ngọc Sơn sống lại sau trận bão như một biểu hiện rằng: “Mọi thứ xô bồ, hỗn tạp
của Hà Nội hiện thời chỉ là những rác nổi trên bề mặt của đời sống, rồi đến lúc nó sẽ
bị cuốn đi, để một Thủ đô với 1000 năm văn hiến, với sự “thanh lịch của người Tràng
An” sẽ trở lại”[33]. Cũng đi sâu vào tìm hiểu truyện ngắn Một người Hà Nội, tác giả
Trần Viết Thiện trong bài viết Nguyễn Khải - người đi tìm hồn thiêng của đất Kinh
kì cho thấy: Cả tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi đều “lấp lánh tình cảm thân
thương, yêu quý và rất đỗi tự hào” của người con sinh ra trên mảnh đất Kinh kì và
Một người Hà Nội chính là “truyện ngắn kết lắng đầy đủ tình cảm, sự ngưỡng vọng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

4





của Nguyễn Khải về mảnh đất Thăng Long nghìn năm văn vật”. Tác giả bài viết cho
rằng: “Nhân vật cô Hiền trở thành một giá trị văn hóa, một thực thể sống của văn
hóa Hà thành”[57].
Trong một bài viết có nhan đề Nguyễn Khải với Hà Nội, tác giả Đinh Quang
Tốn chủ yếu đánh giá nội dung của tập truyện Hà Nội trong mắt tôi: “Cả tập truyện
là tập hợp những nhân cách Hà Nội (…) Nhân cách của mỗi con người cũng như bản
lĩnh của mỗi dân tộc có lẽ là điều cốt yếu để khẳng định mình”[62, tr. 375].
Các bài viết trên đây cũng đã ít nhiều đề cập đến vấn đề giá trị văn hóa có trong
nội dung truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỉ đổi mới. Tuy nhiên, vì đó không phải là
nội dung nghiên cứu chính nên các tác giả không tập trung đi vào nghiên cứu vấn đề
đó một cách chuyên sâu.
Tác giả Đào Thủy Nguyên trong cuốn Phương pháp tiếp cận sáng tác của
Nguyễn Khải trong giảng dạy văn học Việt Nam hiện đại đã lưu ý đến cái nhìn của
nhà văn vào đời sống con người: con người trong thời gian và lịch sử; con người
trong các khả năng lựa chọn và thích ứng; con người trong quan hệ gia đình; con
người trong mâu thuẫn và tiếp nối giữa các thế hệ… Đặc biệt, công trình có những
nhận xét rất cụ thể về những nhân vật của Nguyễn Khải được soi chiếu trên phương
diện nhân cách. Tác giả kết luận: “Vẻ đẹp nhân cách được Nguyễn Khải tìm thấy ở
những con người hết sức bình thường, những con người hầu như không có công tích
gì nhiều, nhưng tấm vải bền chắc của cuộc đời lại được dệt nên từ chính những con
người như thế”[41, tr. 153].
Luận văn thạc sĩ Hình tượng tác giả trong truyện ngắn của Nguyễn Khải thời
kì đổi mới của Hoàng Thị Anh là một công trình nghiên cứu khá sâu sắc về dấu ấn cá
nhân của nhà văn trong các truyện ngắn của ông thời đổi mới. Tác giả luận văn nhận
định: Nguyễn Khải đã thể hiện một cái nhìn hiện thực tỉnh táo để đi vào mọi ngõ
ngách của cuộc sống nhằm tìm ra chân lí, sự thật ở bề sâu cuộc sống tại những nơi
tưởng như êm đềm, phẳng lặng: “Viết về con người trong đời thường hôm nay,
Nguyễn Khải khám phá ra nhiều giá trị nhân văn sâu sắc ẩn chứa đằng sau những
con người, những nhân vật rất đỗi bình thường của cuộc sống. Nhân vật của ông

bước từ cuộc đời vào trang sách tự nhiên, không thi vị mà đượm chất đời sống”[1, tr.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

5




47]. Tác giả khái quát: “Cái nhìn hiện thực tỉnh táo của Nguyễn Khải trong thời kì
đổi mới là một cái nhìn có chiều sâu lịch sử và văn hóa”[1, tr. 48].
Lê Thị Bích Ngọc trong luận văn Những đặc điểm nổi bật của truyện ngắn
Nguyễn Khải đã tập trung khai thác một số đặc trưng của truyện ngắn Nguyễn Khải
trên bình diện nội dung qua cái nhìn về con người và sự lựa chọn đề tài của nhà văn.
Đặc biệt về cái nhìn con người trong truyện ngắn Nguyễn Khải, tác giả luận văn đã
nhận định “Sự ca ngợi, trân trọng trong truyện ngắn Nguyễn Khải không chỉ dành
riêng cho những con người bất hạnh biết vươn lên tìm hạnh phúc đời mình mà ông
còn dành cho những con người giàu lòng hi sinh, biết sống vì người khác”[40, tr. 21].
Về đề tài truyện ngắn, Nguyễn Khải tập trung vào ba đề tài chủ yếu: những vấn đề
phức tạp nảy sinh trong thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa, người phụ nữ trong sự
thăng trầm biến đổi của thời cuộc và đề tài về Hà Nội thanh lịch hào hoa.
Nhìn chung từ những ý kiến đánh giá của các tác giả trên, có thể nhận thấy: Vấn
đề văn hóa được thể hiện trong nội dung truyện ngắn Nguyễn Khải đã ít nhiều được
quan tâm ở những phương diện như: về con người, về cuộc sống gia đình truyền
thống hay đời sống văn hóa - xã hội thời đổi mới… Xong phần lớn mọi nghiên cứu
mới chỉ dừng lại ở những nhận xét chung, mang tính khát quát chứ chưa đi sâu vào
tìm hiểu cụ thể và có hệ thống về những dấu ấn văn hóa trong nội dung các truyện
ngắn của ông. Kế thừa thành tựu của những người đi trước, chúng tôi sẽ tiếp tục giải
quyết vấn đề còn đang bỏ ngỏ này.
2.2. Những ý kiến đánh giá về dấu ấn văn hóa trong nghệ thuật truyện ngắn

Nguyễn Khải thời kì đổi mới.
Nguyễn Khải được coi là một trong số ít những nhà văn có cá tính sáng tạo
nghệ thuật độc đáo và đạt được thành tựu đáng kể trong đổi mới nghệ thuật văn xuôi,
bởi vậy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Nhưng chưa có một
công trình nào tập trung nghiên cứu về dấu ấn văn hóa trong nghệ thuật văn xuôi
Nguyễn Khải nói chung và truyện ngắn của ông nói riêng. Tuy nhiên, trong quá trình
tìm hiểu, chúng tôi cũng ghi nhận được một số ý kiến đánh giá, nhận xét có tính chất
gợi mở cho đề tài nghiên cứu của mình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

6




Trong số những ý kiến bàn về nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Khải, đáng
chú ý là bài viết Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang bề bộn… của Lại
Nguyên Ân ghi lại cuộc trao đổi giữa ông và Trần Đình Sử về các sáng tác của
Nguyễn Khải. Hai nhà nghiên cứu đã có nhiều nhận định khách quan, sâu sắc về
những tác phẩm thuộc giai đoạn sáng tác sau này của Nguyễn Khải. Trần Đình Sử
cho rằng: “Thành công trong việc sáng tác của Nguyễn Khải có lẽ do hai đặc điểm
chính của anh với tư cách một nghệ sĩ: cảm hứng nghiên cứu và sự phân tích tâm lý”.
Lại Nguyên Ân lại có suy nghĩ khác, ông cho rằng độc giả thích Nguyễn Khải bởi
“chất văn xuôi” của nhà văn. Ngoài ra, Lại Nguyên Ân cũng nói đến đặc sắc trong
ngôn ngữ Nguyễn Khải, “một ngôn ngữ rất văn xuôi: nó không ưng rống lên thống
thiết mà thường pha ngang sang giọng tưng tửng, đùa đùa. Thêm nữa là tính chất
nhiều giọng của văn xuôi này: có cái là do người kể chuyện nói, có cái là do những
giọng khác nói”. Trần Đình Sử cũng nhấn mạnh: “Một chất lượng ngôn ngữ đặc sắc
như vậy là phương thức rất lợi hại để phân tích tâm lý. Tôi thấy ở văn xuôi của ta có

khá nhiều nhà văn miêu tả tâm lý giỏi, nhưng phân tích tâm lý thì ít ai làm được như
anh Khải”[2].
Ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Khải cũng được Đoàn Trọng Huy đề cập
đến trong bài viết Vài đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải. Tác giả đã chỉ
ra tính chất đa giọng điệu trong sáng tác của nhà văn: “Ngôn ngữ của Nguyễn Khải
giàu chất sống, chất văn xuôi là ngôn ngữ hiện thực. Đặc biệt là tính chất nhiều
giọng điệu. Nhà văn thường đứng ở nhiều góc độ, nhiều bình diện để tả và kể”[20, tr.
92]. Tác giả cũng nhấn mạnh đến tính chính luận: “Sáng tác của Nguyễn Khải là loại
sáng tác mang tính luận đề và tính chính luận rõ nét. Cái tạo nên sức hấp dẫn của
người đọc chính là tính thuyết phục của lí lẽ”[20, 93]. Những nhận xét của các nhà
nghiên cứu chính là những gợi ý đầu tiên cho chúng tôi đi sâu tìm hiểu về ngôn ngữ
truyện ngắn Nguyễn Khải dưới góc nhìn văn hóa.
Tác giả Trần Thanh Phương trong bài viết Nguyễn Khải với Hà Nội trong mắt
tôi khi đi sâu vào nghiên cứu tập truyện Hà Nội trong mắt tôi lại chỉ ra rằng: “Hà
Nội trong mắt tôi không tuân theo những khuôn mẫu thông thường của truyện ngắn
truyền thống đòi hỏi phải có cốt truyện và những pha hấp dẫn, li kì của sự thắt nút,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

7




cởi nút…” và “sự kết hợp nhiều thể loại vào trong một thể loại đã làm cho truyện
ngắn Nguyễn Khải giống như một bức tranh giàu màu sắc với nhiều mảng sáng tối
xen kẽ, tạo ra một thế giới đa dạng, phong phú”[45, tr. 381].
Nguyễn Bích Thu trong bài viết Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Khải những năm tám mươi đến nay đã tập trung chú ý vào giọng điệu trần
thuật - một trong những yếu tố làm nên phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khải,

gồm các giọng điệu tiêu biểu: giọng triết lí, tranh biện; giọng tâm tình, chia sẻ; giọng
hài hước và hóm hỉnh. Tác giả khái quát: “Một giọng điệu trần thuật chịu sức hút của
chủ nghĩa tâm lí, kết hợp kể, tả, phân tích một cách linh hoạt, thông minh và sắc sảo.
Lời văn nghệ thuật của Nguyễn Khải là lời văn nhiều giọng, được cá thể hóa, mang
tính đối thoại của tự sự hiện đại”[59, tr. 132].
Các sáng tác của Nguyễn Khải cũng là đề tài của nhiều công trình nghiên cứu
tại các trường đại học, viện nghiên cứu. Những luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa
luận tốt nghiệp nghiên cứu về phương diện nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Khải rất đáng quan tâm như: “Những đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Nguyễn
Khải”(2010) của Lê Thị Bích Ngọc, “Hình tượng tác giả trong truyện ngắn của
Nguyễn Khải thời kì đổi mới”(2008) của Hoàng Thị Anh, “Tính liên tục và sự thay
đổi trong sáng tác truyện ngắn Nguyễn Khải sau 1986”(2012) của Nguyễn Thị
Dương, “Tính chất triết luận trong văn xuôi Nguyễn Khải thời kì đổi mới”(2010) của
Lê Nguyễn Hạnh Thảo… Ở các công trình này, các tác giả khi nói về nghệ thuật
trong truyện ngắn của Nguyễn Khải cũng đã có những phân tích, đánh giá về hệ
thống nhân vật hay cốt truyện, ngôn ngữ nghệ thuật nhưng chưa đánh giá cụ thể, sâu
sắc những giá trị nghệ thuật này trong mối liên hệ với văn hóa. Các tác giả mới chỉ
“chạm đến” vấn đề này ở mức độ khái quát chung chung.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Bích với đề tài: Nghệ thuật tự sự trong truyện
ngắn Việt Nam sau 1975 (qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,
Ma Văn Kháng) đã đi sâu vào vấn đề nghệ thuật tự sự ở ba phương diện: Ngôi kể,
điểm nhìn và giọng điệu trần thuật. Ở chương 4 của luận án, tác giả đi sâu nghiên cứu
về giọng điệu trần thuật của ba tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn
Kháng. Tác giả luận án đã cho chúng ta thấy được qua giọng điệu trần thuật, Nguyễn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

8





Khải thể hiện niềm tự hào về vẻ đẹp thiên nhiên, quê hương, đất nước và những giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Khải, tác giả
khái quát: “Thể hiện giọng điệu ngợi ca, nhà văn không hô hào bằng những mĩ từ,
những hình ảnh so sánh bay bổng mà bằng lối tả thực với ngôn ngữ hiện thực, giàu
sức sống”[5, tr. 112], “giọng điệu mỉa mai trào lộng vẫn mang sắc thái khách quan
song đằng sau đó là một nỗi băn khoăn về thói đời (…) thể hiện rõ sự bất bình, nỗi
chua chát khi con cái không tiếp nối được truyền thống gia đình và lấy đồng tiền làm
thước đo cho mọi giá trị của cuộc sống”[5, tr. 115]. Như vậy, vấn đề dấu ấn văn hóa
thể hiện trong giọng điệu trần thuật của Nguyễn Khải đã được tác giả đề cập đến. Tuy
nhiên, đây mới chỉ dừng lại là những nhận xét chứ không phải là vấn đề nghiên cứu
trọng tâm của đề tài vì thế người viết không đi sâu vào tìm hiểu.
Luận văn Tính liên tục và sự thay đổi trong sáng tác truyện ngắn Nguyễn
Khải sau 1986 của Nguyễn Thị Dương đã đi sâu vào phân tích tính liên tục trong
sáng tác của Nguyễn Khải ở hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Luận văn có đề
cập đến một số giọng điệu chủ đạo trong sáng tác của Nguyễn Khải gần với lối nói
trong văn hóa dân gian Việt Nam, đó là: giọng kể chuyện hóm hỉnh, dân dã và giọng
văn tâm tình, chia sẻ.
Như vậy, qua việc khảo sát lịch sử vấn đề nghiên cứu sáng tác của Nguyễn
Khải, chúng tôi nhận thấy: Giá trị văn hóa trong truyện ngắn của nhà văn đã ít nhiều
được đề cập đến nhưng mới chỉ dừng lại ở những nhận định có tính khái quát mà
chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống. Thực
tế đó đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài: Truyện ngắn Nguyễn Khải thời kì đổi
mới từ góc nhìn văn hóa. Kế thừa những kết quả nghiên cứu của người đi trước,
chúng tôi sẽ mở rộng, khơi sâu và làm rõ những giá trị, dấu ấn văn hóa có trong nội
dung và nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Khải thời kì đổi mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa văn học và văn hóa,
dấu ấn và giá trị văn hóa trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kì đổi mới. Đồng thời

khẳng định những đóng góp của nhà văn trên cả hai phương diện văn học và văn hóa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

9




- Luận văn tạo một cơ sơ lí luận cần thiết để soi tỏ mối quan hệ giữa văn học và văn
hóa. Từ đó có cơ sở để tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Khải thời kì đổi mới trong mối
quan hệ liên ngành văn hóa - văn học.
- Luận văn nhằm chỉ ra những nét đặc sắc về văn hóa Việt Nam được thể hiện trong
các truyện ngắn của Nguyễn Khải, giúp cảm thụ truyện ngắn của ông một cách sâu
sắc hơn. Từ đó góp phần khẳng định phong cách nghệ thuật và đóng góp của Nguyễn
Khải đối với nền văn học Việt Nam hiện đại cũng như đối với việc giữ gìn bản sắc và
bồi đắp văn hóa Việt Nam thời kì đổi mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào việc tìm hiểu truyện ngắn
Nguyễn Khải thời kì đổi mới dưới góc nhìn văn hóa ở hai phương diện là nội dung và
nghệ thuật.
- Phạm vi tài liệu nghiên cứu:
+ Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi chọn khảo sát toàn bộ truyện ngắn của
Nguyễn Khải thời kì đổi mới, trong đó tập trung nghiên cứu những truyện ngắn tiêu
biểu trong các cuốn:
- Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải, Nxb Hội Nhà văn, 2002
- Nguyễn Khải - Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn hóa Thông tin, 2014.
- Hà Nội trong mắt tôi, Nxb Văn hóa Thông tin, 2014.
+ Ngoài ra, chúng tôi cũng có sự so sánh với những truyện ngắn và tiểu thuyết

của Nguyễn Khải ở giai đoạn trước đổi mới và tác phẩm của một số nhà văn khác để
tìm ra nét riêng trong sự thể hiện của Nguyễn Khải ở góc độ văn hóa.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau đây:
5.1. Phương pháp thống kê, khảo sát
5.2. Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
5.4. Phương pháp nghiên cứu xã hội học
5.5. Phương pháp tiếp cận từ góc độ lịch sử

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

10




5.6. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên và tương đối toàn diện, có hệ
thống về truyện ngắn Nguyễn Khải thời kì đổi mới từ góc nhìn văn hóa. Luận văn
góp thêm cái nhìn mới về phương diện văn hóa trong truyện ngắn của Nguyễn Khải,
khẳng định những thành tựu đặc sắc và đóng góp cơ bản của Nguyễn Khải đối với
nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Luận văn có ý nghĩa thực tiễn, nhất là đặt trong bối cảnh hội nhập văn hóa
toàn cầu hiện nay nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa đang mở ra nhiều triển
vọng mới mẻ cho cách tiếp cận văn chương. Nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Khải từ
góc nhìn văn hóa, một lần nữa, chúng tôi cũng góp phần khẳng định khuynh hướng
nghiên cứu này. Luận văn cũng có những đóng góp nhất định vào vấn đề giữ gìn và

phát huy giá trị văn hóa dân tộc.
- Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng
dạy và học tập về tác phẩm của Nguyễn Khải trong các nhà trường đại học, cao đẳng
và THPT.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận. Truyện ngắn Nguyễn Khải thời kì đổi mới
Chương 2: Dấu ấn văn hóa trong nội dung truyện ngắn Nguyễn Khải
Chương 3: Dấu ấn văn hóa trong nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Khải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

11




Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN.
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI THỜI KÌ ĐỔI MỚI
1.1. Một số vấn đề lí luận
1.1.1. Khái niệm về “văn hoá” và “văn học”
* Khái niệm “văn hoá”
Văn hoá là khái niệm mang nội hàm rộng và hết sức phong phú. Trong khoa
học nhân văn, khái niệm văn hoá đã tạo nên sự tranh luận với rất nhiều cách hiểu
khác nhau. Cho đến nay, chưa có một định nghĩa thống nhất về Văn hoá. Theo
UNESCO, trên thế giới hiện nay có khoảng hơn 400 định nghĩa về Văn hoá. Theo
từng góc độ tiếp cận, có định nghĩa xuất phát từ bình diện lịch sử, chính trị, xã hội, có
định nghĩa xuất phát từ những đặc trưng, chức năng, cấu trúc… Tuỳ theo mỗi ngành,

mỗi lĩnh vực, mỗi nhà khoa học lại có một cách định nghĩa khác nhau. Điều này đã
tạo nên sự phong phú cho khái niệm Văn hoá.
Về nguồn gốc thuật ngữ “Văn hoá”, theo các nhà ngôn ngữ học phương Tây,
Văn hoá (culture) - với tư cách là một danh từ độc lập - chỉ bắt đầu được sử dụng vào
cuối thế kỉ XVII. Người đầu tiên đưa thuật ngữ “culture” vào trong khoa học là nhà
nghiên cứu pháp luật người Đức S.Pufendorf (1632-1694). Ông đã sử dụng thuật ngữ
này để chỉ toàn bộ những gì do con người tạo ra và khẳng định: Các sản phẩm nhân tạo
này khác với các sản vật thiên nhiên, tựa như con người được giáo dục khác với con
người không được giáo dục. Sang thế kỉ XIX, thuật ngữ Văn hoá được sử dụng ngày
càng nhiều ở các quốc gia cả trong lĩnh vực khoa học lẫn trong đời sống hằng ngày.
Ở phương Đông, từ Văn hoá được sử dụng rất sớm. Theo tư liệu ghi chép của
Trung Hoa cổ đại, từ “Văn” có nghĩa gốc là vẻ đẹp do màu sắc tạo ra. Từ nghĩa gốc
này, “Văn” có nghĩa là hình thức đẹp trong lễ, nhạc, trong cách cai trị, trong ngôn
ngữ cũng như trong cách cư xử… “Hoá” có nghĩa là làm thay đổi, làm cho trở nên
tốt, đẹp, hoàn thiện.
Như trên đã nói, Văn hoá là khái niệm có thể được nhìn từ nhiều góc độ khác
nhau nên có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Xin đưa ra một số định nghĩa mà theo
chúng tôi là tiêu biểu, đáng chú ý về Văn hoá. Trước hết, ta không thể không nhắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

12




đến định nghĩa đầu tiên được ghi nhận rộng rãi của E.Tylor trong cuốn sách Văn hoá
nguyên thuỷ xuất bản năm 1881 tại Luân Đôn. Trong cuốn sách này, E.Tylor định
nghĩa: “Từ văn hoá hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học nói chung gồm
có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực
và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã

hội”(Dẫn theo [66, tr. 13]). Với định nghĩa này, lần đầu tiên Văn hoá không còn được
hiểu bó hẹp ở trường nghĩa “vun trồng trí óc” hay “giáo hoá bằng văn” nữa mà Văn
hoá đã được nhìn nhận như là kết quả trong các lĩnh vực hoạt động của con người.
Tổ chức UNESCO cũng đã đưa ra một định nghĩa khá đầy đủ về văn hoá mà
theo chúng tôi đáng chú ý hơn cả: “Văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những nét
riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã
hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương,
những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị,
những tập tục và tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng soi xét về bản
thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản,
có lý tính,có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà chúng
ta xét đoán được những giá trị và thực thi những sự lựa chọn. Chính nhờ văn hóa mà
con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tìm tòi không biết mệt những giá trị
văn hóa mới mẻ và sáng tạo ra những công trình vượt trội lên bản thân”[63, tr. 5-6].
Như vậy, UNESCO đã nhìn nhận Văn hoá theo nghĩa rộng nhất của từ này.
Theo nhà nghiên cứu Phan Ngọc thì “Văn hoá là mối quan hệ giữa thế giới biểu
tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá
nhân này hay tộc người này mô hình hoá theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng.
Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hoá dưới hình thức dễ thấy
nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các
kiểu lựa chọn của các cá nhân hay các tộc người khác”[39, tr. 20]. Nhà nghiên cứu
Trần Ngọc Thêm lại đưa ra một định nghĩa khác về văn hóa dựa trên cái nhìn cấu trúc
hệ thống và loại hình: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”[56, tr. 10].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

13





Từ những định nghĩa về Văn hoá trên đây, ta có thể hiểu một cách khái quát
như sau: Con người trong quá trình sống đã sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh
thần. Văn hoá chính là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần ấy. Văn hóa được
sáng tạo ra nhằm phục vụ con người trong quá trình ứng xử với môi trường tự nhiên
và xã hội, được con người lưu giữ và truyền tải từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đồng
thời, văn hóa là hoạt động mang tính biểu tượng và mang những giá trị được kết tinh
thành những bản sắc riêng, đặc thù riêng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Văn hoá gắn liền với cuộc sống con người, với sự phát triển và hoàn thiện của con
người, xã hội.
* Khái niệm “văn học”
Văn học hiểu theo nghĩa rộng là thuật ngữ gọi chung mọi hành vi ngôn ngữ nói
- viết và các tác phẩm ngôn ngữ. Theo cách hiểu này thì các tác phẩm chính trị, triết
học, tôn giáo… cũng có thể được gọi chung là Văn học. Theo nghĩa hẹp mà ngày nay
chúng ta thường dùng thì khái niệm Văn học bao gồm các tác phẩm ngôn từ phản ánh
những vấn đề đời sống xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Như vậy khi hiểu Văn học
theo nghĩa hẹp, chúng ta đã loại ra ngoài các tác phẩm chính trị, triết học, tôn giáo.
Khái niệm Văn học có khi được dùng tương tự như khái niệm văn chương.
Tuy nhiên, khái niệm văn học thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương. Văn
chương thường chỉ nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, tính sáng tạo của văn học về phương
diện nghệ thuật ngôn từ.
Ta có thể khẳng định, văn học là một loại hình nghệ thuật ngôn từ. Cũng như
màu sắc đối với hội hoạ, âm thanh đối với âm nhạc, ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của
văn học. Tuy nhiên, thứ ngôn ngữ được đưa vào sử dụng trong văn học không phải
ngôn ngữ bình thường ta vẫn dùng hằng ngày mà phải là “ngôn ngữ nghệ thuật”.
Theo M. Gorki, ngôn ngữ nhân dân là tiếng nói “nguyên liệu”, còn ngôn ngữ văn học
là tiếng nói đã được những “người thợ tinh xảo nhào luyện”. Mỗi nhà văn lớn đều là
những nhà ngôn ngữ trác tuyệt. Trong sự sáng tạo của nhà văn, sự sáng tạo về ngôn

ngữ đóng vai trò quan trọng. Ngôn ngữ cũng là phương tiện để nhà văn xây dựng nên
các hình tượng nghệ thuật. Thông qua các hình tượng nghệ thuật của mình, nhà văn
thể hiện lập trường, quan điểm, suy nghĩ của mình trước hiện thực cuộc sống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

14




Các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra một định nghĩa khá đầy đủ
về văn học như sau:
“Văn học là loại hình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ. Khái niệm văn
học bao gồm cả văn học dân gian, được sáng tác và lưu truyền bằng miệng từ
đời này sang đời khác và văn học viết được sáng tác và lưu truyền dưới hình
thức văn bản viết (…). Văn học là sự phản ánh của đời sống xã hội thể hiện sự
nhận thức và sáng tạo của con người(…) Văn học lấy con người làm đối tượng
nhận thức trung tâm. Văn học nhận thức con người với toàn bộ tính tổng hợp,
toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ đời sống phong phú và phức tạp
của nó trên phương diện thẩm mĩ. Trong tác phẩm văn học, nhà văn không chỉ
nhận thức chân lý khách quan mà còn bộc lộ tư tưởng và tình cảm, ước mơ và
khát vọng của mình đối với con người và cuộc sống. Do đó, nội dung của văn
học là sự thống nhất biện chứng giữa phương diện chủ quan và phương diện
khách quan”[18, tr. 401-402].
Tóm lại, văn học là một hình thái ý thức xã hội đặc thù và có vị trí quan trọng
trong nền văn hoá của một dân tộc.
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học
Văn hoá và văn học là hai vấn đề luôn gắn bó mật thiết với nhau. Nói tới văn
hoá của một dân tộc ta thường nghĩ tới văn học, bởi “văn học có một vị trí không

thể thiếu trong mỗi nền văn hoá” (Trần Đình Sử). Văn học là sự “tự ý thức” của văn
hóa. Văn học không những là một bộ phận của văn hóa, chịu sự ảnh hưởng và chi
phối trực tiếp của văn hóa, mà còn là một trong những phương tiện tồn tại và bảo
lưu văn hóa. Có thể khẳng định, không thể có nền văn học nằm ngoài tổng thể văn
hoá nhân loại.
Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa là mối quan hệ hữu cơ giữa cái riêng và
cái chung, giữa cái bộ phận và cái toàn thể. Văn học cùng với triết học, chính trị, tôn
giáo, đạo đức… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn
hoá trong quá trình hình thành và phát triển đã trải qua những chặng đường tìm kiếm,
lựa chọn, đấu tranh và sáng tạo để hình thành nên những giá trị trong xã hội thì văn
học chính là nơi lưu giữ những thành quả giá trị xã hội đó. Ở một khía cạnh nào đó,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

15




có thể nói, văn học là “tấm gương phản chiếu” văn hoá bằng nghệ thuật ngôn từ. Nói
như nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương: “Văn học là văn hoá lên tiếng bằng ngôn
từ nghệ thuật”.
Một điều dễ nhận thấy là cả văn hoá và văn học đều lấy con người làm trung
tâm. Con người chính là chủ thể sáng tạo và đồng thời cũng là cái đích hướng tới
của văn hoá và văn học. Do đó, văn hoá và văn học đều có những tác động chi phối
lẫn nhau. Sự tác động chi phối thể hiện trước nhất ở việc, văn học làm nên diện mạo
cho văn hóa. Mặt khác, văn hoá lại chính là “chất liệu” của văn học, là “chìa khoá”
mở ra “cánh cửa” nghệ thuật trong tác phẩm văn học. M. Bakhtin khẳng định: “Văn
học là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá. Không thể hiểu nó ngoài cái
mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hoá của một thời đại trong đó nó tồn tại” (Dẫn

theo [60, tr. 362]).
Trong mỗi tác phẩm văn học, bao giờ ta cũng tìm thấy những hình ảnh của một
nền văn hoá qua sự tiếp nhận và phản ánh của chủ thể sáng tạo văn học. Đó có thể là
hình ảnh của một nền văn hoá nông nghiệp lúa nước qua kho tàng tục ngữ, ca dao
Việt Nam; đó là những vẻ đẹp văn hoá Việt của “một thời vang bóng” trong những
trang tuỳ bút tài hoa của Nguyễn Tuân; hay bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số vùng núi
Tây Bắc, Việt Bắc trong truyện ngắn của Tô Hoài, Cao Duy Sơn, Ma Văn Kháng…
Tác phẩm văn học mang bóng dáng của văn hoá là hệ quả tất yếu bởi bản thân người
nghệ sĩ sáng tạo văn học cũng là một sản phẩm văn hoá; cách suy nghĩ, quan điểm,
lối viết của họ bị chi phối bởi một nền văn hoá nhất định. Chính điều đó đã chi phối
cách lựa chọn đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật… của nhà văn. Đồng thời,
văn hoá cũng chi phối cách đánh giá, thưởng thức của người đọc trong quá trình tiếp
nhận, bởi đối tượng người đọc này đã được rèn luyện về thị hiếu thẩm mĩ trong một
môi trường văn hoá nhất định. Do vậy, nếu muốn tìm hiểu bức tranh văn hoá của một
thời đại, người ta có thể căn cứ vào những dữ liệu có trong các tác phẩm văn học. Nói
cách khác, thực tiễn văn học có thể cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho khoa học
nghiên cứu văn hoá.
Nếu như văn hoá chi phối hoạt động và sự phát triển của văn học thì ngược lại,
văn học cũng có những tác động nhất định đến đời sống văn hoá. Trước hết, văn học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

16




là nơi bảo lưu những giá trị văn hoá nhân loại. Có những giá trị văn hoá từ lâu, nay đã
không còn nữa mà người ta chỉ có thể biết đến nó trong các tác phẩm văn học. Văn
học dân gian chính là nơi bảo lưu văn hoá dân gian truyền thống, những tập tục,

những tín ngưỡng, phong tục, lễ hội… từ ngàn xưa, nay chỉ còn đọng lại bóng dáng
trong những tác phẩm văn học.
Văn học góp phần khẳng định, định hướng những giá trị văn hoá nhân loại. Các
nhà văn đích thực đồng thời cũng là những nhà văn hoá. Bằng nghệ thuật ngôn từ, họ
khẳng định những giá trị văn hoá của dân tộc, bảo lưu và góp phần tuyên truyền đến
mọi người những nét đẹp văn hoá. Đồng thời họ đấu tranh, phê phán những biểu hiện
phản văn hoá, góp phần “thanh lọc” tạo nên một nền văn hoá lành mạnh, tốt đẹp.
Thậm chí, các nhà văn thông qua các tác phẩm văn học của mình còn đi tiên phong,
định hướng cho sự phát triển một lí tưởng thẩm mỹ, một lối sống văn hoá mới mẻ.
Tác phẩm văn học tác động vào tình cảm của con người, qua đó điều chỉnh cách
sống, cách suy nghĩ, cách ứng xử trong văn hoá cộng đồng. Đó là khả năng điều
chỉnh văn hoá của văn học. Tuy nhiên, “Văn học không thể có ảnh hưởng tức thời,
trực tiếp đến hành động của con người mà chỉ có thể tác động đến con người với tư
cách là chủ / khách thể của văn hoá, làm cho con người biến chuyển rồi mới phát
sinh hành động cụ thể”[61].
Như vậy, văn học và văn hoá gắn bó với nhau trong mối quan hệ hữu cơ mật
thiết không thể tách rời. Nhà văn sáng tác tác phẩm văn học là một hoạt động văn hoá,
tác phẩm văn học là một sản phẩm văn hoá và người đọc là người hưởng thụ văn hoá.
1.1.3. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá
Văn hoá và văn học có mối quan hệ mật thiết, ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau.
Bởi vậy, việc tìm hiểu văn học trong mối quan hệ với văn hoá là một hướng đi cần
thiết và có triển vọng.
Trong lịch sử nghiên cứu văn học, có rất nhiều con đường, nhiều phương thức
khác nhau để tiếp cận một tác phẩm văn học như: xã hội học, thi pháp học, nghệ thuật
học… Trong đó, phương thức tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa đã ngày một
khẳng định được thế mạnh cũng như tính ưu việt của mình. Nhất là trong bối cảnh
giao lưu văn hóa mạnh mẽ như hiện nay, nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


17




“mở rộng phạm vi đề tài nghiên cứu văn học, cho phép người ta nhìn văn học dưới
nhiều góc độ mới đầy hứa hẹn” (Trần Đình Sử).
Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá (hay còn gọi là phương pháp tiếp cận
văn hoá học) “ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hoá trong đó tác phẩm
văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức,
chính trị, luật pháp, thẩm mĩ, quan niệm về con người, cũng như sự chi phối của các
phương diện khác nhau trong đời sống sinh hoạt xã hội sống động hiện thực… từng
tồn tại trong một không gian văn hoá xác định” [58, tr. 9-10]. Hướng nghiên cứu này
chính là việc đặt tác phẩm văn học trong không gian văn hoá đã tác động đến tác
phẩm văn học ấy. Nền văn hoá dân tộc là mảnh đất ươm mầm cho văn học nảy nở,
mang lại cho văn học một sức sống, một màu sắc riêng. Mạch nguồn văn hoá dân tộc
thấm sâu vào tâm hồn người nghệ sĩ và chi phối thế giới nghệ thuật cũng như ngôn từ
của tác phẩm văn học mà họ sáng tạo ra. Mỗi nhà văn đều chịu ảnh hưởng của một
nền văn hoá riêng. Vì thế, muốn hiểu sâu giá trị tư tưởng của một tác phẩm văn học ta
không thế tách rời những yếu tố văn hoá thể hiện trong tác phẩm đó. Mỗi dân tộc
cũng đều có một nền văn hoá riêng, nghiên cứu văn học không thông qua văn hoá sẽ
dẫn đến những khó khăn, sai lầm không thể tránh khỏi trong việc nhận định giá trị
đích thực của một tác phẩm văn học.
Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hoá là hướng tiếp cận ngày càng được
chú trọng và mở rộng phát triển theo nhiều hướng tìm hiểu khác nhau. Có hướng
nghiên cứu nhằm nhận diện và miêu tả các biểu hiện văn hóa có trong các tác phẩm
văn học; cũng có hướng nghiên cứu thiên về giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm
ra nền tảng văn hoá lịch sử của chúng; lại có hướng nghiên cứu trên phương diện
ngôn ngữ của các văn bản nghệ thuật, đi tìm hiểu nghĩa và cơ chế kiến tạo nghĩa của
nội dung / hình thức của các tác phẩm văn học từ bối cảnh văn hóa - xã hội…

Phương pháp tiếp cận văn hoá học từ lâu đã được giới nghiên cứu vận dụng
hoặc là tự giác, hoặc là tự phát trong một số công trình nghiên cứu văn học. Tác giả
Trần Nho Thìn trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá đã
đề cập đến một số bài viết thành công theo hướng tiếp cận này, như: Hoài Thanh
trong bài viết mở đầu Thi nhân Việt Nam hoặc Trần Đình Hượu với công trình Nho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

18




giáo và văn học Việt Nam trung cận đại: “Hoài Thanh đã chọn cách so sánh thơ
mới với thơ cũ trên nền của sự thay đổi văn hoá do cuộc tiếp xúc văn hoá Đông Tây… Trần Đình Hượu lại chọn cách đọc văn học trung đại trên cơ sở phân tích ảnh
hưởng của tư tưởng triết học - đạo đức - thẩm mĩ của Nho giáo”[58, tr. 10-11]. Tác giả
còn nêu một trường hợp đặc biệt của một nhà nghiên cứu người Pháp René Craysac khi nghiên cứu về Truyện Kiều “đã tìm cách lý giải tư tưởng, hành động của nhân vật
Truyện Kiều trên cơ sở liên hệ với quan niệm đề cao gia đình, xem nhẹ cá nhân của
văn hoá phương Đông” [58, tr. 11]. Càng về sau này càng có nhiều những công trình
nghiên cứu về văn học trong mối quan hệ với văn hoá theo nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Ở Việt Nam, đi theo hướng nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hoá có một số
nhà nghiên cứu như: Trần Nho Thìn, Trần Ngọc Vượng, Trần Đình Hượu, Đỗ Lai
Thuý, Trần Lê Bảo… Mỗi tác giả trong các công trình nghiên cứu của mình bằng
những cách khác nhau đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận.
Cùng với những cách tiếp cận văn học ở những góc độ khác như thi pháp học,
xã hội học, mỹ học…, hướng tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hoá giúp ta lí giải
trọn vẹn tác phẩm văn học với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó.
1.1.4. Diễn trình văn hoá Việt Nam
Tiến trình lịch sử Việt Nam từ những buổi đầu sơ khai cho đến nay đã trải qua
hàng vạn năm. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, ứng với quá trình xây dựng đất nước

của ông cha ta là quá trình hình thành, phát triển của nền văn hoá Việt. Có thể nói,
Việt Nam là một đất nước có một nền văn hoá đa dạng, phong phú, đậm đà bản sắc
dân tộc. Trải qua bao nhiêu thế hệ người Việt Nam với những thăng trầm, đổi thay
của lịch sử nhưng nền văn hoá dân tộc luôn được cha ông ta gìn giữ và bảo tồn, phát
triển cho đến ngày nay.
* Sự hình thành nền văn hoá bản địa Việt Nam
Là một đất nước nằm ở cực Đông nam Bán đảo Đông Dương, Việt Nam nằm
ở một trong những khu vực được coi là cái nôi văn hoá của loài người và cũng được
coi là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm với nền văn minh lúa
nước. Bởi vậy, nền văn hoá truyền thống nước ta mang đặc điểm một nền văn hoá
nông nghiệp lúa nước. Với vị trí địa lí của một bán đảo nằm giữa khu vực Đông Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

19




Á, lại thuộc khu vực tiếp giáp với hai nền văn minh lớn cổ đại phương Đông là văn
minh sông Hoàng Hà và văn minh sông Hằng, Việt Nam có điều kiện thuận lợi cho
sự giao lưu với nhiều nền văn hoá.
Về nguồn gốc dân tộc Việt - chủ thể của văn hóa Việt, có nhiều giả thuyết
được các nhà khoa học đưa ra:
- Có giả thuyết cho rằng, người Việt có nguồn gốc từ Tây Tạng, Bắc Ấn.
- Có thuyết cho rằng người Việt có xuất xứ từ Trung Quốc.
- Có thuyết cho rằng, các hải đảo Thái Bình Dương chính là nguồn gốc của
người Việt.
Gần đây, căn cứ vào những kết quả nghiên cứu về sự hình thành và phân bố
các chủng người trên trái đất, có thể khẳng định, người Việt ra đời trong phạm vi
trung tâm hình thành loài người phía Đông và trong khu vực hình thành của đại

chủng phương Nam. Trải qua các giai đoạn hình thành và phát triển của dân tộc Việt,
những tộc người thuộc các ngữ hệ Tày - Thái, Việt - Mường (trong đó người
Việt/Kinh là chủ yếu) đã đến sinh sống tại vùng bán đảo Đông Nam Á và hình thành
nên cộng đồng cư dân đa dân tộc đầu tiên của vùng đất này. Dựa vào điều kiện tự
nhiên và khí hậu nơi đây, họ sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Đây chính
là thời kì hình thành nền tảng cơ tầng văn hoá chung cho cả vùng Đông Nam Á - nền
văn hoá này là một “phức thể văn hoá lúa nước, có cội nguồn từ ba yếu tố: núi, đồng
bằng và biển. Trong đó, yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng đóng vai trò chủ
đạo”[13, tr. 506]. Do đặc điểm của nghề sản xuất nông nghiệp đòi hỏi sức mạnh của
cộng đồng nên người dân sống thành vùng cư dân đông đúc gọi là làng, xã. Cấu trúc
xã hội làng, xã chính là cơ sở tạo nên những nét đặc trưng cơ bản ban đầu trong tính
cách, tư duy, lối sống của người Việt. Đó là tính tự trị, tính tôn ti, tinh thần đoàn kết,
lối tư duy tổng hợp, cộng đồng, lối sống duy tình, coi trọng và tôn thờ tự nhiên.
Chính nhờ nền tảng văn hoá truyền thống này mà nước ta đã sớm hình thành ý thức
quốc gia dân tộc, làm nên một sức mạnh để nền văn hoá Việt không bị đồng hoá bởi
các nền văn hoá khác mà ngày càng được phát triển phong phú thêm qua giao lưu,
tiếp xúc với các nền văn hoá khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

20




×