Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Những đặc điểm kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (933.92 KB, 130 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN VĂN HÀ

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KẾT CẤU TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT “NỖI BUỒN CHIẾN TRANH”
CỦA BẢO NINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ:
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI – 2013


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ở Việt Nam tiểu thuyết xuất hiện khá muộn và phải đến những năm 30
của thế kỷ XX văn học Việt Nam mới xuất hiện tiểu thuyết với đầy đủ đặc
trưng của thể loại hiện đại. Sau 1975, nền tiểu thuyết Việt Nam sang trang
mới với những sáng tác của Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Dương Hướng và Bảo
Ninh có nội dung sâu sắc hơn về thân phận con người và hình thức có dấu
hiệu manh nha hệ hình văn chương hậu hiện đại. Một trong những tác phẩm
có thể coi là sự tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết đương đại Việt Nam mà
người viết lựa chọn để khảo sát là “Nỗi buồn chến tranh” của Bảo Ninh.
1.1. “Nỗi buồn chiến tranh” ra đời vào khoảng những năm dầu thời kì
Đổi mới và là một trong ba tác phẩm tiểu thuyết (cùng với “Mãnh đất lắm


người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Bến không chồng” của Dương
Hướng) được giải thưởng văn học năm 1991. Ba tác phẩm đều lấy bối cảnh
Việt Nam sau chiến tranh nhưng “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh là một
tác phẩm mới. Từ đề tài, những hình mẫu nhân vật, các thủ pháp nghệ thuật
cho đến điểm nhìn, góc nhìn về cuộc chiến… Tất cả đều thấm nhuần những
giá trị tư tưởng và nghệ thuật theo đúng cái nghĩa đích thực của văn học. Đây
là tác phẩm mà khi nó ra đời khiến người ta phải nhìn lại thứ văn chương
minh hoạ, thích tô hồng cái man rợ của chiến tranh để ca ngợi lịch sử và làm
cho văn chương đậm chất chính trị. Điều đáng nói hơn là những sự đổi mới
trong cách nhà văn miêu tả một đề tài không mới - đề tài chiến tranh trong
văn học, nhưng Bảo Ninh đã vượt qua lối viết truyền thống, để tạo ra những
hình thức thể hiện mới, mang đặc trưng tiểu thuyết hậu hiện đại, như nhà văn
Nguyên Ngọc ca ngợi: "Về mặt nghệ thuật, đó là thành tựu cao nhất của văn
học đổi mới".


3

1.2. Năm 1991, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được
tặng Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam và đã được đón chào nồng nhiệt.
Khác với những tác phẩm trước đó mang tính sử thi, miêu tả chiến tranh từ
góc độ cộng đồng, hùng tâm tráng chí của người lính chiến đấu vì vận mệnh
đất nước, Bảo Ninh đã miêu tả chiến tranh từ một góc độ khác, góc độ cá
nhân, thân phận con người, đi sâu vào những ẩn ức của người lính sau chiến
tranh. Như nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu khẳng định thì đây là “Cuốn tiểu
thuyết tình yêu thương xót nhất”.
1.3. Nỗi buồn chiến tranh là một cuốn tiểu thuyết có lịch sử tiếp nhận
rất đặc biệt đối với cả độc giả trong nước và bạn đọc nước ngoài. Ở trong
nước, sau khi xuất bản lần đầu tiên thì trong hơn 10 năm sau đó, tác phẩm đã
bị cấm, không được in lại, với làn sóng đổi mới ở Việt Nam, cuốn sách vẫn

rất được ưa chuộng. Cuốn tiểu thuyết này đã được dịch, giới thiệu tại Nhật
Bản liên tiếp trong hai năm 1997, 1999 và được Nhật Bản coi là một trong
những tác phẩm kinh điển của văn học thế giới về chiến tranh. Sau đó nhanh
chóng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, được đón đọc và đánh giá
cao ở nhiều nước phương Tây, đặc biệt ở Mỹ, phía bên kia cuộc chiến.
Năm 2005, tác phẩm này được tái bản với nhan đề ban đầu là Thân
phận của tình yêu; năm 2006 tái bản với nhan đề đã trở thành nổi tiếng: Nỗi
buồn chiến tranh.
1.4. Nhìn nhận về sự nghiệp sáng tác của Nhà văn, chúng ta nhận thấy
Bảo Ninh là người sáng tác thành công ở cả thể loại truyện ngắn và tiểu
thuyết. Tác phẩm ra đời trong thời kì Đổi mới, gây được sự quan tâm của giới
nghiên cứu, phê bình và bạn đọc yêu thích văn học là Nỗi buồn chiến tranh.
Từ khi được xuất bản lần đầu tiên với cái tên là Thân phận tình yêu đến nay,
nó trở thành một hiện tượng văn học nổi bật trong văn đàn Việt Nam. Đã có


4

nhiều công trình, luận án, luận văn, tiểu luận, các bài phát biểu trong hội thảo,
trên các tạp chí và các chuyên đề về cuốn tiểu thuyết này.
Trên báo Thể thao-Văn hóa, số ra ngày 26 tháng 10 năm 2006, tác giả
Nguyễn Quang Thiều có nhận xét: Nỗi buồn chiến tranh đã chạm vào mẫu số
chung của nhân loại, đó là câu chuyện của thân phận, của mất mát, của tình
yêu và của chiến tranh.
Trong Thi pháp học hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội-2000, ở phần
III - Phê bình truyện, tác giả Đỗ Đức Hiểu có bài viết riêng về Nỗi buồn chiến
tranh. Trong bài viết này, tác giả đã tiến hành đối chiếu mô hình tiểu thuyết
của Bảo Ninh với một số tiểu thuyết Châu Âu thế kỉ XX như “Đi tìm thời
gian đã mất” của Marcel Prourt.
Trong Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Đại học sư

phạm, 2003 do GS-TS Trần Đình Sử chủ biên, có đăng bài viết với nhan đề :
“Kĩ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh” của PGS - TS
Nguyễn Đăng Điệp. Bài viết khám phá kĩ thuật dòng ý thức qua việc nghiên
cứu những giấc mơ đứt gãy, trạng thái ngủ “mở mắt” của nhân vật Kiên. Từ
đó, tác giả rút ra kết luận về sức hấp dẫn của thiên tiểu thuyết: Văn Bảo Ninh
hấp dẫn người đọc ở chính khoảng lặng của ngôn từ, ở màu sắc các biểu
tượng được dệt lên từ những giấc mơ, những đối thoại của con người về mình
và về chính cõi người…
Trong công trình nghiên cứu “Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại”,
NXB GD, 2007 của tác giả Đào Duy Hiệp đã nghiên cứu thời gian trong tiểu
thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Một trong những kết luận quan trọng mà nhà
nghiên cứu này đưa ra để khẳng định sự thành công của tác phẩm là: Chính
những thủ pháp “sai trật, ngoái lại, đón trước” ở đây đã dệt nên trong tác
phẩm của Bảo Ninh một mạng lưới tâm lí truyện kể được “xem như một ý


5

thức về thời gian hoàn toàn rõ rệt và những mối liên hệ không mập mờ giữa
quá khứ, hiện tại và tương lai”.
Trong cuốn “Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và
giảng dạy”, tác giả Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (chủ biên), NXB GD,
2005 có đăng hai bài viết về nhân vật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh.
Thạc sĩ Phạm Xuân Thạch với “Nỗi buồn chiến tranh, viết về thời kì
hậu chiến - từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp” đã có sự
tìm hiểu, nghiên cứu khá kĩ lưỡng về hệ thống nhân vật trong tác phẩm.
Trong bài viết: “Hình tượng con người - nạn nhân chiến tranh trong
hai tiểu thuyết “Một nỗi đau riêng” và “Nỗi buồn chiến tranh”, thạc sĩ
Nguyễn Thị Mai Liên đã tiến hành khảo sát và đưa ra những sự so sánh hai
tác phẩm này trên ba phương diện: Con người dị dạng nhân hình; con người

tha hóa về nhân cách; con người khắc khoải về một xứ sở bình yên nhưng
không trốn chạy thực tại.
Trên tạp chí Văn học số tháng 10. 2006, tác giả Đinh Thị Huyền đưa ra
một số đặc điểm của nhân vật tiểu thuyết hậu chiến nói chung: nhân vật tha
hóa về nhân tính; nhân vật suy tư chiêm nghiệm “sống với thời gian hai
chiều” và nhân vật tự nhận thức…
Như vậy chúng ta thấy, mặc dù đây là tác phẩm đã được khá nhiều nhà
nghiên cứu, học giả tìm hiểu, đánh giá trên nhiều bình diện cả nội dung lẫn
nghệ thuật, nhưng những công trình, bài viết mới chỉ dừng lại ở việc điểm
xuyết một vài biểu hiện của hình thức nghệ thuật hoặc một vài khía cạnh nhỏ
thuộc nội dung tư tưởng, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, sâu sắc về nét đặc sắc trong nghệ thuật nói chung và nghệ thuật kết cấu
trần thuật nói riêng của cuốn tiểu thuyết này. Tác giả luận văn lựa chọn và
tiến hành khảo sát “Những đặc điểm kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh”, nhằm góp thêm một tiếng nói khẳng định sự


6

thành công của nhà văn Bảo Ninh trong nhiều sáng tác, nhất là thể loại tiểu
thuyết biểu hiện qua tác phẩm cụ thể này.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đi vào khảo sát, tìm hiểu những đặc điểm kết cấu trần thuật
trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, qua đó hiểu sâu sắc thêm một
phương diện quan trọng của sự đổi mới tư duy tiểu thuyết về đề tài chiến
tranh, hậu chiến tranh trong văn học Việt Nam nói chung. Bảo Ninh đã làm
mới một đề tài không mới - đề tài chiến tranh, với việc nhìn nhận vấn đề một
cách mới mẻ. Với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã đổi mới tư duy nghệ
thuật thể hiện, kế thừa thỏa đáng những đặc điểm của lối tư duy hậu hiện đại.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện việc khảo sát cũng như đi sâu vào vấn đề trọng tâm
nghiên cứu, tác giả luận văn đặt ra một số nhiệm vụ cụ thể sau.
Thứ nhất, khái quát được diện mạo chung của xã hội Việt Nam, tình
hình sáng tác văn chương những năm sau đổi mới, là cơ sở để Bảo Ninh sáng
tác Nỗi buồn chiến tranh.
Thứ hai, làm rõ những đặc điểm quan trọng của kết cấu trần thuật trong
tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh, (có sự so sánh, đối chiếu với một số sáng tác
khác của nhà văn khác).
Thứ ba, xác định và khẳng định thêm về vị trí của Bảo Ninh trong nền
văn học dân tộc thời kì đổi mới và trong tiến trình phát triển của Văn học Việt
Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tác giả luận văn xác định đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là
tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, tìm hiểu những đặc điểm kết
cấu trần thuật trong tiểu thuyết này.


7

Phạm vi tư liệu: chúng tôi chủ yếu dựa vào văn bản tác phẩm “Nỗi
buồn chiến tranh” của Bảo Ninh

- NXB Phụ nữ, năm 2005; những quan

điểm lí thuyết về tiểu thuyết hiện đại, hậu hiện đại, những công trình nghiên
cứu, khóa luận, luận văn trên tạp chí, sách, báo…..
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong qua trình thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp so sánh, đối chiếu

- Phương pháp phân tích-hệ thống-cấu trúc
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp lịch sử-xã hội
Ngoài ra tác giả luận văn còn sử dụng kết hợp một số phương pháp thi
pháp học, lịch sử văn học, tự sự học…. để tiến hành khảo sát, làm căn cứ cho
những kết luận.
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn, cũng như kế thừa thỏa đáng những ý
kiến, quan điểm nhìn nhận, đánh giá trước đây về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh, luận văn sẽ cố gắng hệ thống hóa, phân tích, chỉ ra
những biểu hiện đổi mới lối viết, cách cảm nhận đời sống của nhà văn trong
nghệ thuật kết cấu trần thuật thể hiện trong tác phẩm này.


8

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG CHUYỂN BIẾN VỀ TƯ DUY TIỂU THUYẾT
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1986
1.1.

Tiền đề lịch sử-xã hội và những đổi mới của văn xuôi từ sau
1986.

1.1.1. Tiền đề lịch sử-xã hội
Từ sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đến những
năm trước Đổi mới 1986, đất nước, con người Việt Nam trải qua bao thăng
trầm lịch sử. Biết bao xương máu đã đổ xuống, biết bao trí tuệ, sức người, sức
của đã hóa thân cho một dải non sông hòa bình thống nhất. Số phận nghiệt
ngã đã biến mảnh đất Việt Nam thành “Bãi chiến trường bốn nghìn năm

gươm khua, ngựa hí quân reo ” (Theo Nguyễn Thanh Sơn: Nỗi buồn chiến
tranh đến từ đâu ). Người Việt Nam phải hi sinh hạnh phúc cá nhân vì lợi ích
của giai cấp và dân tộc. Trong hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, con người buộc
phải thích nghi với cuộc sống bất thường. Văn hóa thời chiến hình thành.
Nhãn quan giai cấp, dân tộc, lợi ích của chiến đấu trở thành chuẩn mực đo
đếm các giá trị.
Sau 1975, dân chủ hóa là xu thế lớn của xã hội, trở thành xu hướng vận
động bao trùm của nền văn học dân tộc. Nhu cầu đổi mới tư duy, nhìn thẳng
vào sự thật, nói và làm theo đúng với tự nhiên đã tạo cơ sở cho xu hướng dân
chủ hóa trong văn học được khơi dòng và phát triển mạnh mẽ. Dân chủ hóa
đã thấm sâu và được thể hiện ở nhiều cấp độ và nhiều bình diện của đời sống
văn học, nhưng bao quát ta vẫn có thể nhận thấy một khuynh hướng vận động
bao trùm chi phối một cách sâu sắc mọi mặt của nền văn học từ tư tưởng, cảm
hứng chủ đạo đến các phương thức nghệ thuật.
Sự vận động của lịch sử-xã hội cùng với những nhu cầu văn hóa thẩm
mĩ mới của con người nói chung đã làm hình thành một thời kì mới ở Phương


9

Tây. Chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện. Đây là một thuật ngữ phức tạp nổi lên
từ giữa thập niên 1980 ở Phương Tây thời hậu công nghiệp. Thật khó định
nghĩa chủ nghĩa hậu hiện đại vì nó là một khái niệm xuất hiện trong nhiều lĩnh
vực khác nhau. Cũng khó xác định thời điểm và dấu mốc lịch sử của nó vì
không thể nói chính xác và minh bạch lúc nào thì khởi sự có chủ nghĩa hậu
hiện đại. Ta chỉ có thể hiểu về chủ nghĩa hậu hiện đại thông qua những sự đối
chiếu, so sánh với chủ nghĩa hiện đại thông qua một số dấu hiệu sau.
Trước tiên, chủ nghĩ hiện đại và hậu hiện đại có sự kế thừa chọn lọc ở
chỗ, khước từ sự phân biệt giữa “cao” với “thấp” hoặc văn hóa bác học với
văn hóa bình dân; cả trong việc chọn lựa các chất liệu dùng để sáng tạo nghệ

thuật lẫn trong các phương pháp trình bày, phân phối và tiêu thụ nghệ thuật.
Nghệ thuật hậu hiện đại thiên về sự tự phản tỉnh và sự tự thức tỉnh, từng mảnh
và không liền mạch (đặc biệt là trong bố cục tường thuật), lấp lửng nước đôi,
xảy ra trong cùng một lúc và nhấn mạnh trên đối tượng được giải cơ cấu, giải
tập trung và giải nhân hóa. Nhưng khi chủ nghĩa hậu hiện đại có vẻ rất giống
với chủ nghĩa hiện đại ở những cách thức đó thì nó lại khác với chủ nghĩa
hiện đại trong nhiều thái độ đối với những khuynh hướng vừa nêu. Chẳng
hạn, chủ nghĩa hiện đại có khuynh hướng thể hiện cái nhìn phần mảnh về tính
chủ quan của con người và lịch sử, nhưng nó trình bày sự vỡ thành từng mảnh
đó như một cái gì bi thảm, một cái gì xót xa hoặc thương tiếc như một mất
mát. Nhiều tác phẩm hiện đại cố bảo lưu ý tưởng rằng tác phẩm nghệ thuật có
thể cung ứng sự đồng nhất, sự mạch lạc và ý nghĩa mà đã và đang bị mất hầu
hết trong cuộc sống hiện đại và rằng nghệ thuật sẽ làm cái mà các định chế
khác của con người không làm được. Ngược lại, chủ nghĩa hậu hiện đại chẳng
những không có ý tưởng xót xa về sự tản mác, tạm bợ hoặc không mạch lạc
đó mà còn hoan nghênh nữa.


10

Tiếp đến, ta nói đến tính trật tự và vô trật tự của chủ nghĩa hiện đại và
chủ nghĩa hậu hiện đại. Một cách căn bản, hiện đại là ở trật tự - sự hợp lí và
sự hợp lí hóa - nhằm tạo ra trật tự từ sự hỗn độn. Ta giả sử rằng càng tạo sự
hợp lí càng khiến cho việc tạo trật tự được dễ dàng, và rằng xã hội càng trật tự
thì càng hoạt động tốt hơn, tức là hoạt động hữu lí hơn. Vì hiện đại là ở chỗ
theo đuổi sự tăng tiến không ngừng các cấp độ trật tự nên xã hội hiện đại liên
tục cảnh giác và phòng chống bất cứ cái gì bị gán cho nhãn hiệu “vô trật tự”,
nghĩa là cái có thể gây rối loạn “trật tự”. Như thế, xã hội hiện đại dựa trên
hành động liên tục thiết lập những cặp đối xứng giữa “trật tự” và “vô trật tự”
để nó có thể khẳng định ưu thế của trật tự. Nhưng để làm được điều đó, người

ta buộc phải có những cái tiêu biểu cho “vô trật tự”. Trong văn hóa phương
Tây, cái “vô trật tự” ấy trở thành “một cái gì khác”- được xác định liên quan
đến những cặp đối xứng khác. Do đó, bất cứ cái gì phi - trắng, phi - dị tính
luyến ái, không - vệ sinh, không - hợp lí,v.v. đều là thành phần của “vô trật
tự”, và phải được loại bỏ khỏi một xã hội hiện đại trật tự và hợp lí.
Chủ nghĩa hậu hiện đại phê phán các hình thức đại tự sự của chủ nghĩa
hiện đại bằng cách cảnh báo rằng, những đại tự sự đó được lạm dụng để che
đậy những mặt đối lập và bất định gắn liền với mọi tổ chức xã hội cũng như
mọi thực tiễn hành động. Nói cách khác, mọi nỗ lực kiến tạo trật tự và ổn định
luôn luôn sản sinh ra một đối tượng lực tương ứng của hỗn loạn và bất ổn,
như hai quá trình song hành trong một thể thống nhất của hiện thực xã hội.
Nhưng, thay vì nhìn những yếu tố “hỗn loạn” và “bất ổn” đó như một đối
tượng có tính cách cân bằng trong nghĩa xây dựng, đại tự sự của chủ nghĩa
hiện đại đã tìm mọi cách đè bẹp với lí lẽ cho rằng sự hỗn loạn và bất ổn là
xấu, là phá hoại, là phản động, cần phải tận diệt, trong khi đó trật tự và ổn
định là luôn luôn tốt, luôn luôn đúng, phù hợp với cách mạng, hợp lí với khoa
học. Chủ nghĩa hậu hiện đại phủ nhận tính chất đô hộ và áp đặt của đại tự sự,


11

cổ xúy những tiểu tự sự, những lí lẽ giải thích cho những hành động nhỏ bé,
những biến cố có tính chất địa phương thay vì những khái niệm có tính cách
bao quát và toàn cầu. Những tiểu tự sự của chủ nghĩa hậu hiện đại thường
được nhìn dưới góc độ hoàn cảnh tạm thời, ngẫu nhiên, không tuyên xưng
tính thống nhất toàn thể, tính ổn định, tính hợp lí, hay sự thật khách quan. Đối
với chủ nghĩa hậu hiện đại, mọi sự thật vĩnh hằng và trường cửu đều biến mất,
mang theo nó những quy định về ngôn ngữ của cái biểu đạt và cái được biểu
đạt, thay vào đó là những biểu hiện bề ngoài không cần có bản chất.
Như vậy, những đặc điểm lịch sử - xã hội ở Việt Nam thời hậu chiến đã

trở thành những tiền đề cho sự phát triển văn hóa, văn học những thập niên
cuối thế kỉ XX, với những đặc điểm mang dấu ấn văn học hậu hiện đại.
1.1.2. Những đổi mới của văn xuôi Việt Nam từ sau 1986
Đi sâu tìm hiểu sự vận động của văn học Việt Nam từ sau 1986, chúng
ta dễ dàng nhận thấy lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật có sự biển đổi thật sự mạnh
mẽ và sâu sắc. Nhìn trên những nét lớn có thể thấy tập trung ở những phương
diện sau: mở rộng quan niệm về hiện thực đi liền với đổi mới quan niệm nghệ
thuật về con người, đổi mới nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu…. Sự
biến đổi này xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan, từ hiện
thực đời sống và chức năng nghệ thuật của văn chương.
Giai đoạn 1945 – 1975 với nguyên lý “ văn học phản ánh hiện thực ” và
yêu cầu quán triệt lí luận về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, văn học trở
nên gắn bó với đời sống xã hội hơn, theo sát từng biến cố lịch sử, từng bước
phát triển của phong trào cách mạng. Tính hiện thực được đồng nhất với quan
niệm lí tưởng về hiện thực. Hiện thực được lựa chọn là hiện thực chính trị
rộng lớn, là những đề tài lớn như công – nông – binh, là đời sống cách mạng
ở những nơi mũi nhọn, là cuộc sống mới và con người mới. Hay nói cách


12

khác đó là nền văn học mang tính sử thi, tư duy tiểu thuyết lúc này là tư duy
sử thi.
Từ khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ XX cuộc sống thời bình đã thực
sự trở lại, con người hàng ngày phải đối diện với bao nhiêu vấn đề của thực
tiễn đời thường, quan hệ thế sự, đời sống riêng tư. Các nhà văn có sự mẫn
cảm với cuộc sống đã không thể bỏ qua cái hiện thực đời thường đó và họ
nhìn ra nhiều vấn đề có ý nghĩa, đáng được quan tâm trong đó. Từ đề tài lịch
sử dân tộc vốn là đề tài chủ đạo và chi phối bình diện của hiện thực, văn học
đã chuyển sự quan tâm chủ yếu sang thể tài thế sự và đời tư. Với sự thay đổi

trong quan niệm về hiện thực như thế, văn xuôi đã vượt qua tình trạng lệ
thuộc vào đề tài, lệ thuộc vào một cách nhìn đã được định trước, mở ra khả
năng phong phú, vô tận trong sự khám phá và thể hiện tính muôn mặt, muôn
vẻ của hiện thực đời sống. Khi văn chương được giải phóng khỏi chủ nghĩa
đề tài thì điều đó vừa là một thuận lợi, vừa là một thách thức với nhà văn. Họ
có thể viết về mọi điều, kể cả những điều trước kia cần phải kiêng kị, nhưng
cái quan trọng lại ở chỗ nhà văn có phát hiện được cái gì mới, muốn biểu đạt
cái gì của riêng mình trong những cái quen thuộc hay xa lạ với người đọc. Bài
tiểu luận Viết về chiến tranh của Nguyễn Minh Châu ( năm 1978), bản “Đề
dẫn” của Nguyên Ngọc và bài “Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật Việt
Nam giai đoạn vừa qua” của Hoàng Ngọc Hiến (năm 1979) thực chất là sự dự
báo những thay đổi trong quan niệm văn chương, trong đó có vấn đề quan
niệm về hiện thực. Từ những truyện ngắn mang tính thể nghiệm của Nguyễn
Minh Châu, như Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc
thuyền ngoài xa, Một lần đối chứng, v.v…, đến các tiểu thuyết Mùa lá rụng
trong vườn của Ma Văn Kháng, Thời xa vắng của Lê Lựu, Gặp gỡ cuối năm,
Thời gian của người của Nguyễn Khải, v.v… và hàng loạt tác phẩm ra đời từ
sau năm 1986, xuất hiện một cách nhìn hiện thực đa dạng, nhiều chiều, thể


13

hiện mối quan hệ tự do của nhà văn đối với hiện thực. Không phải ngẫu
nhiên, người ta nói nhiều đến khái niệm “suy ngẫm”, “nghiền ngẫm” về hiện
thực. Hiện thực là cái chưa biết, không thể biết hết, hiện thực phức tạp, cần
khám phá, tìm tòi. Nhà văn lựa chọn hiện thực nào không quan trọng bằng
cách ông ta đánh giá như thế nào về hiện thực ấy.
Trong thời kì chiến tranh và cách mạng, văn học nhìn con người chủ
yếu ở tư cách con người công dân, con người dân tộc, giai cấp. Điều đó là phù
hợp và cần thiết. Nhưng cũng vì thế mà các bình diện khác, những tư cách

khác của con người thường bị văn học bỏ qua, hoặc nếu có quan tâm đến thì
cũng phải nhìn nhận theo hệ quy chiếu của các giá trị cộng đồng, thống nhất
với phần căn bản (con người dân tộc, con người giai cấp). Văn xuôi hôm nay
đã tiếp cận con người ở nhiều tư cách, vị thế được thể hiện trên nhiều bình
diện. Nó đặc biệt quan tâm đến con người như một cá thể, một thực thể sống,
trong đó chứa đựng cả phần nhân loại phổ quát. Từ nhận thức và quan niệm
mới của nhà văn về con người, tất sẽ dẫn tới những đổi thay trong thế giới
nhân vật của văn xuôi.
Trong văn xuôi trước 1975, các nhân vật được nhận diện trước hết theo
lập trường chính trị, bởi thế dễ dàng xếp họ vào loại chính diện hay phản
diện; tích cực hay tiêu cực. Các nhân vật lại được khuôn vào trong những
khung hình của tầng lớp xã hội, giai cấp. Hệ thống nhân vật, vì thế thường
được phân chia theo từng tầng lớp, nghề nghiệp, vị thế xã hội hoặc lứa tuổi,
chẳng hạn như nông dân, công nhân, trí thức, người lính, người mẹ, người
phụ nữ v.v. Trong văn xuôi thời kì đổi mới, khi đã vượt qua giới hạn chật hẹp
và cứng nhắc của cái nhìn con người và thể hiện nhân vật như trên, người cầm
bút đã mở ra sự phong phú, đa dạng giường như vô tận cho thế giới nhân vật
trong tác phẩm của mình. Rất khó có thể đưa ra một bảng phân loại hay liệt kê
nào có khả năng bao quát được thế giới nhân vật của văn xuôi hiện nay.


14

Nhưng cũng có thể dễ dàng nhận ra khá nhiều kiểu loại nhân vật mới, vốn
chưa có hoặc rất ít trong văn xuôi trước năm 1975. Chẳng hạn, nhân vật cô
đơn, con người bi kịch, con người lạc thời, nhân vật tư tưởng, nhân vật kì ảo,
v.v. Sự phong phú của các cá nhân, như xưa nay vốn vậy, đòi hỏi phải xem
xét từ nhiều phía, nhiều “tọa độ”. Xuất hiện con người “không trùng khít với
chính mình”, con người phức tạp, nhiều chiều. Lời nguyên thuở ấy của Trần
Tài dõi theo diễn biến cuộc trả thù kiểu giang hồ của những tay “anh chị” đã

đi đến kết luận: “Con người phức tạp thật, nhiều khi mình cũng không hiểu
hết mình”. Nguyễn Khải triết lí: “Cái thế giới tinh thần của con người là vô
cùng phức tạp vì sự vận động của nó luôn luôn nhắm tới cái thật cao và xa”.
Theo đuổi những con người “có số phận không bình thường”, Nguyễn Khải đi
đến triết lí: “Vẫn là con người Việt Nam mình mà gặp thêm một người lại
tuồng như buộc mình phải hiểu lại chút ít về con người ” (Hai ông già ở Đồng
Tháp Mười). Còn Nguyễn Minh Châu từ tập truyện ngắn Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành trở đi dường như liên tục làm những thử nghiệm, “đối
chứng” về “tính chất kì lạ của con người”. Hạnh, Cơn giông, Sắm vai, Chiếc
thuyền ngoài xa, Dấu vết nghề nghiệp, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam, v.v,
đều ít nhiều diễn tả cái phức tạp của đời sống, những giằng xé nội tâm khiến
con người nhiều lúc bị phân thân, biến dạng.
Tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975 có nhiều kiểu kết cấu đa dạng, nhiều
tầng lớp, đan cài giữa quá khứ và hiện tại. Kết cấu phân mảnh, lắp ghép, kết
cấu mở…..cho phép nhà văn mở rộng dung lượng và phạm vi phản ánh hiện
thực. Bên cạnh những cốt truyện giàu kịch tính là những cốt truyện giàu tâm
trạng. Có những kết cấu truyện rõ ràng, mạch lạc, có mở đầu, có kết thúc;
cũng có những tiểu thuyết cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép, kết thúc mở. Song
những tiểu thuyết tuân thủ cấu trúc truyền thống là những cốt truyện dựa trên
thi pháp hiện đại. Cốt truyện đã vận động thay đổi trong sự phát triển của thể


15

loại. Về đoạn kết của tiểu thuyết, có mô hình kết thúc có hậu, các vấn đề được
giải quyết một cách hoàn tất, trọn vẹn. Có đoạn kết với kiểu kết thúc bỏ ngỏ,
không hoàn kết. Tất cả các dạng thức trên đều nhằm phân tích, lí giải những
vấn dề phức tạp và bí ẩn của con người, của cuộc sống đương đại. Cốt truyện
tiểu thuyết từ những năm đổi mới đến nay, một mặt vẫn kế thừa và phát triển
những đặc trưng của cốt truyện truyền thống, mặt khác đã tiếp cận với tiểu

thuyết hiện đại thế giới ở những nét tinh túy. Nghệ thuật đồng hiện, kĩ thuật
độc thoại nội tâm, dòng ý thức, lắp ghép, sử dụng huyền thoại, nghệ thuật
gián cách, đa giọng điệu là những vấn đề còn mới mẻ trong văn xuôi Việt
Nam đã được tiểu thuyết hậu hiện đại vận dụng, biến hóa một cách linh hoạt
và uyển chuyển trên tinh thần dân tộc hiện đại.
Trong đội ngũ những người viết tiểu thuyết có không ít tác giả đã cố
gắng đổi mới tư duy tiểu thuyết, tìm một hướng đi mới trong sáng tạo thể loại:
Ma Văn Kháng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Xuân Khánh, Tạ
Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Võ Thị Hảo,
Bảo Ninh, …. Những cây bút kể trên đã cố gắng cách tân trong sáng tạo với
những tiểu thuyết có cốt truyện lỏng lẻo, mơ hồ, co giãn, khó tóm tắt, khó kể
lại.. Cấu trúc tác phẩm được lắp ghép, chắp nối từ những mảnh vụn của hiện
tại. Tiểu thuyết ít tạo ra những tình huống kịch, hoặc lối kể chuyện có trước,
có sau mà các yếu tố sự kiện, tình tiết, nhân vật được triển khai theo mạch vận
động của cảm xúc, suy nghĩ. Tiểu thuyết vừa là tiếng nói của ý thức, vừa là
tiếng nói của tiềm thức, của giấc mơ, thể hiện cái hiện tại đang vận động,
chuyển biến, không khép kín
Xu hướng lắp ghép liên văn bản là một trong những yếu tố không thể
không kể đến của thi pháp tiểu thuyết hiện đại. Tiểu thuyết được viết một
cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi thi pháp truyền thống. Tiểu thuyết hình
thành bằng cách lắp ghép, tạo dựng các mảnh cốt truyện, các mảnh tâm trạng


16

không theo trật tự thời gian, mà ngổn ngang, đảo ngược theo ý đồ của tác giả,
tạo ra “truyện lồng trong truyện”. Những tình huống, cảnh ngộ, biến cố như
không hề có quan hệ, liên đới được xích lại gần nhau. Cùng với sự lắp ghép
đó là sự di chuyển điểm nhìn, là tư duy nghệ thuật trong sự quy ước vừa chặt
chẽ, vừa co giãn của cấu trúc thể loại. Những tác phẩm tiêu biểu có thể kể

đến: Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái; Đi tìm nhân vật của Tạ
Duy Anh; Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh….
Do sự chi phối của quy luật chiến tranh, đặc điểm thi pháp của văn học
giai đoạn 1945-1975 cũng chi phối cách nhìn về con người giai đoạn này. Con
người trong giai đoạn Cách mạng và kháng chiến là con người sống với cộng
đồng, xả thân vì nghĩa lớn, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời trong sự gắn bó với
cộng đồng. Con người trong tiểu thuyết Việt Nam sau chiến tranh được mô tả
là những biểu tượng đối nghịch mà thống nhất: Thiên thần - Ác quỷ; Rồng
phượng - Rắn rết; Cao quý - Thấp hèn; …. Song, các nhà tiểu thuyết luôn gửi
gắm niềm tin đối với cuộc sống qua những hình tượng nghệ thuật. Con người
luôn vươn lên chiếm lĩnh những giá trị muôn đời của giá trị Chân-Thiện-Mĩ.
Nhà văn không mô tả theo xu hướng lí tưởng hóa như giai đoạn trước mà
khắc họa chân dung con người chân thật và sống động hơn. Nhà văn quan tâm
mô tả nỗi niềm tâm sự, những bất hạnh, bi kịch, những hạnh phúc ngọt ngào
trong cá nhân con người, trong một bối cảnh cụ thể. Chính hiện thực cuộc
sống phong phú, bộn bề, phức tạp đã thực sự trở thành mảnh đất màu mỡ để
tài năng của các nhà văn thỏa sức khai sáng. Tư duy được cởi trói, các nhà
văn được quyền tự do sáng tạo, không chỉ ca ngợi những chiến công chói lọi,
những vòng nguyệt quế lung linh mà còn thể hiện cả mặt trái của tấm huân
chương, góc tối của vinh quang, nỗi đau buồn sau chiến thắng. Những bi kịch
của số phận cá nhân được hiện lên đầy ám ảnh qua những trang văn của Chu
Lai, (Ăn mày dĩ vãng); Lê Lựu (Thời xa vắng); Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến


17

tranh)….Những cảm hứng về con người và thân phận của cá nhân là đầu mối
quan tâm của các nhà tiểu thuyết.
Tóm lại, bức tranh tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới đa diện, đa chiều,
nhiều màu sắc với những cách tân cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ

thuật. Điều này đánh dấu một bước phát triển mới của văn học, tạo nên một
bước đột phá mới trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Từ
khi có bầu không khí đổi mới, ý thức cách tân của nhà văn cũng trở thành phù
hợp với sự phát triển của chính bản thân văn học và phù hợp với nhu cầu đổi
mới, khát vọng dân chủ trong xã hội. Trong hành trình cách tân, đổi mới ấy,
Bảo Ninh là một trong số ít những nhà văn tiên phong và có những đóng góp
quan trọng cho sự phát triển thể loại tiểu thuyết nói riêng và nền văn học Việt
Nam nói chung.
1.2.

Những khuynh hướng mới của tiểu thuyết từ sau đổi mới.

1.2.1. Khuynh hướng tiểu thuyết nhận thức lại lịch sử
Quan sát các sáng tác thuộc khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử kiểu mới
có thể nhận thấy hiện tượng có tính chất phổ quát – đó là quá trình cá nhân
hóa hư cấu. Ở đây, nhà văn không chịu sự chi phối và lệ thuộc từ các quan
niệm của cộng động mà hoàn toàn đưa ý kiến chủ quan của mình vào trung
tâm các sáng tác tự sự. Trên tinh thần của kịch bản Hội thề đoạt giải A trong
Cuộc thi sáng tác kịch bản phim truyện lịch sử Thăng Long, Nguyễn Quang
Thân đã cho thấy một cách nhìn, cách quan niệm lịch sử của nhà văn. Nguyễn
Trãi được nhà văn khắc họa như một điển hình của sỹ phu Bắc Hà, nho nhã
trong từng lời ăn tiếng nói. Trái lại, các tướng lĩnh Lam Sơn, qua sự tái hiện
của nhà văn, là những người mang đậm tính cách võ biền, ít học, thô lỗ. Với
một sáng tác đầu tay, tác giả Kiều Thanh Tùng đã chọn tiểu thuyết lịch sử làm
“mảnh đất” để thể hiện những suy nghĩ riêng của mình trong cách biểu hiện
đề tài. Ở Sắc đẹp khuynh thành, nhà văn chú trọng vào việc miêu tả một loạt


18


các nhân vật lịch sử trong thời điểm chuyển giao giữa hai triều đại Lý – Trần,
đặc biệt là hình ảnh Trần Thị Thu Ngừ (Trần Thị Dung). Nhân vật lịch sử
hiện lên gần gũi với những chi tiết đời thường hàng ngày, có tính đời tư như
việc ăn uống, tắm giặt, v.v, với cách nói năng mang khẩu ngữ dân giã của
người bình thường. Trong xu hướng cách tân, đổi mới lịch sử đương đại, đến
với lịch sử bằng cái nhìn mang nặng dấu ấn của sự hư cấu cá nhân như Sắc
đẹp khuynh thành cũng là một hướng tiếp cận lịch sử hết sức mới mẻ, ít nhiều
tạo nên sự thích thú trong tâm lý tiếp nhận của bạn đọc yêu văn học.
Sự thay đổi trong phương thức tiếp cận đề tài lịch sử của các nhà văn
đương đại đã dẫn tới một loạt những biến đổi trong cấu trúc tiểu thuyết. Ở các
tác phẩm tiểu thuyết lịch sử sáng tác theo khuynh hướng này, cốt truyện tiểu
thuyết truyền thống đã bị phá vỡ bằng các kĩ thuật xáo trộn thời gian tự sự khi
nhà văn phối kết hợp những kĩ thuật này với tuyến nội dung chính trong tác
phẩm. Khai thác đề tài lịch sử nhưng nhà văn không thực hiện thao tác ghi
chép lại lịch sử một cách im lìm bất động. Thông qua sự kiện và nhân vật lịch
sử, nhà văn thiết lập một cái nhìn hoàn toàn mang tính dấu ấn cá nhân về lịch
sử, những bài học lịch sử có liên quan trực tiếp đến đời sống hôm nay. Và như
vậy, lịch sử đã trở thành một phương tiện, một chất liệu để nhà văn thể hiện
những suy tư mang tầm khái quát về cuộc đời và con người. Rất nhiều sáng
tác của những nhà văn như Nguyễn Xuân Khánh với Hồ Quý Ly và Mẫu
Thượng Ngàn, Hoàng Quốc Hải với bộ sách 4 tập mang tên: Bão táp cung
đình, Thăng Long nổi giận, Huyền Trân công chúa, và Vương triều sụp đổ,
Nguyễn Mộng Giác với Sông côn mùa lũ hay Hà Ân với Khúc khải hoàng
dang dở, v.v. là những tác phẩm tiêu biểu nhất sáng tác theo khuynh hướng
tiểu thuyết lịch sử kiểu mới.
1.2.2. Khuynh hướngtiểu thuyết nhận thức lại thực tại


19


Khuynh hướng này phát triển sôi nổi vào những năm đầu của thời kì
Đổi mới. Nó ra đời đáp ứng yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật, lấy quá khứ làm
đối tượng phân tích, không phải toàn bộ quá khứ mà là những phần khuất lấp,
những vấn đề chưa được văn học thời kì trước quan tâm đúng mức. Trong ý
thức về hiện tại, việc rút ra bài học từ quá khứ là hết sức cần thiết. Những sai
lầm ấu trĩ, những định kiến hẹp hòi, căn bệnh chủ quan duy ý chí của một
“Thời xa vắng” gây nên bi kịch cho không ít cá nhân, làm hao mòn nhân tính,
được mổ xe khá thuyết phục ở Thời xa vắng của Lê Lựu; Bến không chồng
của Dương Hướng; Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường;
Chuyện làng ngày ấy; Bước qua lời nguyền; Những thiên đường mù; Bi kịch
nhỏ; Những mảng đời đen trắng; Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu;
Tóc huyền màu bạc trắng; v.v. Các sự kiện lịch sử vẫn làm nền cho câu
chuyện nhưng trung tâm thể hiện của nhà văn là số phận con người.
Trước năm 1985, hoàn cảnh chiến tranh và công cuộc xây dựng Chủ
nghĩa xã hội đã chi phối cách tiếp cận và phản ánh hiện thực trong văn học,
nhà văn chủ yếu viết theo những môtíp quen thuộc. Sự đổi mới, hồi sinh (Mùa
lạc-Nguyễn Khải), tinh thần dũng cảm, kiên cường, sẵn sàng hi sinh cho cách
mạng, cho nhân dân (Người mẹ cầm sung – Nguyễn Thi; Rừng xà nu Nguyễn Trung Thành; Hòn Đất - Anh Đức; v.v.). Văn học đi theo một con
đường quen thuộc: từ nô lệ đến giải phóng, từ bóng tối đến ánh sáng, từ đau
khổ đến hạnh phúc. Sau 1985, văn học không tiếp tục đi trên con đường mòn
đó nữa mà nó được mở thêm rất nhiều lối mới, phạm vi của đối tượng phản
ánh cũng rộng hơn rất nhiều. Tác phẩm sáng tác theo khuynh hướng này đặc
biệt là chú ý đến đề tài nông thôn Việt Nam. Một loạt các tác phẩm đã lấy bối
cảnh nông thôn, như Bến không chồng (Dương Hướng); Thời xa vắng (Lê
Lựu); Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra (Nguyễn Minh Châu); Mảnh đất lắm
người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường); v.v. Nông thôn vốn là một không


20


gian yên bình, là nơi bảo tồn những giá trị truyền thống của dân tộc, là nơi
tình người còn sâu đậm. Tuy nhiên nông thôn cũng là nơi trói buộc con người
trong những tư tưởng lạc hậu, những tập tục cổ hủ, những tập quán trái
ngược. Ta có thể thấy sức mạnh của lời nguyền rất lâu đời của dòng họ
Nguyễn qua biết bao bi kịch của các thế hệ cháu con trong tác phẩm Bến
không chồng của Dương Hướng: “Nước sông đình ngàn năm không cạn/ Cầu
đá bạc vạn kiếp trơ trơ/ Bến tình còn đẹp còn mơ/ Mối thù họ Vũ bao giờ mới
nguôi”. Lời nguyền truyền kiếp đã cản trở tình yêu giữa Vạn và Nhân, đã gây
bao trắc trở, đắng cay, tủi nhục cho Hạnh và Nghĩa. Trong Mảnh đất lắm
người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường cũng đã phơi bày một hiện thực
nông thôn rùng rợn, xung quanh mối xung đột kéo dài, nhiều thế hệ giữa hai
dòng họ Trịnh Bá và Vũ Đình. Tác phẩm phơi bày những mâu thuẫn gay gắt,
với những màn đấu trí, đấu lực hừng hực lòng thù hận, lúc này chẳng còn tình
làng nghĩa xóm, tình đồng bào ruột thịt giữa hai dòng họ. Bao cái dở của dòng
họ gặp cái yếu kém và sự lợi dụng của tổ chức Đảng và Chính quyền địa
phương đã xáo trộn cuộc sống của rất nhiều người, gây ra bi kịch cho những
người lương thiện như bà Son, Đào,v.v. Với cái nhìn chân thực, sắc xảo của
nhà văn các tác phẩm văn học đã gióng lên hồi chuông để mọi người giật
mình nhìn lại những gì đã và đang xảy ra.
Ở những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh, bên cạnh những chiến
công hiển hách, bên cạnh những tượng đài chiến thắng đầy vinh quang là biết
bao những đớn đau, biết bao nước mắt, đắng cay, tủi cực của những con
người trở về từ cuộc chiến và giờ đây bắt đầu lại với cuộc sống đời thường.
Các nhà văn không đi vào miêu tả, tái hiện lại không khí chiến trận đầy mưa
bom bão đạn nữa mà tập trung vào những số phận con người, những bi kịch
của con người trong những mảnh đời riêng đã bị chiến tranh hủy hoại. Nhân
và Nghĩa trong tác phẩm Bến không chồng của Dương Hướng đã bị chiến


21


tranh cướp quyền làm cha để rồi từ đó gia đình tan nát, người vợ anh yêu phải
rời xa anh. Nhân vật Lực trong Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu nói mà như
khứa vào lòng người đọc “chiến tranh, kháng chiến không phải như một số
người khác, đến bây giờ tôi không hề mảy may hối tiếc dốc tất cả tuổi trẻ vào
đấy cống hiến cho nó, nhưng nó như một nhát dao phạt ngang mà hai nửa
cuộc đời tôi bị chặt lìa thật khó gắn liền lại như cũ”. Những vết thương mà
chiến tranh để lại trong lòng những người lính sẽ không thể phai nhòa. Và
cuộc sống xã hội thực tại với đầy mưu mô. Toan tính làm người lính thấy
mình chới với, chơi vơi. Họ đã bị thương về thể xác nhưng họ còn đau đớn
hơn nhiều với những vết thương trong tâm hồn. Những lí tưởng cao đẹp,
những chiến công oanh liệt, những địa vị cao sang cũng không thể bù đắp
những quyền lợi thiêng liêng của mỗi con người. Đó là quyền làm chồng, làm
cha. Đó là quyền làm vợ, làm mẹ. Các nhà văn đã có một sự đồng cảm, thông
cảm và xót thương thật sự với những số phận bất hạnh đó. Chính nhờ những
trang văn đầy tình người như thế mà người đọc thấu hiểu hơn cho những lớp
người trở về từ cuộc chiến và thấy mình cần chia sẻ với họ nhiều hơn
Như vậy, đi theo khuynh hướng nhận thức lại hiện thực, điều chỉnh lại
những chuẩn mực đạo đức, những nguyên tắc sống, những thói quen cũ, v.v.
Văn học từ sau Đổi mới đến nay đã tạo được sự khác biệt so với giai đoạn
trước. Lúc này, văn học không còn tuyệt đối phục vụ cho chính trị nữa mà nó
trở về với con người, với những gì bình dị nhưng cũng không ít vấn đề nảy
sinh trong cuộc sống đời thường.
1.2.3. Khuynh hướng tiểu thuyết triết luận
Cảm hứng triết luận hay triết lý là sự bình luận, lý giải, phân tích về
một vấn đề thông qua hình tượng nghệ thuật với sức mạnh của lí trí tỉnh táo,
gắn liền với việc soi xét đối tượng dưới các góc độ văn hóa, lịch sử và triết
học. Trong Văn học Việt Nam, từ trước Đổi mới, khuynh hướng này đặc biệt



22

trở thành một nét nổi bật trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu với Bức
tranh, Bến quê, Dấu vết nghề nghiệp, Chiếc thuyền ngoài xa, v.v. Và đặc biệt
là nhà văn Nguyễn Khải với một loạt những sáng tác, như Xung đột, Mùa lạc,
Hãy đi xa hơn nữa, Một người Hà Nội, Gặp gỡ cuối năm, Cha và Con và…,
Thời gian của người, v.v. Sự gia tăng yếu tố triết luận trong văn xuôi thời kì
Đổi mới là một đặc điểm quan trọng. Sự phát triển của khuynh hướng tiểu
thuyết giàu tính triết luận là một biểu hiện thể hiện rõ sự trăn trở trong suy tư
của người cầm bút về những vấn đề của con người và đạo đức nhân sinh.
Những tác phẩm viết theo khuynh hướng triết luận ra đời trong thời
gian gần đây phần nào biểu hiện nhu cầu tuyên ngôn về quan niệm sáng tác
của người cầm bút tại thời điểm văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng đặt
ra yêu cầu đổi mới, cách tân thể loại. Không phải ngẫu nhiên mà ở nhiều tác
phẩm tiểu thuyết thời kì này thường xuất hiện hình ảnh nhân vật nhà văn. Với
cuốn tiểu thuyết đầu tay gây nhiều tranh cãi: Cơ hội của Chúa do Nhà xuất
bản Văn học phát hành năm 1999, Nguyễn Việt Hà đã xây dựng một loạt các
nhân vật mà trọng tâm là giới trí thức (đặc biệt là nhân vật nhà văn Hoàng).
Tiểu thuyết Cơ hội của Chúa có sự phong phú của rất nhiều chủ đề, từ tình
yêu, tình bạn, tình anh em đến các lĩnh vực tôn giáo, văn hóa, kinh tế, chính
trị, v.v, và sự đa dạng của một loạt các nhân vật mà trọng tâm là giới trí thức.
Tác phẩm bộn bề những nhân vật, sự kiện đã thể hiện suy ngẫm của nhà văn
về nhiều vấn đề trong thực tiễn xã hội mà trọng tâm là mối quan hệ giữa trí
thức và cuộc đời, về tôn giáo, v.v.
Sau tiểu thuyết Cơ hội của Chúa và thành công của tập truyện ngắn Cứ
rơi (2005), nhà văn Nguyễn Việt Hà tiếp tục cho ra đời tiểu thuyết Khải
huyền muộn. Cũng giống như sáng tác trước đó, Khải huyền muộn là một tiểu
thuyết tương đối khó đọc với độc giả thông thường, nhà văn không đưa ra một
tuyên ngôn đao to búa lớn về Chân-Thiện-Mỹ mà chúng ta thường bắt gặp.



23

Đằng sau những câu chuyện mà dường như không có kết thúc ấy tác giả
muốn nói điều gì? Sống thật khó và công việc viết văn là công việc không dễ
dàng gì nhưng vẫn phải viết, dù biết công việc viết văn ấy ẩn tàng rất nhiều
may rủi nhưng vẫn phải viết vì nó là thiên chức của người cầm bút.
Có thể thấy, từ Cơ hội của Chúa tới Khải huyền muộn, Nguyễn Việt Hà
đã thể hiện suy ngẫm của người trí thức về tình yêu cuộc sống, khát vọng
sống chân chính và đặc biệt là gửi gắm không ít các ý tưởng nhằm nói về
chuyện nghề, về công việc tìm kiếm một lối viết mới. Nguyễn Việt Hà là nhà
văn đương đại tiêu biểu có những đóng góp nghệ thuật tích cực vào công cuộc
cách tân thể loại văn xuôi, tiểu thuyết đang diễn ra sôi nổi hiện nay. Đồng
thời, các tác phẩm thể hiện sự dũng cảm của nhà văn trong việc tạo dựng
phong cách nghệ thuật độc đáo cho riêng mình.
Thuộc các nhà văn đương đại sớm thành danh, Tạ Duy Anh là cây bút
sung sức không chỉ ở lĩnh vực tiểu thuyết mà còn ở rất nhiều truyện ngắn.
Tiểu thuyết Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh ngay sau khi ra mắt lần đầu
tiên đã thu hút sự chú ý mạnh mẽ của độc giả ở nhiều lứa tuổi. Với một cuốn
sách chỉ có độ dày hơn 100 trang nhưng tác phẩm phản ánh được nhiều vấn
đề hiện thực cuộc sống cũng như chuyên trở và truyền tải trọn vẹn thông điệp
của tác giả. Nhân vật chính trong tiểu thuyết là một đứa trẻ hài nhi trong bụng
mẹ. Những câu chuyện được nghe bởi một bào thai, trong một bệnh viện phụ
sản, nơi người mẹ, dù muốn hay không muốn có con, đã cho thấy sự cạn kiệt
về nhân tính ở con người trong một đời sống hiện đại đã trở thành phổ biến.
Bên cạnh hiện thực tàn nhẫn tràn đầy khắp các chi tiết, Thiên thần sám hối là
tiểu thuyết mang tính luận đề rất cao. Tác phẩm là câu hỏi nhức nhối về thân
phận con người, là lời cảnh tỉnh sâu sắc đối với con người về những giá trị
nhân bản trong đời sống. Và qua đó thể hiện cảm nhận bi đát về cuộc đời, nhà
văn Tạ Duy Anh cũng gieo vào lòng người một niềm hi vọng về sự sống, về



24

lòng nhân ái và sự dũng cảm đối mặt với cái ác, cái ồn tạp trong cuộc sống
khi vẫn để đứa bé hài nhi chào đời.
Các tác phẩm tiểu thuyết thuộc khuynh hướng triết lí trong thời kì Đổi
mới đã cho thấy sự sáng tạo đáng ghi nhận cả về mặt thi pháp và nội dung
biểu hiện. Tiểu thuyết triết lí phần nào đã phản ánh được những suy tư, chiêm
nghiệm, đúc kết, lí giải của nhà văn về cuộc đời, con người và các vấn đề có
mối quan hệ mật thiết với đời sống nhân sinh. Chất triết li trong các sáng tác
đương đại có thể được nhà văn bộc lộ trực diện bằng lời văn trên trang viết
hoặc thông qua việc xây dựng hình tượng hay cách đặt vấn đề,v.v. Tuy nhiên,
dù dưới hình thức nào với các sáng tác này, nhà văn đã để lại những khoảng
lặng cho người đọc tự ngẫm và đưa ra những câu trả lời cho riêng mình.
1.2.4. Khuynh hướng tiểu thuyết hiện thực huyền ảo
Khuynh hướng huyền thoại hay thần thoại hay hiện thực huyền ảo với
tư cách là ý thức nguyên hợp của các cộng đồng người nguyên thủy. Từ
những mảnh vỡ còn sót lại của ý thức nguyên thủy, huyền thoại đã đi vào
sáng tạo văn học. Tiêu biểu cho những sáng tạo này là sự bùng nổ của văn
xuôi Mĩ – La tinh vào những năm 60 của thế kỉ XX. Những sáng tác này tạo
thành trào lưu văn học theo chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Và như vậy, trong
tác phẩm văn học, huyền ảo được xem là một yếu tố nghệ thuật. Huyền ảo
bao giờ cũng có sự pha trộn giữa cái thực và cái ảo. Việc sử dụng yếu tố
huyền ảo trong tác phẩm văn học sẽ giúp cho tác phẩm trở nên đa nghĩa, tạo
ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
Với tư cách là một khuynh hướng, yếu tố huyền ảo thực sự mang lại
thành tựu lớn trong sáng tác của các nhà văn thời kỳ Đổi mới. Trong Thiên
sứ, nhà văn Phạm Thị Hoài đã có dụng ý rõ rệt qua việc sử dụng triệt để các
yếu tố huyền thoại. Hình tượng thiên sứ với sự ra đời kỳ lạ của bé Hon, nụ

cười và đôi môi của bé, cả cái chết trong sạch vô ngần của bé đã tạo nên sức


25

hấp dẫn của tác phẩm. Huyền thoại hóa còn được thể hiện ở trong nhân vật
Hoài (một nhân vật được xây dựng dưới dạng “hóa thân”, biến dạng). Qua
con mắt của cô bé “mãi giữ cho mình ở tuổi mười bốn”, một thế giới của sự
sống đầy sự tha hóa hiện lên một cách lạ lùng thậm chí cay nghiệt. Cũng
trong mạch sáng tác này, Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh là tác phẩm tiêu
biểu khi tác giả sử dụng khá thành công thủ pháp nghệ thuật huyền ảo. Một
thế giới vừa hư vừa thực trong Đi tìm nhân vật tạo nên sức ám ảnh nơi người
đọc trước hiện thực ồn tạp. Đúng như tiêu đề của tiểu thuyết, một quá trình đi
tìm bản ngã của chính mình đã theo đuổi nhân vật “tôi” như một nỗi ám ảnh
về sự sống và cái chết từ những bí ẩn của quá khứ, những tổn thương tâm hồn
hiện tại, những va chạm đầy lạ lùng từ những cuộc gặp gỡ trong cuộc đời,…
Ra đời năm 1996, tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh
Thái có sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố ảo – thực. Với việc xuất hiện liên
tiếp ba cái chết đầy bí ẩn của ba chàng thanh niên có tính cách ngang ngược là
Phũ, Cốc, Bóp đều liên quan tới một cô gái. Nhân vật chính là chàng trai,
người dẫn chuyện, đã chứng kiến sự việc. Anh đã lần tìm theo dấu vết của cô
gái tên Mai Trừng để tìm ra cội nguồn của ba cái chết cũng như sức mạnh của
cô. Trong tác phẩm, yếu tố huyền ảo được xem là chìa khóa để tác giả tạo nên
sự bí ẩn cũng như giải mã mọi bí ẩn đã khiến các sự kiện sinh động, cuốn hút
sự dõi theo nơi người đọc.
Trong số các tác giả đương đại, Nguyễn Bình Phương là nhà văn rất có
ý thức trong việc sử dụng huyền thoại với mật độ cao trong các tác phẩm. Từ
những sáng tác đầu tiên như Vào cõi (1991), Bả Giời (1992) và đặc biệt sau
này là Những đứa trẻ chết già (1994), Người đi vắng (1999), Trí nhớ suy tàn
(2000), Thoạt kỳ thủy (2004), Ngồi (2006) đã bộc lộ rõ sự đổi mới trong tư

duy nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương. Sự thay đổi trên đã dẫn tới hiện
thực phản ánh trong tác phẩm của anh thường có “độ lệch” rất lớn so với hiện


×