Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tối đa cho nữ vận động viên đội tuyển đẩy gậy trường THPT hiệp hòa số 4 bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

NGUYỄN THỊ OANH

LỰA CHỌN BÀI TẬP PHÁT TRIỂN
SỨC MẠNH TỐI ĐA CHO NỮ VẬN ĐỘNG
VIÊN ĐỘI TUYỂN ĐẨY GẬY TRƢỜNG
THPT HIỆP HÒA SỐ 4 - BẮC GIANG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

HÀ NỘI - 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

NGUYỄN THỊ OANH

LỰA CHỌN BÀI TẬP PHÁT TRIỂN
SỨC MẠNH TỐI ĐA CHO NỮ VẬN ĐỘNG
VIÊN ĐỘI TUYỂN ĐẨY GẬY TRƢỜNG
THPT HIỆP HÒA SỐ 4 - BẮC GIANG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên nghành: Sƣ phạm GDTC
Hƣớng dẫn khoa học

ThS: LÊ XUÂN ĐIỆP

HÀ NỘI - 2016




LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là: Nguyễn Thị Oanh
Sinh viên lớp: K38A - GDTC
Tôi xin cam đoan đề tài “Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tối
đa cho nữ vận động viên đội tuyển Đẩy gậy trƣờng THPT Hiệp Hòa số 4 Bắc Giang” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, đề tài không trùng với kết
quả nghiên cứu của tác giả khác. Các kết quả nghiên cứu này mang tính thời
sự cấp thiết đúng thực tế khách quan của trường THPT Hiệp Hòa số 4 - Bắc
Giang. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Nguyễn Thị Oanh


DANH MỤC VIẾT TẮT
CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

ĐHSP

: Đại học sư phạm

GDTC

: Giáo dục thể chất


HLV

: Huấn luyện viên

LVĐ

: Lượng vận động

m

: Mét

NĐC

: Nhóm đối chứng

NTN

: Nhóm thực nghiệm

m

: Giây

SMTĐ

: Sức mạnh tối đa

STN


: Sau thực nghiệm

TDTT

: Thể dục thể thao

THCS

: Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thông

TLCM

: Thể lực chuyên môn

TTN

: Trước thực nghiệm

VĐV

: Vận động viên

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ

1

CHƢƠNG I: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

4

Những quan điểm của Đảng và nhà nƣớc về GDTC

4

1.1

trƣờng học
1.2

Công tác GDTC trong nhà trƣờng phổ thông

5

1.2.1

Mục tiêu

5


1.2.2

Nhiệm vụ

6

1.2.3

Phát triển thể thao thành tích cao trong nhà trường THPT

6

1.2.4

Mục tiêu phát triển GDTC và môn Đẩy gậy của trường

7

THPT Hiệp Hòa số 4 - Bắc Giang
1.3

Đặc điểm của môn Đẩy gậy

8

1.4

Kỹ - chiến thuật trong Đẩy gậy

8


1.4.1

Kỹ - chiến thuật trong Đẩy gậy

8

1.4.2

SMTĐ trong Đẩy gậy

9

1.5

Các nguyên tắc huấn luyện SMTĐ

10

1.5.1

Cơ sở lý luận của các nguyên tắc

10

1.5.2

Những đặc điểm huấn luyện SMTĐ trong môn Đẩy gậy

15


1.6

Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT

16

1.6.1

Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh THPT

16

1.6.2

Đặc điểm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT

17

CHƢƠNG II: NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC

19

NGHIÊN CỨU
2.1

Nhiệm vụ nghiên cứu

19


2.2

Phƣơng pháp nghiên cứu

19


2.2.1

Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu

19

2.2.2

Phương pháp quan sát sư phạm

19

2.2.3

Phương pháp phỏng vấn

20

2.2.4

Phương pháp kiểm tra sư phạm

20


2.2.5

Phương pháp thực nghiệm sư phạm

20

2.2.6

Phương pháp toán thống kê

21

2.3

Tổ chức nghiên cứu

22

2.3.1

Thời gian tổ chức nghiên cứu

22

2.3.2

Địa điểm nghiên cứu

23


2.3.3

Đối tượng nghiên cứu

23

2.3.4

Trang thiết bị nghiên cứu

23

CHƢƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1

Đánh giá thực trạng công tác GDTC, xu hƣớng phát

24
24

triển và lựa chọn phƣơng tiện đánh giá SMTĐ của nữ
VĐV đội tuyển Đẩy gậy trƣờng THPT Hiệp Hòa số 4 Bắc Giang
3.1.1

Đánh giá thực trạng công tác GDTC, xu hướng phát triển

24

SMTĐ cho nữ VĐV đội tuyển Đẩy gậy trường THPT Hiệp

Hòa số 4 - Bắc Giang
3.1.2

Lựa chọn phương tiện (các test chuyên môn) đánh giá đối

29

tượng nghiên cứu
3.1.3

Đánh giá thực trạng SMTĐ của đối tượng nghiên cứu bằng

31

các phương pháp kiểm tra sư phạm
3.1.4

Đánh giá chung về thực trạng của đối tượng nghiên cứu

32

3.2

Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả bài tập phát

33

triển SMTĐ cho nữ VĐV đội tuyển Đẩy gậy trƣờng



THPT Hiệp Hòa số 4 - Bắc Giang
3.2.1

Lựa chọn các bài tập

33

3.2.2

Kiểm tra đánh giá đối tượng nghiên cứu trước quá trình

38

nghiên cứu và ứng dụng
3.2.3

Tổ chức thực nghiệm

41

3.2.4

Đánh giá đối tượng nghiên cứu sau thực nghiệm

44

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC BẢNG
STT

TÊN BẢNG

TRANG

Bảng 3.1

Thực trạng đội ngũ giáo viên thể dục và đội ngũ cán bộ

26

tham gia huấn luyện môn Đẩy gậy trường THPT Hiệp
Hòa số 4 - Bắc Giang
Bảng 3.2

Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học tập

26

môn GDTC
Bảng 3.3

Thành tích thi đấu các giải của nữ VĐV đội tuyển Đẩy gậy

28

trường THPT Hiệp Hòa số 4 - Bắc Giang

Bảng 3.4

Kết quả phỏng vấn lựa chọn test kiểm tra SMTĐ cho nữ

30

VĐV Đẩy gậy trường THPT Hiệp Hòa số 4 - Bắc Giang
(n = 43)
Bảng 3.5

So sánh SMTĐ của nữ VĐV đội tuyển Đẩy gậy trường

32

THPT Hiệp Hòa số 4 và trường THPT Hiệp Hòa số 1
(n = 20).
Bảng 3.6

Kết quả phỏng vấn lựa chọn các bài tập phát triển

35,36

SMTĐ cho nữ VĐV đội tuyển Đẩy gậy trường THPT
Hiệp Hòa số 4 - BắcGiang (n = 43)
Bảng 3.7

Kết quả phỏng vấn về số buổi tập trong một tuần cho

38


đối tượng nghiên cứu (n = 43)
Bảng 3.8

Kết quả phỏng vấn mức độ ưu tiên thời gian tập thể lực

39

cho mỗi buổi tập (n = 43).
Bảng 3.9

Kiểm tra thành tích của 2 nhóm TTN (𝑛𝐴 + 𝑛𝐵 = 20)

40

Bảng 3.10 Phân phối chương trình thực nghiệm trong 6 tuần.

43

Bảng 3.11 Kiểm tra thành tích của 2 nhóm STN (𝑛𝐴 + 𝑛𝐵 = 20)

44

Bảng 3.12 So sánh kết quả thu được của NĐC trước và STN

46


Bảng 3.13 So sánh kết quả thu được của NTN trước và STN

46


Biểu đồ

Biểu đồ biểu diễn sự khác biệt về mặt thành tích thu

3.1

được của hai test TTN của hai nhóm

Biểu đồ

Biểu đồ biểu diễn sự khác biệt về mặt thành tích thu

3.2

được STN của hai nhóm

Biểu đồ

Biểu đồ so sánh sự khác biệt của NĐC trước và STN

48

Biểu đồ so sánh sự khác biệt của NTN trước và STN

48

41

45


3.3
Biểu đồ
3.4


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong công cuộc đổi mới đất nước, cùng với sự phát triển của nền kinh
tế, xã hội. TDTT ngày càng được phát triển mạnh mẽ và là một bộ phận
không thể thiếu trong giáo dục con người phát triển toàn diện. Ngoài ra TDTT
còn là một phương tiện có hiệu quả để nâng cao sức khỏe cho nhân dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ, góp phần tích cực bồi dưỡng nhân lực con người, đáp ứng
yêu cầu lao động và sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Do đó phải đào tạo con người Việt Nam
phát triển cân đối toàn diện, có đạo đức - trí thức - thể chất - thẩm mĩ và lao
động. Tập luyện TDTT còn góp phần vào việc đẩy mạnh sản xuất, phát triển
kinh tế, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. TDTT còn được coi là sứ giả
của hòa bình, là cầu nối giữa các dân tộc trên thế giới, mở rộng quan hệ ngoại
giao thúc đẩy kinh tế phát triển nâng cao vị thế quốc gia.
Trong những năm vừa qua Đảng và Nhà nước cũng quan tâm và chú
trọng vào các môn mũi nhọn như: Điền kinh, Bóng đá, Bóng chuyền, Bơi
lội… bên cạnh các môn thể thao đó, Đảng và Nhà nước cũng quan tâm và
phát triển các môn thể thao truyền thống mang đậm tính chất dân tộc như:
Vật, Đẩy gậy, Kéo co, Bắn nỏ, Võ thuật truyền thống… Trong đó, Đẩy gậy
vừa là trò chơi dân gian, vừa là môn thể thao truyền thống, mang đậm màu
sắc dân tộc và là hình ảnh đặc trưng của các lễ hội cổ truyền. Môn thể thao
này có luật chơi đơn giản, ít tốn kém, dễ tổ chức phù hợp với thế hệ trẻ Việt
Nam, qua đó góp phần đẩy mạnh phong trào TDTT làm phong phú thêm đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân.

Đẩy gậy đang và được phát triển mạnh ở các tỉnh như: Thái Nguyên,
Bắc Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Thành Phố Hồ Chí Minh… Hiện nay,
Đẩy gậy không chỉ dừng lại ở trò chơi dân gian mà còn được đưa vào thi đấu


2
mang tính chất chuyên nghiệp trong các cuộc thi thể thao. Đẩy gậy đã chính
thức là một trong số 40 môn thể thao nằm trong hệ thống thi đấu của Đại hội
TDTT toàn quốc lần thứ VI - năm 2010, đánh dấu bước ngoặt phát triển cho
môn thể thao dân tộc này. Ngày 29/5/2015, tại Trung tâm hoạt động thể thao
tỉnh Sơn La, Sở văn hóa - thể thao và du lịch tỉnh Sơn La đã đăng cai tổ chức
khai mạc giải vô địch đẩy gậy toàn quốc lần thứ IX năm 2015, với trên 160
VĐV đến từ các tỉnh như: Lai Châu, Điện Biên, Hòa Bình, Bắc Giang, Hà
Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh… tham gia ở 26 hạng cân. Bao gồm 14 hạng
cân dành cho nam và 12 hạng cân dành cho nữ. Giải vô địch đẩy gậy toàn
quốc được tổ chức hàng năm, góp phần bảo tồn và phát huy truyền thống văn
hóa thể thao của dân tộc. Thúc đẩy phong trào tập luyện môn Đẩy gậy trong
đông đảo nhân dân, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên.
Bắc Giang còn là một trong những tỉnh có phong trào tập luyện, thi đấu
môn Đẩy gậy phát triển mạnh, không chỉ ở các lễ hội mà Đẩy gậy còn được
đưa vào thi đấu trong các hội khỏe Phù Đổng các cấp THCS, THPT với nhiều
đơn vị tham gia như: Lục Nam, Lục Ngạn, Tân Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa và
một số đơn vị khác.
Qua quan sát, quá trình tập luyện của VĐV trường THPT Hiệp Hòa số
4 - Bắc Giang cho thấy thành tích của đội tuyển chưa cao, nguyên nhân là do
thể lực của các em còn hạn chế, tố chất sức mạnh đã được quan tâm nhưng
chưa đạt được hiệu quả. Đối với trường sư phạm Hà Nội 2 và trường THPT
Hiệp Hòa số 4 - Bắc Giang chưa có tác giả nào tổ chức nghiên cứu đề tài này.
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Lựa chọn bài tập phát triển
sức mạnh tối đa cho nữ VĐV Đội tuyển Đẩy gậy trường THPT Hiệp Hòa số

4 - Bắc Giang”.


3
 Mục đích đề tài: Tìm ra phương pháp đánh giá phù hợp với đối
tượng nghiên cứu qua đó đánh giá thực trạng tình hình tập luyện thi đấu của
đối tượng.
Lựa chọn và ứng dụng qua đó đánh giá hiệu quả bài tập phát triển
SMTĐ cho nữ VĐV đội tuyển Đẩy gậy trường THPT Hiệp Hòa số 4 - Bắc
Giang. Trên cơ sở đó góp phần nâng cao thể lực, thành tích thi đấu cho nữ
VĐV đội tuyển Đẩy gậy trường THPT Hiệp Hòa số 4 - Bắc Giang.
 Giả thiết khoa học: Nếu lựa chọn và ứng dụng thành công các bài
tập được đề tài lựa chọn sẽ nâng cao SMTĐ qua đó nâng cao thành tích thi
đấu cho đối tượng nghiên cứu.


4
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những quan điểm của Đảng và nhà nƣớc về GDTC trƣờng học
Nhà nước rất coi trọng GDTC trong trường học, công tác này nhằm
phát triển, hoàn thiện thể chất cho tầng lớp thanh - thiếu niên, nhi đồng.
GDTC là nội dung bắt buộc của học sinh - sinh viên, nó được thực hiện trong
hệ thống giáo dục quốc dân từ mần non đến đại học. Nhà nước khuyến khích
và tạo điều kiện cho học sinh tập luyện TDTT phù hợp với đặc điểm lứa tuổi
và điều kiện cơ sở vật chất từng nơi.
Chỉ thị 36/CT - TW ngày 24/03/1994 của Ban Bí thư TW Đảng giao
trách nhiệm cho Bộ Giáo dục và Đạo tạo, Tổng cục TDTT thường xuyên phối
hợp chỉ đạo công tác GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học, để việc tập
luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên.
Chỉ thị 36/CT - TW đã được Đại hội Đảng lần thứ IX xác định phương

hướng và nhiệm vụ „„Đẩy mạnh hoạt động TDTT, nâng cao thể trạng và tầm
vóc của người Việt Nam. Phát triển phong trào TDTT quần chúng với mạng
lưới cơ sở rộng khắp, đào tạo, bồi độ chung trong khu vực Đông Nam Á và có
vị trí cao trong nhiều bộ môn. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích nhân dân
và các tổ chức tham gia thiết thực, có hoạt động cao trong các hoạt động văn
hóa thể thao” [1].
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII cũng khẳng định: “Công
tác TDTT cần được coi trọng và nâng cao chất lượng GDTC trong các
trường học. Tổ chức hướng dẫn và vận động nhân dân tham gia rèn luyện
hàng ngày” [11].
Trong Hội nghị Ban Chấp hành TW Đảng lần 2 (khoá VIII) năm 1996
đưa ra nghị quyết quan trọng mang tính chiến lược đó là: “Sự nghiệp giáo dục
đào tạo là cuốc sách hàng đầu” [5]. Với mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ tương lai


5
của đất nước phát triển toàn diện: Đức, trí, thể, mĩ. Tại Hội Nghị TW IV khóa
VII về đổi mới công tác Giáo Dục - Đào Tạo, trong Văn kiện có ghi: “Phát
triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong
phú về tinh thần…” đã khẳng định mục tiêu giáo dục nhằm giáo dục về nhân
cách tăng cường thể lực cho học sinh, sinh viên. Ngày 07/08/1995 Thủ Tướng
chính phủ đã ra chỉ thị 113/TTg nêu rõ yêu cầu đối với tổng cục TDTT:
“Ngành TDTT phải xây dựng định hướng phát triển có tính chiến lược, trong
đó quy định rõ các hình thức hoạt động mang tính phổ cập đối với mọi đối
tượng lứa tuổi tạo thành phong trào tập luyện rộng rãi của quần chúng
hướng đến mục tiêu khỏe để xây dựng bảo vệ tổ quốc” [2].
GDTC trong nhà trường phổ thông nhằm từng bước nâng cao trình độ
văn hóa thể thao cho học sinh góp phần vào sự nghiệp TDTT của đất nước và
đặc biệt Nghị quyết TW II khóa VIII về công tác Giáo dục và Đào tạo đã
khẳng định rõ GDTC trong trường học là rất quan trọng.

Công tác TDTT phải góp phần tích cực thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội, Quốc phòng - An ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước, trước
hết là góp phần nâng cao sức khỏe, rèn luyện ý chí, giáo dục đạo đức, nâng cao
đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân,
nâng cao lòng tự hào dân tộc và đẩy lùi tệ nạn xã hội ở từng địa phương.
1.2. Công tác GDTC trong trƣờng THPT
1.2.1. Mục tiêu
Mục tiêu của hệ thống GDTC trong nhà trường THPT là hoàn thiện thể
chất cho học sinh, góp phần đào tạo thế hệ thanh thiếu niên thành những
người “phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh
thần, trong sáng về đạo đức”. Trên cơ sở đó đảm bảo khi kết thúc thời gian
học phải đạt được mức cần thiết về trình độ chuẩn bị thể lực toàn diện. Biết
vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã học vào hoạt động ở nhà trường và
trong cuộc sống hàng ngày.


6
Trong đó giáo dục cho học sinh THPT là một trong những mục tiêu
chiến lược của Đảng, Nhà Nước, của ngành Giáo dục và Đào tạo nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện ở tất cả
các bậc học, nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước,
thì nhất thiết phải coi trọng công tác GDTC trong trường học. Đặc biệt là khối
THPT vì học sinh là những chủ nhân tương lai của đất nước.
Đảng và Nhà nước luôn luôn nhất quán: Về mục tiêu công tác GDTC
và thể thao trường học là nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo đội ngũ
cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế và văn hóa xã hội, phát triển hài
hoà, có thể chất cường tráng, đáp ứng yêu cầu chuyên môn, nghề nghiệp và có
khả năng tiếp cận với thực tiễn lao động sản xuất của nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Nhiệm vụ
Căn cứ vào mục tiêu nêu trên, GDTC và TDTT trong trường học phải

giải quyết ba nhiệm vụ:
- Góp phần giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, rèn luyện tinh thần tập thể,
ý thức tổ chức kỷ luật, xây dựng niềm tin, lối sống lành mạnh, tinh thần tự giác
rèn luyện thân thể, sẵn sàng phục vụ lao động sản xuất và bảo vệ nước nhà.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức lý luận cơ bản về nội dung và
phương pháp tập luyện TDTT, kỹ năng vận động và kỹ thuật cơ bản một số
môn thể thao thích hợp. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng khả năng sử dụng các
phương tiện để rèn luyện thân thể, tham gia tích cực vào việc tuyên truyền và
tổ chức các hoạt động TDTT của nhà trường và xã hội.
- Góp phần duy trì và củng cố sức khoẻ, nâng cao trình độ thể lực cho
học sinh THPT, phát triển cơ thể hài hoà, cân đối, rèn luyện thân thể, đạt được
những yêu cầu về thể lực.
1.2.3. Phát triển thể thao thành tích cao trong nhà trường phổ thông.
Phát triển thể thao thành tích cao là dựa trên cơ sở phát triển toàn diện
các tố chất thể lực, trí lực và tài năng vận động của các em học sinh ở mức độ


7
giới hạn lớn nhất với mục tiêu là dành được thành tích cao nhất. Do đó khi
tiến hành các hoạt động huấn luyện thi đấu phải có tính khoa học và thiết thực
nhất. Nó vừa theo đuổi mục tiêu “cao hơn, nhanh hơn, mạnh hơn” vừa là đề
sướng các nguyên tắc: “Thi đấu công bằng”, “Tham gia thi đấu giành thắng
lợi là quan trọng”. Thể thao thành tích cao là cơ sở, nền tảng của TDTT quốc
dân. Đây là một chiến lược quan trọng và có tác dụng lâu dài vì lực lượng học
sinh, là lực lượng rất đông đảo và nhiệt tình trong việc tham gia tập luyện
TDTT. Phong trào TDTT trong học sinh, phát triển sẽ kéo theo phong trào thể
thao quần chúng phát triển và đây cũng là cơ sở để tuyển chọn, bồi dưỡng các
tài năng tiến đến thể thao thành tích cao. Nó là cầu nối để người học giao lưu,
học hỏi, đoàn kết lại với nhau. Nó khích lệ lòng tự tin, dũng cảm của người
học có khát khao khẳng định bản thân mình.

1.2.4. Mục tiêu phát triển GDTC và môn Đẩy gậy trường THPT Hiệp Hòa số
4 - Bắc Giang
Quá trình GDTC trong trường THPT Hiệp Hòa số 4 - Bắc Giang, mục
tiêu hàng đầu là giáo dục các tố chất thể lực là nhằm phát triển một cách toàn
diện, đồng thời góp phần phát triển nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh,
làm phong phú đời sống văn hóa và phát huy tinh thần đoàn kết cho các em
học sinh trong nhà trường.
Trong những năm gần đây được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường
cùng sự hướng dẫn giảng dạy nhiệt tình của các thầy cô bộ môn GDTC
trường THPT Hiệp Hòa số 4 - Bắc Giang, các em học sinh đã tích cực học
tập, rèn luyện thân thể và sáng tạo hơn trong các giờ học thể dục. Đặc biệt
nhiều học sinh còn đăng ký tham gia vào các câu lạc bộ của nhà trường và
tham gia nhiều nhất là câu lạc bộ Đẩy gậy vì môn thể thao này là môn thể
thao dân tộc mang tính chất đối kháng và là môn thể thao được ưa chuộng và
phát triển mạnh nhất trong tỉnh. Ngoài các hoạt động thi đấu trong câu lạc bộ
thì các em còn tham gia thi đấu ở hệ thống các giải của Huyện, Tỉnh, Thành


8
Phố và thi đấu toàn quốc. Nhằm mục đích học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm,
tiếp thu các kỹ năng - kỹ xảo vận động cần thiết và hoàn thiện bản thân mình
hơn.
Để phát triển hơn nữa môn thể thao dân tộc này nhà trường đã đầu tư
cơ sở vật chất và kinh phí cho đội tuyển, các giáo viên GDTC đã không
ngừng học hỏi về những tư thế và kỹ - chiến thuật mới trong Đẩy gậy, những
bài tập có liên quan giúp các em trang bị các tố chất thể lực và tâm lý khi thi
đấu để dành được nhiều giải cao trong trong thi đấu.
1.3. Đặc điểm của môn Đẩy gậy
Đẩy gậy vừa là trò chơi dân gian, vừa là môn thể thao truyền thống, mang
đậm màu sắc dân tộc và là hình ảnh đặc trưng của lễ hội xuân của người dân

Việt Nam. Đẩy gậy đã được đưa vào thi đấu mang tính chuyên nghiệp trong các
cuộc thi thể thao trong nước. Đẩy gậy còn là môn thể thao cần ít kinh phí đầu tư,
dễ chơi, có luật chơi đơn giản, ít tốn kém, dễ tổ chức chỉ cần có gậy thi đấu làm
bằng tre già hay những thanh gỗ tốt có chiều dài 2m, đường kính từ 4 - 5cm, dù
là gậy gỗ hay gậy tre đều phải thẳng và được sơn 2 màu đỏ và trắng (mỗi màu
1m) đầu và thân gậy phải được bào nhẵn và có đường kính bằng nhau. Vẽ một
vòng tròn có đường kính 5m vạch giới hạn rộng 5cm nằm trong phạm vi của sân
có màu trắng hoặc khác với màu nền sân là trận thi đấu có thể diễn ra. Điều quan
trọng VĐV phải có tố chất, được luyện tập bài bản về kỹ, chiến thuật mới có thể
đạt được các thành tích cao nhất trong các cuộc thi.
1.4. Kỹ - chiến thuật trong đẩy gậy
1.4.1. Kỹ - chiến thuật trong đẩy gậy
Tư thế trong Đẩy gậy hai chân đứng song song rộng bằng vai, đứng tấn
ở tư thế thấp, tay thuận cầm đầu gậy để trong lòng bàn tay, ngang giữa xương
chậu, tay còn lại thẳng nắm chắc gậy vươn người về phía trước ghìm gậy


9
xuống, lưng thẳng trọng tâm dồn đều hai chân, mắt quan sát đối phương để
tìm điểm yếu của đối phương.
Kỹ thuật giật gậy là một kỹ thuật khó vì người đấu phải có thể lực tốt
và khả năng phối hợp cao, khi giật gậy tay phải nắm chắc đầu gậy bên mình
tư thế tấn phải chắc và ổn định chỉ chủ yếu dùng phần hông để giật cho đối
phương bất ngờ mất trụ, bị đau và tuột tay ra khỏi đầu gậy.
Để chống lại sức giật gậy của đối phương, người đấu phải nắm bắt
được nhịp điệu giật gậy của đối phương và sức mạnh của đối phương khi giật
gậy, để chống lại sức mạnh giật của đối phương người chơi phải cầm chắc
đầu gậy không để tay tuột ra khỏi đầu gậy, tay trước phải ghìm đầu gậy xuống
phía dưới dùng sức nặng của cơ thể tỳ vào gậy làm cho đối phương mệt và thể
lực lúc đó của đối phương sẽ bị giảm.

Trong Đẩy gậy người đẩy phải vừa tấn công vừa phong thủ và sử dụng
kỹ thuật phòng thủ là chủ yếu. Trong tất cả các cuộc thi đấu diễn ra, hai đấu
thủ chỉ phòng thủ tại chỗ và không tấn công ngay khi trận đấu mới bắt đầu để
thăm dò sức mạnh của đối phương, khi trận đấu diễn ra được 1/3 thời gian mà
đối phương không tấn công người đấu có thể sử dụng kỹ thuật giật gậy làm
cho đối phương bất ngờ, tuột tay ra khỏi đầu gậy hoặc người đấu có thể di
chuyển đổi hướng làm cho đối phương mất trụ khi đó có thể dùng hết sức lực
đẩy đối phương ra khỏi vòng thi đấu, khi di chuyển đổi hướng không được
nhấc cả hai chân rời khỏi mặt đất vì như vậy người đấu sẽ mất trụ và bị đối
phương đẩy ra khỏi vòng thi đấu.
1.4.2. SMTĐ trong Đẩy gậy
SMTĐ là khả năng thực hiện động tác trong thời gian ngắn nhất. Yếu
tố quyết định của tốc độ là độ linh hoạt của quá trình thần kinh và tốc độ co
cơ. Độ linh hoạt của quá trình thần kinh thực hiện khả năng biến đổi nhanh
chóng giữa hưng phấn và ức chế trong các trạng thái thần kinh.


10
Đẩy gậy là môn thể thao thi đấu yêu cầu phản xạ nhanh, phòng thủ tốt với
những đặc điểm là: giật gậy nhanh, dừng đột ngột, bật nhảy đổi hướng,… đòi hỏi
vừa di chuyển tấn công vừa phòng thủ tốt, yêu cầu về SMTĐ lớn. Vì vậy có thể
nói SMTĐ có vai trò quan trọng để giúp VĐV có thể thực hiện tốt được các
động tác kỹ thuật trong thi đấu Đẩy gậy.
SMTĐ là tố chất quan trọng của VĐV Đẩy gậy, SMTĐ tạo cho VĐV
uy lực khi thực hiện ý đồ chiến thuật trong tập luyện và thi đấu, tạo ra ưu thế
về kỹ thuật cùng với thể lực, nâng cao hiệu quả thành tích thi đấu.
Thực tiễn cho thấy những VĐV hàng đầu trong nước đều có kỹ thuật
và trình độ phát triển SMTĐ rất cao, từ đó họ không những chiếm lĩnh được
không gian, thời gian, thực hiện những động tác di chuyển hợp lý và đạt hiệu
quả cao trong việc phối hợp với các động tác giật gậy, phòng thủ.

Tóm lại, SMTĐ là một trong những tố chất quan trọng hàng đầu đối với
kỹ thuật di chuyển môn Đẩy gậy. Chính vì vậy mà nhiều chuyên gia, HLV Đẩy
gậy trong nước đều rất coi trọng huấn luyện tố chất SMTĐ cho VĐV của họ.
1.5. Các nguyên tắc huấn luyện SMTĐ
Khái niệm SMTĐ: Là khả năng con người sinh ra lực cơ học bằng sức
mạnh cơ bắp, nói cách khác sức mạnh của con người là khả năng khắc phục
lực đối kháng bên ngoài hoặc để kháng lại nó bằng sự nỗ lực của cơ bắp.
1.5.1. Cơ sở lý luận của các nguyên tắc
* Nguyên tắc tự giác tích cực
Tính tích cực của người tập TDTT thường thể hiện qua hoạt động tự
giác, gắng sức nhằm hoàn thành nhiệm vụ tập luyện, được bắt nguồn từ thái
độ học tập tốt, cố gắng nắm được nhưng kỹ năng kỹ xảo, cùng hiểu biết có
liên quan, phát triển thể chất và tinh thần.


11
Rõ ràng, tính hiệu quả của quá trình sư phạm phụ thuộc rất nhiều vào
tính tự giác, tích cực của học sinh. Điều đó dẫn đến sự phát triển tính tích cực
có mục đích và tính độc lập của vận động.
- Làm cho VĐV hiểu rõ mục đích và thành tích cần đạt được.
- Trang bị cho VĐV những hiểu biết trong mối quan hệ chặt chẽ với
các nhiệm vụ tập luyện cần phải giải quyết.
- Những yêu cầu đặt ra cần phải đòi hỏi một sự suy nghĩ, một động cơ
và một sự trả lời.
- Đưa VĐV vào việc chuẩn bị xây dựng và đánh giá quá trình tập luyện.
- Giáo dục VĐV biết tự đánh giá.
- Giao cho VĐV có năng khiếu các nhiệm vụ hướng dẫn về mặt sư phạm.
- Yêu cầu các VĐV luôn luôn kiểm tra một cách có ý thức quá trình
vận động.
- Thường xuyên đánh giá các kết quả đạt được và so sánh chúng với dự

định trong kế hoạch mà thực tế đạt được.
* Nguyên tắc trực quan
Đảm bảo tích cực quan trọng quá trình huấn luyện có nghĩa là mô tả
cho VĐV những vấn đề trừu tượng bằng hình ảnh để cho họ có thể cảm thụ
có ý thức các yêu cầu của LVĐ và đồng thời đòi hỏi họ phải sử dụng một
cách có mục đích và đa dạng các cơ quan cảm giác của mình. Việc thực hiện
nguyên tắc này cũng đòi hỏi phải giáo dục cho VĐV biết quan sát tỉ mỉ.
Mục đích của trực quan là giúp cho hoạt động nhận thức của VĐV trong
việc tiếp thu các kĩ năng thể thao và các phần của kiến thức được dễ dàng.


12
* Nguyên tắc phù hợp
Nguyên tắc này đòi hỏi phải đặt ra cho VĐV các yêu cầu tập luyện có
thể thực hiện chúng một cách hiệu quả, trong quá trình thực hiện các yêu cầu
này phải huy động tối ưu năng lực sinh lý, tâm lý và trí tuệ của VĐV. Tránh
đặt ra những yêu cầu quá thấp và yêu cầu quá mức cho VĐV.
Do đó VĐV chỉ có thực hiện được với nỗ lực cao, có nghĩa là huy động
nguồn dự trữ năng lượng. Mặt khác nguyên tắc này được xác định thông qua
hiểu biết về tính hiệu quả của LVĐ sẽ giảm khi vượt quá mức độ yêu cầu cá
biệt tối ưu.
Quy tắc:
- Cần chú ý đến các đặc điểm riêng về lứa tuổi, về giới tính trong trình
độ phát triển của VĐV.
- Cần có những yêu cầu cá biệt cho VĐV, cần chú ý đến sự khác biệt về
năng lực cũng như khả năng chịu đựng LVĐ.
* Nguyên tắc nâng cao các yêu cầu của LVĐ
Nguyên tắc này đòi hỏi HLV phải thường xuyên đề ra cho VĐV các
yêu cầu mới và cao hơn. Nó đòi hỏi VĐV phải đấu tranh với các yêu cầu và
thực hiện chúng.

Nguyên tắc này xuất phát từ các mối quan hệ có tính quy luật giữa việc
nâng cao các yêu cầu của LVĐ và sự thích ứng của các hệ thống chức năng
sinh lý của VĐV. Các hệ thống chỉ được hoàn thiện nếu như nó phải chịu
đựng trên mức bình thường và phải huy động các năng lượng dự trữ. Bởi vậy
việc phấn đấu để vươn tới thành tích thể thao cao hơn mà hiện tại còn chưa
đạt được, gắn bó một cách chặt chẽ với với việc tìm ra các con đường mới về
phương pháp nhằm thực hiện các LVĐ tập luyện cao hơn với chất lượng tốt
hơn. Tóm lại là hình thức, khối lượng, cường độ và diễn biến của việc nâng
cao yêu cầu của LVĐ phải phù hợp với tuổi đời, tuổi sinh học tuổi tập luyện
và năng lực thể thao.


13
* Nguyên tắc LVĐ liên tục
Nguyên tắc này yêu cầu trong quá trình huấn luyện phải thường
xuyên hướng tới các LVĐ tối ưu và đặc biệt sắp xếp các bước quá độ trong
tập luyện để năng lực thể thao có thể phát triển tốt nhất. Yêu cầu này dựa
trên cơ sở của các mối quan hệ có tính quy luật giữa LVĐ và sự phát triển
thành tích thể thao.
Quy tắc:
Ngăn chặn và tránh những gián đoạn trong tập luyện, trước hết thông
qua sự giáo dục thái độ XHCN đối với tập luyện cho VĐV: Thông qua việc
giáo dục sức khỏe và thông qua ảnh hưởng của sự sắp xếp chế độ nghỉ hè.
Đảm bảo tính liên tục trong sự phát triển của tất cả yếu tố xác định
thành tích. Khi tập luyện kế hoạch cho các loại LVĐ trọng điểm cũng cần có
kế hoạch cho các LVĐ.
Hạn chế mức độ có thể giảm sút năng lực thể thao trong trường hợp
gián đoạn tập luyện do chấn thương.
Đảm bảo giai đoạn nghỉ ngơi cần thiết nhằm tránh các hiện tượng yêu
cầu quá mức và nhờ vậy sau này tránh được những sự gián đoạn tập luyện.

* Nguyên tắc sắp xếp LVĐ theo yêu cầu
Nguyên tắc sắp xếp LVĐ theo yêu cầu đòi hỏi khi lập kế hoạch huấn
luyện và thực hiện kế hoạch phải tính toán đến sự phát triển mang tính giai
đoạn, khách quan của quá trình tập luyện, được hình thành qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Hình thành.
- Giai đoạn 2: Ổn định tương đối.
- Giai đoạn 3: Mất đi tạm thời của trạng thái thể thao.
Gồm 3 thời kì:
- Thời kì chuẩn bị: Là thời kì đầu của quá trình tập luyện là thời kì dài
nhất nhằm tạo nên những tiền đề về kỹ thuật, thể lực, chiến thuật, trí tuệ, các
phẩm chất tâm lí, đạo đức và được chia làm 2 giai đoạn giai đoạn chuẩn bị
chung và giai đoạn chuẩn bị chuyên môn.


14
+ Giai đoạn chuẩn bị chung: Mục đích nâng cao khả năng chịu đựng
LVĐ của VĐV, phương tiện tiện tập luyện chính là các bài tập phát triển
chung và các bài tập phát triển chuyên môn
+ Giai đoạn chuẩn bị chuyên môn: Giai đoạn này trực tiếp dẫn tới thời
kì thi đấu. Trọng điểm của giai đoạn này là xây dựng những cơ sở chuyên
môn cần thiết cho thành tích thể thao. LVĐ được nâng cao nhờ việc tăng cường
độ, phương tiện chính sử dụng là các bài tập chuyên môn và bài tập thi đấu.
- Thời kì thi đấu: Là thời kì tập luyện nhằm phát triển tối ưu và duy trì
thành tích thi đấu, tốt nhất thể hiện nó trong cuộc thi đấu quan trọng nhất của
thời kì huấn luyện.
- Thời kì chuyển tiếp: Là thời kì quá độ của thời kì thi đấu của chu kì
tập luyện. Nhiệm vụ chủ yếu là nghỉ ngơi tích cực sau các LVĐ thi đấu căng
thẳng, thời hạn của thời kì này tương đối ngắn.
* Nguyên tắc kế hoạch và hệ thống
Thực hiện một cách hệ thống quá trình huấn luyện có nghĩa là tất cả các

biện pháp tập luyện cần phải xuất phát từ các yêu cầu của cấu trúc thành tích
của môn thể thao.
Đảm bảo tính hệ thống đòi hỏi cần sử dụng các quy luật tác động trong
luyện tập để nâng cao phát triển thành tích thể thao mà không được chệch
hướng và không được trì hoãn, ngoài ra còn xuất phát từ mục đích thành tích
cao nhất đã được xác định.
Nguyên tắc này xuất phát từ các quy luật của quá trình nhận thức và
tính hiệu quả chuyên biệt của các môn hình thức khác nhau của LVĐ với sự
phát triển của thành tích thể thao
* Quy tắc:
- Luôn luôn hướng vào chiến lược xây dựng thành tích dài hạn và lập
kế hoạch huấn luyện một cách tỉ mỉ.


15
- Luôn luôn hướng vào mục đích cao nhất, lập kế hoạch và đề ra mục
đích thành tích rõ ràng, có thể thực hiện được.
- Trong quá trình huấn luyện cần chú ý đến tính logic trong sự giáo
dưỡng từng yếu tố xác định thành tích.
- Cần có sự chú ý lớn nhất trong việc sắp xếp trật tự các bài tập của
giáo án.
1.5.2. Những đặc điểm huấn luyện SMTĐ trong môn Đẩy gậy
* Sắp xếp LVĐ
LVĐ trong huấn luyện SMTĐ cho các VĐV môn Đẩy gậy có nhiều
điểm riêng biệt so với các môn thể thao khác. Nếu tiến hành huấn luyện
SMTĐ với phụ trọng như: Với tạ thì HLV phải chọn những người mới tập
một trọng lượng trung bình tới gần tối đa (khoảng từ 60 đến 80% trọng lượng
tối đa). Việc sử dụng các trọng lượng tương đối nhẹ tạo điều kiện cho người
mới tập dễ dàng tiến hành bài tập với một kỹ thuật tốt, qua đó ngăn ngừa
được chấn thương. Mặt khác số lượng lớn hơn có thể đạt được các lần lặp lại

động tác cũng góp phần củng cố kỹ thuật Đẩy gậy đúng và nâng cao nhanh
chóng khả năng chịu đựng LVĐ của các VĐV.
Đối với môn Đẩy gậy SMTĐ là một trong những yếu tố xác định thành
tích Thì thời gian nghỉ giữa hai buổi tập phát triển SMTĐ cần kéo dài khoảng 48
giờ. Cho nên HLV có thể nâng cao tần số và hiệu quả huấn luyện SMTĐ trong
Đẩy gậy bằng cách áp dụng các bài tập cho từng phần của cơ thể. Theo các
nhóm cơ chính và các nhóm cơ khác được tập luyện thay đổi trong một ngày.
* Tổ chức huấn luyện
Để phát triển SMTĐ trong Đẩy gậy HLV trước hết phải áp dụng
phương pháp tập luyện theo trạm. Phương pháp tập luyện này được tiến hành
với mỗi bài tập của chương trình huấn luyện có khối LVĐ quy định trước (các
đợt và các lần lặp lại) trước khi bắt đầu bài tập. Như vậy có thể phân bố chính


16
xác sự chuẩn bị cần thiết cho từng bài tập với trọng lượng tăng dần lên và có
thể đạt tới trong tập luyện tối ưu một cách nhanh chóng mà không mệt mỏi
nhiều. Những điều kiện này cần phải có, để phát triển tối ưu SMTĐ trong
môn Đẩy gậy.
1.6. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT
1.6.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh THPT
Học sinh THPT còn gọi là tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt
đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên
cũng thể hiện tính chất phức tạp và nhiều mặt của hiện tượng, nó được giới
hạn ở mặt tâm lý. Đây là vấn đề khó khăn và phức tạp, vì không phải lúc nào
nhịp điệu và các giai đoạn của sự phát triển tâm lý cũng trùng hợp với các
thời kỳ trưởng thành về mặt xã hội. Có nghĩa là sự trưởng thành về mặt thể
chất, nhân cách trí tuệ, năng lực lao động sẽ không trùng hợp với thời gian
phát triển của lứa tuổi. Vì vậy, tuổi thanh niên cũng bắt đầu sớm hơn. Nhưng
việc phát triển tâm lý của tuổi thanh niên không chỉ phụ thuộc vào giới hạn

lứa tuổi, mà trước hết là do điều kiện xã hội (vị trí của thanh niên trong xã
hội, khối lượng tri thức, kỹ năng kỹ xảo mà họ nắm được và một loạt nhân tố
khác…) có ảnh hưởng đến sự phát triển lứa tuổi. Do đó có sự kéo dài của thời
kì tuổi thanh niên và giới hạn lứa tuổi mang tính không xác định (ở mặt này
các em được coi là người lớn, nhưng mặt khác thì lại không).
* Về hứng thú
Các em đã có thái độ tự giác tích cực trong học tập xuất phát từ động
cơ học đúng đắn và lựa chọn nghề nghiệp sau khi đã học xong THPT. Xong
hứng thú học tập còn do nhiều động cơ khác nhau như: giữ lời hứa với bạn,
đôi khi do tự ái, hiếu thắng… cho nên khi giảng dạy giáo viên cần định hướng
cho các em xây dựng đông cơ đúng đắn để các em có được hứng thú bền
vững trong học tập nói chung và GDTC nói riêng.
*Về tình cảm


×