Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

tiểu luận cao học Quan hệ giữa đảng, nhà nước, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.98 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hệ thống chính trị Việt Nam là một tổ hợp có tính chỉnh thể được cấu
thành từ 3 thành tố cơ bản: Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội vận
hành theo nguyên tắc, cơ chế và các mối quan hệ nhằm thực thi quyền lực
chính trị. Mỗi thành tố của hệ thống chính trị đều có những vị trí, chức năng
nhất định và vận hành theo nguyên tắc, cơ chế riêng nhưng để đảm bảo sự vận
hành thông suốt, thống nhất và mang tính chỉnh thể, vượt trội của toàn hệ
thống thì nhất thiết giữa chúng phải có mối quan hệ tạo nên cơ chế vận hành
chung của hệ thống. Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị Việt Nam được
xác định là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Trên thực tế, cơ chế trên mới xác định vị trí, chức năng của các thành tố
trong hệ thống chính trị chứ chưa nói lên mối quan hệ giữa các thành tố này.
Hơn nữa, cơ chế này cũng chưa được cụ thể hóa, chưa phân định rõ ràng chức
năng, nhiệm vụ, phương thức và phạm vi hoạt động của từng chủ thể trong hệ
thống chính trị. Điều này dẫn đến trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi
mới, hệ thống chính trị nói chung và các chủ thể chính trị nói riêng chưa phát
huy được vai trò, chức năng của mình. Vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng
được nhìn nhận chưa đúng, dẫn tới tổ chức và hoạt động của Đảng bao trùm
và chi phối toàn bộ hoạt động của Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Hệ
quả là Nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội tồn tại một cách hình thức, bị
động, dựa dẫm và ỷ lại vào Đảng. Sự vận hành của toàn bộ hệ thống theo cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp đã tạo nên sự trì trệ, quan liêu, hoạt động kém
hiệu quả của cả Đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, để đất nước
rơi vào tình trạng khủng hoảng, kém phát triển.
Bước sang thế kỷ XXI, trước những thách thức, cơ hội của hợp tác và hội
nhập kinh tế quốc tế, hệ thống chính trị cần được dổi mới cả về tổ chức và
hoạt động, quan hệ giữa các thành tố trong nó phải tiếp tục đổi mới và chủ
động thích ứng với những biến đổi của thế giới, chủ động vượt qua mọi thách
thức và khai thác có hiệu quả của sự hội nhập quốc tế.


1


Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “ Quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong tiến trình đổi mới và
hội nhập quốc tế”,với mong muốn đứng trên lập trường quan điểm Duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh nhắm làm rõ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị- xã hội cũng như ý nghĩa của mối quan hệ đó trong việc đổi
mới hệ thống chính trị nước ta trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Như đã nói ở trên nghiên cứu quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc
tìm ra các phương thức nhằm đổi mới hệ thống chính trị. Nhiệm vụ đặt ra là
cần phải nghiên cứu quan hệ này trên lập trường quan điểm Mácxít, góp phần
xây dựng và củng cố hệ thống chính trị xã hội trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập quốc tế. Về vấn đề này có một số tài liệu nghiên cứu ở những khía cạnh
khác nhau, cụ thể là:
Trong cuốn sách: Đảng và các tổ chức chính trị- xã hội trong hệ thống
chính trị Việt Nam hiện nay của tiến sỹ Nguyễn Hữu Đổng, Nxb Chính trị
Quốc gia năm 2009, đã đề cập đến khía cạnh thực trạng quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội để từ đó đưa ra giải pháp nhằm đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao vị trí, vai trò của các tổ chức
chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay.
Trong cuốn sách: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ đổi mới của tập thể tác
giả: Đỗ Quang Tuấn, Nguyễn Văn Hùng, Trần Hậu, Nxb Chính trị Quốc gia,
năm 2006. Nôi dung cuốn sách nêu lên cơ sở khoa học, một số vấn đề có tính
lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa
Đảng với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, và thực trạng đổi mới

phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân.
Đặc biệt phải kể đến cuốn sách: Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước
và các tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Nxb
2


Chính trị Quốc gia, năm 2008. Cuốn sách đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn để
nghiên cứu đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã
hội. Thực trạng mối quan hệ đó trong hệ thống chính trị. Từ đó đưa ra những
quan điểm, nguyên tắc nhằm đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị xã hội ở nước ta hiện nay.
Đứng trên lập trường quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin những
nghiên cứu nói trên đã tiếp cận quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị xã hội một cách khoa học. Tuy nhiên những
nghiên cứu này mới chỉ dừng lạ ở việc đưa ra những quan điểm cơ bản về
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, và các đoàn thể chính trị- xã hội hoặc tìm hiểu
một khía cạnh cụ thể nào đó mà chưa đi nghiên cứu một cách chi tiết và có hệ
thống về mối quan hệ đó, đặc biệt là quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập
quốc tế. Với bài viết này tôi hy vọng sẽ tạo nên một cách nhìn mới, một cách
nhìn toàn diện về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị- xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng: Nghiên cứu quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập
quốc tế.
- Phạm vi: Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã
hội ở nước ta hiện nay.

4. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận sau: Đứng trên lập trường quan điểm của
Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó cung
cấp cho người đọc một cái nhìn tổng quát về mối quan hệ đó cũng như những
giải pháp nhằm đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị- xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế.

3


5. CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA TIỂU LUẬN
- Chức năng: Tiểu luận “Quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội” nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội một cách
cơ bàn và có hệ thống, tù những quan điểm, lịch sử hình thành, nội dung,
những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó, để từ đó đưa ra những
giải pháp đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
- Để thực hiện chức năng đó, tiểu luận cần phải thực hiện những nhiệm
vụ sau:
+ Trình bày quan điểm của Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lịch sử
hình thành quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội.
+ Làm sáng tỏ nội dung, những mặt hạn chế, nguyên nhân của những
mặt hạn chế đó trong quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội.
+ Đưa ra một số giải pháp nhằm đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội trong tiến trình đổi mới và
hội nhập quốc tế.

6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiểu luận sử dụng phương pháp Duy vật Biện chứng và Duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngoài ra để thực hiện mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận, cũng như việc
triển khai nội dung, tiểu luận kết hợp sử dụng các phương pháp lôgic- lịch sử
và một số phương pháp cụ thể như: Tra cứu, phân tích tài liệu, phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp thu thập và xử lý thông tin…
7. KẾT CẤU CỦA TIỂU LUẬN
Tiểu luận bao gồm phần mở đầu, ba chương nội dung (8 tiết), kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.

4


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐÊ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG,
NHÀ NƯỚC, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
1.1. Khái niệm về hệ thống chính trị ở Việt Nam
Chính trị, như Lênin đã chỉ ra, đó là công việc liên quan đến hàng triệu
người, để làm cho hàng triệu người như một, tất cả mọi người trong một cộng
đồng nhất định (một nhóm, một giai cấp hoặc một khối đông đảo hơn) đều
hành động theo một hướng duy nhất nhằm mục tiêu đã đề ra. Vì vậy việc tập
hợp các tổ chức, các giai cấp thành một hệ thống có ý nghĩa quan trọng nhằm
bảo vệ và phát triển xã hội.
Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức chính trị hợp pháp (trong đó
có cả những tổ chức do giai cấp thống trị lập lên, và cả những tổ chức do giai
cấp không thống trị lập lên), các đảng chính trị hợp pháp và nhà nước của giai
cấp cầm quyền, cùng quan hệ qua lại trong sự tác động của các yêu tố đó. Để

chi phối các quá trình kinh tế - xã hội, nhằ bảo vệ, duy trì và phát triển xã hội
nđương thời, boả đảm quyền lực và quyền lợi của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay về mặt tổ chức bao gồm ba bộ
phận cấu thành cơ bản sau: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị
- xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam là dội tiên phong chính trị của toàn xã hội,
là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị bằng cương lĩnh, đường lối, chiến lược
và những chủ trương, chính sách lớn; bằng việc nắm đội ngũ cán bộ; kiểm tra
giám sát việc thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng; bằng thuyết phục
và nêu gương. đảng không làm thay công việc của các thành viên khác trong
hệ thống chính trị, đảm bảo khối liên minh giữa công nhân, nông dân và trí
thức trỏ thành nên tảng xã hội, thành sức mạnh của nhà nước. Nhà nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là xã hội pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân. nhà nước bao gồm Quốc hội, Chủ tịch nước, chính phủ,
5


hệ thống Tư pháp (Toà án, Viện kiểm sát nhân dân) và chính quyền địa
phương. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhà nước.
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa các giai cấp nông dân và đội ngũ tri
thức. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành phát và tư phát.
Nhà nước thực hiện mục tiêu dân giau, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện.
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, sự vận hành và thực hiện quyền lực
theo một cơ chế chỉ đạo là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ”. Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là các thành tố trong
một chỉnh thể thống nhất của hệ thống chính trị. Sự thống nhất đó yêu cầu

quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị phải là quan hệ bình đẳng
giả quyết các vấn đề theo một cơ chế và khẳng định vai trò của Đảng, quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhà nước chịu sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước là công cụ để Đảng ta thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình đối với dân
tộc. Quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội thành viên vừa là quan hệ lãnh đạo vừa là quan hệ hiệp thương dân
chủ, phối hợp và thống nhất hành động. quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên là quan hệ phối
hợp hành động, được thực hiện theo quy chế phối hợp công tác cụ thể.
Như vậy mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trân Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội có vai trò quan trọng vừa tạo lên một chỉnh thể
thống nhất của hệ thống chính trị, vừa củng cố phát huy vai trò của từng thành
tố: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
1.2. Quan điểm Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
1.2.1. Quan điểm Mác – Ăngghen
Mác – Ăngghen không để cho chúng ta lời bàn trực tiếp về các quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị xã hội nhưng trong di sản mà
6


hai ông để lại có không ít những luận điểm mà giá trị khoa học và ỹ nghĩa cách
mạng của chúng cho đến nay vẫn nguyên tính thời sự và hiện đại, vẫn hết sức
bổ ích cho việc nghiên cứu các quan hệ chính trị trong thời kỳ đổi mới.
Tập trung và tiêu biểu nhất là hệ thống các quan điểm mà các nhà kinh
điển đã nêu ra về bản chất giai cấp công nhân, về nguyên tắc của đảng công
nhân cách mạng, về vai trò và đặc trưng lãnh đạo chính trị của Đảng về quan
hệ giữa các tư tưởng và sức mạnh vật chất của các lực lượng, các đoàn thể
chính trị thực hiện tư tưởng đó. Qua các vấn đề đó, các ông đặc biệt nhấn
mạnh đến vai trò của quần chúng nhân dân trong hoạt động sáng tạo lịch sử,

trong tổ chức xây dựng xã hội tương lai với sức mạnh của nền dân chủ, của
nhà nước kiểu mới (chuyên chính vô sản) của công đoàn như những thiết chế
chính trị - xã hội có quan hệ trực tiếp với Đảng cách mạng. Các quan hệ tác
động có ảnh hưởng qua lại giữa các tổ chức này hình thành và biểu hiện ra bởi
hoạt động tư tưởng, giáo dục tuyên truyền bằng lực lượng và tổ chức , trong
đó lý luận, cương lĩnh, đường lối, chính sách mà Đảng ta đề xướng có vai trò
đặc biệt quan trọng. Đó là những cơ sở để xác lập quan hệ của Đảng, phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội trong tiến trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
1.2.2.Quan điểm của Lênin về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội
Lênin đã để lại cho chúng ta những chỉ dẫn quan trọng về Đảng, Nhà
nước và xã hội, về quan hệ qua lại giữa các thể chế chính trị xã hội này trong
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Một trong những giá trị nổi bật trong di sản Lênin là quan niệm khoa
học của người về chính trị: Đó là công việc liên quan đến hàng triệu người, để
cho hàng triệu người như một, tất cả mọi người trong một cộng đồng nhất
định (một nhóm, một giai cấp, hoặc một khối đông đảo hơn) đều hành động
theo một hướng duy nhất nhằm mục tiêu đã đề ra. Vì vậy việc tập hợp các tổ
chức, các giai cấp thành một hệ thống có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo vệ và
phát triển xã hội.

7


Trong những nghiên cứu của Lênin, Người đã đưa ra, vấn đề đặc trưng
sự lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của nhà nước và sự tham gia trực
tiếp ngày càng đông đảo của quần chúng vào việc kiểm tra, kiểm sát các hoạt
động của tổ chức quyền lực, tức là của các cơ quan lãnh đạo, quản lý. Đây
thực chất là các quan hệ theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền giữa các tổ

chức trong hệ thống thực thi qyền lực nhân dân.
Nói đến vai trò của Đảng, Lênin nhấn mạnh trước hết đến vai trò lãnh
đạo. Trách nhiệm, nhiệm vụ của Đảng là Đảng lãnh đạo giai cấp và trở thành
người tổ chức giai cấp. Đảng biểu hiện vai trò của người chiến sĩ tiên phong
chủ động và dẫn dắt hoạt động tổ chức của quần chúng trong xã hội. Vai trò
và trọng trách đó của đảng là lãnh đạo chính trị là việc vạch hướng đi cho Nhà
nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà
nước. Đảng tham gia công việc của Nhà nước với tư cách là vai trò như thế
chứ không phải là làm thay công việc của Nhà nước, giải quyết trực tiếp công
việc của Nhà nước. Để thực hiện được chức năng lãnh đạo đó , một trong
những điều kiện, tiền đề tối cần thiết là Đảng phải có năng lực chiếm lĩnh,
làm chủ lý luận. Chỉ một đảng nào được lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới
có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong. Không có lý luận cách mạng
thì không có cách mạng.
Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội, vì vậy đảng không coi nhẹ lãnh đạo
kinh tế và sản xuất, cũng không thể không quan tâm đến lãnh đạo trên lĩnh
vực tổ chức và cán bộ, tư tưởng và văn hoá. Nhưng Đảng thực hiện sứ mệnh
ấy không phải là tác tác nghiệp cụ thể, là những hoạt động chuyên môn,
nghiệp vụ như các cơ quan quản lý nhà nước mà nhà lãnh đạo phương hướng
chính trị của kinh tế, của sản xuất, phương hướng chính trị của xây dựng phát
luật và nền dân chủ, của quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Là biểu hiện tập
trung của kinh tế, là kinh tế cô đọng lại, nền kinh tế không thể không chiếm vị
trí quan trong so với kinh tế.
Nhà nước bằng phương pháp và hiệu lực quản lý mà hiện thực hoá
đường lối, cương lĩnh chính trị của Đảng. Các nhà quản lý chủ chốt của nhà
nước thực hiện quản lý theo chuyên môn của mình, trên thực tế là những
8


người trong Đảng, những người của Đảng, tất cả đều là cán bộ của nhân dân,

phục vụ nhân dân, hoạt động trong địa hạn quản lý của nhà nước.
Từ những nhiệm vụ chức năng của Đảng, Nhà nước như trên, Lênin đưa
ra quan niệm là phải phân định rành mạch, phân biệt chính xác chính trị lãnh
đạo khác với chính trị quản lý. Quan hệ giữa Đảng với nhà nước khi Đảng
cầm quyền đã hiện nên thật rõ nét trong đời sống chính trị thực tiễn. Đó là
quan hệ giữa quan điểm, tư tưởng, đường lối chính trị, cương lĩnh chính trị và
các quyết sách cụ thể với trương trình kế hoạch quản lý, với nhiệm vụ và
phương pháp quản lý, quan hệ giữa tổ chức và bộ máy của con người.
Không chỉ đề cập đến quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với xã hội, Lênin
còn có những quan niệm về tổ chức chính trị xã hội: Người quan niệm “Công
đoàn là bể chứa chính quyền, Nhà nước, là trường học Chủ nghĩa Cộng sản,
là trường quản lý kinh tế”. Ông cũng thấy rõ vai trò này, trong tính đặc thù
của nó, “không phải là việc quản lý mà là “sự liên hệ” giữa cơ quan quản lý
trung ương” (tất nhiên là cả ở địa phương nữa) “của Nhà nước, của nền kinh
tế quốc dân, với quần chúng lao động rộng rãi”.
Như vậy những di sản mà Lênin để lại có vị trí và vai trò hết sức quan
trọng đối với việc nghiên cứu cũng như xây dựng mối quan hệ chính trị trong
hệ thống chính trị nước ta thời kỳ đổi mới
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội.
Bàn về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội,
bao giờ Hồ Chí Minh cũng hướng tới việc giải quyết các quan hệ đó vào việc
thực hiện dân chủ, bảo đảm và phát huy dân chủ của nhân dân. Đây là mục
đích là bản chất của hoạt động chính trị. Thông qua các quan hệ giữa các tổ
chức cấu thành hệ thống chính trị ở nước ta mà tác động đến đời sống xã hội
đến thực hiện lợi ích và quyền lực của nhân dân.
Như vậy thực chất của quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội là quan hệ với nhân dân với xã hội. Phải lấy dân làm gốc,
xuất phát từ dân và hướng đích mọi họat động vào phục vụ dân, tôn trọng và
bảo đảm quyền làm chủ của dân, làm căn cứ quan trọng nhất để xác lập và

9


giải quyết quan hệ nội tại giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết
là quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Điều này đặc biệt quan trọng khi Đảng trở
thành Đảng cầm quyền, có trọng trách lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Thứ nhất, Hồ Chí Minh làm sáng tỏ bản chất của Đảng và quan hệ giữa
Đảng và nhân dân
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Người đã nói: “Đảng
không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, làm cho tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Mục
đích và bản chất ấy của Đảng quy định vai trò, trách nhiệm của Đảng, nguyên
tắc tổ chức và trách nhiệm của Đảng, quan hệ trong Đảng và quan hệ giữa
Đảng với nhân dân mà mỗi cán bộ, đảng viên phải tuân thủ thực hiện, phải thể
hiện tính tiên phong và gương mẫu để quần chúng noi theo, để lãnh đạo quần
chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Một Đảng chân chính cách
mạng phải giữ vững tính cách mạng, lại phải khéo dùng những cách thức thi
hành cho hoạt bát,...phải là một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch,
cách mạng, triệt để, phải là người lãnh dậo sáng suốt, kiên quyết, trung thành
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam.
Thứ hai, nói về chính quyền Nhà nước để thực hiện quyền lực nhân dân,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đặc biệt đến vai trò của dân trong một nước dân chủ
Vai trò của dân đồng thời là thẩm quyền và trách nhiệm của dân, việc
tổ chức lên cơ quan quyền lực của mình, do mình uỷ quyền, người dân với tư
cách là người chủ phải ý thức được quyền của mình. Đây thực chất là quyền
lực nhân dân theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận dân chủ thực chất là lý
luận về xây dựng chế độ uỷ quyền, lý luận về cơ chế thực hiện sự uỷ quyền
đó. Nó quy định cách thứch tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của bộ
máy, phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước đó sao cho thi hành được
đầy đủ điều kiện thực sự tham gia quản láy nhà nước, đảm bảo quyền kiểm

soát của nhân dân đối với các đại biểu của mình.
Hồ Chí Minh xác định, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà
nước và Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Cần
phải quy định nhiệm vụ cho tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân,
10


liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân
dân. Muốn cho nhân dân thực sự tham gia quản lý nhà nước thì phải đảm bảo
mọi quyền lực của nhân dân, mở rộng dân chủ, thực hiện đầy đủ quyền dân
chủ của nhân dân.
Thứ ba, về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, đoàn thẻ với nhân dân
Trong tác phẩm dân vận của Hồ Chí Minh không chỉ đề cập đến bản
chất dân chủ mà còn trình bày rõ ràng, cặn kẽ và thiết thực về quan hệ Đảng,
Nhà nước, đoàn thể với nhân dân và làm công tác dân vận, tức là vận động
quần chúng làm cách mạng trở thành trách nhiệm chung của tất cả mọi tổ
chức, mọi cán bộ, đảng viên, hội viên.Theo Hồ Chí Minh, tất cả cán bộ chính
quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân đều
phải phụ trách dân vận, phải giải thích cho dân hiểu, hiểu rõ lợi ích, hiểu rõ
nhiệm vụ để dân hăng hái làm cho kỳ được. Làm dân vận thì bất cứ việc gì
cũng phải bàn bạc với dân, đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa
phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành. Trong lúc thi hành đều
phải dõi theo giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân, thi hành xong phải cùng
với dân kiểm tra lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình và khen thưởng.
Thứ tư, về vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
Để phục vụ nhân dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí
Minh không chỉ nhấn mạnh đến vai trò, trách nhiệm của Đảng, của Nhà nước
mà còn thường xuyên chăm lo tới tổ chức Mặt trận và các đoàn thể của quần
chúng. Theo Người, công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong
toàn bộ công tác cách mạng: Mặt trận là một trong những lực luợng to lớn của

cách mạng. Người cũng chỉ dẫn cụ thể về vai trò và tác dụng của Đoàn Thanh
niên của Công Hội và Nông hội, của tổ chức phụ nữ và công tác phụ nữ, của
trí thức và vận động trí thức... Đó là chủ trương tập hợp lực lượng, phát triển
lực lượng to lớn của toàn dân là chính sách đoàn kết, đại đoàn kết. Trong đó,
lấy đoàn kết trong Đảng làm hạt nhân, gương mẫu cho toàn dân noi theo, phảỉ
mở rộng đoàn kết mọi tổ chức, lực lượng, đoàn kết giai cấp và đoàn kết dân
tộc, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết quốc tế, thêm bầu bạn bớt kẻ thù ...

11


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, các
tổ chức và đoàn thể với nhân dân. Người cho thấy, không chỉ quan điểm và
nguyên tắc mà còn là mục đích, phương pháp, nội dung và những nhiệm vụ
cụ thể, đặc biệt là làm nổi bật vai trò, khả năng to lớn, sức mạnh vô địch và
sáng kiến vô tận của quần chúng. Tin vào lực lượng của dân, thấu hiểu dân
biết đề ra chủ trương, đường lối, chính sách và biện pháp thiết thực và hợp
với lòng dân, đem lại lợi ích chính đáng cho dân, lại biết khéo léo tuyên
truyền, vận động, tổ chứ dân thành phong trào và lực lượng cách mạng, thuyết
phục được dân tranh thủ sự tin cậy, ủng hộ của dân thì dù khó đến mấy cũng
giải quyết được. (xem 5, tr.46 - 55)
1.3. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển quan điểm giữa
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta
Sự hình thành và phát triển của quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội ở Việt Nam bắt nguồn từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể với
tiềm đề kinh tế - xã hội và những tư tưởng chính trị nhất định. Từ những tiền
đề kinh tế - xã hội , tư tưởng chính trị đầu tiên, quan hệ giữa Đảng và các tổ
chức chính trị - xã hội, với quần chúng nhân dân đã được khẳng định đúng
đắn trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong các cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
1.3.1. Giai đoạn 1930 - 1945

Năm 1930, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Hội nghị Trung
ương lần thứ nhất (10/1930) và lần thứ hai (3/1931), đều xác định nhiệm vụ
trọng tâm của Đảng là xây dựng nhiệm vụ trọng tâm của Đảng là xây dựng và
lãnh đạo các tổ chức quần chúng, các đoàn thể cách mạng gắn với công tác
xây dựng Đảng. Ngày 18/11/1930, Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị
thành lập Hội Phản đế đồng minh Đông Dương. Các tổ chức Nông hội, Công
hội, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Hội Phụ nữ giải phóng, phát triển nhanh
chóng và mạnh mẽ.
Sau cao trào 1930 – 1931, kẻ thù khủng bố điên cuồng, cách mạng tạm
thời đi vào thoái trào. Trước tình hình đó, tại Đại hội lần thứ nhất của
Đảng( tháng 3/1935 tại Ma Cao) đã chỉ ra: phải mau chóng khôi phục và xây
dựng Công hội trong các xí nghiệp và các tổ chức quần chúng khác dưới các
12


hình thức bí mật, công khai và nửa công khai, phát triển Mặt trận dân chủ
thống nhất dưới hình thức phản đế liên minh. Đó là hình thức tập hợp dân
chúng rộng rãi nhất, lôi cuốn cả nhữ đảng phái quốc gia và những phàn tử cải
lương có tinh thần phản đế, không phân biệt thành phần giai cấp, tôn giáo...,
với chủ trương đúng đắn của Đảng, phong trào đã dần được hồi phục.
Đứng trước tình hình thế giới có nhiêu chuyển biến: nguy cơ phát xít
gây chiến tranh thế giới đang đến gần,Hội nghị Trung ương 7/1936 đã xác
định mục đích đấu tranh: đòi tự do, dân chủ, cơm áo hoà bình. Để thực hiện
mục tiêu ấy, Đảng chủ trương lập Mặt trận dân chủ Đông Dương, đồng thời
chuyển mục tiêu của các tổ chức quần chúng sang thực hiện mục tiêu mới.
Nhiều tổ chức quần chúng được tổ chức đa dạng, hoạt động công khai, bán
công khai như: Hội Ái hữu, Hội Tương tế, Hội Hiếu, Hội Hỷ, Hội rèn, Hợp
tác xã ...Các tổ chức quần chúng do Đảng thành lập đều có sự lãnh đạo, chỉ
đạo và tham gia tích cực của Đảng viên
Ngày 1/9/1939 Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, kếo theo một

loạt những thay đổi về kinh tế, xã hội, bộ máy chính quyền ở Pháp, Đông
Dương và Việt Nam. Trước tình hình ấy Hội nghị Trung ương lầ Sáu
(11/1939), lần thứ Bảy (11/1940) và đặc biệt là Hội nghị Trung ương lần Tám
(5/1941) đã quyết định và hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược,
và đổi tên “Mặt trận dân tộc Phản đế Đông Dương” thành “Việt Nam độc lập
đồng minh, gọi tắt là Việt Minh”. Mặt trận Việt Minh có vai trò rất to lớn, lần
đầu tiên có cơ quan Trung ương của Mặt trận – đó là tổng bộ Việt Minh. Hoạt
động của Việt Minh rất phong phú, ảnh hưởng của Việt Minh rât lớn. Các
hoạt động công khai của Đảng đều dưới danh nghĩa Việt Minh, các đoàn thể
khác đều là thành viên của Việt Minh và các hoạt động của các tổ chức ấy đều
dưới danh nghĩa của Việt Minh. Với danh nghĩa Việt Minh, Hồ Chí minh đã
liên hệ và tìm sự giúp đỡ của Đồng minh. Đặc biệt dưới danh nghĩa của Tổng
bộ Việt Minh, Hội nghị toàn quốc của đảng và Quốc dân Đại hội đã họp tại
Tân Trào, thành lập Uỷ ban giải phóng do Hồ Chí Minh đứng đầu, đã phát
động tổng khởi nghĩa. Chỉ trong vòng 10 ngày, cuộc cách mạng tháng Tám đã
thắng lợi trong cả nước.
13


1.3.2. Giai đoạn những năm 1945 – 1954
Nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn này là xây dựng, bảo vệ chính
quyền cách mạng và tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược. Đảng chủ trương tiếp tục củng cố, phát triển và mở rộng Mặt trận tới tất
cả các tổ chức, cá nhân có tinh thần độc lập chống thực dân Pháp xâm lược.
Với tinh thần đó, ngày 29/5/1946. Hội liên hiệp Quốc dân Việt Nam ra đời
(gọi tắt là Liên Việt). Ngày 27/7/1946, Đảng xã hội được thành lập, tập hợp
tất cả các tri thức tư sản, phú hào chưa tham gia đoàn thể nào vào hàng ngũ
Liên Việt. Ngày 3.3.1951, đại hội Quốc dân “ Mặt trận thống nhất Việt Minh
và Liên Việt” lấy tên là “Mặt trận liên hiệp Quốc dân Việt Nam” ( gọi tắt là
Mặt trận Liên Việt).

Mặt trận Liên Việt đã phối hợp với Đảng, Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam, Đoàn Thanh niên, Hội nông dân tích cực vận động nhân dân cả
nước đóng góp sứ người, sức của phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ đi
đến thắng lợi.
1.3.3. Giai đoạn những năm 1954 – 1975
Đây là giai đoạn kháng chiến chống thực dân Mỹ thống nhất đất nước
và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Ngày 10/9/1955, Đại hội Mặt trận Liên Việt được triệu tập, đại hội
quyết định lấy tên là Mặt trận Tổ quốc việt Nam. Thông qua Tuyên ngôn,
Cương lĩnh, Điều lệ mới, bầu chủ tịch Hồ chí Minh làm chủ tịch danh dự,
đồng chí Tôn Đức Thắng làm chủ tịch danh dự. Cương lĩnh của Mặt trận kêu
gọi tầng lớp nhân dân, kêu gọi mọi người dân Việt Nam, không phân biệt trai
gái, trẻ già, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, khuynh hướng chính
trị và tín ngưỡng tôn giáo, không phân biệt trước đây đứng về phe nào, nếu
ngày nay tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ hãy siết chặt hàng
ngũ trong Mặt trận. Hưởng ứng cương lĩnh của Mặt trận, hơn 30 đảng phái
chính trị, đoàn thể nhân dân và nhiều nhân sĩ tri thức, dân tộc, tôn giáo đã gia
nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ở Miền Nam, đáp ứng yêu cầu cuả thời kỳ cách mạng mới và nguyện
vọng của quần chúng nhân dân, ngày 20/12/1960, đại hội đại biểu các giai
14


cấp, dân tộc, tôn giáo và các đảng phái đã họp và quyết định thành lập “Mặt
trận dân tộc giải phong miền Nam Việt Nam”, Mặt trận trở thành người đại
diện chân chính duy nhất cho nhân dân miền Nam Việt Nam; tập hợp 20 tổ
chức chính trị - xã hội, đảng phái, tôn giáo như: Hội lao động giải phóng
(công đoàn giải phóng), Hội Nông dân giải phóng, Đoàn Thanh niên cách
mạng cách mạng miền Nam, Hội Phụ nữ giải phóng, Hội liên hiệp sinh viên
và học sinh ...

Mặt trận ra Tuyên ngôn và Cương lĩnh hành động 10 điểm với mục tiêu
đấu tranh là: hoà bình, dân chủ, cơm áo và thống nhất Tổ quốc. Mặt trận
không chỉ làm nhiệm vụ vận động đoàn kết nhân dân mà ở những vùng giải
phóng, Mặt trận còn trở thành cơ quan chính quyền thực hiện nhiệm vụ làm
chủ của nhân dân về mọi mặt chính trị, quân sự, ngoại giao ...
1.3.4. Giai đoạn 1975 – 1985
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khoá III) đã quyết định nhiệm vụ hoàn thành thống nhất
nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội. Kỳ họp thứ nhất nước Việt Nam thống nhất (2/7/1976) đã quyết định đổi
tên nước thành nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và thành lập ra
chính phủ thống nhất, cũng trong năm 1976, Mặt trận và các đoàn thể quần
chúng đã lần lượt thống nhất.
Trong giai đoạn nay, cả nước bắt tay thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, tiến hành cải tạo và phát triển kinh tế, củng cố và xây
dưng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn chung qua mỗi chặng đường lịch sử cách mạnh, các tổ chức chính
trị - xã hội đã có những đóng góp đáng kể gắn với việc động viên quần chúng
thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất
nước. bên cạnh những mặt cơ bản, quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn
thể chính trị - xã hội còn bộc lộ một số hạn chế yếu kém nhất định. (xem 5, tr.
104 - 115)

15


Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ QUAN HỆ GIỮA
ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, MẶT TRÂN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ
CHÍNH TRỊ XÃ HỘI TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI

VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Hội nhập và hợp tác quốc tế đang là một tất yếu khách quan đối với hầu
hết các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị trong một thế giới toàn cầu
hoá. đối với Việt Nam, mở cửa và hội nhập quốc tế là một chủ trương và quyết
tâm nhất quán, một bộ phận quan trọng hợp thành đường lối đổi mới của đảng
và Nhà nước ta. Nhưng trên thực tế cho đến nay trong hệ thống chính trị nước
ta vẫn còn tồn tại những sai lầm và khuyết điểm. Dựa trên cơ sở lý luận và thực
tiễn, Tiểu luận nêu lên thực trạng về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm làm cơ sở cho việc nghiên cứu
phương thức đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
2.1. Thực trạng quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
Bước sang thời kỳ đổi mới, Hội nghị Trung ương sáu (khoá VI) đã đặt
ra vấn đề: Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,
“phân định rõ chức năng, nhiệm vụ trên cơ sở đó đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng”, “Dảng
phải tự đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của mình” và đề ra các
chủ trương “tiếp tục đổi mới ngay một bước phương thức lãnh đạo của các
cấp uỷ Đảng. Ở Trung ương: phân định rõ thêm một bước chức năng, nhiệm
vụ và mối quan hệ giữa Trung ương Đảng (Bộ Chính trị, Ban Bí thư) với
Quốc hội, Hội đồng Nhà nước , Hội đồng Bộ trưởng và các đoàn thể quần
chúng..., khắc phực lối lãnh đạo quan liêu, độc đoán các nhân, duy ý trí, bao
biện, sự vụ, nhưng phải chống khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò
lãnh đạo của Đảng”.
Tại Đại hội Đảng toàn qốc lần thứ VII, Đảng ta đã khẳng định: “để đổi
mới và kiện toàn hệ thống chính trị, xây dựng và thực hiện dân chủ xã hội chủ
16


nghĩa, vấn đề mấu chốt là phân định rõ chức năng và giải quyết tốt mối quan

hệ giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân”. (xem2, tr.101)
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, phương thức lãnh đạo của Đảng được xác định khá hoàn chỉnh:
“Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục vận
động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của dảng viên. Đảng
giới thiệu những người đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào
hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. đảng
không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.”
(xem2, tr.101)
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) về đổi mới chỉnh đốn
Đảng đã chỉ rõ quan hệ lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: Đảng lãnh đạo
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, các nhân phụ trách; lãnh
đạo thông qua các tổ chức đảng chứ chỉ thông qua các cá nhân đảng viên;
lãnh đạo bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo rõi, cho ý kiến chỉ
đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn nhưng lệch
lạc nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực vủa Nhà nước chứ không điều
hành thay Nhà nước.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, đặt biệt tại hội nghị Trung
ương 3 khoá VIII (6/1997), khi tổng kết vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước, Đảng đã nhận định: “Nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta đã có bước đổi mới, vừa đảm bảo vai
trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ
quan nhà nước”.
Đến Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, trên cơ sở tổng kết việc
đối mới hoạt động của hệ thống chính trị, Đảng ta đã khăng định: Đảng thực
hiện sự lãnh đạo “thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách
lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước ...”. Tại Đại
hội toàn quốc của Đảng lần thứ X, Đảng lãnh đạo nhà nước bằng đường lối,

17


quan điểm, các nghị quyết, lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hoá bằng Hiến pháp,
pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà nước, bố trí đúng
cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Như vậy, trong quá
trình triển khai thực hiện chức năng lãnh đạo của Đảng, quản lí của Nhà nước
và quyền làm chủ của nân dân, các mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội dần được hình thành và ngày càng được xác định rõ
hơn trong lí luận cũng như trong thực tế.
2.1.1. Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
Quan hệ giữa Đảng và Nhà nước thức chất và chủ yếu là quan hệ lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước. Quan hệ nhà xuất phát từ tư tưởng và quan
điểm của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng tiên phong đại diện cho
trí tuệ và lợi ích của nhân dân, Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và toàn thể
hội nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân và dân tộc.
Đảng lãnh đạo nhà nước bằng đường lối, chính sách và các nghị quyết
của Đảng. Về mặt lý thuyết, Đảng lãnh đạo bằng đường lối, nhưng trên thực
tế trong nhiều năm Đảng đã can thiệp sâu vào công việc của nhà nước. Sự
phân biệt chưa rõ ràng về chức năng lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà
nước dẫn đến tình trạng vừa lẫn lộn, vừa để trống trách nhiệm. Có những vấn
đề tổ chức đảng can thiệp quá sâu vào hoạt động của bộ máy nhà nước.
Mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước về căn bản đã dựa trên nguyên
tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” (vốn là nguyên tắc lãnh đạo trong
nội bộ Đảng), Với quan niệm tập thể cấp uỷ đảng quyết định mọi nhiệm vụ,
chủ trương, biện pháp, phân công một số cán bộ chủ chốt làm “công tác
chính quyền” tức là nắm bộ máy nhà nước để tổ chức thực hiện các quyết
định của Đảng. Việc áp dụng nguyên tắc đó đã mặc nhiên hình thành cơ cấu
kép Đảng – Nhà nước, trong đó vô hình đặt Đảng ở vị trí cơ quan “siêu quyền
lực” đứng trên nhà nước và nghị quyết có hiệu lực cao hơn phát luật, còn Nhà

nước bị thoái hoá chức năng biến thành khâu thừa hành thụ động, mang tính
thủ tục hành chính, không có quyền lực để có thể chịu trách nhiệm pháp lý
trước nhân dân một cách đầy đủ, đặc biệt là Quốc hội – cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất do toàn dân bầu ra một cách hợp hiến.
18


Đến hiến pháp năm 1992, nhận thức về mối quan hệ trên đã có những
thay đổi quan trọng: Hiến pháp khẳng định nhà nước ta là nhà nước của nhân
dân với tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; nhấn mạnh mọi tổ chức của Đảng
thuộc trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Như vậy, Đảng không quyết
định trực tiếp mọi công việc của Nhà nước, Đảng không phải là cấp trên của
cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, thực tế chung ta vẫn chưa giải quyết được tận gốc của vấn
đề, do đó chưa có sự chuyển biến rõ rệt trong mối quan hệ cơ bản nói trên.
Tình trạng Đảng bao biện làm thay cơ quan Nhà nước, can thiệp vào chức
năng của cơ quan nhà nước, dùng phương pháp mệnh lệnh, áp đặt đối với cơ
quan nhà nước vẫn diễn ra.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc cử những đảng viên của Đảng
nắm giữ chức vụ chủ chốt của Nhà nước. Song trên thực tể, công tác cán bộ
của Đảng đang bộc lộ rất nhiều bất cập. Đảng nắm công tác cán bộ, nhưng
quan niệm Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, Đảng thống nhất quản lý cán bộ là
như thế nào cũng chưa thật rõ và cụ thể. Vì vậy, dẫn đến tình trạng là hầu hết
cán bộ nhà nước đều do Đảng, cấp uỷ quản lý, tổ chức và quyết định. người
đứng đầu các cơ quan nhà nước thụ động về vấn đề cán bộ. Việc đề bạt hay
kỷ luật một cán bộ ở cấp trung ương thuốc phạm vi Ban Bí thư, Bộ Chính trị
quản lý. Cách làm này do chính phủ, thủ tướng không có thực quyền, Thủ
tướng không có quyết định việc thăng tiến hoặc trừng phạt đối với cán bộ
dưới quyền nên tình trạng “trên bảo dưới không nghe” trong chỉ đạo, điều
hành của Chính phủ cũng là điều dễ hiểu. Trách nhiệm của các bộ trưởng

trước Ban Bí thư, bộ Chính trị cũng chưa được định rõ.
2.1.2. Mối quan hệ giữa Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội
Quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc là quan hệ bình đẳng trước
phát luật. “Đảng cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo
Mặt trận”. Đảng tham gia mặt trận có nghĩa vụ như mọi thành viên khác.
Đảng tôn trọng tính độc lập về tổ chức và hoạt động sáng tạo của Mặt trận và
các tổ chức chính trị - xã hội, lắng nghe ý kiến của các tổ chức này.
19


Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội bằng đường lối, chủ trương, bằng công tác tuyên
truyền, vận động thuyết phục, tổ chức kiểm tra và bằng sự gương mẫu của
đảng viên trước các tầng lớp nhân dân.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là vấn đề có
tính nguyên tắc, bảo đảm cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không ngừng được
củng cố và mở rộng. Ở cơ sở, cấp uỷ lãnh đạo Mặt trận thông qua đại diện của
cấp uỷ đảng và đảng viên tham gia Uỷ ban Mặt trận cùng cấp.
Đảng chăm lo bồi dưỡng cán bộ và giới thiệu những đảng viên có phẩm
chất, có tín nhiệm trong các tầng lớp nhân dân, có năng lực làm công tác mặt
trận, đoàn thể. Trên thực tế, Đảng là người bố trí, sắp xếp những cán bộ, đảng
viên có năng lực và trình độ giữ những cương vị chủ chốt trong các tổ chức
chính trị - xã hội. Song, do tư tưởng coi nhẹ công tác mặt trận, đoàn thể, việc
bố trí cán bộ mặt trận, đoàn thẻ một cách tuỳ tiện, áp đặt đã làm yếu đi vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể, làm yếu đi Đảng.
Đảng kiểm tra, giám sát hoật động của các tổ chức chính trị - xã hội, khi
cần thiết có sự điều chỉnh, uốn nắn thậm chí phải sử lý kịp thời ở những mức độ
khác nhau. Khi có các tổ chức nào đó có những hoạt động trái với tôn chỉ, mục
đích, không chịu sự lãnh đạo của Đảng, thậm chí có những hoạt động chống

Đảng thì Đảng phải kiên quyết chấn chỉnh để giữ vững vai trò cầm quyền của
mình.
Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhưng lại là thành viên trong
Mặt trận, do đó để thực hiện được vai trò sự lãnh đạo có hiệu quả. Do tính chất
của Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hịêp thương dân chủ, đảng tham gia mặt
trận trước hết với tư các là một thành viên do đó Đảng tuân thủ nguyên tắc hiệp
thương dân chủ, song thành viên đó lại có chức năng lãnh đạo nên cần phải tìm
ra một cơ chế lãnh đạo thich hợp. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7(khoá IX)
đã chỉ ra cơ chế đó là: kết hợp giữa nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng với
nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong Mặt trân. Vấn đè là cần phải tìm ra những
hình thức, biện phát, bước đi để thực hiện sự kết hợp đó ở từng cấp, từng nơi,
từng lúc.
20


Đảng lãnh đạo nhưng đảng không ra lệnh, áp đặp cho Mặt trận mà phải
thông qua hiệp thương, thuyết phục, thông qua sự gương mẫu của mỗi đảng
viên trong Mặt trận. Các cấp uỷ đang và cấp chính quyền có chế độ tiếp xúc,
đối thoại trực tiếp với nhân dân, thường xuyên lắng nghe ý kiến , phản ánh
của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hôi với Đảng, Nhà nước về những
vấn đề mà nhân dân quan tâm.
Mặt trận có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo
đức cho mỗi đảng viên và tầng lớp nhân dân thực hiện đại đoàn kết dân tộc vì
độc lập dân tộc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mặt trận có trách nhiệm tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chính
sách của Đảng và Nhà nước, trong việc xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân. Mặt trận làm cho các thành viên nắm vững và
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; kiểm tra giám sát
hoạt động của tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên.
2.1.3. Quan hệ giữa Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

chính trị - xã hội
Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội có quan hệ chặt chẽ với
nhau, biểu hiện tập trung trong quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc
việt Nam. “Mặt trận Tổ quốc và Nhà nước có quan hệ mật thiết với nhau,
nhưng đây là hai thiết chế mang đặc trưng rất khác nhau. Do là thiết chế
quyền lực, tổ chức và thực thi quyền lực được dân uỷ quyền nên Nhà nước
không tham gia Mặt trận, nhưng Nhà nước xây dựng và ban hành luật, trong
đó có luật Mặt trận Tôư quốc Việt Nam, tạo mọi điều kiên cho Mặt trận Tổ
quốc hoạt động hợp hiến, hợp pháp, phát huy hết mọi khả năng của mình. Để
làm tròn chức năng quản lý, thực hiện quyền của nhân dân, Nhà nước rất cần
sự phối hợp, hợp tác, tư vấn, giám sát của Mặt trận Tổ quốc. Tuy không tham
gia Mặt trận Tổ quốc nhưng Nhà nước và Mạt trận tổ quốc lại cùng là thành viên
trong hệ thống chính trị, cùng chịu sự lãnh đạo của Đảng cộng sản cầm quyền.
Mối quan hệ khăng khít giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc thể hiện mối quan
hệ giữa hai phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân là: Làm chủ

21


bằng Nhà nước và làm chủ bằng các thiết chế ngoài Nhà nước. Cả hai phương
thức đó bổ sung, tác động lẫn nhau.
Trong quan hệ với các tổ chức chính trị - xã hội, Nhà nước là cơ quan
thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về tổ chức và hoạt động của các
tổ chức chính trị - xã hội thành các văn bản quy phạm pháp luật, tạp cơ sở để
đổi mới quản lý của nhà nước đối với các tổ chức này, đồng thời tạo hành
lang pháp lý cho đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã
hội. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được thông qua cùng với Nghị định
hướng dẫn thi hành của Chính phủ đã đặt cơ sở pháp lý cho toàn bộ hoạt động
của Mặt trận. Một số hoạt động của Mặt trận đã được luật hoá và được tiến hành
có nề nếp như tham gia bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, tham gia tố

tụng, tuyển chọn thẩm phán, giới thiệu hội thẩm nhân dân, tham gia xây dựng
pháp luật.
Để các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện các chức năng của mình, Đại
hội lần thứ VIII của Đảng nhấn mạnh đến việc Nhà nước cần phải ban hành
luật về lập hội và tạo điều kiện cần thiế cho hoạt động của các đoàn thể nhân
dân. Đông thời chủ trương thực hiện cơ chế làm chủ thông qua đại diện và các
cơ quan dân cử, các đoàn thể, các hình thức làm chủ trực tiếp như “nhân dân
tự quan”, “quy ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với pháp luật của Nhà
nước”, nhằm vừa phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vừa mở rộng và tạo
mọi điều kiện để tập hợp nhân dân. Đại hội lần thứ X của Đảng đề ra chủ
trương: mở rộng và đa daing hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị
trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân... sớm
ban hành Luật về hội quần chúng.
Các cơ quan Nhà nước tạo diều kiện pháp lý cần thiết để các tổ chức
chính trị - xã hội hoạt động, phối hợp với các tổ chức trong thực hiện chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; xây dựng quy chế làm
việc hoặc trương trình phối hợp hoạt động với các tổ chức chính trị - xã hội,
tạo điieù kiện cho các tổ chức này nắm được chương trình, kế hoạch của
Chính phủ và chính quyền các cấp, cung cấp những thông tin cần thiết để từ
đó xây dựng phương hướng, nhiệm vụ hoạt động của mình. Nhà nước còn cấp
22


phát, phân bổ ngân sách và quản lý tài chính đảm bảo hoạt động của các tổ
chức chính trị - xã hội được chủ động và hiệu quả.
Quan hệ giữa các tổ chức chính trị - xã hội với Nhà nước được thực
hiện dưới các khía cạnh sau:
-Mặt trận Tổ quốc Việt nam các cấp và các tổ chức chính trị xã hội tập
hợp ý kiến , kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà
nước. Trên cơ sở nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và các ý kiến của các tầng lớp

nhân dân về tình hình thực hiện chính sách , pháp luật tại địa phương về hoạt
động cảu các cơ quan, cán bộ nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các
đoàn thể chính trị - xã hội phản ánh, kiến nghị với Đảng, chính quyền và các
ngành có liên quan. Nhiều kiến nghị đã đước các cơ quan nhà nước nghiên
cứu, giả quyết từng bước và trả lời công khai.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở nhiều địa phương đã tăng cường chỉ đạo
hoạt động của ban thanh tra nhân dân, tiến hành kiểm tra, giám sát thực hiện
chính sách, pháp luật, sử dụng đất đai, nguồn vốn, góp phần tăng cường công
tác quản lý, giám sát những trương trình, kế hoạch, dự án ảnh hưởng trực tiếp
tới chính quyền và lợi ích của nhân dân
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức vhính trị - xã hội đã phối
hợp với chính quyền cải tiến nội dung và quy trình tiếp dân, xử lý đơn thư
khiếu lại, tố cáo và bước đầu phối hợp với chính quyền triển khai xây dựng và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nhằm thực hiện quyền dân chủ trực tiếp
của nhân dân.
- Tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân như tích cực
tham gia các cuộc bầu cử các cơ quan dân cử các cấp theo luật định. Nhiều
địa phương đã xây dụng quy chế tổ chức các cuộc thiếp xúc giữa đại biểu dân
chủ và cử chi, góp phần quan trọng vào kết quả bầu cử và tuyển trọn thẩm
phán toà án nhân dân các cấp.
- Đề xuất sáng kiến pháp luật, tham gia góp ý xây dựng các chủ trương,
chính sách, pháp luật, pháp lệnh, văn bản pháp quy thuộc nhiều lĩnh vực kinh
tế, văn hoá, xã hội...Nhiều kiến nghị, đề xuất đã được Nhà nuớc nghiên cứu,
tiếp thu và đưa vào chủ trương, chính sách.
23


Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước đã được ghi
trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là quan hệ phối hợp để thực hiện
nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.Uỷ ban Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam và hầu hết uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
tỉnh, cấp huyện, đã xây dựng được quy chế phối hợp công tác giữa Mặt trận
và Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Qua một số hoạt động trên, mối quan
hệ giữa Mặt trận và chính quyền được tăng cường và dần dần đi vào nếp. Ở
nhiều nơi, chính quyền đã quan tâm phối hợp, tạo điều kiện để Mặt trận hoạt
động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, quy chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Và
chính quyền các cấp, đặt biệt ở cơ sở còn nhiều bất cập, hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc chưa mang tính độc lập.
Nhà nước dựa vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể để phát
huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân, tôn trọng và tạo
điều kiện để nhân dân trực tiếp hoặc thông qua đoàn thể của mình, để xây
dựng, quản lý, bảo vệ Nhà nước, hướng dẫn và tạo điều kiện cho các tầng lớp
nhân dân ở cơ sở tham gia rộng rãi và thường xuyên vào việc quản lý kinh tế
và đời sống xã hội. Đó cũng là sức mạnh của bản thân Nhà nước.
2.2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân của quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội
2.2.1. Những mặt hạn chế
Một là, sự lãnh đạo của Đảng chưa đàp ứng được yêu cầu của quá trình
đổi mới tổ chức, hoạt động của nhà nước. Tình trạng bao biện lam thay chính
quyền vẫn còn diên ra ở nhiều cấp, nhiều nơi, tình trạng chồng chéo trong
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể đã làm hạn chế vai trò của các
tổ chức của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể; phương thức lãnh đạo vẫn còn
vướng mắc, bất cập, có tình trạng các cơ quan chính quyền và đoàn thể còn
thụ động, chưa phát huy tốt vai trò của mình.
Hai là, chưa phân rõ, lẫn lộn chức năng, quyền hạn giữa Đảng lãnh đạo
với Nhà nước quản lý, bộ máy Đảng bị “nhà nước hoá”, cồng kềnh, không rõ
chức năng lãnh đạo, cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp và mệnh lệnh vẫn còn in
24



dấu khá sâu sắc trong các quan hệ trong hệ thống chính trị. Thủ tục giấy tờ nhiều
phiền hà còn nặng và thiếu nhất quán của hệ thống, nhiều khi mâu thuẫn đối lập
nhau.
Ba là, cơ chế Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – nhân dân làm chủ
đã được xác định từ lâu, nhưng chưa được nghiên cứu cụ thể hoá. Đảng vừa
giữa vai trò lãnh đạo vừ là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, chưa được hiểu
đúng và chưa có cơ chế cụ thể, hữu hiệu để thực hiện quan điểm đó. Còn có
tình trạng coi Đảng đứng trên, đứng ngoài Mặt trận. Nhiều nơi coi Đảng đứng
trên Mặt trận, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên can thiệp quá sâu, không đúng
chức năng nhiệm vụ của Đảng đối với công việc của các tổ chức. Nhiều chế
độ, chính sách của Đảng đối với Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội
khác ở nước ta hiện nay vẫn chưa có sự đổi mới về thực chất và căn bản thậm
chí không còn phù hợp không theo kịp với tình hình. Đảng chỉ đạo quá trình
đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội nói chung chưa
theo kịp sự đổi mới về kinh tế - xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước, thể chế hoá
các chủ trương của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội nói chung còn
chậm, thiếu dồng bộ và chưa kiểm tra và đôn đốc chặt chẽ để việc thực hiện
được nhgiêm túc. Vai trò của một số Đảng đoàn chưa thật rõ nét không có
quy định về Đảng đoàn cấp trên và Đảng đoàn cấp dưới, nên khi Đảng đoàn
cấp trên phát hiện thiếu sót của các tổ chức cấp dưới thì rất khó trong chỉ đạo
giải quyết.
Bốn là, Bộ máy hành chính còn nhiều tầng, nhiều nấc làm cho vịêc
quản lý các quá trình kinh tế, xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả. Bộ
máy nhà nước ta chưa thật trong sạch vững mạnh, tình trạng tham nhũng lãng
phí, quan liêu còn nghiêm trọng chưa được ngăn chặn; hiệu kực quản lý điều
hành chưa nghiêm; kỷ cương xã hội bị buông lỏng, làm giảm sút niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; tình trạng Nhà nước xa dân, dân thiếu
gắn bó với Nhà nước đang là một thực tế không thể xem nhẹ.
Năm là, phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận và

các đoàn thể vẫn còn tình trạng xơ cứng, chậm đổi mới, một số cán bộ đoàn
thể bị viên chức hoá, chưa thật gắn bó với quần chúng. Nạn tham nhũng trong
25


×