Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiểu luận cao học Vai trò lãnh đạo của đảng đối với mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội ở tỉnh điện biên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.36 KB, 19 trang )

A.MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên
minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã
hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã
hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt
động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Điều đó
khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận không thể thiếu được của
hệ thống chính trị nước ta.
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết của Mặt trận tổ
quốc và các tổ chức chính trị- xã hội , tỉnh Điện Biên nói riêng và cả nước
nói chung, tác giả chọn vấn đề “Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt
trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở tỉnh Điện Biên hiện
nay” làm tiểu luận
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận
2.1 Mục đích
Phân tích cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội, trên cơ sở đó đề xuất luận
chứng các quan điểm phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng đối Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội.
2.2 Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên khóa luận có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề chung về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt
trận tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội
1



- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng và thực trạng phát huy vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội.
- Phân tích phương hướng và đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính
trị- xã hội ở.
7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của khóa luận gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề chung về vai trò lãnh đạo của đảng đối với
Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội
Chương 2: Thực trạng phát huy vai trò lãnh đạo của đảng đối với Mặt
trận tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội ở tỉnh Điê Biên hiên nay
Chương 3: Giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của đảng
đối Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội.

2


B. NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1 Khái niệm Đảng Cộng Sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam hiện nay
theo Hiến pháp (bản sửa đổi 2013), đồng thời cũng là đảng duy nhất được
phép hoạt động. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức được công bố, Đảng
cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, người lao
động và lấy chủ nghĩa Mac-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam
cho mọi hoạt động của Đảng. Trên thực tế, một số yếu tố của chủ nghĩa tư

bản, chủ nghĩa dân tộc và cả một vài yếu tố có tính truyền thống của ý thức hệ
phong kiến cũng có những ảnh hưởng nhất định.
Đảng Cộng Sản Việt Nam (3.2.1930) là đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc.
Cương lĩnh của Đảng năm 2011 xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Nghị quyết của đảng cũng nêu rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm
vững quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh
chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng
của nhân dân.
3


Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh
theo con đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa
- Đảng lãnh đạo:
Lãnh đạo là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong khoa học
về tổ chức - nhân sự. Đó là một quá trình ảnh hưởng mang tính xã hội trong
đó lãnh đạo tìm kiếm sự tham gia tự nguyện của cấp dưới nhằm đạt mục tiêu
của tổ chức. Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng và dẫn đắt hành vi của cá
nhân hay nhóm người nhằm hướng tới mục tiêu của tổ chức. Môn nhân sự
hiện đại đề cao vai trò của lãnh đạo nên đối tượng này càng được nghiên cứu
kỹ lưỡng hơn. Lãnh đạo được miêu tả là 'một quá trình ảnh hưởng xã hội cái

mà một người có thể tìm kiếm sự giúp đỡ và hỗ trợ của những người khác
nhằm đạt được thành công cho một mục tiêu chung". Tất nhiên cũng xuất
hiện nhiều cách lí giải khác sâu hơn. Lãnh đạo là "tổ chức một nhóm những
người để đạt mục tiêu chung". Người lãnh đạo có thể có hoặc không có quyền
lực đặc biệt. Những nhà nghiên cứu về lãnh đạo đã đưa ra những lí thuyết bao
gồm những đặc điểm, những sự tác động qua lại do các yếu tố bên ngoài,
chức năng, ứng xử, tầm nhìn và giá trị, uy tín, và trí thông minh, cùng với
nhiều thứ khác. Người mà mọi người sẽ tuân theo phải có khả năng hướng
dẫn hoặc định hướng cho người khác.
Thời kì đầu trong lịch sử phương Tây: Công việc tìm kiếm cho đặc
điểm hay những yếu tố của người lãnh đạo đã được thực hiện trong nhiều thế
kỉ. Những tác phẩm triết học nổi tiếng nhất từ cuốn Cộng hòa (Plato) cho tới
cuốn Những cuộc đời song hành đã khám phá câu hỏi "Kĩ năng nào phân
biệt một cá nhân và một người lãnh đạo? " Đặc biệt câu hỏi này là sự thừa
nhận ban đầu về tầm quan trọng của lãnh đạo và được cho rằng nhà lãnh đạo
cũng xuất phát từ những đặc điểm mà mỗi cá nhân có. Ý kiến này có nghĩa sự
lãnh đạo dựa trên những đóng góp từ các cá nhân và được biết tới là "những
đặc điểm của lãnh đạo trên lí thuyết".
4


Những đặc điểm trên lí thuyết đã được khám phá ra sau một loạt những
sự kiện vào thế kỉ 19. Đáng chú ý nhất là tác phẩm của Thomas
Carlyle và Francis Galton, những người mà công việc của họ đã khiến họ phải
nghiên cứu trong hàng thập kỉ. Trong cuốn Heroes and Hero Worship (1841),
Carlyle nhận ra tố chất, kĩ năng, và những đặc điểm thể chất của những người
có thể có quyền lực. Trong cuối Hereditary Genius' của Galton (1869), ông
nghiên cứu khả năng lãnh đạo trong một gia đình đầy quyền lực. Sau khi chỉ
ra rằng số lượng những người thân nổi tiếng giảm đi khi chuyển từ tấm bằng
thứ nhất sang tấm bằng thứ hai, Galton kết luận rằng lãnh đạo là thừa kế. Nói

cách khác, những nhà lãnh đạo được sinh ra, chứ không phải được phát triển
lên. Tất cả những tác phẩm đáng chú ý này đã bổ sung thêm những sự trợ
giúp ban đầu rằng lãnh đạo là một đặc điểm của những người đứng đầu.
Đảng lãnh đạo là tổng thể các hoạt động của Đảng đề ra Nghị quyết,
chủ trương đúng đắn, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, Nghị quyết đó
và kiểm tra, giám sát tất cả các hoạt động nhằm đảm bảo thuận lợi thực hiện
chủ trương, Nghị quyết của Đảng và sự nghiệp cách mạng.
1.1.2 Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là tổ chức liên minh chính
trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội,
các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Điều 9
của Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2013) quy định
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân,
tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây
dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi
ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ,
5


nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ
quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên
hoạt động có hiệu quả. ...là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể
hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động
của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia,

toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Trong các cuộc bầu cử quốc hội tại Việt Nam, các ứng cử viên đều phải
được Mặt trận Tổ quốc phê chuẩn để đưa vào danh sách ứng cử viên. Đồng
thời, Mặt trận Tổ quốc còn đảm nhiệm việc giám sát cuộc bầu cử.
Các tổ chức thành viên bao gồm:
1. Đảng cộng sản Việt nam
2. Tổng liên đoàn lao động Việt nam
3. Hội nông dân Việt nam
4. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
5. Hội liên hiệp Phụ nữ Việt nam .
6. Hội cựu chiến binh Việt nam
7. Quân đội Nhân dân Việt nam…
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
của nước ta hiện nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp
cách mạng, là xuất phát tư thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vai
trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính
lịch sử thừa nhận.
Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân giành được chính
quyền, Mặt trận đã trở thành một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị.
Tuy vai trò, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động của từng bộ phận cấu
6


thành trong hệ thống chính trị có khác nhau nhưng đều là công cụ thực hiện
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhằm một mục đích chung là: Phấn
đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và
giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Hiến pháp năm 1992 đã
xác định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền

nhân dân..." điều đó càng khẳng định Mặt trận Tổ quốcViệt nam là một bộ
phận không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta.
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể thành viên có vai trò rất
quan trọng trong sự nghiệp đaị đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc..." Đó là củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất
trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân
với Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải
qua nhiều chặng đường và tồn tại lâu dài nhiều thành phần kinh tế. Trong
quá trình đó còn có sự khá nhau giữa các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp
xã hội, các tôn giáo... Những biến đổi về cơ cấu giai cấp và thành phần xã
hội đang đặt ra cho công tác vận động quần chúng nói chung và công tác
Mặt trận nói riêng những vấn đề mới. Nhu cầu liên minh, mở rộng việc tập
hợp các lực lượng yêu nước đặt ra một cách bức bách. Mặt khác các thế lực
thù địch đangthực hiện chiến lược diễn biến hoà bình và nhiều âm mưu
chia rẽ khối đại đoà kết dân tộc, hòng phá hoại sự nghiệp Cách mạng của
nhân dân ta.
Trong bối cảnh đó, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, một sự nghiệp đầy khó khăn gian khổ, càng đòi hỏi phải tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Do vậy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể thành viên càng quan
trọng. Nâng cao vai trò, tác dụng của Mặt trận trong hệ thống chính trị
và đời sống xã hội là một yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
7


1.2 Nội dung phương thức lãnh đạo của đảng đối với Mặt trận tổ
quốc và các tổ chức chính trị- xã hội
Thứ nhất, Đảng đề ra chủ trương, quyết định, định hướng chính trị Mặt

trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố về tổ chức bộ máy, cán bộ
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội.
Thứ ba, Tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ
Đảng, Chính quyền các cấp và người dân về chủ trương của Đảng và Nhà
Thứ tư, Lãnh đạo hội thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội
những vấn đề liên quan.

Chương 2

8


THỰC TRẠNG PHÁT HUY VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI TỈNH ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội
tỉnh Điê n Biên
Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Công văn 1570-CV/TU chỉ đạo Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh và cấp ủy huyện (tương
đương) lãnh đạo tiến hành khảo sát thực trạng tổ chức, hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể trên địa bàn tỉnh..
Kết quả qua khảo sát năm 2013 cho thấy, ngoài tổ chức Liên đoàn Lao
động tỉnh số lượng không đổi trước và sau khảo sát là 107.451 đoàn viên, còn
lại các đoàn thể đều có biến động giảm, có đoàn thể giảm mạnh. Cụ thể Mặt
trận Tổ quốc sau khảo sát có 14.372 thành viên, giảm 58 thành viên (giảm
0,4%); Hội Liên hiệp Phụ nữ sau khảo sát có 194.931 hội viên, giảm 62.620
hội viên (giảm 24,3%); Hội Nông dân sau khảo sát có 245.207 hội viên, giảm
25.544 hội viên (giảm 9,43%); Hội Cựu chiến binh sau khảo sát có 28.502 hội
viên, giảm 104 hội viên (giảm 0,36%); Đoàn Thanh niên sau khảo sát có

71.784 đoàn viên, giảm 36.695 đoàn viên (giảm 33,8%); Hội Liên hiệp Thanh
niên sau khảo sát có 88.088 hội viên, giảm 50.771 hội viên (giảm 36,6%).
Theo đánh giá của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ nguyên nhân của thực trạng
trên là do nhu cầu việc làm, cải thiện đời sống gia đình nên hội viên, đoàn
viên, nhất là ở khu vực nông thôn đến làm việc tại các khu công nghiệp, cụm
công nghiệp và làm các nghề tự do khác nên vắng sinh hoạt nhiều tháng liền
hoặc bỏ sinh hoạt, không đóng đoàn, hội phí,...
Một bộ phận đoàn viên, hội viên không thiết tha với tổ chức Đoàn, Hội,
tự ý bỏ sinh hoạt nhưng tổ chức Đoàn, Hội nơi đoàn viên, hội viên sinh hoạt
không xóa tên; ngoài ra, có một số đoàn viên, hội viên do bệnh tật, già yếu,
chết hoặc chuyển đi nơi khác nhưng tổ chức không xoá tên.
9


Có một số trường hợp 1 người được phát triển vào tổ chức Đoàn hoặc tổ
chức Hội nhiều lần nhưng không điều chỉnh số lượng thực tế và không xóa tên
trong danh sách (có nhiều thẻ hội viên), nhưng tổ chức không thu lại thẻ đoàn,
thẻ hội, qua khảo sát phát hiện mới xóa tên, từ đó giảm số lượng thực tế.
Số lượng đoàn viên, hội viên tham gia sinh hoạt và đóng đoàn phí, hội
phí tại các chi đoàn, chi hội đạt khoảng 60%. Có nơi trên 3 tháng liền đoàn
viên, hội viên không sinh hoạt, không đóng hội phí, thậm chí bỏ sinh hoạt trên
6 tháng nhưng không bị xóa tên. Bí thư chi đoàn, chi hội trưởng còn hạn chế
kỹ năng tập hợp và tổ chức sinh hoạt.
Chế độ bồi dưỡng cán bộ chi đoàn, chi hội quá thấp chưa đủ sức động
viên họ tích cực công tác; chưa kết hợp tốt giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Nội
dung, phương thức sinh hoạt chưa đổi mới, thiếu giải pháp khả thi để vận
động, tập hợp đoàn viên, hội viên duy trì sinh hoạt. Tổ chức của các Đoàn,
Hội cơ sở còn lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ theo Điều lệ.
Một nguyên nhân nữa dẫn đến thực trạng trên là do hoạt động của cán
bộ tổ chức - kiểm tra các đoàn thể ở các cấp còn thiếu, yếu chuyên môn,

nghiệp vụ; luôn biến động, cán bộ được bổ sung, thay thế chưa qua đào tạo,
bồi dưỡng nên chưa đáp ứng yêu cầu công tác.
Ban Chấp hành, Ban Thường vụ chưa thật sự quan tâm đến công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dự nguồn thay thế; chưa chủ động, sáng tạo trong
xây dựng kế hoạch hoạt động và đề ra giải pháp hữu hiệu để tuyên truyền, vận
động, tập hợp, nâng chất lượng đoàn viên, hội viên, nhất là tập hợp thanh
thiếu niên tham gia tổ chức.
Công tác cập nhật số liệu tổ chức, theo dõi số lượng đoàn viên, hội
viên, đánh giá hiệu quả các phong trào chưa tốt; một số vấn đề có tính nguyên
tắc trong xây dựng tổ chức Đoàn, Hội chưa được thực hiện nghiêm túc, còn
buông lỏng.
Số lượng đoàn viên, hội viên, biến động giảm nhiều năm liền, kéo theo
việc thu hội phí không đảm bảo nhưng không được phản ánh trung thực do
10


chạy theo thành tích và áp lực chỉ tiêu thi đua hàng năm của đoàn thể cấp trên
giao về số lượng phát triển đoàn viên, hội viên (năm 2011, Trung ương Hội
Nông dân Việt Nam giao chỉ tiêu phát triển cho tỉnh là 7.000 hội viên; năm
2012 là 7.500 hội viên; Trung ương Đoàn giao chỉ tiêu phát triển năm 2011
tăng 30% so với số lượng đoàn viên thực tế và tỉnh đã phát triển mới 21.320
đoàn viên, đạt 120,3%; Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam giao cả
nhiệm kỳ 2012-2017, phát triển 75% phụ nữ tuổi từ 18 trở lên vào hội).
Để đạt được chỉ tiêu và giữ vững thành tích thi đua, các đoàn thể tỉnh
đã giao chỉ tiêu cho cấp dưới, không sát thực tế nên khó đạt chỉ tiêu, đã ảnh
hưởng trực tiếp đến chế độ phụ cấp cá nhân của cán bộ Đoàn, Hội trong thời
gian dài…
Một số cấp ủy thiếu quan tâm lãnh đạo, kiểm tra, chưa tích cực chỉ đạo
giải quyết những khó khăn, những tồn tại, khiếm khuyết vì ngại ảnh hưởng
đến thi đua của cấp ủy, tổ chức đảng nên số lượng, chất lượng đoàn viên, hội

viên không sát thực tế nhưng chưa được chấn chỉnh kịp thời.
Từ thực trạng nêu trên, để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đi vào hoạt
động thực chất hơn, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ yêu cầu các cấp ủy đảng, trên cơ
sở quán triệt và tổ chức thực hiện Kết luận 64-KL/TW ngày 28-5-2013 của
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) một số vấn
đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở,
cần đề cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội tiếp tục chấn chỉnh việc theo dõi, cập nhật biến động về số
liệu tổ chức.
Kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chấp hành,
Ban Thường vụ, đánh giá sát thực tế đội ngũ cán bộ, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ năng,...; thường xuyên nắm chắc số lượng, chất lượng đoàn
viên, hội viên tập trung chấn chỉnh nền nếp sinh hoạt Ban Công tác Mặt trận,
các chi, tổ hội và thực hiện tốt nghĩa vụ đoàn phí, hội phí theo quy định của
điều lệ; lấy hiệu quả hoạt động, kết quả thực hiện các phong trào quần chúng,
11


của mỗi tổ chức Đoàn, Hội để đánh giá chất lượng của mỗi tổ chức; số lượng
phải đi đôi với chất lượng; tập trung, nghiên cứu đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động, nâng chất lượng các phong trào nhằm tập hợp đoàn viên, hội
viên gắn với việc tham gia tích cực vào các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội và giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương.
Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể cấp trên phải nâng cao trách nhiệm theo dõi
sâu sát và hướng dẫn củng cố, tổ chức, nâng chất hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc, đoàn thể cấp dưới.
2.2 Thực trạng phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt
trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở tỉnh Điện Biên hiện nay
a, ưu điểm
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội là những

bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo
lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành
mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách
mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với
Đảng, Nhà nước.
Vì vậy, trong những năm đổi mới, Đảng rất coi trọng việc tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, thể hiện ở chỗ:
- Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực,
sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn
thể; Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội hoạt động có hiệu quả.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa vai trò, chức năng, thẩm quyền
và trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội thành các đạo luật: Luật Mặt
12


trận Tổ quốc, Luật Công đoàn, Luật Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh; Luật Hội Nông dân, Luật Hội Liên hiệp phụ nữ và Pháp lệnh Hội Cựu
chiến binh.
- Kiện toàn Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc và đảng đoàn các đoàn thể
chính trị - xã hội trực thuộc Ban Bí thư. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của
đảng đoàn, quy định quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư
đối với Đảng đoàn Mặt trận và đảng đoàn các đoàn thể; quan hệ công tác giữa
Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc với Đảng đoàn Quốc hội, với Ban Cán sự đảng
Chính phủ và Ban Cán sự đảng các bộ, ngành trung ương và với cấp ủy địa
phương; quan hệ giữa Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc với đảng đoàn các tổ chức

thành viên của Mặt trận.
- Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, định hướng nội dung hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong từng thời kỳ,
phát huy tính năng động, sáng tạo, đa dạng hóa các hình thức tổ chức và hoạt
động, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, giải thích rõ
quan điểm, đường lối của Đảng để tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong
Mặt trận, đổi mới phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng quan liêu,
hành chính hóa trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Phân
biệt nguyên tắc hiệp thương chính trị trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
với nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của đảng đoàn và sinh hoạt
đảng của từng đảng viên ở Mặt trận Tổ quốc. Bộ Chính trị ban hành và lãnh
đạo thực hiện Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội và Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền.
- Đảng chuẩn bị việc giới thiệu đảng viên để Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội bầu giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt của mình.
b, nhược điểm

13


- Phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội vẫn chưa khắc phục được tình trạng hành chính
hóa, phương thức hoạt động chậm được đổi mới nên hiệu quả còn thấp.
- Chậm ban hành quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; về mối quan hệ công tác giữa
các tổ chức trong hệ thống chính t

14



Chương 3
GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC PHÁT HUY VAI TRÒ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC TỔ CHỨC
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở TỈNH ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY
Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó “máu thịt” giữa Đảng - Dân. Ở thời
kỳ nào, công tác vận động và tổ chức quần chúng làm cách mạng cũng có ý
nghĩa chiến lược. Quần chúng được thu hút, tập hợp trong các tổ chức chính
trị - xã hội. Các tổ chức chính trị - xã hội vừa là sợi dây nối liền Đảng với
quần chúng, vừa là chỗ dựa của chính quyền. Vì thế, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong tình
hình mới là một đòi hỏi cấp thiết. Để thực hiện được điều đó, các cấp ủy đảng
cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau đây:
Một là, quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về vai trò,
trách nhiệm của Đảng, chính quyền đối với MTTQ Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội.
Các cấp ủy đảng cần thường xuyên quán triệt, nâng cao nhận thức cho
cán bộ, đảng viên về nhiệm vụ lãnh đạo, xây dựng MTTQ Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội. Xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và vai trò làm chủ
của nhân dân thông qua MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Hai là, Đảng đổi mới cách ban hành nghị quyết, chỉ thị đối với MTTQ
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Nội dung các nghị quyết, chỉ thị trước khi ban hành phải được điều tra
khảo sát thực tế kỹ càng và tổ chức lấy ý kiến tham gia góp ý của MTTQ Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Văn bản nghị quyết, chỉ thị cần được
thể hiện một cách súc tích, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ tiếp thu, xác định rõ nội
dung, rõ nguồn lực, rõ nhiệm vụ của từng tổ chức và người chịu trách nhiệm
thực hiện.

15


Ba là, Đảng lãnh đạo Nhà nước tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường
lối của Đảng thành chính sách, pháp luật phù hợp với lợi ích chính đáng và
nguyện vọng hợp pháp của nhân dân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động có hiệu quả. Quốc hội đã
ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh
niên, Luật Bình đẳng giới, Pháp lệnh Cựu chiến binh..., và các luật này rất cần
được tổ chức thực hiện tốt trong thực tế.
Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của MTTQ Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội và thực tiễn cách mạng trong từng thời kỳ, Đảng kịp thời
định hướng nội dung hoạt động cho MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội. Định kỳ cấp ủy đảng làm việc, nghe báo cáo, phản ánh tình hình tâm
tư, nguyện vọng, kiến nghị, đề xuất chính đáng của các thành viên, của đông
đảo đoàn viên, hội viên để lãnh đạo Nhà nước, các tổ chức liên quan giải
quyết kịp thời. Đồng thời, các cấp ủy đảng cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
việc sơ kết, tổng kết nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội để hoạt động ngày càng được đổi mới theo
hướng hiệu quả, thiết thực hơn.
Năm là, Đảng lãnh đạo kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ MTTQ Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh, đáp ứng yêu cầu công tác vận
động và bảo vệ lợi ích hợp pháp của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi
mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Qua 85 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng cần tổng kết, đánh
giá, đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị
- xã hội từ Trung ương đến cơ sở theo hướng tinh gọn, hiệu quả để nắm dân
tốt hơn, vận động, tập hợp dân tốt hơn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đoàn viên, hội viên, của các tầng lớp nhân dân tốt hơn. Đảng

16


quan tâm lựa chọn, giới thiệu cho MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội những
người lãnh đạo có năng lực, có kinh nghiệm, có uy tín làm công tác vận động
nhân dân, thực sự là “thủ lĩnh” quy tụ, tập hợp được các thành viên, đoàn
viên, hội viên trong giai đoạn mới để đại hội dân chủ lựa chọn, bầu cử.
Coi trọng lãnh đạo việc tổ chức thực hiện, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết,
tổng kết kịp thời việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và
các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về công tác MTTQ và các tổ
chức chính trị - xã hội. Thông qua kiểm tra, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm
kịp thời để đôn đốc, chỉ đạo, phê bình những nơi triển khai yếu, kết quả thấp
và biểu dương, nhân rộng những nơi thực hiện đạt hiệu quả cao. Tiếp tục lãnh
đạo MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội đẩy mạnh các phong trào thi đua
yêu nước, nhằm tạo sự chuyển biến rõ nét trong việc vận động, tập hợp nhân
dân. Trên cơ sở đó, đóng góp thiết thực vào phát triển kinh tế - xã hội, tăng
cường quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, giữ vững ổn định chính trị và
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

17


C. KẾT LUẬN
Tiểu luận, với đề tài “ “Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở tỉnh Điện Biên hiện nay”, phân tích
thực trạng tình hình thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và đưa ra phướng hướng hoàn thiện các
chính sách tiếp tục phát huy vai trò của Đảng đối với Mặt trận tổ quốc và các

tổ chức chính trị - xã hội ở tỉnh Điện Biên hiện nay. Những nội dung cụ thể
mà khóa luận đạt được là:
Khóa luận trên cơ sở phân tích phương hướng nhằm phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở
tỉnh Điện Biên trong giai đoạn hiện nay.
Triển khai nghiên cứu đề tài do hạn chế về thời gian, về kinh nghiệm
thực hiện của bản thân ; mặc dù tác giả đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để hoàn
thành tiểu luận nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất
mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các chuyên gia, các nhà nghiên
cứu để hoàn thiện và phát triển hơn nữa nghiên cứu của mình.

18


MỤC LỤC
Thời kì đầu trong lịch sử phương Tây: Công việc tìm kiếm cho đặc điểm hay những
yếu tố của người lãnh đạo đã được thực hiện trong nhiều thế kỉ. Những tác phẩm triết
học nổi tiếng nhất từ cuốn Cộng hòa (Plato) cho tới cuốn Những cuộc đời song hành
đã khám phá câu hỏi "Kĩ năng nào phân biệt một cá nhân và một người lãnh đạo? "
Đặc biệt câu hỏi này là sự thừa nhận ban đầu về tầm quan trọng của lãnh đạo và được
cho rằng nhà lãnh đạo cũng xuất phát từ những đặc điểm mà mỗi cá nhân có. Ý kiến
này có nghĩa sự lãnh đạo dựa trên những đóng góp từ các cá nhân và được biết tới là
"những đặc điểm của lãnh đạo trên lí thuyết"................................................................4
Các tổ chức thành viên bao gồm:.......................................................................................6

19




×