Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Nghiên cứu lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tốc độ cho nam vđv bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.65 KB, 50 trang )

MỞ ĐẦU
Thể dục thể thao (TDTT) là một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống
giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nó có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống con
người cũng như trong chính sách phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời, nó góp
một phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong xu thế mở cửa và hội nhập với khu vực và thế giới trên nhiều lĩnh vực,
thể thao Việt Nam đã xác định được những bước đi đúng đắn và vai trò của
mình trong thời kỳ đổi mới. Được sự quan tâm của Đảng của Nhà nước, thể thao
Việt Nam đã đạt được những bước đi đáng khích lệ. Có nhiều môn thể thao đã
sánh ngang tầm với những quốc gia có tiềm năng và có trình độ ở khu vực và
trên thế giới. Những thành công đó được biểu hiện qua những chiếc huy chương
mà các vận động viên (VĐV) đã cố gắng giành được ở các giải đấu trong khu
vực, châu á thậm trí ở các giải thế giới.
Bên cạnh những môn thể thao khác, Bóng đá là môn thể thao được ưa thích
nhất trên thế giới và phát triển ở mọi nơi, mọi tầng lớp. Bởi tập luyện Bóng đá
ngoài việc tăng cường sức khoẻ cho con người, thông qua tập luyện thi đấu
Bóng đá còn giáo dục các phẩm chất tốt đẹp như: tính dũng cảm, ngoan cường,
tinh thần đoàn kết để khắc phục vượt qua được những sức ép trong thi đấu…
Đặc biệt hơn cả, Bóng đá làm cho con người xích lại gần nhau hơn. Chính vì
vậy, Bóng đá được đông đảo người dân từ nông thôn tới thành thị, từ miền xuôi
đến miền ngược từ phụ nữ đến nam giới, từ trẻ đến già đều yêu thích, thưởng
thức và tham gia tập luyện. Để đáp ứng được những nhu cầu đó đòi hỏi người
tập nhất là các VĐV phải có các tố chất thể lực như: sức nhanh, sức mạnh, sức
bền, mềm dẻo và khéo léo cũng như khả năng chịu đựng lớn.
Bóng đá là một môn thể thao mang đầy tính chiến thuật đặc biệt đòi hỏi phải
có tính tập thể cao. Hoạt động thi đấu Bóng đá có thời gian thi đấu tương đối dài
90 phút. Với thời gian như vậy mỗi cầu thủ trên sân phải hoạt động với lượng
vận động rất lớn. Vì vậy, để thi đấu đến hết trận đấu thì mỗi cầu thủ phải có một
1
nền tảng thể lực tốt mới có thể hoàn thành yêu cầu do ban huấn luyện đề ra. Như
vậy, việc huấn luyện thể lực phải đạt mức cao nhất đảm bảo yêu cầu. Quá trình


huấn luyện thể lực là quá trình hoàn thiện nhiều tố chất vận động, song sức
mạnh tốc độ là một trong những tố chất đặc trưng của Bóng đá. Trong hoạt động
thi đấu thể thao nó giữ một vai trò quan trọng và là một tố chất chuyên môn
riêng của Bóng đá.
Sức mạnh là khả năng khắc phục hoặc chống lại lực cản bên ngoài bằng sự nỗ
lực của cơ bắp. Do đó, sức mạnh tốc độ chính là khả năng sinh lực trong các
động tác nhanh và nó được biểu hiện rất rõ ở những pha tranh cướp cản phá, sút
bóng, “Tỳ đè”…
Hải Dương là một tỉnh có phong trào TDTT khá phát triển. Trong đó Bóng đá
là một trong những môn thể thao được sở Văn Hóa Thể Thao và Du Lịch hết sức
chú trọng đầu tư và phát triển. Tuy nhiên vẫn chưa đạt được những kết quả như
mong đợi và còn nhiều khó khăn trước mắt. Qua quan sát quá trình tập luyện và
thi đấu chúng tôi nhận thấy thể lực chuyên môn của các VĐV Bóng đá trẻ lứa
tuổi 15 tỉnh Hải Dương là chưa được tốt, vẫn còn nhiều hạn chế đặc biệt là sức
mạnh tốc độ. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân nhưng đáng kể nhất là việc
sử dụng bài tập để phát triển thể lực không có sự thống nhất, phương pháp huấn
luyện chưa khoa học. Ngoài ra, sự thiếu thốn cơ sở vật chất như: sân bãi, dụng
cụ tập luyện cũng có ảnh hưởng nhất định tới thành tích của VĐV. Vì vậy, việc
lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tốc độ cho VĐV Bóng đá là vấn đề quan
trọng và cần thiết.
Trên cơ sở phân tích ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu, chúng
tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tốc độ cho nam VĐV
Bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải Dương”
* Mục đích nghiên cứu
2
Lựa chọn ra các bài tập phát triển sức mạnh tốc độ có hiệu quả cao và có thể
ứng dụng trong thực tiễn huấn luyện cho nam VĐV Bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải
Dương nói riêng và cả nước nói chung.
* Mục tiêu nghiên cứu

Để giải quyết mục đích trên, đề tài tiến hành giải quyết các mục tiêu nghiên
cứu sau:
Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng sức mạnh tốc độ cho nam VĐV Bóng đá lứa
tuổi 15 tỉnh Hải Dương.
Mục tiêu 2: Nghiên cứu lựa chọn và đánh giá hiệu quả các bài tập phát triển
sức mạnh tốc độ cho nam VĐV Bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải Dương.
* Đối tượng nghiên cứu
Các bài tập phát triển sức mạnh tốc độ cho nam VĐV Bóng đá lứa tuổi 15
tỉnh Hải Dương.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 03/2010 đến tháng 05/2011 và
được chia làm 3 giai đoạn. Quá trình nghiên cứu được thực hiện trên 20 nam
VĐV Bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải Dương.
* Ý nghĩa luận văn
Đề tài nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn trong việc đánh giá thực
trạng sức mạnh tốc độ cho nam VĐV Bóng đá trẻ Hải Dương trong quá trình
huấn luyện.
Quá trình nghiên cứu đề tài đã lựa chọn được những bài tập phát triển sức
mạnh tốc độ một cách hợp lý có khoa học sẽ giúp cho thành tích thi đấu của các
VĐV được cải thiện và ngày càng nâng cao.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Xu thế, đặc điểm phát triển môn Bóng đá hiện đại.
Đối với một số môn thể thao cá nhân, chúng ta thường thấy có một số đòi hỏi
mang tính chất quyết định về năng lực. Thí dụ: Với môn chạy cự ly ngắn thì sức
nhanh là một năng lực “quyết định”, thiếu nó chắc chắn ta không thể đào tạo
được VĐV chạy tốc độ. Đối với môn Bóng đá - môn chơi tập thể có hoạt động
rất đa dạng - thì có đòi hỏi khác. Với VĐV Bóng đá đòi hỏi phải có nhiều yếu tố
mang tính “quyết định” cùng đồng thời xác định trong nội dung tuyển chọn ban

đầu nhưng đồng thời cũng có nghĩa là có thể có yếu tố này “yếu hơn” sẽ được
các yếu tố năng lực khác “bù lại”. Vấn đề chính ở đây lại là: Với năng lực trội
nào để có thể phát triển các năng lực có khả năng “bù lại” đó cho hợp lý. Tính
chất “thích hợp” trong tuyển chọn VĐV bóng đá là rất quan trọng. Ở đó có một
số yếu tố cần chú ý:
- Các dấu hiệu vận động (đó là về mức độ thực hiện kỹ thuật động tác, mức
độ hiểu biết cách chơi bóng và các khả năng thể chất).
- Mức độ thích hợp về sinh lý (đó là về tình trạng hoạt động của các cơ quan
tuần hoàn - hô hấp, độ phát triển của hệ vận động…).
- Mức độ thích hợp về tâm lý (lòng yêu thích, độ bền vững tâm lý…).
- Yếu tố thể hình (cao, cân nặng, dài thân…).
Cần xác định triển vọng phát triển môn Bóng Đá theo kết quả các trận thi đấu
lớn như: Vô địch thế giới, Vô địch Châu âu, Đại hội Olimpic các cấp khác nhau.
Phân tích các cuộc thi đấu như vậy trong các năm từ 1972-1990 cho phép ta thu
được các thông tin sau: trong môn Bóng đá hiện đại, sự tranh giành ưu thế về
không gian và thời gian sẽ ngày càng gay gắt hơn. Giá trị lối chơi tập thể dựa
vào sự mở rộng khả năng của từng VĐV thi đấu có hiệu quả trong bất kỳ vị trí
nào trên sân, cũng như sự phối hợp tốt nhất những phẩm chất cá nhân của cầu
thủ trong đội được nâng cao. Ví dụ: Bóng đá - tính chất toàn diện được thể hiện
4
trong thi đấu của đội tuyển Hà Lan (giải vô địch Thế giới năm 1974). VĐV toàn
diện là người biết chơi tốt ở bất kỳ khu vực nào của sân, cả trong phòng thủ
cũng như tấn công.
Ngày nay, người ta đã sử dụng máy quy video “lựa chọn” có sự giúp đỡ của
máy tính để ghi lại toàn bộ hoạt động của các VĐV trên sân trong lúc thi đấu.
Bằng kỹ thuật này, Ông Ohachi (1985) đã thu lại toàn bộ di chuyển của các
VĐV bóng đá và đã đưa ra số liệu của từng VĐV cụ thể trong một trận đấu như
sau: Tổng quãng đường di chuyển của hậu vệ là 9,303m; của tiền vệ là 11,601m;
của tiền đạo là 10,387m.
Ngoài hệ thống quy video, hiện nay các nhà chuyên môn còn sử dụng kỹ

thuật siêu âm được nối với máy tính qua bộ biến đổi ở các góc sân. Sự thay đổi
tọa độ (theo tốc độ, hướng và độ dài) quá trình di chuyển của VĐV liên tục được
thu lại.
1.2. Ý nghĩa công tác huấn luyện thể lực cho VĐV Bóng đá.
Thể thao hiện đại nói chung và trong Bóng đá nói riêng đòi hỏi VĐV phải
phát triển cao các năng lực tương ứng. Phát triển năng lực của VĐV, đó là một
quá trình liên tục có hệ thống trong nhiều năm và được thể hiện thông qua 4 yếu
tố: kỹ thuật, thể lực, chiến thuật, tâm lý, mối quan hệ tác động qua lại giữa
chúng tạo thành trình độ huấn luyện của VĐV hay nói một cách khác tạo nên
thành tích thể thao.
Huấn luyện kỹ thuật thể hiện trong sự thống nhất với huấn luyện thể lực cho
VĐV. Nếu huấn luyện thể lực đảm bảo cho VĐV có một mức độ cần thiết để
điều khiển có ý thức các tố chất thể lực thì huấn luyện kỹ thuật dạy cho VĐV
phương pháp sử dụng các phẩm chất đó trong các điều kiện cụ thể của hoạt động
vận động.
Có thể nói huấn luyện thể lực trong thể thao tạo nên VĐV, còn huấn luyện kỹ
thuật là trang bị cho VĐV những phương tiện tin cậy để đấu tranh với những trở
ngại khác nhau nhằm đạt mục đích. Những phương tiện (kỹ thuật) đó trong thể
5
thao mang tính đặc thù và được tạo bởi sự nỗ lực chung của huấn luyện viên
(HLV) và VĐV.
Thành tích thể thao trong môn Bóng đá là tổng hợp của những yếu tố hợp
thành, nên không thể coi nhẹ bất kỳ một yếu tố nào mà phải phát triển đồng bộ
và toàn diện. Một vấn đề hết sức quan trọng trong công tác huấn luyện và đào
tạo VĐV trẻ là phải phát triển toàn diện các yếu tố thể lực. Ngày nay, người ta
coi quá trình huấn luyện này là một quá trình diễn ra liên tục nhiều năm, có sự
điều khiển nên sự phát triển tố chất thể lực cho VĐV Bóng đá cũng phải nằm
trong tiến trình đó.
Huấn luyện thể lực trong Bóng đá là một quá trình sư phạm mang tính giáo
dục cao, được thực hiện trong sự thống nhất với các mặt như: giáo dục, đạo đức,

ý chí, thẩm mỹ, năng lực tiếp thu kỹ thuật, chiến thuật thi đấu. Việc xem xét
huấn luyện không chỉ từ góc độ nâng cao thành tích thể thao mà còn ở cả sự phát
triển thể chất, củng cố sức khỏe, chuẩn bị cho con người (người tập) có khả
năng sẵn sàng cao đối với lao động và bảo vệ Tổ quốc.
Mục đích của huấn luyện thể lực là để nâng cao thành tích thể thao. Song về
bản chất, mức độ phát triển các tố chất thể lực phụ thuộc vào trạng thái chức
năng cấu tạo của nhiều cơ quan và hệ thống cơ thể. Quá trình tập luyện để phát
triển các tố chất thể lực cũng chính là quá trình hoàn thiện các hệ thống chức
năng giữ vai trò chủ yếu trong hoạt động cơ bắp.
Mặt khác, quá trình huấn luyện phải căn cứ vào đặc điểm đối tượng lứa tuổi
của VĐV và đặc thù môn thể thao mà sử dụng các biện pháp, phương pháp,
phương tiện cho phù hợp. Có như vậy, quá trình huấn luyện thể lực mới đạt hiệu
quả.
Huấn luyện thể lực là một quá trình tác động thường xuyên, liên tục và theo
khoa học lên cơ thể VĐV, quá trình tác động sâu sắc đến hệ thần kinh, tim
mạch, cơ bắp cũng như đối với các cơ quan nội tạng của con người. Vì vậy,
muốn có thành tích xuất sắc trong một môn thể thao nào, trước tiên phải có tố
6
chất thể lực phát triển phù hợp với yêu cầu chuyên môn của môn thể thao đó.
Song các mặt không được coi nhẹ như: kỹ - chiến thuật, tâm lý, ý chí…
1.3. Các quan điểm khoa học về sức mạnh tốc độ.
1.3.1. Vai trò và ý nghĩa của tố chất thể lực nói chung và sức mạnh tốc độ
nói riêng trong Bóng đá.
Ngày nay, đời sống hằng ngày được nâng cao thì phong trào TDTT ngày càng
được quan tâm và phát triển. Thể thao là một món ăn tinh thần không thể thiếu
được trong xã hội ngày nay. Nhưng để đạt được kết quả cao trong tập luyện và
thi đấu đối với một VĐV thì vấn đề thể lực là không thể thiếu được. Do đó, thể
lực bao giờ cũng được quan tâm và được đặt lên hàng đầu trong công tác huấn
luyện TDTT.
Để đạt được thành tích trong thi đấu thể thao thì VĐV ngoài việc trang bị cho

mình về mặt tâm lý kỹ chiến thuật thì vấn đề thể lực cũng là một vấn đề quan
trọng quyết định đến thành công của VĐV. Khi khoảng cách chiến thuật ngày
càng được thu hẹp thì yếu tố thể lực sẽ quyết định thắng bại trong thi đấu.
Ngày nay, các trận thi đấu Bóng đá diễn ra với nhịp độ cao, các VĐV muốn
hoàn thành tốt nhiệm vụ mà ban huấn luyện đề ra và thực hiện tốt các kỹ thuật
đòi hỏi các cầu thủ phải có một thể lực tốt.
Bóng đá hiện đại mang tính chất thể lực đòi hỏi VĐV phải hoàn thành khối
lượng vận động lớn như chạy tốc độ sử dụng hàng loạt các động tác kỹ thuật
tranh cướp với đối phương. Vì vậy, thể lực là một vấn đề không thể thiếu trong
Bóng đá. Thể lực của các cầu thủ được thể hiện ở những pha tranh cướp bóng, tỳ
đè chạy tốc độ, thực hiện các kỹ thuật nếu các cầu thủ không có thể lực tốt sẽ
ảnh hưởng tới kết quả của trận đấu.
Chính vì vậy, trong công tác huấn luyện Bóng đá ngoài việc trang bị cho các
cầu thủ về mặt tâm lý, kỹ chiến thuật các huấn luyện viên cần quan tâm đến việc
huấn luyện thể lực cho VĐV thông qua việc huấn luyện thể lực sẽ làm phát triển
toàn diện các tố chất như: sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khéo léo, mềm dẻo và
nâng cao năng lực hoạt động.
7
* Vai trò và ý nghĩa của sức mạnh tốc độ trong Bóng đá.
Sức mạnh là một tố chất thể lực rất quan trọng của mỗi cầu thủ Bóng đá, là
một yếu tố dẫn đến sự thành công hay thất bại của một đội bóng. Trong hoạt
động và thi đấu có nhiều trở ngại cần vượt qua như trọng lượng của cơ thể, của
trái bóng, sự truy cản của đối phương. Mọi hoạt động trong Bóng đá đều cần đến
sức mạnh, sức mạnh trong bóng đá được thể hiện: chuyền bóng, đánh đầu, sút
bóng, ngay cả trong công tác phòng thủ cũng đòi hỏi sức mạnh cao hơn… Vì
vậy, có thể nói sức mạnh có vai trò quan trọng để VĐV có thể thực hiện tốt
được các động tác kỹ thuật trong Bóng đá một cách chính xác.
Là một tố chất quan trọng của VĐV Bóng đá, nhất là sức mạnh tốc độ tạo cho
VĐV đủ năng lực thực hiện ý đồ chiến thuật trong tập luyện và thi đấu, tạo ra sự
bất ngờ cho đối phương, nâng cao hiệu quả thành tích thi đấu.

Thực tiễn đã cho chúng ta thấy những đội bóng hàng đầu thế giới như:
Brazin, Anh, Đức, Hà Lan… các VĐV đều có trình độ phát triển sức mạnh rất
cao. Từ đó, giúp họ không những chiếm lĩnh được không gian, thời gian, thực
hiện được những động tác khó gây bất ngờ cho đối phương và đạt hiệu quả cao
trong động tác sút bóng, sút cầu môn. Điều đó giải thích tại sao hiệu suất ghi bàn
của họ rất cao.
Tóm lại, sức mạnh đặc biệt là sức mạnh tốc độ là một trong những yếu tố
quan trọng hàng đầu trong tập luyện, thi đấu và nâng cao thành tích Bóng đá.
Chính vì vậy mà nhiều chuyên gia, HLV bóng đá đều coi trọng huấn luyện sức
mạnh cho VĐV của họ.
1.3.2. Khái niệm sức mạnh tốc độ.
Khi nghiên cứu về sức mạnh tốc độ có rất nhiều nhà khoa học TDTT cho
rằng: Sức mạnh là khả năng của con người sinh ra lực cơ học bằng sự nỗ lực của
cơ bắp. Nguyễn Toán cho rằng: sức mạnh tốc độ là khả năng sinh lực và khắc
phục một trọng lượng nào đó với tốc độ nhanh nhất hay sức mạnh tốc độ là khả
năng sinh lực trong động tác nhanh và thời gian ngắn.
8
Theo quan điểm của Zaxiorski: Sức mạnh tốc độ là loại sức mạnh được quyết
định bởi gia tốc và khối lượng cố định vì lực cơ học là: F=m.a
Rõ ràng sức mạnh tốc độ được cấu thành bởi tốc độ thực hiện động tác (gia
tốc) và trọng lượng của vật chịu tác động (có khối lượng m).
Theo quan điểm lý luận thì sức mạnh tốc độ là khả năng khắc phục lực cản
với tốc co cơ cao của VĐV. Sức mạnh tốc độ có thể xác định thành tích trong
các môn thể thao hoạt động không chu kỳ như: Trong các động tác (đá, đấm)
của các môn thể thao thi đấu đối kháng hoặc trong các môn bóng như: Bóng
ném, Bóng đá. Đối với các môn hoạt động có chu kỳ, khi thực hiện tăng tốc của
VĐV chạy cự ly ngắn, đua xe đạp…
Trong thể thao vai trò của sức mạnh tốc độ chiếm vị trí rất quan trọng, sức
mạnh tốc độ là hai yếu tố quyết định đến thành tích thi đấu của VĐV. Nó được
thể hiện rõ trong các môn thể thao như: chạy, nhảy, các môn ném đẩy. Bóng đá

là môn thể thao mà hoạt động về kỹ chiến thuật khá cao nó đòi hỏi sự phụ thuộc
khi phối hợp thực hiện phải đảm bảo hai yếu tố nhanh và mạnh, có như vậy mới
tạo được kẽ hở và sự kết hợp trong tấn công đảm bảo mang lại hiệu quả tốt trong
thi đấu. Thông thường để phát huy tốc độ cao nhất con người phải khắc phục lực
cản bên ngoài khá lớn. Trong trường hợp đó để phát huy tốc độ thì phụ thuộc
vào cơ bắp.
Sự phát triển sức mạnh tốc độ không ngừng nâng cao tốc độ co cơ mà còn
nâng cao sức mạnh tối đa của VĐV. Tốc độ vận động cao thì phải phù hợp với
huấn luyện sức mạnh tối đa và sức mạnh nhanh với nhau, đó là một phương
pháp huấn luyện rất quan trọng. Việc huấn luyện này phải đảm bảo một cách tốt
nhất về năng lực sức mạnh tối đa thành năng lực sức mạnh tốc độ. Vì vậy mà
huấn luyện sức mạnh tốc độ yêu cầu phải chính xác về tất cả kỹ thuật động tác,
đó là điều kiện quan trọng nhất cho việc sử dụng sức mạnh tốc độ có hiệu quả
hợp lý và tránh sự tiêu phí năng lượng cho các hoạt động thừa không hợp lý.
Trong Bóng đá các động tác như: bật nhảy, sút bóng, phòng thủ. Phản công
nhanh, đột phá đều sử dụng đến sức mạnh tốc độ, sức mạnh tối đa vào các tình
9
huống và thời điểm để tạo thuận lợi cho chiến thắng. Trên thực tế, để có hiệu
quả trong thi đấu thì VĐV cần phải tạo ra những lực nhanh, mạnh và bất ngờ để
tạo ra một tổng hợp lực cực kỳ lớn với tốc độ nhanh. Nhưng cũng phải tính đến
một khả năng là đơn vị sợi cơ và các nhóm cơ tham gia vào hoạt động đó, khả
năng tạo nên những hưng phấn, kích thích cao và hợp lý là một yếu tố có lợi cho
VĐV đi thi đấu.
Thực tế cho thấy đặc trưng của sức mạnh tốc độ được thể hiện ở:
- Cường độ hoạt động cao.
- Thời gian hoạt động cho mỗi lần thực hiện khoảng phần của giây tổng thời
gian thực hiện ngắn.
- Khối lượng nhỏ, số lần lặp lại ít.
- Quãng nghỉ ngắn.
1.3.3. Cơ sở sinh lý và lý luận của sức mạnh tốc độ.

1.3.3.1. Cơ sở sinh lý của sức mạnh tốc độ.
Sức mạnh tốc độ là khả năng thực hiện động tác trong thời gian ngắn nhất.
Yếu tố quyết định của tốc độ là độ linh hoạt của quá trình thần kinh và tốc độ co
cơ. Độ linh hoạt của quá trình thần kinh thực hiện khả năng biến đổi nhanh
chóng giữa hưng phấn và ức chế trong các trạng thái thần kinh.
Tốc độ co cơ phụ thuộc vào tỷ lệ sợi cơ nhanh và sợi cơ chậm trong bó cơ
trong hoạt động TDTT, sức mạnh với tốc độ có liên quan mật thiết với nhau,
mức độ phát triển ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ hay sự riêng lẻ mà còn phụ thuộc
vào sự phối hợp giữa hai tố chất, các hoạt động như vậy gọi là hoạt động của sức
mạnh tốc độ.
* Hệ tim mạch: trong các bài tập sức mạnh tốc độ hệ máu của VĐV hầu như
không có biến đổi gì rõ rệt nhưng tần số tim của VĐV tăng lên rất cao khi thực
hiện các bài tập sức mạnh tốc độ (140-150 lần/phút).
* Hệ thần kinh: quá trình thần kinh có tính linh hoạt cao do hoạt động thay
đổi giữa cơ đối kháng và cơ rút, cần sự thay đổi giữa quá trình hưng phấn và ức
10
chế ở trung khu vận động vỏ não cho nên nâng cao được tính linh hoạt của quá
trình thần kinh.
* Hệ hô hấp: là lượng oxy/phút lớn bởi vì cường độ tối đa nhưng do thời gian
hoạt động tối đa ngắn nên sự thiếu oxy không nhiều, tần số hô hấp tăng lên
không đáng kể. Sau khi đã kết thúc hoạt động thể tích hô hấp và hấp thụ oxy
tăng lên ít nhiều.
* Hệ vận động: do quá trình hưng phấn của VĐV cao nên đòi hỏi chức năng
hoạt động ở cơ quan vận động rất cao, thời trị cơ bắp ngắn, thời trị cơ co giãn và
cơ đối kháng giống nhau.
* Huyết áp: khi tập các bài tập sức mạnh tốc độ thì huyết áp của các VĐV
cũng tăng lên nhưng tốc độ tăng không cao lắm. Huyết áp tối đa 150-160mmHg.
1.3.3.2. Cơ sở lý luận của sức mạnh tốc độ.
Cũng giống như huấn luyện các loại sức mạnh khác (sức mạnh bột phát,
bền ) sự phát triển của sức mạnh tốc độ đòi hỏi không ngừng nâng cao sức

mạnh tối đa. Thông thường để phát huy tốc độ cao nhất con người phải khắc
phục lực cản bên ngoài khá lớn. Trong trường hợp đó để phát huy tốc độ thì phụ
thuộc vào cơ bắp.
Sự phát triển sức mạnh tốc độ không ngừng nâng cao tốc độ co cơ mà còn
nâng cao sức mạnh tối đa của VĐV. Tốc độ vận động cao thì phải phù hợp với
huấn luyện sức mạnh tối đa và sức mạnh nhanh với nhau đó là phương pháp
huấn luyện rất quan trọng. Việc huấn luyện này phải đảm bảo một cách tốt nhất
về năng lực sức mạnh tối đa thành năng lực sức mạnh tốc độ. Vì vậy mà huấn
luyện sức mạnh tốc độ yêu cầu phải chính xác về tất cả kỹ thuật động tác đó là
điều quan trọng nhất cho việc sử dụng sức mạnh tốc độ có hiệu quả hợp lý và
tránh sự tiêu phí năng lượng cho các hoạt động thừa.
Do tác dụng của huấn luyện sức mạnh tốc độ phụ thuộc chủ yếu vào hưng
phấn tối ưu của hệ thần kinh trung ương. Bởi vậy, người ta tiến hành nó trong
điều kiện cơ thể mệt mỏi.
11
Nếu phát triển năng lực sức mạnh tốc độ cho các động tác có chu kỳ có thể
theo nguyên tắc hướng tới tần số động tác về phương pháp tổ chức huấn luyện
theo trạm và tập luyện các tổ hợp bài tập đến phải sắp xếp phù hợp.
* Đặc điểm chọn lực đối kháng trong các bài tập sức mạnh tốc độ.
Dựa trên cơ sở lý luận và học thuyết chuyên ngành huấn luyện cho thấy sức
mạnh là khả năng khắc phục lực đối kháng bên ngoài nhờ sự nỗ lực của cơ bắp.
Cơ chế sinh lý điều hoà sức mạnh và sự phát sức mạnh tốc độ cơ sở khoa
học. Lực tối đa mà con người sản sinh ra một mặt phụ thuộc vào đặc tính sinh cơ
của động tác khả năng thu hút các nhóm cơ lớn nhất tham gia hoạt động của
từng nhóm cơ lớn nhất tham gia hoạt động của từng nhóm cơ riêng biệt và sự
phối hợp giữa chúng. Mức độ hoạt động của cơ được quy định bởi 2 nhân tố:
- Xung động từ các nơron thần kinh vận động trong vùng trước của tuỷ sống
đến cơ.
- Phản ứng của cơ tức là do nó sinh ra để đáp ứng lại xung động thần kinh.
Nếu lực cơ phát huy khoảng 20-80% khả năng tối đa của nó thì cơ chế điều hoà

số lượng sợi cơ có ý nghĩa cơ bản điều đó có ý nghĩa nội lực kích thích nhỏ thì
chỉ có số ít sợi cơ hoạt động tích cực trong trường hợp do lực co cơ phát huy tối
đa có thể xảy ra 1 cách điều hoà thứ ba đồng bộ hoá hoạt động, các sợi cơ ở
những người hoạt động không quá 20% xung động là đồng bộ hoá với nhau.
Cùng với sự phát triển trình độ tập luyện khả năng điều hoà đồng bộ cũng tăng
lên rất nhiều.
Để rèn luyện sức mạnh người ta sử dụng các bài tập sức mạnh tức là tác động
với lực đối kháng. Căn cứ vào tính chất lực đối kháng, các bài tập sức mạnh
được chia thành:
- Các bài tập với lực đối kháng bên ngoài.
- Các bài tập khắc phục trọng lượng cơ thể.
Sức mạnh tốc độ của VĐV bóng đá phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó
phát triển và hoàn thiện yếu tố thiết diện, các yếu tố điều hoà giữa các nhóm cơ
có ý nghĩa chủ đạo.
12
Tóm lại, từ những vấn đề nêu trên chúng ta có thể nói rằng để phát triển sức
mạnh tốc độ đối với VĐV môn Bóng đá có thể sử dụng đa dạng các bài tập khác
nhau. Các bài tập có chu kỳ như chạy, bơi đều có thể sử dụng để phát triển sức
mạnh tốc độ song phải thực hiện với tốc độ giới hạn trên các đoạn ngắn.
1.3.4. Đặc điểm sinh lý khi sử dụng các bài tập sức mạnh tốc độ.
Nguồn năng lượng dự trữ cho cơ thể hoạt động là axit adrenalin triphốtphát
(ATP). Sự phân huỷ ra ATP là không giới hạn cho phép tạo ra năng lượng nhất
định. Dự trữ ATP trong tế bào cơ không lớn để tiếp tục làm việc phải thường
xuyên tái tổng hợp ATP trong quá trình hoạt động, nó tồn tại theo 3 con đường
khác nhau về tốc độ, thời gian cho năng lượng, công suất và dung dịch.
Ở các bài tập với công suất tối đa, sự co cơ tạo ra một lực lớn kết hợp với tần
số tác động rất cao. Hoạt động này làm số lượng hồng cầu và Hêmôglôbin trong
máu hơi tăng. Glucô trong máu cũng tăng lên đến 180-200mmHg hoặc không
thay đổi thể tích tâm thu và thể tích lưu lượng phút tăng lên rất nhiều. Khả năng
hấp thụ oxy của cơ thể trong điều kiện bình thường khoảng 250-300ml/phút khi

hoạt động khả năng hấp thụ oxy tăng dần cùng với công suất hoạt động và có thể
đạt tới trị số tối đa VO
2
max.
Để đạt được thành tích sút bóng, sự phát triển sức mạnh tốc độ không chỉ làm
tăng tốc độ co cơ mà còn làm nâng cao sức mạnh tối đa. Tốc độ vận động tối ưu
thì phải phù hợp với huấn luyện sức mạnh tốc độ, sức nhanh. Việc huấn luyện
này phải đảm bảo một cách tốt nhất chuyển năng lực sức mạnh tối đa thành năng
lực sức mạnh nhanh. Vấn đề sử dụng tỷ lệ huấn luyện sức mạnh nhanh cho các
môn thể thao riêng biệt trong mối quan hệ này được dẫn chứng bằng phương
trình Hill. Phương trình này được suy ra từ sự cân bằng năng lượng của giai
đoạn cơ sở: Hill (1938) đã lập trình cơ bản của động lực cơ bắp như sau:
(P+a).(v+b)= (P
0
+a).b=k
Trong đó: - p là sức mạnh được biểu hiện.
- P
0
: sức mạnh tối đa. - v: tốc độ.
- a, b, k: hằng số cá biệt.
13
Phương trình không chỉ cho ta thấy sức mạnh tốc độ và tốc độ khi nâng
những vật khác nhau phụ thuộc vào sức mạnh tối đa P
0
mà con người đã đạt
được trong những điều kiện đẳng trường những hằng số của động tác thường
gặp trong thực tiễn giáo dục thể chất và huấn luyện thể thao được biểu diễn bằng
những điểm khác nhau trên đường cong biểu diễn mối quan hệ phụ thuộc vào
sức mạnh tốc độ. Nếu tích số p và v không đổi thì hệ thần kinh cơ có thể luôn
luôn tạo thành tích như nhau mà không phụ thuộc độ lớn ngoại lực điều này ra

chậm hơn khi có ngoại lực lớn. Từ đó suy ra phương pháp huấn luyện sức mạnh
là cần phải nâng cao thành phần sức mạnh một cách có trọng tâm tuỳ theo nhu
cầu ở đây cần quan tâm đến những yêu cầu thi đấu, chuyên môn, nếu tiến hành
huấn luyện sức mạnh với lực cản bên ngoài lớn thì sẽ nâng cao được sức mạnh
tối đa. Với tốc độ co cơ khi cần thiết một động tác nhanh lực cản bên ngoài, từ
đó suy ra cần phát triển sức mạnh nhanh trong huấn luyện VĐV trẻ. Bên cạnh
đó, tốc độ tối đa cũng cần thiết khắc phục nhanh chóng các lực cản bên ngoài
tương đối lớn được nâng cao trước hết là các hình thức của lượng vận động huấn
luyện sức mạnh nhanh trong quá trình phát triển thành tích nên áp dụng các hình
thức vận động của huấn luyện sức mạnh tối đa để tiếp tục nâng cao sức mạnh thì
cũng phải cố gắng đạt được sự phát triển sức mạnh. Song song với việc sắp xếp
chính xác tất cả các điều kiện quan trọng nhất giúp cho việc sử dụng sức mạnh
nhanh có hiệu quả hợp lý và tránh được sự tiêu phí về năng lượng cho các hoạt
động không hợp lý, do đó Gundlach yêu cầu một cách có căn cứ rằng tất các sức
mạnh thể chất và tâm lý phải sử dụng hoàn toàn từ đầu cho cuối đoạn được tăng
tốc độ với ý nghĩa một sự co cơ bột phát vì tác dụng huấn luyện sức mạnh phụ
thuộc chủ yếu vào hưng phấn tối ưu của hệ thần kinh trung ương. Do đó, người
ta không nên tiến hành trong những điều kiện mệt mỏi (những điều kiện mệt mỏi
này dẫn đến việc giảm, chậm động tác) cần phải hạn chế một cách thích hợp
toàn bộ khối lượng của các lượng vận động sức mạnh nhanh trong một buổi tập
và hạn chế số lần lặp lại trong một đợt những lần nghỉ giữa các đợt phải tương
đối dài từ 3-5 phút, để đánh giá sức mạnh tốc độ người ta dùng công thức:
14
max
max
T
F
I =
Trong đó: - I là chỉ số sức mạnh tốc độ.
- F

max
: Lực tối đa phát huy trong động tác.
- T
max
: thời gian đạt được trị số hiệu lực tối đa.
Tóm lại, từ những đặc điểm sinh lý, lý luận trên chúng ta có thể đi đến kết
luận: Khi sử dụng các bài tập sức mạnh tốc độ cho VĐV chính là quá trình nhằm
hoàn thiện các cơ chế cung cấp năng lượng cho cơ hoạt động trong điều kiện
không có oxy.
1.3.5. Khuynh hướng giáo dục sức mạnh tốc độ.
Thực tế cho thấy hoạt động sức mạnh tốc độ bao gồm các dạng bài tập thể
lực luôn tạo ra một trọng tải ổn định, một vận tốc cao nhất mà VĐV cần phải
hoạt động ở mức tối đa trong thời gian tối thiểu. Năng lượng sử dụng chủ yếu là
do phân giải ATP - CP dự trữ trong cơ. Trong quá trình hoạt động nợ oxy lên
đến 95% song do thời gian hoạt động ngắn nên tổng nợ oxy không lớn lắm. Với
tín hiệu xuất phát VĐV nhanh chóng bước vào hoạt động với cường độ lớn các
nhóm cơ nhanh với chức năng vận động càng nhiều oxy. Nhưng trong sút bóng,
quá trình giải phóng năng lượng cơ bản không có sự tham gia của oxy nên được
coi là yếm khí.
Như chúng ta đã biết sức mạnh tốc độ là khả năng sinh lực trong động tác
nhanh, lực tối đa mà con người có thể sản sinh ra một mặt phụ thuộc vào đặc
tính sinh cơ của động tác, một mặt nó phụ thuộc vào từng hoạt động của từng
nhóm cơ riêng biệt và sự phối hợp giữa chúng. Do đó, để phát triển sức mạnh thì
nhất thiết phải tạo ra sự căng cơ tối đa và phương pháp tập luyện sức mạnh tốc
độ rất phong phú như các bài tập với vật nặng, các loại tạ, các bài tập không
mang vật nặng như: bật xa tại chỗ, chạy đạp sau, cũng có tác dụng tốt đối với
việc phát triển sức mạnh tốc độ. Chính vì vậy, trong quá trình huấn luyện sức
mạnh tốc độ cần chú ý đến việc phát triển các tố chất thể lực khác và lưu ý một
số vấn đề sau:
- Phát triển cân đối các nhóm cơ trong hệ vận đông.

15
- Phát triển năng lực sử dụng khác nhau trong các điều kiện cụ thể mà nhiệm
vụ giáo dục chuyên môn đề ra.
Việc sử dụng các bài tập tiện lợi ở mức độ khác nhau. Các bài tập có thể tác
động tới hầu hết các nhóm cơ tham gia hoạt động do sự điều khiển của hệ thần
kinh trung ương và mức độ hoạt động cơ bắp được quy định bởi hai yếu tố:
+ Xung động từ các nơron thần kinh vận động trong sừng trước của tuỷ sống.
+ Phản ứng của cơ thể là lực cơ sinh ra để đáp ứng lại xung động thần kinh.
Nhưng nhìn chung, muốn phát triển sức mạnh tốc độ đòi hỏi vận động phải
thực hiện động tác với tốc độ tối đa (nâng cao tốc độ co cơ và nâng cao sức
mạnh tối đa (sức mạnh tuyệt đối). Huấn luyện sức mạnh tốc độ yêu cầu phải sắp
xếp chính xác các yếu tố của lượng vận động và không nên tiến hành tập luỵên
khi cơ thể mệt mỏi cần hạn chế khối lượng vận động trong mỗi buổi tập và cần
hạn chế số lần lặp lại trong một đợt khi tập luyện sức mạnh tốc độ. Những lần
nghỉ giữa mỗi đợt phải tương đối dài từ 3-5 phút để kịp hồi phục.
1.4. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 15.
1.4.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi 15.
Ở lứa tuổi này, các em có những bước phát triển nhảy vọt cả về thể chất và
tinh thần. Các em đang tách khỏi tuổi ấu thơ để chuyển dần sang giai đoạn
trưởng thành. Các em không còn là trẻ con nhưng cũng không phải là người lớn.
Do đó, ở thời kỳ này các em được hình thành các phẩm chất mới về ý chí và tình
cảm… tạo điều kiện thuận lợi để các em chuẩn bị làm người lớn. Nhưng giai
đoạn này, sự phát triển của các em diễn ra phức tạp, đời sống tâm lý của các em
có nhiều mâu thuẫn, nhiều thay đổi đột biến khiến các bậc cha mẹ, thầy cô giáo
phải ngạc nhiên, đôi lúc cảm thấy khó xử. Ở giai đoạn này, tuyến sinh dục đã bắt
đầu hoạt động, sự phát dục cũng phần nào làm ảnh hưởng tới cá tính của các em.
Các em hiếu động, tinh nghịch nhưng nếu các em được giáo dục một cách đúng
đắn thì không những sẽ khắc phục được những hiểu biết tiêu cực ấy mà còn có
thể khơi dậy và phát huy yếu tố tích cực trong thể chất và tâm hồn của các em,
giúp các em giải quyết các mâu thuẫn và các em được phát triển về mọi mặt.

16
Trí nhớ của các em có nhiều biến đổi, ghi nhớ cũng được nâng cao, các em
ghi nhớ có logic. Vì vậy, trong quá trình học tập, giáo viên cần phải dạy cho học
sinh cách ghi nhớ có chọn lọc, cần hướng cho các em vận dụng cả hai cách ghi
nhớ, ghi nhớ máy móc và ghi nhớ một cách hợp lý theo yêu cầu của từng bài tập
và kỹ thuật động tác. Đồng thời dưới sự tác động của nhiều yếu tố mà tư duy của
các em được phát triển nhanh giúp các em tích cực hơn trong hoạt động, nâng
cao ý thức và trách nhiệm, phát triển sự sáng tạo trong hoạt động…
Các em rất nhạy cảm với sự đánh giá của người xung quanh về mình. Do đó,
đôi khi chỉ một thành công ngẫu nhiên mà được mọi người chú ý các em cũng tự
đánh giá cao về mình và sinh ra tự cao, tự mãn. Nhưng ngược lại, chỉ một thất
bại tạm thời nhưng bị mọi người chê bai cũng có thể gây ra cho các em tính tự
ti, rụt rè, ảnh hưởng không tốt tới các em. Vì vậy, chúng ta cần phải uốn nắn
nhắc nhở, chỉ bảo, định hướng, động viên, khen thưởng các em, từ đó các em
mới không tạo ra tư tưởng chán nản dẫn đến có định hướng và hiệu quả bài tập
được nâng cao.
Lứa tuổi này, các em rất hồn nhiên và có nhiều hoài bão, nhưng hoài bão của
các em rất viển vông và xa vời với thực tế. Thường các em rất ít gắn ước mơ của
mình với việc học tập và rèn luyện hằng ngày. Không ít em đặt ra cho mình ước
mơ thỏa thích chứ không để vươn tới. Chúng ta cần khuyến khích các em mơ
ước vì mơ ước mới có sự sáng tạo, ước mơ còn là động lực để học tập và lao
động, ước mơ thức tỉnh sự say mê và ý chí của con người. Nhưng cần giáo dục
cho các em thấy rằng, muốn thực hiện được ước mơ thì cần phải cố gắng học tập
và rèn luyện cho mình khả năng dồi dào, đặc biệt cần tạo cho mình cho một ý
chí, một tình cảm say mê để khắc phục khó khăn trên bước đường học tập và rèn
luyện.
1.4.2. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi 15.
Ở lứa tuổi 15, các em đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, các bộ phận tiếp tục
phát triển nhưng với tốc độ chậm dần, chức năng sinh lý tương đối ổn định, khả
năng hoạt động của các cơ quan, hệ cơ quan cũng được nâng cao hơn. Tuy vậy,

17
chiều cao vẫn phát triển nhưng với tốc độ chậm dần. Ở lứa tuổi này có sự phát
triển về tầm vóc sức chịu đựng và tâm lý vì vậy chúng ta phải biết tính chất,
cường độ và khối lượng tập luyện sao cho phù hợp để có điều kiện cho cơ thể
phát triển một cách toàn diện và cân đối.
* Đặc điểm hệ tuần hoàn
Kích thước tương đối và tuyệt đối của tim cũng tăng dần theo lứa tuổi. Đến
tuổi 15 tần số tim giảm xuống còn 70-80 lần/phút. Ở lứa tuổi này, hệ tim mạch
tiếp tục phát triển gần hoàn thiện so với người trưởng thành, trong đó ảnh hưởng
của tập luyện của TDTT đã tạo nên một sự thay đổi căn bản hơn, thể tích buồng
tim tăng dần theo lứa tuổi.
Điều đó có nghĩa là hoạt động vận động với khối lượng và cường độ lớn căng
thẳng, hoạt động tim mạch không đáp ứng được các yêu cầu cho hệ vận động
mà chủ yếu bằng việc tăng nhanh tần số mạch đập để tăng lưu lượng phút. Do
đó, trong quá trình huấn luyện ở lứa tuổi 15 chúng ta nên sử dụng các bài tập với
cường độ có khối lượng lớn, vì ở lứa tuổi này chỉ thích ứng với các bài tập để
phát triển sức mạnh, sức nhanh và khéo léo với thời gian ngắn, số lần lặp lại
nhiều.
* Đặc điểm hệ xương
Ở lứa tuổi này, xương các em phát triển mạnh mẽ về bề dày, quá trình cốt hóa
diễn ra rất nhanh, hệ thống sụn tại các khớp tại các khớp đang phát triển và hoàn
thiện. Do vậy, trong tập luyện TDTT, giáo viên, huấn luyện viên phải lựa chọn
các bài tập sao cho phù hợp với lứa tuổi và giới tính để tránh sự phát triển sai
lệch của hệ xương và những tác động xấu đến sự phát triển của hệ xương.
* Đặc điểm hệ cơ
Hệ cơ ở lứa tuổi này phát triển rất nhanh tuy nhiên sự phát triển không đều ở
các nhóm cơ. Các nhóm cơ còn nhỏ và dài song dưới tác động của tập luyện thì
ở lứa tuổi này cơ phát triển mạnh mẽ về chiều dài và bề ngang, sức mạnh tăng
lên rõ rệt. Sự phát triển không đồng bộ của cơ bắp biểu hiện ở các nhóm cơ lớn
phát triển rất sớm… gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc nắm bắt kỹ chiến thuật.

18
Tính đàn hồi của cơ ở lứa tuổi này lớn hơn người lớn do biên độ co duỗi lớn.
Song do thiết diện ngang sinh lý của cơ còn nhỏ do đó sức mạnh còn kém. Vì
vậy, trong quá trình huấn luyện cần phải chú ý đến cường độ và khối lượng buổi
tập sao cho phù hợp với sự phát triển của cơ thể.
* Đặc điểm hệ thần kinh
Não bộ đang trong thời kỳ hoàn chỉnh, tổng trọng lượng của não có thể đạt tới
1400-1450g. Quá trình hưng phấn của hệ thần kinh tương đối cân bằng hơn, hệ
thống tín hiệu thứ hai tương đối hoàn thiện do vậy các em có khả năng tiếp thu
kỹ thuật khó, chịu đựng được lượng vận động lớn hơn.
Ở lứa tuổi này đặc điểm sinh lý khá nổi bật là giới tính đã phát triển mạnh mẽ,
sự phát triển này làm tăng quá trình phát triển cũng như sự phát triển về tâm lý
của các em.
Tóm lại: Thông qua quá trình phân tích và tham khảo các tài liệu có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu, bước đầu chúng tôi đã xác định được các phương pháp,
phương tiện cần thiết để tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu lựa chọn bài
tập phát triển sức mạnh tốc độ cho nam VĐV bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải
Dương”. Nội dung và kết quả nghiên cứu được trình bày ở các phần tiếp theo
của đề tài.
19
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
2.1.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu.
Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong các công trình nghiên cứu
mang tính lý luận sư phạm… nhằm mục đích thu thập các thông tin dữ liệu cần
thiết có liên quan tới hướng nghiên cứu của đề tài. Các tài liệu có liên quan được
thu thập từ các nguồn tư liệu khác nhau, chủ yếu là nguồn tư liệu thuộc thư viện
trường Đại học TDTT Bắc Ninh, thư viện khoa học TDTT và các tư liệu cá nhân

thu thập được, được trình bày ở phần “Danh mục các tài liệu tham khảo”.
2.1.2. Phương pháp phỏng vấn tọa đàm.
Đây là phương pháp rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu nhằm tranh thủ
sự hiểu biết sâu rộng và kinh nghiệm phong phú của các chuyên gia, giáo viên,
giảng viên, huấn luyện viên… trên cơ sở đó lựa chọn các bài tập một cách chính
xác, với đầy đủ luận cứ khoa học một cách đáng tin cậy và có thể đem lại thành
công trong quá trình nghiên cứu.
2.1.3. Phương pháp quan sát sư phạm.
Chúng tôi tiến hành quan sát quá trình tập luyện và thi đấu bóng đá của một
số CLB trên địa bàn tỉnh cũng như một số tỉnh có phong trào phát triển như:
Nam Định, Thái Bình… để từ đó biết được một số bài tập thường được sử dụng
trong huấn luyện sức mạnh của VĐV bóng đá trẻ. Đồng thời thu thập các thông
tin cần thiết để giải quyết mục tiêu của đề tài.
2.1.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Để có sự so sánh tổng kết quả số liệu thu được chúng tôi cho tiến hành ở 20
em và chia làm 2 nhóm:
- Nhóm A (NĐC): gồm 10 em tập các bài tập do ban huấn luyện đội đề ra.
- Nhóm B (NTN): gồm 10 em tập các bài tập do đề tài lựa chọn.
20
2.1.5. Phương pháp kiểm tra sư phạm.
Chúng tôi sử dụng các bài tập kiểm tra để đánh giá sức mạnh tốc độ cho nam
VĐV bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải Dương trước và sau khi áp dụng các bài tập
đã nghiên cứu. Từ đó đánh giá được hiệu quả của các bài tập đã lựa chọn để phát
triển sức mạnh tốc độ cho đối tượng nghiên cứu.
Chúng tôi đã sử dụng những test sau để kiểm tra sức mạnh tốc độ cho các
nam VĐV bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải Dương.
* Test 1: Chạy tốc độ 30m (s)
* Test 2: Bật xa tại chỗ (m)
* Test 3: Sút bóng liên tục 10 quả bằng 2 chân có đà 5m (s)
2.1.6. Phương pháp toán học thống kê.

Sau khi thu thập được các số liệu nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các công
thức sau để xử lý số liệu:
+) Tính số trung bình quan sát:

n
x
x
i

=
+) Phương sai:
( )
1
2
2


=

n
XX
ii
x
δ
(n < 30)
+) Phương sai chung:
( ) ( )
2
22
2

−+
−+−
=
∑∑
BA
B
B
A
A
c
nn
XXXX
δ
(n <30)
+) Độ lệch chuẩn:
2
xx
δδ
=
+) Hệ số tương quan:

( )
( )



−=
2
2
1

6
1
ii
BA
nn
r
(n < 30)
+) So sánh hai số trung bình quan sát:

B
B
A
A
BA
nn
XX
t
22
δδ
+

=
(n < 30)
21
+) Nhịp tăng trưởng được tính theo công thức của S.Brody:

%100
)(5.0
21
12

×
+

=
vv
vv
W
Trong đó: - W: Nhịp độ phát triển (%)
- v
1
: Kết quả kiểm tra lần trước của các chỉ tiêu
- v
2
: Kết quả kiểm tra lần sau của các chỉ tiêu
- 100 và 0,5: Các hằng số
2.2. Tổ chức nghiên cứu.
Đề tài được tiến hành từ tháng 03/2010 đến tháng 05/2011 và được chia làm 3
giai đoạn nghiên cứu như sau:
- Giai đoạn 1: từ tháng 03/2010 đến tháng 04/2010, lựa chọn hướng và đề tài
nghiên cứu, xây dựng và bảo vệ đề cương nghiên cứu.
- Giai đoạn 2: từ tháng 04/2010 đến tháng 02/2011, tiến hành giải quyết 2
mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
- Giai đoạn 3: từ tháng 02/2011 đến tháng 05/2011, phân tích các kết quả
nghiên cứu, viết và hoàn thiện đề tài nghiên cứu. Chuẩn bị và bảo vệ kết quả
nghiên cứu trước Hội đồng khoa học.
22
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1. Giải quyết mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng sức mạnh tốc độ cho nam
VĐV Bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải Dương.

Để giải quyết mục tiêu 1, chúng tôi tiến hành nghiên cứu các vấn đề sau:
3.1.1. Nghiên cứu lựa chọn test đánh giá sức mạnh tốc độ cho nam VĐV
Bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải Dương.
* Nguyên tắc lựa chọn test đánh giá.
- Các test được lựa chọn phải là những test có tính khả thi, đảm bảo độ tin cậy
và có tính thông báo trên đối tượng nghiên cứu.
- Các test phải đơn giản dễ thực hiện, dễ kiểm tra, thời gian thực hiện các test
phải phù hợp với thời gian kiểm tra.
- Các test phải đảm bảo đánh giá được sức mạnh tốc độ cho nam VĐV Bóng
đá lứa 15 tỉnh Hải Dương.
3.1.1.1. Phỏng vấn lựa chọn test đánh giá sức mạnh tốc độ cho nam VĐV
Bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải Dương.
Để có cơ sở đánh giá sức mạnh tốc độ cho nam VĐV Bóng đá lứa tuổi 15,
trước hết chúng tôi tiến hành nghiên cứu lựa chọn các test đánh giá sức mạnh
tốc độ cho VĐV.
Qua phân tích tổng hợp, tham khảo các tài liệu chuyên cũng như tố chất sức
mạnh và đặc điểm của VĐV lứa tuổi 15, đồng thời quan sát các buổi kiểm tra
thể lực của VĐV Bóng đá của một số đội bóng trong và ngoài tỉnh chúng tôi lựa
chọn được các test thường được sử dụng để đánh giá sức mạnh tốc độ cho VĐV
Bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải Dương.
+ Các test để đánh giá sức mạnh tốc độ:
- Test 1: Chạy tốc độ 30 m (s)
- Test 2: Bật xa tại chỗ (m)
- Test 3: Sút bóng liên tục 10 quả bằng 2 chân có đà 5m (s)
23
- Test 4: Bật nhảy đánh đầu (m)
- Test 5: Dẫn bóng tốc độ 30 m sút cầu môn (s)
Để đảm bảo tính chính xác và khách quan của test đánh giá sức mạnh tốc độ,
chúng tôi tiến hành phỏng vấn các chuyên gia, giáo viên, HLV đang trực tiếp
giảng dạy và huấn luyện môn Bóng đá. Số phiếu chúng tôi phát ra là 30 và thu

về là 27 phiếu, các test được lựa chọn phải chiếm từ 70% số ý kiến tán thành trở
lên. Kết quả phỏng vấn được trình bày ở bảng 3.1.
Bảng 3.1. Kết quả phỏng vấn lựa chọn test đánh giá sức mạnh tốc độ (n=27)
TT Test
Kết quả phỏng vấn
Tán
thành
Tỷ lệ
%
Không
tán
thành
Tỷ lệ
%
1 Chạy tốc độ 30m (s) 25 92,59 2 7,41
2 Bật xa tại chỗ (m) 22 81,48 5 18,52
3
Sút bóng liên tục 10 bằng 2 chân có
đà 5m (s)
20 74,07 7 25,93
4 Bật nhảy đánh đầu (m) 9 33,33 18 66,67
5 Dẫn bóng tốc độ 30m sút cầu môn (s) 12 44,44 15 55,56
Qua bảng 3.1. cho thấy: Trong 5 test đưa ra phỏng vấn thì có 3 test được các
chuyên gia, giáo viên, HLV tán thành trên 70% tổng số ý kiến và được chúng tôi
lựa chọn để đánh giá sức mạnh tốc độ cho nam VĐV Bóng đá lứa tuổi 15 theo
nguyên tắc lựa chọn đã đề ra bao gồm:
- Test 1: Chạy tốc độ 30m (s) đạt 92,59% tổng số người tán thành khi phỏng
vấn.
- Test 2: Bật xa tại chỗ (m) đạt 81,48% tổng số người tán thành khi phỏng
vấn.

- Test 3: Sút bóng 10 quả bằng 2 chân liên tục có đà 5m (s) đạt 74,07% tổng
số người tán thành khi phỏng vấn.
Như vậy, qua phỏng vấn chúng tôi đã lựa chọn được 3 test để đánh giá sức
mạnh tốc độ cho nam VĐV Bóng đá lứa tuổi 15 bao gồm:
24
- Chạy tốc độ 30m (s).
- Bật xa tại chỗ (m).
- Sút bóng liên tục 10 quả bằng 2 chân có đà 5m (s).
Tuy nhiên, để các test được lựa chọn đảm bảo đánh giá được sức mạnh tốc độ
cho nam VĐV Bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải Dương chúng tôi tiến hành xác định
độ tin cậy và tính thông báo của các test ở mục 3.1.1.2.
3.1.1.2. Xác định độ tin cậy và tính thông báo của các test đánh giá sức mạnh
tốc độ cho nam VĐV Bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải Dương.
Thực hiện trên 12 VĐV (lấy ngẫu nhiên trong 20 VĐV Bóng đá).
* Xác định độ tin cậy của các test đánh giá sức mạnh tốc độ.
Để xác định độ tin cậy của các test đã lựa chọn trên đối tượng nghiên cứu
chúng tôi đã sử dụng phương pháp test lặp lại (Restest) nhằm xác định mối
tương quan giữa hai lần kiểm tra các test. Chúng tôi đã tiến hành kiểm tra các
test trên đối tượng nghiên cứu, ở hai thời điểm cách nhau một tuần. Kết quả
được trình bày ở bảng 3.2.
Bảng 3.2. Kết quả xác định độ tin cậy của các test đánh giá sức mạnh tốc độ
(n=12)
STT Test r
tính
r
tc
P
1 Chạy tốc độ 30m (s) 0,84 0,8 0,05
2 Bật xa tại chỗ (m) 0,89 0,8 0,05
3

Sút bóng liên tục 10 quả bằng 2 chân
có đà 5m (s)
0,86 0,8 0,05
Qua bảng 3.2. cho thấy: Cả 3 test được lựa chọn qua phỏng vấn để đánh giá
sức mạnh tốc độ cho nam VĐV Bóng đá lứa tuổi 15 tỉnh Hải Dương đều đảm
bảo độ tin cậy tức r
tính
> r
tc
ở ngưỡng xác suất p=0,05. Do đó, chúng tôi tiếp tục
xác định tính thông báo của 3 test này trên đối tượng nghiên cứu.
* Xác định tính thông báo của các test đánh giá sức mạnh tốc độ.
Để làm được điều này chúng tôi đi tìm mối tương quan giữa kết quả kiểm tra
của 3 chỉ tiêu đã được chứng minh độ tin cậy với thành tích thể thao, tức là đi
25

×