Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

đề cương lịch sử xxxx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.79 KB, 97 trang )

Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời điểm xét đến để tạo nên, duy trì, vận
hành và tiến hoá xã hội loài người. Các yếu tố của văn minh có thể hiểu gọn lại là di sản tích lũy tri
thức, tinh thần và vật chất của con người kể từ khi loài người hình thành cho đến thời điểm xét đến.
Đối nghịch với văn minh là hoang dã, man rợ, lạc hậu.

Hiểu thế nào là nền văn minh[
Theo nghĩa đúng nhất, một nền văn minh là một xã hội phức tạp, thể hiện phẩm chất tiên tiến từ một
xã hội đồng nhất. Mọi cư dân sinh sống trong xã hội cùng một văn hoá, nhưng không phải tất cả mọi
cư dân đều sống trong nền văn minh. Về mặt sử học, các nền văn minh có một số hoặc là tất cả các
đặc điểm chính sau đây: (một vài khái niệm này do V. Gordon Childe đề xuất)


Trình độ kỹ thuật nông nghiệp đạt được mức độ cao, như là con người sử dụng sức mạnh,
canh tác luân canh và biết sử dụngthủy lợi. Điều này giúp hình thành một tầng lớp nông dân tạo
ra một lượng thặng dư về thực phẩm ngoài số lượng mà họ cần đến.



Một điều chính yếu là không phải toàn bộ cư dân dồn hết thời gian cho việc kiếm thức ăn.
Việc này sẽ thức đẩy dẫn đến sự phân chia các tầng lớp cư dân. Như vậy xã hội sẽ dôi dư các
lực lượng cư dân quan tâm đến các lĩnh vực không thuộc lao động trong nông nghiệp như, xây
dựng, chiến tranh, khoa học hoặc tôn giáo. Điều này chỉ có thể đạt được nếu xã hội nói đến có
một lượng thặng dư thức ăn dồi dào.



Sự tập trung của một lượng lớn sản phẩm phi nông nhiệp vào khu vực định cư cố định, gọi
là đô thị.




Một hình thái tổ chức xã hội hình thành. Điều này cần phải có một thủ lĩnh hoặc là người
đứng đầu các gia đình quý tộc hoặc là đảng phái để điều hành xã hội; hoặc là hình thái nhà
nước, ở đó tầng lớp cai trị được sự hỗ trợ của một chính phủ hay quan lại. Sức mạnh chính
trị phải được tập trung bên trong đô thị.



Thức ăn được vận hành bằng thể chế hóa của tầng lớp cai trị, chính phủ hay quan lại.



Thể chế phức tạp, xã hội trật tự như một sự ngăn nắp của tôn giáo và giáo dục, đối nghịch
với nó là một xã hội kém về tín ngưỡng và giáo dục thấp.



Sự phát triển của một hình thái phức tạp của nền kinh tế thương mại. Cái này đưa đến sự
hình thành nền thương mại trên cơ sở sử dụng tiền tệ và khu thương mại tập trung - chợ.



Sự giàu có ở mức độ cao hơn một xã hội đơn lẻ.



Có sự phổ biến của các công nghệ mới do các lực lượng không bận bịu vào các công việc
tìm kiếm thực phẩm. Trong rất nhiều nền văn minh sơ khởi, công nghệ luyện kim là một tiến bộ
cốt lõi.




Có sự phát triển mạnh mẽ về hội họa, bao gồm cả chữ viết.



Nói ngắn gọn thì nền văn minh ở một thời điểm nào đó trong lịch sử là nơi mà nhiều người
muốn đến định cư và sinh sống nhất. Nơi đó thỏa mãn mọi nhu cầu cũng như tạo nên những
nhu cầu mới, xa xỉ và đem lại cơ hội để phát triển bản thân.


Câu 1 ; những nền văn minh lớn trên thế giới , cơ sở hình thành một nền văn minh
tiêu biểu .. tự tìm
Câu 2 .cơ sở hình thành và những thành tựu cơ bản của nền văn minh ai cập cổ đại.
-

A.Cơ sở hình thành văn minh ai cập cổ đậi

Điều kiện tự nhiên
- Vị trí: Đông bắc châu Phi, giáp Địa trung hải, Biển đỏ, Nubi, Sahara
- Đất nước Ai Cập gắn liền với con sông Nile
- Chia thành 2 vùng: Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập
- Giàu tài nguyên: đồng, vàng, đá, cây sậy
Điều kiện kinh tế
+ Nông nghiệp
đánh bắt cá vào mùa lũ, trồng lúa mì, lúa mạch, rau quả. Sự kết hợp các điều kiện địa lý thuận lợi
góp phần vào sự thành công của văn hóa Ai Cập cổ đại, quan trọng nhất trong đó là đất đai có độ
màu mỡ cao, kết quả từ sự ngập lụt hàng năm của sông Nile. Như vậy, người Ai Cập cổ đại có thể
tạo ra một nguồn lương thực dồi dào, cho phép dân cư dành nhiều thời gian và nguồn lực cho các
mục đích văn hóa, kĩ thuật, và nghệ thuật. Quản lý đất đai có vai trò rất quan trọng trong thời Ai Cập
cổ đại bởi vì số thuế được dựa trên số lượng đất mà một người sở hữu. [100]

Công việc đồng áng ở Ai Cập phụ thuộc vào chu kỳ của sông Nile. Người Ai Cập ghi nhận ba mùa:
Akhet (lũ lụt), Peret (trồng trọt), và Shemu (thu hoạch). Mùa lũ lụt kéo dài từ tháng sáu tới tháng
chín, bồi đắp hai bên bờ sông một lớp phù sa lý tưởng, giàu khoáng chất cho việc trồng trọt. Sau khi
nước lũ rút, mùa gieo trồng kéo dài từ Tháng Mười tới tháng hai. Nông dân cày và trồng hạt giống
trên các cánh đồng, được tưới bằng mương, kênh rạch. Ai Cập vốn có lượng mưa hàng năm ít, do
đó, nông dân đã dựa vào sông Nile để tưới nước cho cây trồng của họ[101] Từ tháng ba tới tháng
năm, nông dân sử dụng liềm để thu hoạch cây trồng của họ, mà sau đó đã đập với một cái đập lúa
một để tách riêng rơm khỏi hạt thóc lúa. Sàng lọc loại bỏ trấu khỏi thóc, các hạt thóc lúa sau đó
được nghiền thành bột, ủ làm bia, hoặc được lưu trữ để sử dụng sau này. [102]
Người Ai Cập cổ đại trồng lúa mì và lúa mạch, và một số loại ngũ cốc khác, tất cả đều được sử
dụng để làm cho hai loại thực phẩm chính là bánh mì và bia [103] Các cây lanh bị nhổ bật gốc trước
khi chúng bắt đầu ra hoa, vốn được trồng để lấy sợi. Những sợi này được tách dọc theo chiều dài
của nó và xe thành sợi, được sử dụng để dệt vải lanh và may quần áo. Cây cói mọc trên các bờ của
sông Nile đã được sử dụng để làm giấy. Rau và hoa quả được trồng ở những mảnh đất vườn, gần
các ngôi nhà và trên khu đất cao hơn, và phải được tưới nước bằng tay. Rau bao gồm tỏi tây, tỏi,


dưa hấu, bí, đậu, rau diếp, và các cây trồng khác, ngoài ra còn có nho đã được chế biến thành
rượu.[10
Động vật
Người Ai Cập tin rằng một mối quan hệ cân bằng giữa con người và động vật là một yếu tố thiết yếu
của trật tự vũ trụ, do đó con người, động vật và thực vật được cho là thành viên của một tổng thể
chung duy nhất [105]. Gia súc là những vật nuôi quan trọng nhất, việc quản lý thuế đánh vào vật nuôi
trong những cuộc tổng điều tra thường xuyên, và kích thước của một đàn phản ánh uy tín và tầm
quan trọng của điền trang hoặc ngôi đền mà sở hữu chúng. Ngoài ra cho gia súc, người Ai Cập cổ
còn nuôi cừu, dê và lợn. Gia cầm như vịt, ngan, ngỗng, chim bồ câu đã bị bắt do mắc bẫy và được
nuôi ở các trang trại, nơi chúng đã bị ép ăn với bột để vỗ béo [106]. Ngoài ra sông Nilecòn là một
nguồn cung cấp cá phong phú. Ong cũng được thuần hóa ít nhất là từ thời Cổ Vương quốc, và
chúng đã cung cấp cả mật ong và sáp.[107]
Người Ai Cập cổ đại sử dụng lừa và bò để chuyên chở, và chúng còn được sử dụng trong việc cày

ruộng và gieo hạt giống. Việc giết mổ một con bò được vỗ béo cũng là một phần trọng tâm trong các
nghi lễ thờ cúng.[106]Ngựa đã được nguời Hyksos du nhập vào Ai Cập trong thời kỳ chuyển tiếp thứ
hai, và lạc đà, mặc dù được biết đến từ thời Tân vương quốc, chỉ được sử dụng để chuyên chở vào
thời Hậu nguyên. Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy những con voi đã được sử dụng trong một
thời gian ngắn vào giai đoạn Hậu nguyên, nhưng phần lớn chúng đã bị bỏ rơi do thiếu đất chăn thả.
[106]

Chó, mèo và khỉ là những loài thường được nuôi trong gia đình, trong khi các loài vật ngoại quốc

khác được đưa về từ khu vực trung tâm của châu Phi, như sư tử, lại được dành riêng cho hoàng
gia. Herodotus quan sát thấy rằng người Ai Cập là những người duy nhất giữ những loài vật nuôi ở
cùng trong nhà với họ.[105] Trong giai đoạn Tiền triều đại và Hậu nguyên, việc thờ cúng các vị thần
trong hình dạng động vật của họ trở nên vô cùng phổ biến, chẳng hạn như nữ thần mèo Bastet và
thần cò Thoth, nhiều loài còn được nhân giống với số lượng lớn tại các trang trại nhằm dành cho
mục đích hiến tế trong các nghi lễ.[108]

+ thủ công nghiệp
Chế tác công cụ, trang sức từ đồng, vàng, đóng thuyền. Ngay từ trước thời kỳ Cổ vương quốc,
người Ai Cập cổ đại đã tạo ra một loại vật liệu thủy tinh được gọi là sứ, và họ coi đó là một loại đá
bán quý nhân tạo. Sứ là một loại đồ gốm được làm từ silica, một lượng nhỏ vôi và natri oxit, cùng
với một chất tạo màu, thường là đồng.[178] Nó được sử dụng để làm các chuỗi hạt, đá lát, các bức
tượng nhỏ, và đồ gốm nhỏ. Người Ai Cập cổ đại còn tạo ra được một chất màu gọi là màu xanh Ai
Cập, hay còn được gọi màu xanh thủy tinh, nó được tạo ra bằng cách nung chảy silica, đồng, vôi,
và một loại chất kiềm như natron. Sản phẩm tạo ra có thể được nghiền nhỏ và được sử dụng làm
một chất màu.
Người Ai Cập cổ đại đã có thể chế tạo một loạt các đồ vật bằng thủy tinh với kỹ năng tuyệt vời,
nhưng hiện vẫn chưa rõ là liệu rằng họ đã phát triển quá trình này một cách độc lập hay không.
[180]

Ngoài ra cũng không rõ ràng rằng họ đã chế tạo ra loại thủy tinh thô của mình hay chỉ đơn thuần



là nhập khẩu các thỏi đã được chế tạo sẵn, sau đó họ nấu chảy và hoàn thiện. Tuy nhiên, họ lại có
kĩ năng thuần thục trong việc tạo hình các đồ vật, cũng như việc thêm vào các yếu tố vi lượng để
kiểm soát màu sắc của thuỷ tinh thành phẩm. Họ có thể tạo ra nhiều loại màu sắc bao gồm màu
vàng, đỏ, xanh lá cây, xanh dương, tím, trắng, và có thể chế tạo ra loại thủy tinh trong suốt hoặc mờ
đục.[1

+ Thương nghiệp
xuất khẩu lúa, ngà voi, nhập khẩu gỗ, quặng. Người Ai Cập cổ đại đã tiến hành giao thương với
các nước láng giềng ngoại quốc của họ để có được hàng hóa quý hiếm và kỳ lạ vốn không được
tìm thấy ở Ai Cập. Trong giai đoạn Tiền triều đại, họ đã thiết lập thương mại với Nubia để có được
vàng và hương liệu. Họ cũng thiết lập thương mại với Palestine với bằng chứng là những chiếc bình
quai chứa dầu theo phong cách Palestine đã được tìm thấy trong các ngôi mộ của các pharaoh
thuộc triều đại thứ nhất.[116] Một khu thực dân của người Ai Cập đã được thiết lập ở miền nam
Canaan có niên đại vào giai đoạn trước khi triều đại thứ nhất bắt đầu. [117] Vua Narmer còn có các đồ
gốm Ai Cập được sản xuất tại Canaan và sau đó xuất khẩu trở lại Ai Cập. [118]
Tới triều đại thứ hai, thương mại giữa Ai Cập cổ đại với Byblos đã giúp cho Ai Cập có được một
nguồn cung cấp gỗ chất lượng vốn không có ở Ai Cập. Đến triều đại thứ năm, thương mại
với Punt đã đem về vàng, nhựa thơm, gỗ mun, ngà voi và các loài động vật hoang dã như khỉ và khỉ
đầu chó.[119] Thương mại giữa Ai Cập với khu vực Anatolia đã mang về một lượng lớn thiếc cần thiết
cũng như nguồn cung cấp đồng bổ sung, cả ở dạng kim loại và quặng đồng dùng cho việc chế tạo
đồ đồng. Người Ai Cập cổ đại cũng rất coi trọng loại đá lapis lazuli màu xanh, mà phải nhập khẩu từ
vùng đất Afghanistan xa xôi. Các đối tác thương mại ở Địa Trung Hải của Ai Cập còn bao gồm cả
người Hy Lạp vàCrete, họ đã cung cấp cho người Ai Cập nhiều loại hàng hóa khác nhau trong đó
có dầu olive.[120] Về phần mình, Ai Cập chủ yếu xuất khẩu ngũ cốc, vàng, vải lanh, và giấy cói, ngoài
ra còn bao gồm cả thủy tinh và những đồ vật bằng đá.[121]


Điều kiện xã hội

Ai Cập nằm ở châu Phi, nơi sinh ra loài người cách đây 1.700.000 năm
Sớm phân hóa thành các giai cấp (Xã hội Ai Cập đã có sự phân chia giai cấp ở mức độ
cao, và địa vị xã hội đã được phân biệt rõ ràng. Nông dân chiếm phần đông trong xã
hội, nhưng nông sản lại thuộc sở hữu trực tiếp của nhà nước, đền thờ, hay các gia
đình quý tộc mà sở hữu đất đai.[92] Nông dân cũng phải chịu thuế lao động và bị buộc
phải tham gia lao động trong các dự án thủy lợi, các công trình xây dựng theo một hệ
thống sưu dịch.[93] Nghệ sĩ và thợ thủ công lại có địa vị cao hơn nông dân, nhưng họ
cũng nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước, làm việc tại các phân xưởng gắn với
những ngôi đền và được trả lương trực tiếp từ quốc khố. Các viên ký lục và quan lại
hình thành nên tầng lớp thượng lưu ở Ai Cập cổ đại, được gọi là "tầng lớp váy trắng",
một sự ám chỉ đến việc sử dụng quần áo bằng vải lanh màu trắng như là một dấu hiệu
cho địa vị của họ.[94] Tầng lớp thượng lưu này còn làm nổi bật địa vị xã hội của họ
thông qua nghệ thuật và văn học. Bên dưới giới quý tộc là các giáo sĩ, thầy thuốc, và
các kỹ sư được đào tạo một cách chuyên môn trong lĩnh vực của họ. Nô lệ cũng đã
được biết đến ở Ai Cập cổ đại, nhưng mức độ và tỷ lệ của nó lại không rõ ràng.[95]
Trừng phạt ở Ai Cập cổ đại.

Người Ai Cập cổ đại coi đàn ông và phụ nữ, kể cả tất cả mọi người đến từ tất cả các tầng lớp xã
hội, ngoại trừ nô lệ, về cơ bản là bình đẳng với nhau theo quy định của pháp luật, và ngay cả những
người nông dân dưới đáy cũng được quyền kiến nghị tới tể tướng và triều đình.[96] Mặc dù, nô lệ
được sử dụng chủ yếu như là những người hầu chịu sự ràng buộc. Họ có thể bị mua và bán, hoặc
có thể làm việc tự do và thường được điều trị bởi các thầy thuốc tại nơi làm việc. [97] Cả đàn ông và
phụ nữ đều có quyền sở hữu và mua bán tài sản, ký kết hợp đồng, kết hôn và ly hôn, nhận thừa kế,
và theo đuổi các tranh chấp pháp lý tại tòa án. Các cặp vợ chồng có thể sở hữu tài sản chung và
bảo vệ bản thân khi ly dị bằng cách đồng ý hợp đồng hôn nhân, trong đó quy định các nghĩa vụ tài
chính của người chồng đối với vợ và con cái khi kết thúc cuộc hôn nhân của họ. So với phụ nữ ở Hy
Lạp cổ đại, La Mã, và thậm chí là nhiều nơi trên thế giới vào ngày nay, phụ nữ Ai Cập cổ đại đã có
nhiều quyền lợi hơn. Những người phụ nữ như Hatshepsut và Cleopatra VII thậm chí đã trở thành
các pharaoh, trong khi nhiều người khác nắm giữ địa vị Người vợ thần thánh của Amun. Mặc dù có
được nhiều quyền tự do, phụ nữ Ai Cập cổ đại lại không thường xuyên nắm giữ các vị trí chính thức

trong chính quyền, họ chỉ giữ vai trò thứ yếu trong các ngôi đền, và không được nhận nền giáo dục
như nam giới.[96]

_ thành tựu cơ bản của nền văn minh ai cập ( sgk trang 15)
Câu 3 sgk


Câu 4. Quá trình hình thành của đạo hồi và những ảnh hưởng của đạo hồi ở việt
nam
-

Quá trình hình thành của đạo hồi : ( sgk trang 52

1.Khái quát về lịch sử ra đời và phát triển của Hồi giáo
Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự ra đời của hồi giáo
Hồi giáo (tôn giáo của tộc người Hồi) là cách gọi của người Trung Quốc gọi đạo Islam (theo tiếng Ảrập nghĩa là phục
tùng theo ý chân chủ) xuất hiện ở bán đảo Ảrập vào khoảng thế kỷ thứ VII. Ảrập Xêut là quê hương của Hồi giáo.
Hồi giáo ra đời do hàng loạt nguyên nhân kinh tế, xã hội, tư tưởng gắn liền với sự chuyển biến từ chế độ công xã
nguyên thủy sang xã hội có giai cấp của các tộc người vùng Trung cận Đông và yêu cầu thống nhất các bộ lạc trong
bán đảo Ảrập thành một nhà nước phong kiến thần quyền do đó cần một tôn giáo độc thần để thay thế những tôn
giáo đa thần tồn tại ở đó từ trước.
Sự ra đời và phát triển của Hồi giáo
Sự ra đời của Hồi giáo gắn liền với tên tuổi một người nổi tiếng là giáo chủ Mohammed (Mahomet). Mâohammed
(570 – 632) là một người thuộc gia tộc Casimu ở Mecca.
Tục truyền rằng khi Mohammed được 40 tuổi (năm 610) ông một mình vào trong một hang nhỏ ớ núi Xira, ngoại
thành Mecca để tu luyện và trầm ngâm suy tưởng. Trong một đêm thánh Allah (Ala – Chân chủ) đã cử thiên sứ
Gabrien đến truyền đạt Thần dụ và lần đầu tiên “khải thị” cho ông chân lý của Kinh Coran khiến ông trở thành “Thánh
thụ mệnh” và ông tự xưng là đã tiếp thụ sứ mệnh của chân chủ trao cho và bắt đầu truyền đạo. Đầu tiên ông bí mật
truyền giáo trong số những bạn bè thân thiết và họ trở thành những tín đồ đầu tiên, về sau sự truyền đạo trở nên
công khai, đối tượng mở rọâng tới quần chúng ở Mecca nhưng bị giới quý tộc đả kích và bức hại. Môhamet đã trốn

được đến Yathrib (sau đổi thành Madinah – Thành phố tiên tri). Ơû đây ông phát động và tổ chức quần chúng đấu
tranh và cuộc cách mạng của ông giành được thắng lợi. Sau đó ông tổ chức vũ trang cho các tín đồ (Muslim) và
dùng khẩu hiệu “Chiến đấu vì Allah” và đè bẹp được giới quý tộc ở Mecca.
Cùng với việc mở rộng phạm vi truyền đạo Mohamet còn liên minh với các bộ tộc và dùng sức mạnh buộc các thế
lực còn lại phải quy thuận theo Hồi giáo. Có thể nói cuộc cách mạng do Mohammed lãnh đạo là một cuộc cách mạng
tôn giáo và cải cách xã hội kết hợp với nhau. Sự ra đời của Hồi giáo đã mở ra một thời kỳ lịch sử mới thống nhất trên
bán đảo Ảrập.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 900 triệu tín đồ Hồi giáo có mặt ở hơn 50 quốc gia trên khắp các châu lục nhưng
tập trung chủ yếu ở các nước Ảrập (trừ Li băng và Ixraen) và chiếm đại đa số ở các nước như Iran, Irắc, Pakistan,
Apganistan, Thổ Nhĩ Kỳ… và một số nước vùng Trung Á và cả ở Đông nam Á (chủ yếu ở Inđonesia). Một số quốc
gia tự coi mình là quốc gia Hồi giáo. Tuy nhiên Hồi giáo ở các quốc gia khác nhau nên đã phân chia thành các hệ
phái khác nhau nhưng về cơ bản không đối lập nhau.
2. Nội dung cơ bản của Hồi giáo
Giáo lý của Hồi giáo
Đặc điểm giáo lý của Hồi giáo là rất đơn giản nhưng luật lệ và lễ nghi rất phức tạp và nghiêm khắc thậm chí đến mức
khắt khe và nhiều khi nó vượt ra khỏi phạm vi tôn giáo và trở thành một chuẩn mực pháp lý của xã hội. Trong Hồi
giáo khó thấy ranh giới giữa cái thiêng và cái tục.
Giáo lý cơ bản của Hồi giáo là Kinh Coran (Coran theo nguyên nghĩa tiếng Ảrập là “tụng đọc”) vì đó là những lời nói
của Môhamet được ghi lại và những lời này do thánh Allah thông qua thiên sứ Gabrien “khải thị” cho Mohammed.
Kinh Coran tổng cộng có 30 quyển, 114 chương hơn 6200 tiết (là những đoạn thơ). Nội dung Kinh Coran vô cùng
phong phú đại thể bao gồm những tín ngưỡng cơ bản và chế độ tôn giáo của đạo Hồi và những ghi chép về tình


hình xã hội trên bán đảo Ảrập đương thời cùng với những chính sách về chủ trương xã hội, quy phạm luân lý đạo
đức… Giáo lý Hồi giáo gồm các điểm cơ bản sau:
+ Allah là đấng tối cao sinh ra trời đất.
+ Allah là đấng tối cao sinh ra muôn loài trong đó có con người.
+ Con người là bình đẳng trước Allah nhưng số phận và tài năng tạo nên sự khác nhau giữa những con người .
+ Số phận con người có tính định mệnh và do Allah sắp đặt.
+ Tín đồ Hồi giáo phải luôn có thái độ đúng: trong cộng đồng (Hồi giáo) thì phải kiên nhẫn chịu đựng, phục tùng

Allah, đối với người ngoài thì phải kiên quyết bảo vệ mọi lợi ích của Hồi giáo và phải có tinh thần thánh chiến.
+ Về y lý: khuyên bảo con người phải giữ gìn sức khỏe.
+ Những lời khuyên về đạo lý:









Tôn thờ thần cao nhất là Allah.
Sống nhân từ độ lượng.
Thưởng phạt công minh, trừng phạt chủ yếu đối với kẻ thù.
Thánh chiến là thiêng liêng và bắt buộc.
Kiên định và nhẫn nại trong mọi thử thách.
Tin vào định mệnh và sự công minh của Allah.
Cấm một số thức ăn: thịt heo, rượu bia và các chất có men. (Heo là con vật gắn với khởi nguyên: phát triển
là nhờ chăn nuôi).





Trung thực.
Không tham của trộm cắp
Làm lễ và tuân thủ các nghi lễ Hồi giáo.

Tín ngưỡng Hồi giáo

Xét về niềm tin, tín đồ Hồi giáo tin vào Alah, sứ giả Mohammed, thiên sứ, thiên kinh, hậu thế.
– Tin vào Alah: Đây là một nội dung quan trọng của tín điều cơ bản. Theo Hồi giáo, Alah là vị thần duy nhất trong vũ
trụ, tự sinh ra và bất tử. Alah sáng tạo thế giới, và là chúa tể. Hồi giáo không thờ ảnh tượng của Alah vì họ quan
niệm Alah toả khắp nơi, không một hình tượng nào đủ để thể hiện Alah.
– Tin vào sứ giả Mohammed: Giáo lý Hồi giáo cho rằng Allah từng cử nhiều sứ giả đến các dân tộc khác nhau trong
những thời kỳ nhất định để truyền đạt ngôn luận của Allah cho con người. Có đến 5 sứ giả. Trong đó Mohammed là
sứ giả cuối cùng mà Allah chọn lựa. Đây cũng là sứ giả xuất sắc nhất. Chỉ có Mohammed là được nhận những ngôn
luận của Allah một cách đầy đủ nhất.
– Tin Thiên kinh: Allah từng trao thiên kinh cho các sứ giả trước Mohammedû, mỗi người một bộ. Nhưng những bộ
ấy không đầy đủ, bị thất lạc hoặc bị người đời sau giải thích sai lệch. Chỉ có bộ thiên kinh mà Allah truyền cho
Mohammed là bộ kinh điển cuối cùng nhưng đầy đủ nhất. Đó là kinh Coran. Vì vậy, kinh Coran dưới mắt người Hồi
giáo làø bộ kinh điển thần thánh duy nhất.
– Tin vào Thiên sứ: Thiên sứ do Allah tạo ra, là một loại linh hồn, vô hình trước con người, không có tính thần. Mỗi
thiên sứ có một nhiệm vụ. Trong Thiên sứ cũng có sự phân chia cao thấp. Cao nhất là thiên sứ Gabrien. Con người
không phải phủ phục trước thiên sứ.
– Tin vào hậu thế: Sẽ có ngày tận thế. Trong ngày ấy, mọi sinh linh sẽ kết thúc để rồi tất cả sống lại nhận sự phán xét
của Allah. Dựa vào hành vi của mỗi người mà Allah quyết định: thiên đường dành cho người thiện, địa ngục là nơi
của kẻ ác.
Nghĩa vụ Hồi giáo
Hệ thống nghĩa vụ của tín đồ Hồi giáo rất rộng và chi tiết, dựa trên cơ sở kinh Coran và sách Thánh huấn.
Các tín đồ có 5 nghĩa vụ chủ yếu. Đó là niệm, lễ, trai, khoá, triều. Đây là 5 trụ cột của Hồi giáo, tạo nên sườn cốt cho
đời sống của người Hồi giáo.
– Niệm: tín đồ phải thường xuyên tụng niệm thành tiếng tín điều cơ bản (Vạn vật không phải là Chúa, chỉ có Chân
chúa; Mohammed là sứ giả của Chúa).


– Lễ: tức là lễ bái. Các tín đồ mỗi ngày hành lễ 5 lần (sáng, trưa, chiều, tối, đêm). Thứ 6 hàng tuần thì làm lễ tại
thánh đường 1 lần vào buổi trưa. Trước khi làm lễ, tín đồ phải rửa mặt, tay chân, quỳ xuống, hướng về đền Kabah
để cầu nguyện.
– Trai: tức là trai giới. Tháng 9 theo lịch Hồi là tháng trai giới của Hồi giáo. Trong tháng này mọi tín đồ không ăn

uống, quan hệ tính dục từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, trừ một số trường hợp đặc biệt. Kết thúc tháng này là
lễ Phá bỏ sự nhịn đói, các tín đồ sẽ cùng nhau cầu nguyện, sau đó tặng quà cho nhau, và bố thí.
– Khoá: các tín đồ có nghĩa vụ đóng góp cho các hoạt động từ thiện. Sự đóng góp đó có thể là tự nguyện, nhưng
cũng có khi là bắt buộc dựa vào tài sản của tín đồ (khoảng 1/40 tài sản).
– Triều: Các tín đồ có nghĩa vụ hành hương về Mecca ít nhất 1 lần trong cuộc đời, để triều bái Kabah trong tháng 12
theo lịch Hồi (hành hương Haji). Cuộc lễ triều bái kéo dài trong 10 ngày. Ngày cuối cùng tín đồ sẽ hiến lễ là một con
cừu hoặc lạc đà, hoặc một con vật có sừng. Triều bái Mecca trong dịp này là chính triều. Còn phó triều thì diễn ra
trong thời gian bất kỳ của năm và ít nghi lễ hơn.
Ngoài ra, Hồi giáo còn có nhiều quy định cụ thể về hành vi của tín đồ trong các mối quan hệ xã hội.
Tổ chức Hồi giáo
– Thánh đường Hồi giáo là nơi sinh hoạt tập thể và có tính thiêng với các tín đồ. Thánh đường gồm có Đại Thánh
đường và Tiểu Thánh đường. Trong Thánh đường có bài trí đơn giản, không bàn ghế, không có đồ thờ quý hay nhạc
cụ, chỉ có chiếc gậy mà theo truyền thuyết là của giáo chủ Môhammet đã dùng nó để đi truyền đạo.
– Hệ thống chức sắc gồm có Giáo chủ (Mufty), phó giáo chủ (Naib Mufty), Giáo cả (Ha Kim), phó giáo cả (Naib Ha
Kim), Imân, Khatib, Tuan, Bilat, Slak, HaDji.

-

-

-

-

ảnh hưởng của đạo hồi ở việt nam
Hồi giáo truyền vào khu vực Đông Nam Á khá sớm, khoảng thế kỷ XI, XII. Nếu so với các khu vực Hồi giáo
khác trên thế giới, thì việc truyền bá Hồi giáo vào Đông Nam Á chủ yếu bằng con đường "hoà bình" qua
những thương nhân Ảrập, Ấn Độ, Ba Tư. Những thế kỷ đầu sau khi ra đời, Hồi giáo phát triển nhanh như vũ
bão bằng chiến tranh với công thức “thanh gươm - vó ngựa - kinh Qur'an". Tuy nhiên, khi chinh phục được
Ấn Độ, đoàn quân Hồi giáo đã mệt mỏi, lại đứng trước biển cả mênh mông đã cản bước tiến quân các

chiến binh Hồi giáo đến khu vực Đông Nam Á nên Hồi giáo đành phải truyền bá đến đây qua các thương
nhân và các giáo sỹ. Chính sự du nhập và phát triển bằng con đường "hoà bình", lại từ nguồn Hồi giáo Ấn
Độ đã dung hoà với văn hoá Ấn Độ nên Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á thường bị pha trộn với tín
ngưỡng, phong tục tập quán địa phương. Điều này khác hẳn với những nơi Hồi giáo bành trướng bằng
những cuộc chiến tranh chinh phục. Hồi giáo khu vực Đông Nam Á nói chung, ở Việt Nam nói riêng ít chịu
ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa Hồi giáo như một số khu vực khác.
Hồi giáo du nhập vào Việt Nam qua các thời điểm khác nhau. Theo Tống sử Trung Quốc thì thế kỷ X đã
thấy người Chăm khi giết trâu để cúng, họ đều cầu nguyện câu kinh đề cao Thượng đế Allah của người Hồi
giáo, điều này có thể giả định từ thế kỷ thứ X, Hồi giáo đã được truyền vào đất Chiêm Thành.
Vậy có thể nói: Từ thế kỷ X, tín ngưỡng Hồi giáo đã manh nha ở Vương quốc Chămpa thông qua các
thương nhân từ Trung Cận Đông đem vào, gây ảnh hưởng nhất định trong đời sống tâm linh người
Chămpa. Nhưng Hồi giáo không phát triển, có lẽ vì lòng sùng tín thần thánh Bàlamôn giáo, tập tục, lễ nghi
cùng chế độ mẫu hệ đã bén rễ ăn sâu, trở thành truyền thống trong xã hội Chămpa, trải qua hơn nghìn năm
không dễ gì thay đổi. Vì vậy, ở Vương quốc Chămpa cổ vào khoảng trước năm 1470 Hồi giáo chưa phải là
tôn giáo chính thống của người Chăm.
Sau năm 1470, một bộ phận cư dân Chămpa lưu tán đã tiếp xúc với người Malaysia, Indonesia,
Campuchia... và họ bắt đầu tìm hiểu Hồi giáo ở các nước đó, nhiều người Chăm bỏ tôn giáo truyền thống
(đạo Bàlamôn) để theo Hồi giáo. Những người Chăm khi tiếp thu được tôn giáo mới, họ quay về nước để
truyền lại cho đồng bào mình. Từ đó Hồi giáo có chỗ đứng đáng kể trong cộng đồng cư dân Chămpa và
chính thời điểm này sự giao hoà giữa đạo Islam và đạo Bàlamôn đã sản sinh ra một tôn giáo mới của người
Chăm, đó là đạo Bàni tại miền Nam Trung bộ.
Vào năm 1840, dưới triều Nguyễn, quan bảo hộ Chân Lạp là Trương Minh Giảng bị quân của An Dương Campuchia đánh bại phải rút chạy về vùng thượng nguồn sông Tiền (Châu Đốc - An Giang ngày nay) mang


-

-

-


-

-

-

-

theo quân lính và người Chàm, người Mã lai theo Hồi giáo, lúc đó nhà Nguyễn dựa vào lực lượng này lập
các đội quân để giữ biên giới. Từ đó hình thành vùng thứ hai theo Hồi giáo chính thống của người Chăm đạo Islam.
Những năm cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, vùng Sài Gòn - Gia Định mở rộng giao lưu buôn bán với
một số quốc gia phương tây, từ đó trở thành trung tâm buôn bán của Nam bộ. Các thương nhân đã thu
nhận người Malaysia, Indonesia, Ấn Độ theo Hồi giáo. Tuy nhiên, cho mãi đến cuối thế kỷ XIX khi Nam bộ
bị Pháp chiếm đóng, quá trình giao thương với bên ngoài ngày càng phát triển, là môi trường và điều kiện
để cho người Malaysia và Indonesia nhập cư vào đất này đông hơn. Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ
năm 1880 - 1890, ở Gia Định cũng xuất hiện một bộ phận người Ấn Độ, Pakistan có tín ngưỡng Hồi giáo là
những thương nhân làm nghề buôn bán tơ lụa, đồ gia vị cho những tiệm buôn, quán ăn. Đó là nguồn gốc
hình thành cộng đồng cư dân ngoại lai theo Hồi giáo ở TP. Hồ Chí Minh cho tới ngày nay.
Những đặc điểm chủ yếu
Ở nước ta, cộng đồng cư dân Chăm theo Hồi giáo mang tính đặc thù rõ nét, được chia thành 2 dòng
khác nhau. Người ta thường gọi là Chăm Islam và Chăm Bàni với những đặc điểm chủ yếu sau đây:
1. Truyền thống gắn bó và đồng hành cùng dân tộc
Việt Nam chủ yếu chỉ có người Chăm theo Hồi giáo. Vì vậy, Hồi giáo gắn bó với dân tộc Chăm, mà cư
dân Chăm là một dân tộc có nền văn hoá đa dạng và phong phú; có truyền thống yêu nước, gắn kết với dân
tộc và cách mạng, đã có nhiều đóng góp trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Là một dân tộc
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng bào Chăm Hồi giáo luôn phát huy bản sắc văn hoá và truyền
thống đoàn kết, yêu nước gắn bó với cộng đồng các dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm
lược, giành độc lập dân tộc.
Hơn nữa, từ khi có Đảng đồng bào Chăm Hồi giáo luôn đi theo và tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; làm tốt nghĩa

vụ công dân, ủng hộ sự nghiệp đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, góp phần viết tiếp trang sử vẻ vang
của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2. Tính chính thống của Hồi giáo có thay đổi
Bởi tác động của bản sắc văn hoá dân tộc vùng Đông Nam Á, trong đó nền tín ngưỡng, tôn giáo bản địa cổ
Bàlamôn chiếm địa vị chủ yếu. Sự tác động này được gọi là quá trình “Chăm hoá”.
Như khi nghiên cứu, để chinh phục thế giới Ảrập và bành trướng thế lực, Hồi giáo chủ trương mở
rộng “đất thánh” bằng các cuộc thánh chiến, với khẩu hiệu “Thanh gươm, vó ngựa, kinh Qur'an”. Nhưng khi
Hồi giáo truyền bá xuống phía Đông bị cản trở bởi đại dương nên không thể tiến hành thánh chiến mà các
giáo sĩ truyền đạo thông qua thương thuyền theo con đường mậu dịch để truyền bá và phát triển Hồi giáo ở
vùng này. Chúng ta có thể khẳng định khi Hồi giáo truyền bá xuống phía Đông đã chịu sự chi phối mạnh mẽ
bởi bản sắc văn hoá truyền thống lâu đời của vùng Á Đông và tín ngưỡng cổ Bàlamôn với chế độ mẫu hệ,
làm cho tính cách Hồi giáo phải biến đổi phù hợp với nền văn hóa bản địa.
3. Tính quốc tế của Hồi giáo
Hồi giáo là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất thế giới, đang trong xu thế của quá trình “Hồi giáo
hoá thế giới”. Hơn nữa, thế giới đang đứng trước nguy cơ xung đột sắc tộc và tôn giáo trong mối quan hệ
“toàn cầu hoá”. Đảng ta chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế theo phương châm “Việt Nam là bạn với tất
cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Các tôn giáo ở Việt
Nam, nhất là Chăm Hồi giáo đã, đang và sẽ tiếp tục chịu sự tác động nhiều mặt của Hồi giáo thế giới. Theo
đó, một số sinh hoạt tôn giáo truyền thống của Hồi giáo vốn mang tính quốc tế nay được mở rộng. Nó vừa
là nhu cầu, vừa là đặc điểm phổ biến đang phát triển.
Cùng với xu thế hội nhập quốc tế của Nhà nước, Hồi giáo Việt Nam cũng mở rộng và phát triển giao
lưu với các cá nhân, tổ chức Hồi giáo ngoài nước. Mối quan hệ đó không chỉ vì mục đích tôn giáo mà còn
có những mục đích chính trị - xã hội. Nhằm thúc đẩy hoạt động Hồi giáo nước ta hội nhập vào cộng đồng
Hồi giáo thế giới.
1. Số lượng và phân bố tín đồ


-

-


Hiện nay, theo số liệu thống kê của các địa phương có Hồi giáo, số lượng tín đồ Hồi giáo khoảng hơn
72.000 người (bao gồm cả Chăm Bàni và Chăm Islam), cư trú trên địa bàn 13/63 tỉnh, thành phố cả nước.
Hồi giáo ở nước ta hình thành hai dòng:
- Một là: Cộng đồng Hồi giáo tuân thủ tương đối giáo lý Hồi giáo nguyên thuỷ gọi là Chăm Islam, sống
tập trung ở 12 tỉnh, thành phố: An Giang, TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai, Ninh Thuận, Kiên Giang,
Trà Vinh, Tiền Giang, Long An, Bình Dương, Bình Phước và Thủ đô Hà Nội.
- Hai là: Cộng đồng theo Hồi giáo đã bị “Chăm hoá” gọi là Chăm Bàni, sống tập trung ở ba tỉnh: Ninh
Thuận, Bình Thuận và Bình Phước.
Qua khảo sát về tình hình Hồi giáo ở Việt Nam, có thể rút ra một số vấn đề sau:
- Hồi giáo ở Việt Nam không nhiều và chủ yếu là trong cư dân Chăm. Tỷ lệ tín đồ tăng chậm trong
thời gian qua, ngoài một bộ phận bỏ tín ngưỡng Bàni theo Islam ở Phước Nam (Ninh Thuận) vào những
năm 60 của thế kỷ XX, số tín đồ theo Hồi giáo qua con đường “truyền đạo” không đáng kể và chủ yếu là
tăng tự nhiên.
- Dân cư hình thành theo các nhóm cộng đồng Jam'ah có tính quần cư là chủ yếu, một bộ phận
không lớn cộng cư với người Kinh và các dân tộc anh em. Tuy nhiên, tính cộng đồng - nét truyền thống tổ
chức - xã hội của cư dân Chăm vẫn là lối sống đặc trưng của cư dân Chăm Hồi giáo.
- Hồi giáo nước ta có sự khác biệt giữa các vùng, trong đó Chăm Islam có mối quan hệ thường xuyên
với Hồi giáo thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Mối quan hệ đó, ngoài yếu tố tôn giáo còn có quan
hệ thân tộc.
2. Nhu cầu về niềm tin tôn giáo
Đồng bào Chăm Islam và Chăm Bàni có niềm tin tôn giáo sâu sắc vào Thượng đế Allah và Thiên kinh
Qur'an, là nhu cầu đời sống tinh thần không thể thiếu, nó gắn chặt với yếu tố tôn giáo. Nó hoàn toàn khác
với nhu cầu về vật chất trong đời sống xã hội. Nhưng niềm tin đó lại có sự khác nhau trong quá trình thực
thi giáo luật Hồi giáo giữa hai dòng: Chăm Islam thực thi giáo luật Hồi giáo hầu như trọn vẹn mang tính
chính thống, yếu tố tôn giáo sâu sắc hơn; Chăm Bàni thực hiện giáo luật mang tính tượng trưng, không
thực hiện hết 5 điều sống đạo, chỉ thực hiện trong tháng Ramadan mà họ quen gọi là tháng “vào chùa’’ của
các vị chức sắc. Mặt khác, Chăm Bàni chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tôn giáo Bàlamôn và tín ngưỡng bản địa
với chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng đa thần, có yếu tố dân tộc mang tính vượt trội.


Trang chủ » Đời sống văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo » Giới thiệu các tổ chức tôn giáo đã được công nhận

Khái quát về Hồi giáo và Hồi giáo ở Việt Nam
Thánh đường Masjid Al Muslimin – xã Quốc Thái, Huyện An Phú (Koh Kagia), tỉnh Angiang.

Đạo Islam khi truyền bá vào Việt Nam được gọi là đạo Hồi hay Hồi giáo 1. Trong những sách
sử Trung Hoa xưa, đạo Islam được gọi là Hồi giáo hoặc Hồi Hột giáo, vì khi nó được truyền vào
Trung Hoa thông qua một bộ lạc thuộc dân tộc Hồi Hột, nên người Trung Hoa gọi Islam là đạo
Hồi hoặc Hồi Hột giáo.
A. KHÁI QUÁT VỀ HỒI GIÁO
I. Khái quát sự ra đời và quá trình truyền bá Hồi giáo vào Việt Nam
1. Sự ra đời và phát triển của Hồi giáo
Đạo Islam khi truyền bá vào Việt Nam được gọi là đạo Hồi hay Hồi giáo. Trong những sách sử Trung Hoa


xưa, đạo Islam được gọi là Hồi giáo hoặc Hồi Hột giáo, vì khi nó được truyền vào Trung Hoa thông qua một bộ lạc
thuộc dân tộc Hồi Hột, nên người Trung Hoa gọi Islam là đạo Hồi hoặc Hồi Hột giáo. Sự ra đời của Hồi giáo bởi
những tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng ở bán đảo Ảrập vào đầu thế kỷ VII.
1.1. Hồi giáo ra đời ở bán đảo Ảrập vào đầu thế kỷ VII sau Công nguyên. Sự ra đời của tôn giáo
này xuất phát bởi một loạt nguyên nhân về kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng; nó gắn liền với những biến chuyển
xã hội, từ chế độ công xã nguyên thuỷ sang chế độ xã hội có giai cấp. Lịch sử thống nhất nhà nước Ảrập thành
một nhà nước phong kiến độc quyền, đồng thời trên cơ sở thống nhất giữa các tín ngưỡng, tôn giáo trên bán đảo
Ảrập.
Sự ra đời của Hồi giáo gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của Mohammad - người mạc khải, khai
sáng tín ngưỡng Hồi giáo. Mohammad được tín đồ Hồi giáo thế giới tôn vinh là "tinh thần", "duy nhất", "toàn năng",
"độ lượng", "siêu việt" và "vĩnh cửu"... là thiên sứ và Giáo chủ.
1.2. Sau khi Hồi giáo ra đời, vào khoảng thời gian từ năm 622 đến năm 630, cùng với việc xây dựng
lực lượng, tôn giáo này phải trải qua thời kỳ đấu tranh quyết liệt, kết hợp những cuộc "thánh chiến" với những hoạt
động chính trị và ngoại giao, Mohammad và những người Hồi giáo đã chinh phục được thành Mecca và truyền bá
Hồi giáo đến vùng này. Mohammad cùng những người anh em Hồi giáo xây dựng Mecca thành "Thánh địa " - trung

tâm Hồi giáo thế giới cho tới ngày nay. Sau khi chinh phục thành Mecca, Hồi giáo đã trở thành một đế quốc bành
trướng thế lực, tiếp tục mở rộng "thánh chiến" tấn công để mở rộng thế giới Hồi giáo. Mục tiêu trước hết là tiêu diệt
người Do Thái ở Arabia, tàn sát và bắt những người có thái độ chống đối làm nô lệ cho người Hồi giáo chiến
thắng. Từ năm 636, Hồi giáo bắt đầu những cuộc viễn chinh tấn công, mở đầu cho một thời kỳ truyền bá Hồi giáo
sang các quốc gia khác. Cho đến thế kỷ XI, Hồi giáo trở thành một tôn giáo quốc tế, thống soái các quốc gia dân
tộc từ Địa Trung Hải đến Vịnh Ba Tư. Vào khoảng ba thế kỷ sau (từ thế kỷ XIV đến XVI), Hồi giáo truyền bá xuống
vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
1.3. Hiện nay, Hồi giáo là tôn giáo có tín đồ đông nhất thế giới (trên 1,3 tỷ tín đồ), có mặt ở hơn 100
quốc gia trên tất cả các châu lục. Quốc gia có đông người Hồi giáo nhất hiện nay không phải là nước ở khu vực
Trung Đông như nhiều người vẫn tưởng, mà là Indonesia nước ở khu vực Đông Nam Á với trên 180 triệu tín đồ
chiếm 87% dân số của đất nước này.
Mặc dù Hồi giáo Islam là một tôn giáo lớn trên thế giới, nhưng lại không có hệ thống tổ chức giáo
hội quốc tế và không có hệ thống phẩm trật chức sắc (người giữ vai trò trung gian thay quyền Thượng đế Allah) mà
chỉ có các giáo sĩ đảm nhận những chức trách như: Khalifat, Mufti, Naep, Hakim, Ahly, Imâm, Tuôn...
1.4. Từ khi Mohammad qua đời, nội bộ Hồi giáo xảy ra nhiều cuộc tranh chấp quyền lực. Vì vậy,
sau này Hồi giáo phải chia thành các dòng, các hệ phái khác nhau. Cho đến nay, Hồi giáo vẫn không có người
thừa kế ngôi vị Khalifat (Giáo chủ). Đây là nguyên nhân chính, là hệ quả của việc Hồi giáo không có tổ chức giáo
hội quốc tế. Từ thập niên 70 của thế kỷ XX trở lại đây, với sự gia tăng không ngừng số lượng tín đồ Hồi giáo trên
thế giới làm cho dạng thức thuần nhất của Hồi giáo thời Mohammad không thể duy trì được mà đã có sự biến
dạng thành những cộng đồng (Jamah) ngăn cách bởi chế độ xã hội của mỗi quốc gia. Theo đó, Hồi giáo cũng phát
triển mối tương giao với những tín ngưỡng, tôn giáo khác. Chính vì vậy, các quốc gia có đông người Hồi giáo có
khuynh hướng thành lập tổ chức Hồi giáo gắn với lãnh thổ của từng nước, kết hợp hoạt động tôn giáo với chăm lo
đời sống mọi mặt cho cộng đồng. Mặt khác, một số tổ chức Hồi giáo quốc tế cũng ra đời, tuy nhiên các tổ chức này
mang hình thức "liên hiệp" lỏng lẻo, không phải là tổ chức giáo hội quốc tế.
2. Sự du nhập Hồi giáo vào Việt Nam
Hồi giáo truyền vào khu vực Đông Nam Á khá sớm, khoảng thế kỷ XI, XII. Nếu so với các khu vực Hồi giáo
khác trên thế giới, thì việc truyền bá Hồi giáo vào Đông Nam Á chủ yếu bằng con đường "hoà bình" qua những
thương nhân Ảrập, Ấn Độ, Ba Tư. Những thế kỷ đầu sau khi ra đời, Hồi giáo phát triển nhanh như vũ bão bằng



chiến tranh với công thức “thanh gươm - vó ngựa - kinh Qur'an". Tuy nhiên, khi chinh phục được Ấn Độ, đoàn quân
Hồi giáo đã mệt mỏi, lại đứng trước biển cả mênh mông đã cản bước tiến quân các chiến binh Hồi giáo đến khu
vực Đông Nam Á nên Hồi giáo đành phải truyền bá đến đây qua các thương nhân và các giáo sỹ. Chính sự du
nhập và phát triển bằng con đường "hoà bình", lại từ nguồn Hồi giáo Ấn Độ đã dung hoà với văn hoá Ấn Độ nên
Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á thường bị pha trộn với tín ngưỡng, phong tục tập quán địa phương. Điều này
khác hẳn với những nơi Hồi giáo bành trướng bằng những cuộc chiến tranh chinh phục. Hồi giáo khu vực Đông
Nam Á nói chung, ở Việt Nam nói riêng ít chịu ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa Hồi giáo như một số khu vực
khác.
Hồi giáo du nhập vào Việt Nam qua các thời điểm khác nhau. Theo Tống sử Trung Quốc thì thế kỷ X đã thấy
người Chăm khi giết trâu để cúng, họ đều cầu nguyện câu kinh đề cao Thượng đế Allah của người Hồi giáo, điều
này có thể giả định từ thế kỷ thứ X, Hồi giáo đã được truyền vào đất Chiêm Thành.
Vậy có thể nói: Từ thế kỷ X, tín ngưỡng Hồi giáo đã manh nha ở Vương quốc Chămpa thông qua các
thương nhân từ Trung Cận Đông đem vào, gây ảnh hưởng nhất định trong đời sống tâm linh người Chămpa.
Nhưng Hồi giáo không phát triển, có lẽ vì lòng sùng tín thần thánh Bàlamôn giáo, tập tục, lễ nghi cùng chế độ mẫu
hệ đã bén rễ ăn sâu, trở thành truyền thống trong xã hội Chămpa, trải qua hơn nghìn năm không dễ gì thay đổi. Vì
vậy, ở Vương quốc Chămpa cổ vào khoảng trước năm 1470 Hồi giáo chưa phải là tôn giáo chính thống của người
Chăm.
Sau năm 1470, một bộ phận cư dân Chămpa lưu tán đã tiếp xúc với người Malaysia, Indonesia,
Campuchia... và họ bắt đầu tìm hiểu Hồi giáo ở các nước đó, nhiều người Chăm bỏ tôn giáo truyền thống (đạo
Bàlamôn) để theo Hồi giáo. Những người Chăm khi tiếp thu được tôn giáo mới, họ quay về nước để truyền lại cho
đồng bào mình. Từ đó Hồi giáo có chỗ đứng đáng kể trong cộng đồng cư dân Chămpa và chính thời điểm này sự
giao hoà giữa đạo Islam và đạo Bàlamôn đã sản sinh ra một tôn giáo mới của người Chăm, đó là đạo Bàni tại miền
Nam Trung bộ.
Vào năm 1840, dưới triều Nguyễn, quan bảo hộ Chân Lạp là Trương Minh Giảng bị quân của An Dương Campuchia đánh bại phải rút chạy về vùng thượng nguồn sông Tiền (Châu Đốc - An Giang ngày nay) mang theo
quân lính và người Chàm, người Mã lai theo Hồi giáo, lúc đó nhà Nguyễn dựa vào lực lượng này lập các đội quân
để giữ biên giới. Từ đó hình thành vùng thứ hai theo Hồi giáo chính thống của người Chăm - đạo Islam.
Những năm cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, vùng Sài Gòn - Gia Định mở rộng giao lưu buôn bán với một
số quốc gia phương tây, từ đó trở thành trung tâm buôn bán của Nam bộ. Các thương nhân đã thu nhận người
Malaysia, Indonesia, Ấn Độ theo Hồi giáo. Tuy nhiên, cho mãi đến cuối thế kỷ XIX khi Nam bộ bị Pháp chiếm đóng,
quá trình giao thương với bên ngoài ngày càng phát triển, là môi trường và điều kiện để cho người Malaysia và

Indonesia nhập cư vào đất này đông hơn. Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ năm 1880 - 1890, ở Gia Định cũng
xuất hiện một bộ phận người Ấn Độ, Pakistan có tín ngưỡng Hồi giáo là những thương nhân làm nghề buôn bán tơ
lụa, đồ gia vị cho những tiệm buôn, quán ăn. Đó là nguồn gốc hình thành cộng đồng cư dân ngoại lai theo Hồi giáo
ở TP. Hồ Chí Minh cho tới ngày nay.
II. Đức tin và giáo luật của Hồi giáo
1. Cũng như bất cứ một tôn giáo nào, giáo lý Hồi giáo cũng bao gồm những quan niệm về thế giới
và con người. Tuy nhiên, giáo lý Hồi giáo chứa đựng yếu tố tín ngưỡng cổ của người Ảrập. Cơ sở giáo lý Hồi giáo
là niềm tin vào Thượng đế Allah và Thiên sứ Mohammad, tin vào thiên thần và sự bất tử của linh hồn, tin vào ngày
phục sinh và phán xét cuối cùng. Đặc biệt là tin vào sự vĩnh cửu của kinh Qur'an và luật Sariat.
Kinh Qur'an là thánh thư của Hồi giáo, được thiết lập gồm 30 phần, 114 chương (Surah) với 6.211
câu (Ayat) và được viết bằng tiếng Ảrập. Theo Hồi giáo, kinh Qur'an là những lời giáo huấn của Thượng đế cho
mọi người mà Thiên sứ Mohammad đã nhận được qua thiên thần Gabriel trong khoảng 22 năm (610-632). Thực


ra, kinh Qur'an là tập hợp những lời thuyết đạo của Mohammad lúc còn tại thế, mãi về sau này được sưu tầm, biên
soạn thành văn bản chính thức lưu truyền cho đến ngày nay. Kinh Qur'an được người Hồi giáo coi là "cuốn sách vĩ
đại nhất, thông thái nhất" chứa đựng mọi "chân lý và tri thức" của loài người.
Thực tiễn cho thấy, kinh Qur'an không chỉ đơn thuần là kinh sách tôn giáo mà nó còn có ý nghĩa về
tính pháp lý trong xã hội, có nhiều quy định về vệ sinh, ăn ở, hôn nhân, cách cư xử trong gia đình và trong quan hệ
xã hội như: quan hệ mua bán, tài chính, chính trị - có cả tội ác và hình phạt. Đây là một đặc điểm quan trọng nhất
của Hồi giáo, nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo với đời, giữa tôn giáo và chính trị.
Ngoài những điều, những hành vi cuộc sống thường nhật của con người mà kinh Qur'an không quy
định, hành vi “đối nhân xử thế” của Mohammad hoặc những việc làm của tín đồ mà không bị ngăn cấm đều được
coi như những điều luật về tôn giáo và đạo đức của con người. Sự ghi nhận đó là cơ sở và nguồn gốc sách luật
thứ hai của tín ngưỡng Hồi giáo - luật Sariat.
2. Hồi giáo là một tôn giáo không có hệ thống phẩm trật chức sắc, tuy nhiên giáo luật Hồi giáo lại
chứa đựng nhiều nội dung và hành vi xử thế trong cuộc sống xã hội - con người có tính chất bắt buộc cao và rất
khắt khe. Nó vượt ra khỏi phạm vi đức tin và những sinh hoạt tôn giáo thuần tuý để trở thành tiêu chuẩn pháp lý
trong đời sống xã hội, chi phối mọi hoạt động của người Hồi giáo. Vì vậy, một số quốc gia Hồi giáo áp dụng và đưa
luật Hồi giáo vào quản lý đất nước hoặc được thực hiện với luật pháp nhà nước. Giáo luật Hồi giáo tập trung vào 5

điều sống đạo cơ bản (còn gọi là 5 cốt đạo) sau đây:
- Xác tín hoặc còn gọi là biểu lộ đức tin (Tawhid).
- Cầu nguyện mỗi ngày (Solah).
- Tháng lễ Ramadan - tháng 9 Hồi lịch.
- Bố thí (Zakat).
- Hành hương (Hadji) viếng thánh địa Mecca.
Ngoài ra, những tín đồ Hồi giáo còn có nghĩa vụ dự thánh chiến (Jihad).
B. HỒI GIÁO Ở VIỆT NAM
I. Những đặc điểm chủ yếu
Ở nước ta, cộng đồng cư dân Chăm theo Hồi giáo mang tính đặc thù rõ nét, được chia thành 2
dòng khác nhau. Người ta thường gọi là Chăm Islam và Chăm Bàni với những đặc điểm chủ yếu sau đây:
1. Truyền thống gắn bó và đồng hành cùng dân tộc
Việt Nam chủ yếu chỉ có người Chăm theo Hồi giáo. Vì vậy, Hồi giáo gắn bó với dân tộc Chăm, mà
cư dân Chăm là một dân tộc có nền văn hoá đa dạng và phong phú; có truyền thống yêu nước, gắn kết với dân tộc
và cách mạng, đã có nhiều đóng góp trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Là một dân tộc trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, đồng bào Chăm Hồi giáo luôn phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống đoàn kết, yêu
nước gắn bó với cộng đồng các dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc.
Hơn nữa, từ khi có Đảng đồng bào Chăm Hồi giáo luôn đi theo và tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; làm tốt nghĩa vụ công
dân, ủng hộ sự nghiệp đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, góp phần viết tiếp trang sử vẻ vang của dân tộc
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2. Tính chính thống của Hồi giáo có thay đổi
Bởi tác động của bản sắc văn hoá dân tộc vùng Đông Nam Á, trong đó nền tín ngưỡng, tôn giáo bản địa
cổ Bàlamôn chiếm địa vị chủ yếu. Sự tác động này được gọi là quá trình “Chăm hoá”.
Như khi nghiên cứu, để chinh phục thế giới Ảrập và bành trướng thế lực, Hồi giáo chủ trương mở


rộng “đất thánh” bằng các cuộc thánh chiến, với khẩu hiệu “Thanh gươm, vó ngựa, kinh Qur'an”. Nhưng khi Hồi
giáo truyền bá xuống phía Đông bị cản trở bởi đại dương nên không thể tiến hành thánh chiến mà các giáo sĩ
truyền đạo thông qua thương thuyền theo con đường mậu dịch để truyền bá và phát triển Hồi giáo ở vùng này.

Chúng ta có thể khẳng định khi Hồi giáo truyền bá xuống phía Đông đã chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi bản sắc văn
hoá truyền thống lâu đời của vùng Á Đông và tín ngưỡng cổ Bàlamôn với chế độ mẫu hệ, làm cho tính cách Hồi
giáo phải biến đổi phù hợp với nền văn hóa bản địa.
3. Tính quốc tế của Hồi giáo
Hồi giáo là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất thế giới, đang trong xu thế của quá trình “Hồi giáo
hoá thế giới”. Hơn nữa, thế giới đang đứng trước nguy cơ xung đột sắc tộc và tôn giáo trong mối quan hệ “toàn
cầu hoá”. Đảng ta chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế theo phương châm “Việt Nam là bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Các tôn giáo ở Việt Nam, nhất là Chăm Hồi
giáo đã, đang và sẽ tiếp tục chịu sự tác động nhiều mặt của Hồi giáo thế giới. Theo đó, một số sinh hoạt tôn giáo
truyền thống của Hồi giáo vốn mang tính quốc tế nay được mở rộng. Nó vừa là nhu cầu, vừa là đặc điểm phổ biến
đang phát triển.
Cùng với xu thế hội nhập quốc tế của Nhà nước, Hồi giáo Việt Nam cũng mở rộng và phát triển
giao lưu với các cá nhân, tổ chức Hồi giáo ngoài nước. Mối quan hệ đó không chỉ vì mục đích tôn giáo mà còn có
những mục đích chính trị - xã hội. Nhằm thúc đẩy hoạt động Hồi giáo nước ta hội nhập vào cộng đồng Hồi giáo thế
giới.
II. Thực trạng về tình hình Hồi giáo
1. Số lượng và phân bố tín đồ
Hiện nay, theo số liệu thống kê của các địa phương có Hồi giáo, số lượng tín đồ Hồi giáo khoảng
hơn 72.000 người (bao gồm cả Chăm Bàni và Chăm Islam), cư trú trên địa bàn 13/63 tỉnh, thành phố cả nước. Hồi
giáo ở nước ta hình thành hai dòng:
- Một là: Cộng đồng Hồi giáo tuân thủ tương đối giáo lý Hồi giáo nguyên thuỷ gọi là Chăm Islam,
sống tập trung ở 12 tỉnh, thành phố: An Giang, TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai, Ninh Thuận, Kiên Giang, Trà
Vinh, Tiền Giang, Long An, Bình Dương, Bình Phước và Thủ đô Hà Nội.
- Hai là: Cộng đồng theo Hồi giáo đã bị “Chăm hoá” gọi là Chăm Bàni, sống tập trung ở ba tỉnh:
Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Phước.
Qua khảo sát về tình hình Hồi giáo ở Việt Nam, có thể rút ra một số vấn đề sau:
- Hồi giáo ở Việt Nam không nhiều và chủ yếu là trong cư dân Chăm. Tỷ lệ tín đồ tăng chậm trong
thời gian qua, ngoài một bộ phận bỏ tín ngưỡng Bàni theo Islam ở Phước Nam (Ninh Thuận) vào những năm 60
của thế kỷ XX, số tín đồ theo Hồi giáo qua con đường “truyền đạo” không đáng kể và chủ yếu là tăng tự nhiên.
- Dân cư hình thành theo các nhóm cộng đồng Jam'ah có tính quần cư là chủ yếu, một bộ phận

không lớn cộng cư với người Kinh và các dân tộc anh em. Tuy nhiên, tính cộng đồng - nét truyền thống tổ chức xã hội của cư dân Chăm vẫn là lối sống đặc trưng của cư dân Chăm Hồi giáo.
- Hồi giáo nước ta có sự khác biệt giữa các vùng, trong đó Chăm Islam có mối quan hệ thường
xuyên với Hồi giáo thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Mối quan hệ đó, ngoài yếu tố tôn giáo còn có quan
hệ thân tộc.
2. Nhu cầu về niềm tin tôn giáo
Đồng bào Chăm Islam và Chăm Bàni có niềm tin tôn giáo sâu sắc vào Thượng đế Allah và Thiên
kinh Qur'an, là nhu cầu đời sống tinh thần không thể thiếu, nó gắn chặt với yếu tố tôn giáo. Nó hoàn toàn khác với


nhu cầu về vật chất trong đời sống xã hội. Nhưng niềm tin đó lại có sự khác nhau trong quá trình thực thi giáo luật
Hồi giáo giữa hai dòng: Chăm Islam thực thi giáo luật Hồi giáo hầu như trọn vẹn mang tính chính thống, yếu tố tôn
giáo sâu sắc hơn; Chăm Bàni thực hiện giáo luật mang tính tượng trưng, không thực hiện hết 5 điều sống đạo, chỉ
thực hiện trong tháng Ramadan mà họ quen gọi là tháng “vào chùa’’ của các vị chức sắc. Mặt khác, Chăm Bàni
chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tôn giáo Bàlamôn và tín ngưỡng bản địa với chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng đa thần, có
yếu tố dân tộc mang tính vượt trội.

3. Về thực trạng kinh tế - xã hội
Đánh giá một cách tổng quát, tình hình kinh tế - xã hội của đồng bào Chăm Hồi giáo nước ta hiện
nay được cải thiện. Đời sống kinh tế của đồng bào Hồi giáo được nâng cao nhờ cơ sở hạ tầng phát
triển, đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, phù hợp với đặc điểm của từng vùng. Các
biện pháp kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất, nhất là khi Đảng ta thực hiện sự nghiệp đổi mới đất
nước. Cho nên, mức sống của đồng bào Chăm cũng được nâng lên theo tỷ lệ chung ở từng vùng, từng
địa phương, số hộ đạt mức sống khá và giàu tăng lên. Tuy nhiên, vẫn còn một số cộng đồng Hồi giáo
nhỏ lẻ thiếu đất sản xuất. Do đó, tình hình tái nghèo và thất học trong các cộng đồng này đang là một
vấn đề cần được quan tâm.
Những năm gần đây, đời sống văn hoá - xã hội trong các cộng đồng Hồi giáo cũng phát triển và
tăng lên rõ rệt. Theo đó, trình độ học vấn trong đồng bào Hồi giáo cũng từng bước nâng lên, nhất là khi
Nhà nước áp dụng chính sách miễn học phí cho học sinh là con em đồng bào Chăm. Một bộ phận
người Chăm Hồi giáo có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học.
4. Về cơ sở thờ tự

Theo kết quả khảo sát, số lượng cơ sở thờ tự của Hồi giáo đến năm 2009 là 79 cơ sở. Trong đó,
Chăm Islam có 40 thánh đường, 22 tiểu thánh đường; Chăm Bàni có 17 thánh đường (chùa). So với
trước ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975, số lượng cơ sở thờ tự của Hồi giáo tăng, nhiều cơ sở
được trùng tu, sửa chữa khang trang.
5. Về tổ chức Hồi giáo
Đối với Chăm Islam, trước năm 1975, ở miền Nam, Hồi giáo có hai tổ chức chính thức là: "Hiệp
hội Chàm Hồi giáo Việt Nam" và "Hội đồng giáo cả Islam Việt Nam". Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam
hoạt động dưới sự điều hành của Ban Quản trị Hiệp hội Trung Ương và Đại hội đồng cơ sở. Nhằm mục
đích: không hoạt động chính trị mà duy trì những tinh hoa đạo đức trong sinh hoạt tôn giáo; thực thi các
tập tục truyền thống và đời sống đạo đã được kinh Qur'an giáo huấn. Tuy nhiên, cả hai tổ chức này
nhất là Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam bị chính quyền Mỹ, Ngụy lợi dụng, sử dụng làm công cụ
chống cách mạng. Do đó, nó cùng tồn tại đến ngày 30/4/1975 thì tự giải tán theo sự sụp đổ của chính
quyền ngụy Sài Gòn.
Mặt khác, trong cộng đồng Chăm Bàni ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, trước năm 1975
đều có tổ chức "Hội đồng giáo cả" tuy chưa được pháp luật thừa nhận nhưng trên thực tế vẫn hoạt
động và tồn tại cho đến nay.
Từ sau giải phóng miền Nam đến trước khi có chủ trương của Đảng về công tác đối với Hồi
giáo, ở Việt Nam mới có một tổ chức là Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo TP. Hồ Chí Minh được thành
lập tháng 7/1992. Từ năm 2003 (thực hiện chủ trương của Đảng về công tác Hồi giáo), Ban Tôn giáo


Chính phủ phối hợp với Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố có Hồi giáo đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
tôn giáo về mặt tổ chức cho bà con tín đồ. Đến nay, đối với Chăm Islam, có thêm hai tổ chức Hồi giáo
cấp tỉnh ở tỉnh An Giang và Tây Ninh; đối với Chăm Bàni, có Hội đồng sư cả Hồi giáo Bàni tỉnh Ninh
Thuận. Trong thời gian qua, việc thành lập tổ chức của các cộng đồng Hồi giáo giúp cho công tác quản
lý nhà nước ở địa phương đối với Hồi giáo tốt hơn, kịp thời đáp ứng những nguyện vọng chính đáng
của bà con tín đồ.
Thông qua các tổ chức này, cấp uỷ, chính quyền, UBMTTQVN và đoàn thể các cấp có nhiều
thuận lợi trong việc tuyên truyền phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
cho bà con tín đồ Hồi giáo. Nhằm giúp họ hiểu rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với việc nâng

cao đời sống vật chất, tinh thần của tín đồ Hồi giáo, củng cố niềm tin, ý thức tự nguyện ủng hộ và tham
gia thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, cũng như chủ trương, chính sách tôn trọng tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta./.

-

Câu 5 thành tựu cơ bản của văn minh ấn độ thời cổ đại 9 sgk trang 73
Câu 6 sự hình thành và phát triển của đạo phật ở ấn độ thời cổ trung đại. ảnh

-

hửng của đạo phật trong đời sống xã hội việt nam hiện nay.
Sự hình thành và phát triển của đạo phật

-

Phật giáo là một trào lưu tư tưởng lớn xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI trước Công
nguyên, ở miền Bắc Ấn Độ, phía Nam dãy Himalaya, vùng biên giới giữa Ấn Độ và
Nêpan bây giờ. Sự ra đời của tư tưởng Phật giáo gắn liền với hoàn cảnh lịch sử, kinh
tế, chính trị - xã hội của Ấn Độ đương thời. Đây là thời kỳ chế độ nô lệ kiểu phương
Đông đã phát triển với sự phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt và nhà nước quân chủ
chuyên chế trung ương tập quyền là sở hữu tối cao về ruộng đất và thần dân. Đời sống
tinh thần xã hội lúc này bị thống trị bởi quan điểm duy tâm, tôn giáo trong thánh kinh
Veda

đạo
Balamon.
Sự thống trị khắc nghiệt của những tầng lớp trên và sự cùng cực của các tầng lớp dưới
trong xã hội Ấn Độ tất yếu dẫn đến những mâu thuẫn sâu sắc và sự phản kháng của
quần chúng lao động đòi hỏi một sự tự do, công bằng, bình đẳng. Trong làn sóng đấu

tranh mạnh mẽ đó, Phật giáo xuất hiện đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân, nó
phản ánh nỗi đau khổ của con người, chống lại chế độ phân biệt đẳng cấp và sự áp
bức, bất công, chống lại giáo lý truyền thống của kinh Veda và đạo Balamon, bác bỏ uy
quyền thần thánh, xây dựng niềm tin vào chính con người. Với mục đích giải thoát con
người bằng chính cuộc sống đức độ của con người, Phật giáo đã nhanh chóng chiếm
được tình cảm và niềm tin của đông đảo quần chúng lao động. Trải qua những thăng
trầm của lịch sử, Phật giáo từ chỗ là một trào lưu tư tưởng bị coi là tà giáo đã phát triển
một cách mạnh mẽ, trở thành một tôn giáo lớn, có tính chất quốc tế được truyền bá rộng
rãi, đã và đang ảnh hưởng nhiều đến đời sống văn hóa, tinh thần của nhiều dân tộc
phương
Đông.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, có một hiện tượng mang tính quy luật, đó là hiện


tượng phân phái của các hệ thống triết lý lớn trong quá trình phát triển của chúng.
Không nằm ngoài quy luật đó, trong quá trình phát triển của mình, Phật giáo đã phân
chia thành nhiều bộ phái khác nhau do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
-

-

-

-

-

Ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước CN ở miền Bắc Ấn Độ, với những tư tưởng tiến bộ
và tích cực, Phật giáo đã nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin của đông đảo
quần chúng, trở thành ngọn cờ đầu của phong trào cách tân tư tưởng và xã hội ở Ấn

Độ cổ đại. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, do cuộc đấu tranh tư tưởng giữa các
trường phái triết học, tôn giáo khác nhau, cũng như sự thay đổi của cuộc sống, Phật
giáo cũng có sự thay đổi, được hoàn chỉnh dần để thích nghi. Qua quá trình này, đặc
biệt là qua các cuộc kết tập kinh điển, Phật giáo phân ra thành nhiều phái khác nhau,
với sự khác nhau về giới luật, triết học, giáo lý, nghi thức mà điển hình là hai bộ phái
Tiểu thừa và Đại thừ
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, có một hiện tượng mang tính quy luật, đó là sự phân phái của các hệ
thống triết lý tôn giáo lớn trong quá trình phát triển của chúng. Phật giáo cũng không nằm ngoài quy luật
đó. Ra đời vào khoảng thế kỷ VI TCN., ở miền Bắc Ấn Độ, trong làn sóng đòi tự do tư tưởng và bình đẳng
xã hội, Phật giáo, một mặt, phủ nhận những giáo lý, lễ nghi khắt khe của đạo Bà la môn và chế độ phân
biệt đẳng cấp xã hội khắc nghiệt; mặt khác, lại kế thừa những tư tưởng, những yếu tố tích cực của nó như
đề cao lòng nhân ái, từ bi, với mục đích tối cao là “giải thoát” con người khỏi bể khổ của cuộc đời bằng sự
tu luyện đạo đức, tu luyện trí tuệ, thiền định (giới, định, tuệ). Nhờ đó, Phật giáo đã nhanh chóng chiếm
được tình cảm và niềm tin của đông đảo quần chúng, trở thành ngọn cờ đầu của phong trào cách tân tư
tưởng và xã hội ở Ấn Độ cổ đại. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, Phật giáo đã phân chia thành nhiều
bộ phái khác nhau, do những nguyên nhân nội bộ nảy sinh và những nguyên nhân tác động bên ngoài.
Sau khi Đức Phật diệt độ, các môn đệ cũng như các tăng sỹ trong hàng ngũ tăng già có quan điểm khác
nhau về giáo lý và giới luật của Đức Phật, thể hiện rõ ở hai quan điểm bảo thủ và cách tân. Đại đa số các
tăng sỹ, trong đó có Ca Diếp, đều theo quan điểm bảo thủ, chủ trương bảo vệ truyền thống, nghĩa là
“không ai được thêm bớt chút nào trong các luật lệ mà Đức Thế Tôn đã ban hành”(1), giữ nguyên lời giảng
của Đức Phật lúc còn tại thế. Trái lại, những người theo quan điểm cách tân như A Nan lại cho rằng, tuỳ
theo hoàn cảnh cụ thể, có thể thêm bớt vào những lời giảng, những giới luật của Đức Phật cho phù hợp.
Theo họ, không nên gò bó gượng ép lời dạy, giới luật vào ngôn từ chữ nghĩa hẹp hòi, mà phải thấu hiểu ý
nghĩa sâu xa những lời dạy của Đức Phật để áp dụng cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Vì thế, ngài Đại
Thiên chủ trương: Khi Phật còn tại thế, chư Thiên và Tứ chúng nói ra, đều phải được Phật ấn chứng, mới
gọi là Kinh, nay Phật đã diệt độ, nếu trong đại chúng có người thông minh, có tài thuyết pháp, cũng có thể
trước tác được “Kinh Điển”(2).
Sự khác nhau trong quan niệm về giới luật là nguyên nhân thứ hai của quá trình phân phái. Có thể nói, đây
là nguyên nhân tác động mạnh mẽ nhất dẫn đến sự phân phái. Khác nhau về quan điểm, lập trường tư
tưởng, không phải bất cứ ai, lúc nào cũng thấy được, nhưng khác nhau về giới luật luôn được thể hiện một

cách khá rõ ràng và nhanh chóng làm cho các tăng sỹ, phật tử phân rẽ. Nói chung, các phật tử đều sống
theo các giới luật cơ bản của Phật tổ như Ngũ giới, Lục độ… Nhưng sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, những
người theo quan điểm tiến bộ chủ trương sửa đổi lại một số luật lệ truyền thống cho phù hợp với hoàn cảnh
thực tại. Theo họ, nếu tất cả những điều xưa kia bị cấm, thì trong hoàn cảnh hiện tại, có thể được phép làm
mà không phạm giới. Trong khi đó, phần lớn các trưởng lão, các tăng sỹ cương quyết giữ nguyên giới luật
truyền thống, không thay đổi, thêm bớt, dù là nhỏ nhất. Điều này dẫn đến sự khác nhau về giới luật giữa
các tăng đoàn.
Nguyên nhân thứ ba, đó là sự khác nhau về triết học và giáo lý trong nội bộ Phật giáo. Chẳng hạn, ở phạm
vi triết lý, có hai lập trường khác nhau về vấn đề bản thể luận. Quan điểm “hữu luận” chủ trương thế giới
vật chất tồn tại chân thực và hiện hữu tương đối. Ngược lại, quan điểm “không luận” lại cho rằng, thế giới
vạn vật hiện hữu đấy, nhưng không có thật, cái gốc của nó vẫn là “không” (sunya). Cũng tương tự như vậy,
ở phạm vi giáo lý, các tăng sỹ phật tử cũng theo một mục đích tôn chỉ phấn đấu cho sự giải thoát cuối cùng
là Niết bàn, nhưng họ lại có quan điểm khác nhau về cách thức giải thoát. Một số chủ trương mỗi người tự
tu luyện để đạt Niết bàn, không ai có thể làm thay hoặc trợ giúp. Đó là sự giải thoát mang tính cá nhân – tự
giác. Số khác lại quan niệm rằng, để giải thoát, con người không chỉ dựa vào bản thân, mà còn cần đến sự


-

-

-

-

-

giúp đỡ từ bên ngoài - “giác giả giác tha”. Vì thế, có một số vị Bồ Tát đã đạt Niết bàn, tự nguyện ở lại cứu
nhân độ thế, giải thoát chúng sinh.
Có thể thấy rằng, lịch sử phát triển triết lý tôn giáo Ấn Độ gắn liền với những cuộc đấu tranh tư tưởng rất

sôi động và gay gắt giữa các trường phái triết học tôn giáo khác nhau. Quá trình phát triển, phân phái của
Phật giáo cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng của những cuộc tranh luận ấy, nhất là khi Bà la môn giáo
bắt đầu phục hồi, Hồi giáo tràn vào Ấn Độ. Qua sự phê phán, công kích của các trường phái triết học tôn
giáo truyền thống hoặc ngoại lai, Phật giáo đã bộc lộ những điểm yếu cần khắc phục trong quan điểm triết
học, hay trong phạm vi giáo lý, nghi thức, giới luật… Tuy nhiên, khi khắc phục những hạn chế ấy, các tăng
sỹ, phật tử, với những cách tiếp cận khác nhau, đi đến giải quyết vấn đề khác nhau, nảy sinh những hệ
luận tư tưởng không giống nhau. Từ đó, sự phân phái là điều khó tránh khỏi. Ví dụ, khi còn tại thế, với
tuyên ngôn nổi tiếng đầy tính nhân văn: “Cũng như đại dương chỉ có một vị mặn, đạo của ta không có gì
khác ngoài mục đích giải thoát”(3), Phật tổ có vẻ không quan tâm lắm đến vấn để bản thể luận triết học.
Nhưng sau khi Phật diệt độ, trước sự phê bình của các trường phái triết học, tôn giáo khác, Phật giáo nhận
ra hạn chế này và bắt đầu khắc phục. Và, khi giải quyết vấn đề bản thể luận, Phật giáo đã phân chia thành
hai phái với hai quan điểm “Hữu luận” và “Không luận”.
Tuy nhiên, xét cho cùng, nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất dẫn đến sự phân phái của Phật giáo, đó là sự
thay đổi cuộc sống hiện thực xã hội. Tư tưởng bao giờ cũng là tấm gương phản ánh hiện thực xã hội. Khi
thực tiễn xã hội thay đổi, tất yếu tư tưởng cũng thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Đó là quy luật
khách quan. Cuộc sống xã hội Ấn Độ thay đổi, muốn tồn tại, Phật giáo cũng phải thay đổi để thích nghi với
hoàn cảnh trong từng giai đoạn cụ thể. Sự thay đổi thích nghi ấy, một mặt, tạo ra sự phát triển và mặt
khác, đã dẫn đến sự phân phái.
Quá trình phân phái của Phật giáo có mầm mống ngay sau khi Đức Phật diệt độ và gắn liền với bốn cuộc
kết tập kinh điển.
Cuộc kết tập lần thứ nhất: Theo lịch sử Phật giáo, không bao lâu sau khi Phật tổ nhập diệt, một số tăng sỹ
bắt đầu có những biểu hiện sống tự do vượt ra ngoài những giới luật ràng buộc. Trước tình hình đó, Ca
Diếp, đệ tử tối cao của Đức Phật đã triệu tập một đại hội kết tập lại giáo pháp Phật tổ dạy một cách thống
nhất để mọi người tuân theo. Hội nghị kết tập lần này diễn ra ở thành Vương Xá, kinh đô nước Ma Kiệt Đà,
kéo dài bảy tháng. Thành phần hội nghị gồm 500 vị đã chứng quả A La Hán, do Ca Diếp chủ toạ. Vì thế, hội
nghị này được gọi là cuộc “Kết tập năm trăm” hay “Vương Xá kết tập”. Trong hội nghị, A Nan được cử tụng
lại pháp, Ưu Ba Ly được cử tụng lại giới luật của Phật tổ. Sau khi tụng xong được sự thảo luận và thừa nhận
của đại chúng cho là đúng với lời Phật nói, người ta bắt đầu ghi lại. Tạng Kinh, Tạng Luật có bắt đầu từ
đó(4). Riêng Tạng Luận do Ca Diếp phụ trách biên soạn, gồm bảy đoạn, nói về triết lý, đạo lý, siêu hình,
phong hoá và nghiêm luật(5). Cuộc kết tập lần này có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong lịch sử Phật giáo.

Bước đầu nó đã hình thành nên cơ cấu tổ chức giáo hội, Luật và Pháp được phân chia rõ ràng. Tuy nhiên,
cũng trong cuộc kết tập này, sự phân chia bộ phái đã bắt đầu nhen nhóm với hai quan điểm bảo thủ và
cách tân. Nếu Ca Diếp lặp đi lặp lại ba lần: Không ai được thêm bớt chút nào trong các luật lệ mà Đức Thế
Tôn ban hành, thì A Nan bày tỏ giữa hội nghị “có thể bớt đi những điều luật lặt vặt và nhỏ nhặt”(6), ý
tưởng của A Nan cũng được một số vị đồng tình ủng hộ.
Cuộc kết tập kinh điển lần thứ hai : 100 năm sau kỳ kết tập lần thứ nhất, 12.000 tăng sỹ thành Tỳ Xá Lỵ
không sống theo tất cả giới luật. Theo họ, trong giới luật có 10 điều được châm chế và họ đã không giữ
những giới luật này, vốn là những điều cấm kỵ: để dành muối trong một cái sừng để dùng trong những
ngày sau; ăn khi mặt trời đã xế, bóng dài quá hai ngón tay; đã ăn rồi lại ăn nữa khi sắp đi xa; hành lễ Bồ
Tát tập trung; tự quyền hành lễ; tự tiện bắt chước các bậc tôn sư làm việc; ăn bơ sữa sau khi đã ăn bữa
chính; được uống rượu pha loãng với nước; được dùng tấm thảm trải giường không viền.
Để xem xét lại 10 điều luật trên, cũng là để một lần nữa xác định lại giới pháp nhằm ngăn ngừa mọi điều
phi pháp có thể xảy ra, hội nghị kết tập lần thứ hai được triệu tập. Hội nghị quy tụ 700 vị trưởng lão tại
thành Phệ Xá Lỵ kéo dài khoảng 8 tháng, nên cũng được gọi là “Đại hội các vị trưởng lão” hay “Kỳ kết tập
bảy trăm”. Nói chung, sau nhiều lần thảo luận với nhiều ý kiến khác nhau, cuối cùng, hội nghị tuyên bố, 10
điều trên vẫn là những giới luật cần tuân giữ, nếu không sẽ phạm giới. Tuy nhiên, đa số các vị Đông bộ
không phục tùng nghị quyết này, họ cùng nhau hội họp ở nơi khác để kết tập kinh điển, gọi là Đại chúng
kết tập. Nội dung của Đại chúng kết tập là Kinh tạng, Luật tạng, Đại Pháp tạng, Tập tạng và Bồ Tát tạng.


-

-

-

-

-


-

-

Gọi là ngũ tạng(7). Từ đấy, giáo đoàn Phật giáo chia thành hai bộ phái khác nhau. Thượng toạ bộ theo
khuynh hướng bảo thủ, Đại chúng bộ theo khuynh hướng cách tân. Sau này trong quá trình phát triển,
Thượng toạ bộ và Đại chúng bộ tiếp tục phân liệt thành 20 bộ phái khác nhau.
Cuộc kết tập kinh điển lần thứ ba : vào khoảng thế kỷ III TCN., dưới thời vua A Dục – một người sùng đạo.
Thời kỳ này Phật giáo phát triển mạnh mẽ. Chùa chiền, tháp Phật được xây dựng khắp nơi. Số người theo
đạo đông đảo, thuộc đủ mọi tầng lớp phú gia, cơ hàn, quý chức, thương gia, kỹ nghệ… nhưng với nhiều
mục đích khác nhau. Vì thế, trong số đó, nhiều người không thành tâm với đạo, vẫn giữ những tập tục
ngoài đời, không thi hành trọn vẹn giới pháp Phật giáo, gây nhiều nỗi bất hoà, phân tranh phức tạp.
Lo lắng cho tiền đồ của Phật giáo, cùng với ý muốn truyền bá đạo Phật ra nước ngoài, vua A Dục quyết chí
tổ chức kỳ đại hội nhằm xác định, thống nhất lại giáo pháp, và chuẩn bị truyền bá ra ngoài. Do đó, cuộc kết
tập lần thứ ba diễn ra ở thành Hoa Thị vào năm thứ 18 dưới triều vua A Dục (136 năm sau kỳ kết tập lần
thứ hai). Có 1000 tăng sỹ thuộc nhiều bộ phái khác nhau tham dự, dưới sự chủ toạ của đại đức Tích Ha
(Tisya), kéo dài chín tháng. Ngoài việc nhuận sắc hai tạng Kinh, tạng Luật và chép thêm tạng Luận cho
hoàn chỉnh, thành công nhất trong kỳ kết tập này là việc truyền đạo ra nước ngoài. Sau kỳ đại hội, có 10
nhà truyền giáo đi đến chín nước khác nhau. Do vậy, số tín đồ Phật giáo ở nước ngoài gia tăng nhanh
chóng, nhưng các bộ phái vẫn tiếp tục phân liệt.
Cuộc kết tập kinh điển lần thứ tư : đầu thế kỷ II, lúc này Phật giáo đã phân chia thành nhiều bộ phái khác
nhau, vua Ca Nhi Sắc Ca (Kaniska) là người sùng mộ đạo Phật, mỗi ngày thỉnh một vị tăng để nghe thuyết
pháp và đọc lại các tạng Kinh, tạng Luận. Vua thấy giáo nghĩa không thống nhất, nên quyết định mở đại hội
kết tập nhằm thống nhất giáo nghĩa các bộ phái. Đại hội kết tập lần này diễn ra tại Tịnh xá Hoàn Lâm nước
Kasmitra, quy tụ 500 vị, toàn những người trí thức thông hiểu Tam tạng, do đại đức Thế Hữu chủ toạ. Ngoài
ra, còn có các vị đại đức nổi tiếng khác như Pháp Cứu, Diệu Âm, Giác Thiên, Hiếp Tôn Giả. Đại hội kỳ này
không thêm kinh sách mới mà thực chất là duyệt lại, chú thích các Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng, khắc
vào bảng đồng. Từ sau kỳ kết tập lần thứ tư, hai bộ phái Thượng toạ bộ (Tiểu thừa) và Đại chúng bộ (Đại
thừa) bước vào giai đoạn xung đột gay gắt.
Quá trình phân phái của Phật giáo bắt đầu từ khi Phật tổ diệt độ, kéo dài qua nhiều thế kỷ, đã hình thành

nên các bộ phái cơ bản sau:
Từ cuộc kết tập kinh điển lần thứ hai vào 100 trăm năm sau khi đức Phật diệt độ, Phật giáo phân chia
thành hai bộ phái: Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ . Sau đó, hai bộ phái này tiếp tục phân biệt thành nhiều
phái khác nhau.
Trong khoảng 100 - 200 năm sau khi Phật diệt độ, từ Đại chúng bộ nảy sinh tám bộ phái khác, nếu tính cả
Đại chúng bộ, có thể nói, Đại chúng bộ gồm 9 bộ phái sau: Đại chúng bộ, Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế
bộ, Kê dận bộ, Đa văn bộ, Thuyết giả bộ, Chế đa sơn bộ, Tây sơn trụ bộ, Bắc sơn trụ bộ .
Thượng tọa bộ vẫn giữ khuynh hướng bảo thủ, nhưng do chịu ảnh hưởng phân liệt của Đại chúng bộ, nên
trong vòng 100 năm từ khoảng 200 - 300 năm sau khi Phật diệt độ, đã phân chia thành 11 bộ phái
sau: Thượng toạ bộ (sau là Tuyết sơn bộ), Thuyết nhất thiết hữu bộ, Độc tử bộ, Pháp thượng bộ, Hiền trụ
bộ, Chính lượng bộ, Mật lâm sơn bộ, Hoá địa bộ, Pháp tạng bộ, Ẩm quang bộ (Thiện tuế bộ), Kinh lương bộ
(Thuyết chuyên bộ).
Trong hệ thống Đại chúng bộ, đáng chú ý nhất là ba bộ phái: Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ và Thuyết
giả bộ. Ba bộ phái này có nhiều giáo nghĩa đặc sắc hơn so với các bộ phái khác trong hệ thống. Nhất thuyết
bộ chủ trương “Tam thế chư pháp, giả danh vô thể”(8). Giống như Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ cũng
kế thừa giáo lý “Pháp không luận” của Đại chúng bộ, nhưng Thuyết xuất thế bộ đứng trên lập trường phê
phán thực tại luận để bàn luận về thực tướng của chư pháp, chủ trương “Tục vọng, chân thực”. Còn Thuyết
giả bộ chủ trương các pháp đều có phần giả, phần thực. Đó là thuyết “Chân giả tịnh hữu” của bộ phái này.
Trong hệ thống Thượng toạ bộ, đáng chú ý nhất phải kể đến phái Hữu bộ. Hữu bộ do Ca Chiên Diên Tử
sáng lập vào khoảng thời gian 300 năm sau khi Đức Phật diệt độ. Nó chủ trương giáo nghĩa tuỳ vào sự tiến
triển của giáo lý Phật giáo nguyên thuỷ, lấy Luận tạng làm căn bản. Đó là thuyết “Tam thế thực hữu, pháp
thể hằng hữu”, đối lập với Thượng toạ bộ lấy Kinh tạng và giáo lý Phật giáo nguyên thuỷ làm căn bản,
không thiên trọng về Luật tạng và Luận tạng.
Một bộ phái quan trọng khác trong hệ thống Thượng toạ bộ, đó là Chính lượng bộ. Chính lượng bộ phát
sinh từ Độc tử bộ cùng với Pháp thượng bộ, Hiền trụ bộ và Mật lâm sơn bộ. Các bộ phái này đều lấy Luận


-

-


-

-

-

-

-

-

tạng làm bản vị, đều kế thừa giáo nghĩa của Độc tử bộ. Nhưng giáo nghĩa của Chính lượng bộ trở thành ưu
thế. Cho nên Hữu bộ, Chính lượng bộ là hai bộ phái trọng yếu của Thượng toạ bộ.
Từ sau cuộc kết tập lần thứ tư, tức vào khoảng thế kỷ II, lịch sử Phật giáo Ấn Độ không có gì khác hơn là
cuộc xung đột giữa hai phái Tiểu thừa và Đại thừa. Trước kia có nhiều phái nhưng về sau các phái đều theo
Đại thừa hoặc Tiểu thừa. Khi Đại thừa chưa ra đời, danh từ Tiểu thừa Phật giáo cũng chưa xuất hiện, và chỉ
gọi là “Nguyên thuỷ Phật giáo”. Nhưng sau khi Đại thừa xuất hiện, các học giả Đại thừa muốn phân biệt, so
bì cao thấp về mặt tư tưởng, giáo lý, nên gọi giáo lý “Nguyên thuỷ Phật giáo” là “Tiểu thừa Phật giáo”.
Tiểu thừa, tiếng Phạn gọi là Hinayana, ví như cỗ xe nhỏ chở được ít người. Đại thừa là Mahayana, ví như cỗ
xe lớn chở được nhiều người. Giữa Tiểu thừa và Đại thừa có nhiều điểm khác nhau về mặt tư tưởng, giáo
lý… Nếu Tiểu thừa chủ trương “Ngã không pháp hữu”, thì Đại thừa chủ trương “Ngã pháp câu không”. Tiểu
thừa cho rằng, con người phải tự tu luyện để đạt chứng quả, không ai có thể làm thay hoặc trợ giúp (tự
lợi); Đại thừa cho rằng, mỗi người giác ngộ cho mình và cho tất cả những người khá “giác giả giác tha” (lợi
tha). Tiểu thừa quan niệm, cứu cánh của giải thoát là đạt đến bậc A La Hán; Đại thừa quan niệm, cứu cánh
ấy là thành Phật. Tiểu thừa thờ một Đức Phật Thích Ca duy nhất; Đại thừa, ngoài Đức Phật Thích Ca, còn
thờ các Bồ Tát, La Hán, các vị thánh thần khác. Nói chung, Tiểu thừa muốn bảo tồn gìn giữ giáo lý, giới
pháp nguyên thuỷ. Đại thừa theo khuynh hướng tiến bộ, cách tân cho phù hợp với thời đại, nhằm mở rộng
Phật giáo. Trong quá trình phát triển, Tiểu thừa phân chia thành hai tông: Tỳ Bà Sa luận sư và Tăng Ca Lan

đa bộ. Tương tự như vậy, Đại thừa cũng phân chia thành hai phái chính: Trung luận và Du già.
Phái Tỳ Bà Sa luận sư cho rằng, chỉ có những sự vật hiện tượng nào mà con người nhận thức được bằng
giác quan và lý trí mới thực sự tồn tại. Theo họ, sự vật hiện tượng bao gồm hai loại: vĩnh viễn và không
vĩnh viễn. Do lấy lý luận làm tôn chỉ, nên phái này coi trọng Luận tạng hơn Kinh tạng. Đối với những người
theo phái này, Đức Phật cũng chỉ là một người bình thường như bao người khác, dù theo họ, Đức Phật hơn
người ở chỗ là đã giác ngộ thành Phật và tự mình khám phá chân lý mà không phải học ai.
Phái Tăng Ca Lan đa bộ, cũng được gọi là “Kinh bộ”, quan niệm sự vật hiện tượng chỉ là hình ảnh, và con
người có thể nhận biết chúng bằng lý trí. Họ phân chia vật thành hai loại. Loại thứ nhất được cấu thành do
nhiều pháp, ví dụ: ngũ uẩn gồm sắc, thụ, tưởng, hành, thức; loại thứ hai chỉ có một pháp, ví dụ như “lý
tưởng”. Trái với phái Tỳ Bà Sa luận sư, phái này đề cao Kinh tạng, không nhận Luận tạng. Bởi theo họ, Đức
Phật là bậc thánh nhân, là đấng đại từ, đại bi.
Phái Trung luận do Long Thọ Bồ Tát sáng lập vào khoảng thế kỷ II (có quan niệm cho rằng vào đầu thế kỷ
III). Nội dung chủ đạo cũng là điểm đáng chú ý nhất của phái này là tư tưởng “Trung đạo”, được thể hiện
trong hai tác phẩm nổi tiếng của Long Thọ, là “Thập nhị môn luận” và đặc biệt là tác phẩm “Trung quán
luận”. Theo Long Thọ, bản chất của thế giới là “Không” đối lập với “Có”, nhưng “Không” không phải là “Hư
vô” mà là cái tên vượt ra ngoài vòng “Có và Không”, gọi là “Trung đạo”. Cho nên thế giới:
Không sinh cũng không diệt
Không thường cũng không đoạn
Không một cũng không khác
Không lại cũng không đi(9)
Đưa ra quan điểm “bát bất” trên, một mặt, Long Thọ muốn chống lại quan niệm thông thường cho rằng thế
giới có sinh có diệt, có một có khác, có thường có đoạn, có lại có đi; mặt khác, để thuyết minh cho ý nghĩa
“Trung đạo” của mình. Đây cũng là quan niệm đánh dấu bước phát triển của triết học Phật giáo về bản thể
luận. Phái Trung luận phát triển đến thế kỷ VI thì phân thành hai phái: Ứng thành và Tự tục.
Phái Du già (Yoga), do anh em Vô Trước và Thế Thân Bồ Tát sáng lập vào khoảng thế kỷ V. Nội dung tư
tưởng chính yếu của phái này được thể hiện trong tác phẩm “Duy thức luận” của Thế Thân. Theo Thế Thân,
chỉ có cái thức – cái tư tưởng là thật. Nó bao hàm vạn vật trong đó. Các sự vật hiện tượng đều do thức mà
ra: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Có thức là có sự phân biệt giữa chủ thể và khách thể, có sự sai
biệt giữa các hiện tượng trong thế giới. Bản chất thực sự của con người là cái tâm thường tịnh, vắng lặng
và vô trụ. Cái tâm này hoàn toàn đồng nhất với bản thể tuyệt đối. Trong cái tâm tĩnh lặng hàm chứa mầm

mống của tám loại thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, mạt na thức và alaya thức. Chính alaya thức chứa
đựng vạn pháp và hàm chứa những tác động (duyên khởi) chuyển từ khả năng thành hiện thực.
Đồng nhất “bản thể tuyệt đối” với “tâm thức” của con người, theo Thế Thân, muốn đạt tới tâm thức tuyệt
đối, nghĩa là muốn được giải thoát, con người phải vượt lên trên nhận thức thông thường, tạo thành sự


-

-

-

-

-

đồng nhất hoàn toàn giữa chủ thể và khách thể, trở về với cái tâm thường tịnh, vắng lặng, vô thức… đó là
Niết bàn. Quá trình này phải được thực hiện bằng toàn bộ cuộc sống con người thông qua các phép tu
luyện cụ thể, đạt đến trình độ cảm nhận tâm linh trực giác. Với quan điểm này, Thế Thân đã đánh dấu bước
phát triển mới trong triết học Phật giáo, hoàn chỉnh hệ thống triết học về mặt nhận thức luận. Thế kỷ VIII,
khi Mật tông giáo hưng thịnh, phái Trung luận và Du già có sự dung hợp với nhau tạo thành phái Du già Trung quán hay Trung quán - Du già.
Mật tông là sự kết hợp giữa Phật giáo Đại thừa, Ấn Độ giáo và tín ngưỡng dân gian, mang tính chất huyền
bí, bùa chú… trong phép tu luyện giải thoát. Sau thời kỳ Mật tông, Phật giáo mất chỗ đứng ở Ấn Độ
(khoảng thế kỷ IX - X). Nhưng lúc này, Phật giáo đã lan rộng ra nước ngoài, đặc biệt là các nước châu Á, trở
thành tôn giáo lớn của thế giới, mang tính quốc tế.
Như vậy, từ một tôn giáo thống nhất, trong quá trình phát triển, Phật giáo đã phân chia thành nhiều bộ
phái khác nhau. Đó cũng là điều tất yếu phù hợp với lôgíc phát triển nội tại của nó. Nếu chỉ xét về mặt hình
thức, Phật giáo từ một tôn giáo thống nhất, phân liệt thành nhiều bộ phái, rồi đi đến mất chỗ đứng tại quê
hương Ấn Độ, thì người ta có thể coi đó là bước thụt lùi của tôn giáo này trong lịch sử. Nhưng nếu xét một
cách toàn diện, nhất là về mặt nội dung, phải thừa nhận rằng, quá trình phân phái của Phật giáo cũng là

quá trình phát triển và là sự thích ứng không ngừng của nó với điều kiện lịch sử mới. Trong quá trình ấy,
học thuyết triết học của Phật giáo được hoàn chỉnh với những đóng góp bổ xung to lớn của Long Thọ và
Thế Thân về mặt bản thể luận và nhận thức luận. Đây cũng là hai thành tựu triết học đáng ghi nhận trong
quá trình phát triển của Phật giáo. Trong quá trình ấy, số tín đồ của Phật giáo không ngừng gia tăng và mở
rộng ra ngoài Ấn Độ. Đồng thời, cơ cấu tổ chức giáo hội được hình thành và hoàn thiện dần, trở thành một
hệ thống chặt chẽ từ trên xuống dưới. Các tăng đoàn được tổ chức với những nội quy giới luật rõ ràng cụ
thể.
Về kinh điển, lúc đầu, khi Phật tổ còn tại thế, giáo pháp và giới luật Phật giáo thường được giảng dạy theo
lối truyền miệng, chưa phân biệt giáo pháp và giới luật. Sau khi Đức Phật nhập diệt, kinh điển được tác
thành văn, phân biệt rõ ràng giáo pháp và giới luật, thêm phần bình luận của các nhà thông thái nhằm chú
giải, phát triển sâu hơn ý nghĩa kinh điển. Kết quả là, một bộ kinh điển đồ sộ được hình thành với nội dung
phong phú sâu sắc, bao gồm Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng, gọi là Tam tạng.
Như vậy, có thể nói, quá trình phân phái của Phật giáo cũng chính là quá trình đi lên của tôn giáo này. Tuy
nhiên, nói như thế không có nghĩa là trong quá trình phát triển và phân phái, Phật giáo đã không có những
hạn chế. Chẳng hạn, một trong những hạn chế đó là, với quan niệm “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy
thức”, triết học Phật giáo từ một học thuyết tư tưởng duy vật vô thần nguyên thuỷ chuyển sang thành hệ
thống triết học mang màu sắc duy tâm chủ quan – duy ngã. Mặt khác, với khuynh hướng tôn thờ Phật tổ,
Bồ Tát, các vị thánh thần… của các bộ phái, phần nào làm lu mờ đi vẻ trong sáng, tính nhân văn, nhân bản
của hệ thống triết học Phật giáo vốn là học thuyết đạo đức nhân sinh, xuất phát từ con người và hướng đến
phục vụ con người, dù đó là con người mang tính chất tự nhiên nói chung.

ảnh hưởng của phật giáo trong đời sống xã hội người việt nam

-

I. Ảnh hưởng Phật giáo về mặt tư tưởng triết học và đạo lý: ^
Như đã trình bày ở phần A, ta thấy rằng Đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam
từ những kỷ nguyên Tây lịch, rồi tồn tại, phát triển và chan hòa với dân tộc này cho
đến tận hôm nay. Nếu thời gian là thước đo của chân lý thì với bề dày lịch sử đó,
Đạo Phật đã khẳng định chân giá trị của nó trên mãnh đất này. Trong các lĩnh vực

xã hội, văn hóa chính trị đặt biệt là xét trên khía cạnh hệ thống tư tưởng, thì Đạo
Phật đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần hình thành một quan niệm sống và sinh
hoạt cho con người Việt Nam. Trong phần này sẽ tìm hiểu về tư tưởng, đạo lý của
-


Phật Giáo đã tác động đến con người Việt Nam như thế nào và người Việt Nam đã
tiếp thu những tư tưởng, đạo lý của Phật Giáo ra sao.
1.Về tư tưởng:
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu
Đế và Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật giáo,
nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Đạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới hiện
tại. Duyên khởi nghĩa là sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại. Không
những các sự kiện thuộc thế giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà tất cả
những hiện tượng về thế giới tự nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng theo luật
duyên khởi mà sinh thành, tồn tại và tiêu hoại. Có 4 loại duyên cần được phân biệt:
thứ nhất là Nhân Duyên. Có thể gọi là điều kiện gần gũi nhất, như hạt lúa là nhân
duyên của cây lúa. Thứ hai là Tăng Thượng Duyên tức là những điều kiện có tư
liệu cho nhân duyên ví như phân bón và nước là tăng thượng duyên cho hạt lúa.
Thứ ba là Sở Duyên Duyên tức là những điều kiện làm đối tượng nhận thức, thứ tư
là Đẳng Vô Gián Duyên tức là sự liên tục không gián đoạn, cần thiết cho sự phát
sinh trưởng thành và tồn tại.
Luật nhân quả cần được quán sát và áp dụng theo nguyên tắc duyên sinh mới
có thể gọi là luật nhân quả của Đạo Phật, theo đạo lý duyên sinh, một nhân đơn độc
không bao giờ có khả năng sinh ra quả, và một nhân bao giờ cũng đóng vai trò quả,
cho một nhân khác. Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của Đạo Phật
đã được truyền vào nước ta rất sớm. Giáo lý này đương nhiên đã trở thành nếp sống
tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người
ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm

của lý nghiệp báo, nó chẳng những thích hợp với giới bình dân mà còn ảnh huởng
đến giới trí thức. Có thể nói mọi người dân Việt điều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý
này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân,
trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con
người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho
tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho con người. Thậm chí trẻ con mười tuổi cũng tự
nhiên biết câu: "ác giả ác báo". Chúng phát biểu câu rất đúng hoàn cảnh sự việc
xảy ra cho đối phương, hay "chạy trời không khỏi nắng". Mặt khác họ hiểu rằng
nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa
chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên những tai họa, biến cố xảy ra
cho họ, thì họ nghĩ rằng kiếp trước mình vụng đường tu nên mới gặp khổ nạn này.
Không than trời trách đất, cam chịu và tự cố gắng tu tỉnh để chuyển hóa dần ác
nghiệp kia. Nguyễn Du đã thể hiện ý này trong truyện Kiều rằng:
Cho hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần


Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Hoặc:
Có trời mà cũng có ta
Tu là cội phúc, tình là dây oan
Nếu ta nắm vững nguyên tắc nhân quả nghiệp báo như trên, thì chúng ta có
thể chuyển nghiệp ngay trong hiện kiếp. Cái đích của việc chuyển nghiệp, tái tạo cá
nhân là đến được trí tuệ tối hậu. Khởi đầu của việc chuyển nghiệp là bắt đầu thay
đổi hành nghiệp thiện và ác từ ba nghiệp Thân, Khẩu và Y của chính mỗi cá nhân.
Chứ không ngồi một chỗ tưởng tượng đến những kết quả tốt đẹp sẽ đến với mìn.
Từ những hành nghiệp thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho
ta có một cuộc sống yên vui cho hiện tại và mai sau.
2.Về đạo lý:

Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của phật
giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Đều này ta
thấy rõ qua con người và tư tưởng của Nguyễn Trải (1380-1442), một nhà văn, nhà
chính trị, nhà tư tưởng việt Nam kiệt xuất, ông đã khéo vận dụng đạo lý Từ Bi và
biến nó thành đường lối chính trị nhân bản đem lại thành công và rất nổi tiếng
trong lịch sử nước Việt. Ông nói điều đó trong Bình Ngô Đại Cáo rằng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Bằng cách:
Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Đem chí nhân để thay cường bạo
Cho nên khi đại thắng quân xâm lược, đối với tù binh nhà Minh, chúng ta
không những không giết hại mà còn cấp cho thuyền bè, lương thực để họ về nước.
Thần vũ chẳng giết hại
Thuận lòng trời ta mở đất hiều sinh
Tinh thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao tục
ngữ rất phổ biến trong quần chúng Việt Nam như "lá lành đùm lá rách", hay
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Đó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng điều
thấm nhuần và thuộc nằm lòng, nói lên lòng nhân ái vị tha của dân tộc Việt Nam.
Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác
của đạo phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân
chúng sanh. Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát
triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở mọi người bắt đầu từ
thân đến xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các mối
quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào quê hương đất nước và mở rộng đến quê
-



hương cao cả đối với cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Đặc biệt trong đạo lý
tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo
lý của người Việt. Vì đạo phật rất chú trọng đến hiếu hạnh, và được Đức Phật đã
thuyết giảng đề tài này trong nhiều kinh khác nhau như Kinh Báo Phụ Mẫu Ân,
kinh Thai Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Đại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu Lan.. nhắc
đến công lao dưỡng dục của cha mẹ, Phật dạy: "muôn việc ở thế gian, không gì hơn
công ơn nuôi dưỡng lớn lao của cha mẹ" (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục
dạy: "cùng tốt điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác không gì hơn bất
hiếu". Bởi Phật Giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên thích hợp với nếp
sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt.
Nhìn chung, đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối tượng
thực hiện là nhắm vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân , chúng sanh, vũ trụ,
đó là môi trường sống của chúng sanh gồm cả mặt tâm linh nữa. Đạo lý Tứ Ân còn
có chung cái động cơ thúc đẩy là Từ Bi, Hỷ Xã khiến cho ta sống hài hòa với xã
hội, với thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc chân thực và miên trường. Từ cơ sở tư
tưởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật Giáo Việt Nam hình thành được một
bản sắc đặc thù rất riêng biệt của nó tại Việt Nam, góp phần làm phong phú và đa
dạng hóa nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.
II. Ảnh hưởng Phật Giáo qua quá trình hội nhập văn hóa Việt Nam ^
Phật Pháp là bất định pháp, luôn luôn uyển chuyển theo hoàn cảnh và căn
cơ của chúng sanh để hoàn thành sứ mạng cứu khổ của mình. Với tinh thần nhập
thế tùy duyên bất biến mà Đạo Phật đã tạo cho mình một sức sống vô biên, vượt
qua những ngăn cách của địa lý, văn hóa, tôn giáo, ý thức hệ, thời gian ,không
gian…. Tinh thần tuỳ duyên là tự thay đổi với hoàn cảnh để có thể tiếp độ chúng
sanh, tính bất biến là giải thoát ra khỏi mọi đau khổ, sinh tử luân hồi. Tuy nhiên
Phật Giáo vẫn luôn luôn hòa nhập với tất cả các truyền thống văn hóa tín ngưỡng
của các nước trên thế giới. Khi du nhập vào một quốc gia có một sắc thái sống
riêng biệt, đặc thù, như Trung Hoa, một quốc gia có nền tư tưởng đông phương
khổng lồ, khi Phật Giáo truyền vào thì nền văn minh này đã phát triển tới đỉnh cao
của nó, mà trong lịch sử triết học gọi là Bách Gia Chu Tử (15), hàng trăm nhà tư

tương đề xướng học thuyết của mình. Nếu lúc đó Trung Hoa có 10 nhà tư tưởng
tiêu biểu như Âm Dương gia, Nhạc gia, Nho gia, Pháp gia, Danh gia, Đạo Đức gia,
Nông gia, Tiểu Thuyết gia ..thì Phật Giáo không dừng lại cái bình bát đi khất thực,
một tấm y vàng mà Phật Giáo đã đi vào cuộc đời bằng mười tông phái như Thiền
Tông, Tịnh Độ Tông, Hoa Nghiêm Tông, thành Thật Tông, Câu Xá Tông.. Phật
Giáo với mười tông phái này sánh vai với mười dòng tư tưởng của bản địa để đi
vào cuộc đời, không chỉ đến với những giới bình dân mà Phật Giáo còn đã đi thẳng
vào cung đình, vào với những vị nguyên thủ quốc gia (16). Ở Nhật Bản thì sao?
Nhật Bản là một quốc gia được xem là có nhều món ăn tinh thần nhất trên thế giới.
Không phải chỉ là khoái cảm cho vị giác, cho thính giác mà nhất là cho cảm giác
của tâm linh. Ở trong bối cảnh đó, Phật Giáo đã nhanh chóng đi vào hoa, vào trà để


rối cuối cùng nâng nó lên thành một tôn giáo. trà đạo hay hoa đạo. Còn ở Việt Nam
của chúng ta thì như thế nào? Trong quá trình hội nhập văn hóa sự ảnh hưởng của
Phật Giáo đã tác động và đã tạo cho Phật Giáo Việt Nam có những nét đặc thù sau
đây:
1.Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền thống:
Khi được truyền vào Việt Nam, Phật Giáo đã tiếp xúc ngay với các tín
ngưỡng bản địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này. Biểu tượng
chùa Tứ Pháp (17) thực ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự
nhiên Mây, Mưa, Sấm, Chớp và thờ Đá. Lối kiến trúc của chùa chiền Việt Nam là
tiền Phật hậu Thần cùng với việc thờ trong chùa các vị thần, các vị thánh, các vị
thành hoàng thổ địa và vị anh hùng dân tộc.. Chính vì tinh thần khai phóng này mà
về sau phát sinh những hậu quả mê tín dị đoan bên trong Phật Giáo như xin xăm,
bói quẻ, cầu đồng.. các nhà nghiên cứu nước ngoài rất ngạc nhiên khi thấy Phật
Giáo Việt Nam dung nạp dễ dàng các tín ngưỡng đa thần của bản địa trong khi các
quốc gia trong vùng thì không có (19). Có nên gạt bỏ loại hình tín ngưỡng truyền
thống này ra khỏi Phật Giáo không? Vẫn là một vấn đề rất tế nhị, tuy nhiên, ta phải
thừa nhận rằng tinh thần dung hòa và khai phóng của Phật Giáo Việt Nam là một

trong những nét đặc trưng đáng chú ý.
2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tôn giáo khác:
Đó là kết quả của sự phối hợp và kết tinh của Đạo Phật với đạo Nho và đạo
Lão, được các nhà vua thời Lý công khai hóa và hợp pháp hóa. Chính vì đặc tính
dung hòa và điều hợp này mà Phật Giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưởng truyền
thống của dân tộc Việt. Nó chẳng phải Phật giáo Ấn Độ hay Trung Hoa, Tiểu Thừa
hay Đại Thừa, mà nó là tất cả những khuynh hướng tâm linh của người dân Việt.
Nó thực ra là cái "Đồng Qui Nhi Thù Đồ", cùng về một đích mà đường lối khác
nhau, chính tinh thần khai phóng của Phật Giáo Việt Nam đã kết tinh lấy Chân,
Thiện, Mỹ làm cứu cánh để thực hiện. Nho giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con
đường Thiện, tức là hành vi đạo đức để tới chỗ nhất quán với Mỹ và Chân. Đạo
giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường Mỹ, tức là tâm lý nghệ thuật để tới chỗ
nhất quán với Thiện và Chân. Phật giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường trí
tuệ giác ngộ để đạt tới chỗ nhất quán Chân, Thiện, Mỹ. Đó là thực tại Tam Vi Nhất
của tinh thần tam Giáo Việt Nam. Trong nhiều thế kỷ hình ảnh tam giáo tổ sư với
Phật Thích Ca ở giữa, Lão Tử bên trái và Khổng Tử bên phái đã in sâu vào tâm
thức của người dân Việt.
3. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa giữa các tông phái Phật Giáo:
Đây là một nét đặc trưng rất riêng biệt của Phật Giáo Việt Nam so với các
quốc gia Phật Giáo láng giềng. Chẳng hạn như Thái Lan, Tích Lan, Lào,
Campuchia chỉ có Phật Giáo Nam Tông, ở Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Mông
Cổ thuần tuý chỉ có Phật Giáo Bắc Tông. Nhưng ở Việt Nam thì lại dung hòa và
điều hợp cả Nam Tông và Bắc Tông. Chính vì tinh thần khế lý khế cơ của Phật
Giáo cộng với tinh thần khai phóng của Phật Giáo Việt Nam mới có được kết quả


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×