Tải bản đầy đủ (.pdf) (205 trang)

Khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 205 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Đình Hòa

KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRONG CHIẾN LƯỢC
TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI i– 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Đình Hòa

KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRONG CHIẾN LƯỢC
TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Kinh tế phát triển
Mã số : 62 31 01 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. TS. Vũ Tuấn Anh


2. PGS. TS. Nguyễn Cảnh Nam

HÀ NỘI – 2016

ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những
kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án

Nguyễn Đình Hòa

iii


MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................................... vi
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ ..................................................................................vii
MỞ ĐẦU..................................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN ................................................................................................................................. 10
1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ................................................................... 10
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................................... 21
1.3. Nhận xét chung về các công trình hiện có và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 29

Tiểu kết chương 1 ................................................................................................... 30
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
TRONG TĂNG TRƯỞNG XANH........................................................................................ 32
2.1. Cơ sở lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh ...................... 32
2.2. Kinh nghiệm quốc tế về khai thác khoáng sản trong việc phát triển bền vững,
tăng trưởng xanh đối với nền kinh tế ..................................................................... 59
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................... 66
Chương 3: THỰC TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRONG CHIẾN
LƯỢC TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM .......................................................... 67
3.1. Thực trạng khai thác khoáng sản từ góc nhìn của tăng trưởng xanh .............. 67
3.2. Đánh giá kết quả của khai thác khoáng sản theo tiêu chí tăng trưởng xanh ... 74
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với khai thác khoáng sản trong việc thực hiện chiến
lược tăng trưởng xanh ............................................................................................ 95
3.4. Đánh giá chung về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh. 102
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 115
Chương 4: ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN, ĐỔI MỚI KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
TRONG CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM.................................116
4.1. Bối cảnh quốc tế, trong nước thời gian tới và những vấn đề đặt ra đối với khai
thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh ............................................ 116
4.2. Quan điểm, định hướng về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng
xanh ...................................................................................................................... 125
4.3. Các giải pháp về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh.. 135
Tiểu kết chương 4 ................................................................................................. 149

iv


KẾT LUẬN.............................................................................................................................150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ....153
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................................154

Phụ lục 1: Các bảng số liệu, hình vẽ ......................................................................................172
Phụ lục 2: Danh mục các hình ảnh từ khảo sát thực tiễn minh họa về thực trạng khai thác
khoáng sản ...............................................................................................................................195

v


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ADB

Ngân hàng Phát triển châu Á

BĐKH

Biến đổi khí hậu

BVMT

Bảo vệ môi trường

CIEM

Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

ĐMC

Đánh giá môi trường chiến lược

DNNN


Doanh nghiệp nhà nước

ĐTM

Đánh giá tác động môi trường

KHCN

Khoa học công nghệ

NSNN

Ngân sách nhà nước

OECD

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế

ONMT

Ô nhiễm môi trường

PTBV

Phát triển bền vững

SERI

Viện Nghiên cứu phát triển bền vững Châu Âu


TCCP

Tiêu chuẩn cho phép

TNKS

Tài nguyên khoáng sản

TNMT

Tài nguyên và môi trường

TTX

Tăng trưởng xanh

UNDP

Chương trình Phát triển Liên hợp quốc

UNEP

Chương trình Môi trường Liên hợp quốc

UNESCAP Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương Liên hợp quốc
UNIDO

Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc


VCCI

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

VLXD

Vật liệu xây dựng

WB

Ngân hàng Thế giới

vi


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tiêu chí đánh giá khai thác khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh .....53
Bảng 3.1: Đóng góp của ngành công nghiệp khai khoáng vào GDP ........................74
Bảng 3.2: Đóng góp của khai thác khoáng sản vào ngân sách nhà nước .................76
Bảng 3.3: Tỷ lệ giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của ngành
công nghiệp khai khoáng ..........................................................................78
Bảng 3.4: Tình hình tổn thất trong khai thác than tại các mỏ trong Tập đoàn
Than – Khoáng sản Việt Nam ................................................................79
Bảng 3.5: Chỉ số HHI và EG của ngành công nghiệp khai khoáng ..........................81
Bảng 3.6: Tình hình thực hiện chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường .................86

vii



DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 2.1: Tách rời tài nguyên và tác động môi trường trong tăng trưởng kinh tế ...50
Hình 3.1: Xu hướng về khai thác khoáng sản trong giai đoạn 1980 – 2013.............71
Hình 3.2: Số lao động làm việc trong ngành công nghiệp khai khoáng ...................78
Hình 3.3: Xu hướng về năng suất tài nguyên từ khai thác khoáng sản ................82
Hình 3.4: Tốc độ tăng trưởng khai thác than và phát thải CO2 .................................84
Hình 3.5: Tốc độ tăng trưởng khai thác và tốc độ tăng tiền lương ở các doanh
nghiệp khai khoáng...................................................................................90
Hình 3.6: Các chỉ số thành phần và chỉ số SDI ngành công nghiệp khai khoáng..............94
Hình 3.7: Xu hướng về tăng trưởng kinh tế, khai thác khoáng sản và phát thải CO2
tại Việt Nam .............................................................................................97
Hình 3.8: Quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng khai thác và tăng trưởng TFP...............99

viii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng là một
trong những đầu vào của sản xuất. Không những vậy, nhiều loại khoáng sản còn
gắn liền với lợi thế so sánh và vị thế của quốc gia. Việt Nam được đánh giá là có
tiềm năng về khoáng sản với khoảng hơn 5000 mỏ và điểm mỏ của hơn 60 loại
khoáng sản [10].
Trong thời gian qua, ngành công nghiệp khai khoáng đã có những đóng góp nhất
định vào tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách và giải quyết việc làm. Tuy nhiên,
ngành này hiện đang bộc lộ không ít hạn chế, thách thức đối với tăng trưởng xanh,
phát triển bền vững.
Tình trạng khai thác ồ ạt tài nguyên khoáng sản, hiệu quả sử dụng tài nguyên

thấp, tỷ lệ tổn thất cao, nhiều loại tài nguyên khoáng sản có nguy cơ bước vào thời
kỳ bị cạn kiệt. Việc cấp phép khai thác thiếu hợp lý, thậm chí có tình trạng chia nhỏ
khu vực khai thác để cấp phép. Các doanh nghiệp khai khoáng chủ yếu là quy mô
nhỏ, trình độ kỹ thuật lạc hậu và trình độ tay nghề của người lao động còn hạn chế
[18]. Sự lãng phí, tổn thất khoáng sản trong hoạt động khai thác cao [78].
Hoạt động khai thác khoáng sản tác động tiêu cực tới môi trường, sinh kế, hệ
thống đường sá phục vụ dân sinh [59], [64], [68]. Việc khai thác khoáng sản
cũng thải ra một khối lượng lớn đất đá thải, ảnh hưởng tới môi trường xung
quanh [48], [50].
Khoáng sản đã khai thác chủ yếu được xuất khẩu ở dạng thô, thay vì lấy nguồn
tài nguyên khoáng sản làm “mồi” để thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp chế
biến, khiến cho Việt Nam có nguy cơ mất dần cơ hội để phát triển những ngành
công nghiệp quan trọng, những lĩnh vực phụ trợ có sức lan tỏa lớn. Việc khai thác
tài nguyên mà không gắn với phát triển công nghiệp chế biến có nguy cơ đẩy nhanh
tốc độ “chảy máu tài nguyên”, khi các ngành công nghiệp nội địa phát triển thì tài
nguyên cũng không còn.

1


Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng lợi ích từ khai thác khoáng sản có xu hướng
nghiêng về các doanh nghiệp khai khoáng [20], [21]. Xu hướng này có nguy cơ tạo
ra các lợi ích nhóm trong khai thác khoáng sản và hệ quả là thiếu bền vững về xã
hội. Việc hình thành nhóm lợi ích có nguy cơ gây ra “méo mó” trong các chính sách.
Thực trạng đã nêu cho thấy nếu không có chiến lược quản lý, khai thác và sử
dụng hợp lý đối với tài nguyên khoáng sản, Việt Nam có nguy cơ rơi vào bẫy “lời
nguyền tài nguyên” như nhiều quốc gia đã và đang gặp phải.
Hiện nay, Chính phủ đang thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng chuyển từ
chiều rộng sang chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế. Theo đó, việc khai thác khoáng sản cần những thay đổi nhằm nâng

cao khả năng đóng góp, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến dựa
trên cơ sở nguyên liệu trong nước và công nghệ cao để đạt mục tiêu tăng tỷ phần giá
trị gia tăng – quốc gia trong sản phẩm.
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Biến
đổi khí hậu tác động tới các hoạt động kinh tế, trong đó có khai thác khoáng sản.
Nước ta đang ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới với các yêu cầu cao
về môi trường và an toàn vệ sinh lao động. Đây là yêu cầu và thách thức đối với nền
kinh tế nói chung và ngành công nghiệp khai khoáng nói riêng để có thể tham gia
chuỗi sản xuất toàn cầu hay những ràng buộc để tài trợ vốn.
Nhằm thích ứng với các thách thức vừa đề cập, trong những năm gần đây, Nhà
nước ban hành các chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường, khai thác tài
nguyên thiên nhiên và về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, trong đó quan
trọng nhất là “Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020”
(Quyết định số 432/TTg ngày 12/4/2012) và “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng
xanh thời kỳ 2011 – 2020 và tầm nhìn đến 2050” (Quyết định số 1393/QĐ–TTg
ngày 25/9/2012). Chiến lược tăng trưởng xanh đề ra các nhiệm vụ: (i) giảm thiểu
cường độ phát thải khí nhà kính và khuyến khích sử dụng năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo; (ii) xanh hóa sản xuất và (iii) xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng
bền vững. Tăng trưởng xanh là một nội dung của phát triển bền vững, đảm bảo phát
triển kinh tế theo hướng nhanh, hiệu quả và bền vững, đồng thời góp phần giảm nhẹ
2


và phòng chống tác động của biến đổi khí hậu. Chiến lược tăng trưởng xanh là
chiến lược phát triển kinh tế theo hướng bền vững, là bộ phận cấu thành của
Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững của Việt Nam đã được Chính phủ
Việt Nam ban hành năm 2004. Theo đó, để đóng góp vào việc thực hiện chiến lược
tăng trưởng xanh và thích ứng với bối cảnh mới, việc khai thác khoáng sản cần có
cách tiếp cận và phương thức mới.
Các nghiên cứu hiện có về khai thác khoáng sản tại Việt Nam cho đến nay tập

trung chủ yếu vào giải quyết những vấn đề mang tính kỹ thuật, hiệu quả kinh tế đơn
thuần. Thậm chí khai thác khoáng sản thường được đánh giá qua đóng góp cho sự
tăng trưởng sản lượng và giá trị xuất khẩu, chứ chưa được đánh giá đầy đủ tác động
nhiều mặt về giá trị quý hiếm lâu dài của tài nguyên, về tổng chi phí – lợi ích (bao
gồm cả chi phí cơ hội và chi phí bồi hoàn tài nguyên). Nguyên tắc cốt lõi của phát
triển bền vững “tiêu dùng hiện tại không làm tổn hại tới tiêu dùng của các thế hệ
mai sau” hầu như chưa được vận dụng trong hoạch định các chiến lược dài hạn và
chính sách khai thác khoáng sản.
Các nghiên cứu hiện có của các tác giả trong nước đề cập đến tăng trưởng xanh,
song chưa đưa ra được các chỉ tiêu áp dụng vào ngành công nghiệp khai khoáng.
Hơn nữa, công trình nghiên cứu vẫn chưa đề xuất phương pháp và tính toán chỉ số
tổng hợp các chỉ tiêu thành phần theo các trụ cột phát triển bền vững để theo dõi xu
hướng phát triển của ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam.
Từ những vấn đề trên cho thấy nghiên cứu nhằm đưa ra luận cứ khoa học xác
đáng cho việc hoạch định chính sách thích hợp để khai thác khoáng sản đáp ứng
được nhu cầu phát triển đất nước trong khuôn khổ chiến lược tăng trưởng xanh là có
ý nghĩa về khoa học và có khả năng đóng góp vào thực tiễn hoạch định chính sách
và đưa ra những giải pháp cho những vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa sắp tới.
Vì tính cấp thiết và ý nghĩa như trên, đề tài “Khai thác khoáng sản trong chiến
lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam” được tác giả luận án lựa chọn để nghiên cứu.

3


2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh; đánh giá
thực trạng khai thác khoáng sản ở Việt Nam trong chiến lược tăng trưởng xanh và
đề xuất quan điểm, định hướng, giải pháp về khai thác khoáng sản trong quá trình
thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.

2.2. Các nhiệm vụ nghiên cứu
1) Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về khai thác khoáng sản
trong tăng trưởng xanh.
2) Phân tích, đánh giá thực trạng khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng
trưởng xanh ở Việt Nam.
3) Đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp về khai thác khoáng sản trong
quá trình thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.
2.3. Câu hỏi nghiên cứu
Nhằm góp phần đạt các mục tiêu và nhiệm vụ vừa nêu, luận án tập trung giải đáp
các câu hỏi nghiên cứu chính:
1) Khai thác khoáng sản ở Việt Nam đã theo hướng tăng trưởng xanh chưa?
Câu hỏi nghiên cứu này hướng tới việc tìm hiểu xem khai thác khoáng sản diễn
ra theo xu hướng tốt lên hay xấu hơn, chứ không trả lời khai thác khoáng sản đã
xanh hay chưa (bởi giữa kinh tế, xã hội, môi trường có luôn sự đánh đổi và việc đưa
ra ngưỡng/ chỉ tiêu định lượng cụ thể để đánh giá là nhiệm vụ không khả thi).
2) Việc khai thác khoáng sản (duy trì theo phương thức khai thác như hiện
nay) ảnh hưởng gì và như thế nào tới việc thực hiện chiến lược tăng
trưởng xanh?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về hiệu quả kinh tế, tác động đến xã hội và môi trường
của khai thác khoáng sản trong quá trình thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh
ở Việt Nam.
4


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu:
– Khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh bao gồm hai mặt: (a)
khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh, tức là tăng trưởng xanh đối với

ngành công nghiệp khai khoáng; và (b) khai thác khoáng sản cần có những đóng
góp vào việc thực hiện và đạt được các kết quả của chiến lược tăng trưởng xanh của
Việt Nam. Luận án chủ yếu nghiên cứu về khai thác khoáng sản theo hướng tăng
trưởng xanh.
– Khi nghiên cứu về khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh, luận án
tập trung vào các vấn đề về kinh tế, xã hội và môi trường. Luận án chỉ đề cập ở mức
độ nhất định về xanh hóa khai thác khoáng sản, bởi chủ đề này chủ yếu đặt vấn đề
đưa các công nghệ xanh và sạch, phương thức sản xuất/khai thác xanh vào trong
quá trình khai thác khoáng sản, cách thức xử lý môi trường,... các nội dung này
thiên về khía cạnh kỹ thuật của khai thác mỏ và xử lý vấn đề môi trường.
– Luận án tập trung phân tích, đánh giá và đề xuất ở mức cần thiết đối với một số
khía cạnh của khai thác, chứ không đi sâu nghiên cứu về sử dụng khoáng sản.
Về không gian: Luận án nghiên cứu về khai thác khoáng sản ở Việt Nam.
Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu các nội dung trong giai đoạn từ năm
2000 đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu
Luận án sử dụng cách tiếp cận hệ thống và phát triển bền vững trong nghiên cứu.
Khai thác khoáng sản và tác động kinh tế, xã hội, môi trường được phân tích theo
chuỗi, được phân loại theo các cách khác nhau:
– Khai thác khoáng sản phân theo tiến trình thực hiện và các chính sách quản lý
nhà nước: quy hoạch → trao hợp đồng và giấy phép khai thác → giám sát quá trình
khai thác (bảo vệ môi trường và giảm thiểu tác động về xã hội) → thu ngân sách và
sử dụng nguồn thu → các chính sách và dự án phục vụ phát triển bền vững. Cách
tiếp cận này để đánh giá thực trạng chính sách ở các công đoạn của khai thác
khoáng sản.
5


– Phân theo vai trò hay tác động lan tỏa của khai thác khoáng sản đối với các

ngành kinh tế: từ sản phẩm khoáng sản và phát triển các ngành công nghiệp theo
sau sản phẩm khoáng sản.
– Phân theo vai trò của khai thác khoáng sản trong hội nhập kinh tế quốc tế: đề
xuất các chính sách sản phẩm khoáng sản tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
– Phân theo tác động kinh tế, xã hội và môi trường của khai thác khoáng sản:
phân tích chuỗi, đầu vào – đầu ra của khoáng sản nhằm làm rõ tác động của khai
thác khoáng sản đối với môi trường và mô hình tiêu dùng của xã hội, đề xuất yêu
cầu phát triển các sản phẩm thay thế để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án bao gồm:
a) Phương pháp định tính
– Phương pháp so sánh, bao gồm so sánh theo chuỗi thời gian và so sánh chéo
được đề tài sử dụng để đối chiếu giữa các chỉ tiêu có liên quan trên các khía cạnh
của tăng trưởng xanh:
+ So sánh về thay đổi, chuyển biến các chính sách liên quan tới khai thác khoáng
sản theo thời gian.
+ So sánh theo thời gian các kết quả, hệ quả của chính sách đối với khai thác
khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh.
– Phương pháp phân tích
+ Phân tích thống kê:
Phương pháp này được sử dụng để phân tích: 1) số liệu thống kê về tình hình
kinh tế – xã hội; 2) phân tích số liệu thống kê từ kết quả điều tra doanh nghiệp trong
giai đoạn từ 2000 – đến nay để làm rõ thực trạng và xu hướng phát triển của các
doanh nghiệp khai khoáng; 3) các số liệu về tài nguyên và môi trường, hiệu quả sử
dụng tài nguyên;...
+ Phân tích các chính sách:
Tính đồng bộ, phù hợp pháp luật của các văn bản đã ban hành.
Tính khả thi (phù hợp với thực tiễn) của các quy định: việc ban hành các chính
sách có phù hợp với tính đặc thù của khai thác khoáng sản, ví dụ đặc thù của ngành
6



khai khoáng là càng ngày càng phải khai thác xuống sâu (đối với khai thác hầm lò),
điều này đồng nghĩa với chi phí sản xuất phải cao hơn, so các quy định tài chính
(thuế tài nguyên) có xu hướng ngày càng tăng. Việc phân cấp quản lý tài nguyên
khoáng sản liệu có phù hợp điều kiện thực tế của cấp địa phương (đặc biệt cấp
huyện) về số lượng và năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ.
Tính phù hợp của các cộng cụ kinh tế được áp dụng trong hoạt động khoáng sản
(thuế, phí, ký quỹ….), tính ổn định về chính sách trong lĩnh vực khoáng sản.
Phân tích, đánh giá các nội dung và việc tổ chức triển khai các chính sách về khai
thác khoáng sản. Phân tích tác động (từ một số ví dụ) về các tác động của chính
sách và của hoạt động khai thác khoáng sản tới môi trường, đời sống và kinh tế của
người dân địa phương tại vùng khai thác.
– Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn
Nghiên cứu sinh đã tiến hành khảo sát thực tiễn về khai thác titan tại tỉnh Bình
Định, khai thác quặng sắt và volfram tại tỉnh Thái Nguyên, khai thác bôxit tại Tân
Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông). Phương pháp khảo sát bao gồm phỏng
vấn sâu, thảo luận với đại diện các cấp chính quyền (tỉnh, huyện, xã), các doanh
nghiệp khai khoáng và người dân nơi khai thác mỏ. Nội dung khảo sát tập trung vào
những vấn đề: những bất cập của các chính sách khai thác khoáng sản, tác động
(tiêu cực, tích cực) của khai thác khoáng sản đối với phát triển kinh tế – xã hội, tài
nguyên – môi trường.
– Phương pháp tổng hợp
Phương pháp tổng hợp được sử dụng để rút ra các nhận xét, khái quát, kết luận từ
các kết quả, nội dung được hiện thông qua phân tích, so sánh,...
b) Phương pháp định lượng
– Tính chỉ số HHI (Herfindahl–Hirschmann Index): tính toán và phân tích chỉ số
tập trung và thu hút của ngành công nghiệp khai khoáng đối với những nơi khai
thác mỏ (chi tiết phương pháp tính toán tại Bảng 9 - Phụ lục).
– Tính chỉ số SDI (Sustainable Development Index): xây dựng và tính toán chỉ số

phát triển bền vững ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam. Việc tính toán chỉ số

7


này theo chuỗi thời gian nhằm nghiên cứu xu hướng liệu ngành công nghiệp khai
khoáng đã phát triển theo hướng tăng trưởng xanh.
– Sử dụng kinh tế lượng: luận án dùng mô hình kinh tế lượng ước lượng và phân
tích mối quan hệ giữa khai thác khoáng sản và TFP (chi tiết về phương pháp: Bảng
11 – Phụ lục).
4.3. Nguồn số liệu, tài liệu
Các loại số liệu, tài liệu thứ cấp: thu thập các văn bản, chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước; thông tin và dữ liệu từ các công trình nghiên cứu khoa học đã
có; các báo cáo có liên quan...
Các số liệu, tài liệu sơ cấp: kết quả điều tra và phỏng vấn sâu các cơ quan quản lý
nhà nước, các doanh nghiệp khai khoáng và người dân tại các điểm khảo sát.
4.4. Khung phân tích
Luận án tiến hành phân tích các nội dung theo khung phân tích như sau:

8


5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án góp phần làm sáng tỏ lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh:
– Việc khai thác khoáng sản hướng tới việc tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn, sử
dụng ít hơn các nguồn tài nguyên và gây ra ít hơn các tác động tới tài nguyên,
môi trường.
– Làm rõ và cung cấp luận cứ khoa học cho việc đề ra các chính sách sử dụng hiệu
quả tài nguyên khoáng sản, tách rời sự phụ thuộc của tăng trưởng kinh tế đối với
khai thác ngày càng nhiều tài nguyên khoáng sản và chuyển hướng tới mô hình

tăng trưởng xanh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
– Góp phần bổ sung vào các lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh.
– Góp phần nâng cao nhận thức về tăng trưởng xanh, qua đó, đóng góp vào xây
dựng và thực thi các chính sách.
– Góp phần làm sáng tỏ và cung cấp những luận cứ khoa học về thực tiễn khai
thác khoáng sản ở nước ta trên quan điểm tăng trưởng xanh phục vụ cho công tác
nghiên cứu và quản lý ở các cơ quan hoạch định chính sách, các doanh nghiệp.
7. Kết cấu nội dung của luận án
Ngoài phần nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục có liên
quan, luận án được kết cấu thành 04 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về khai thác khoáng sản trong tăng
trưởng xanh
Chương 3: Thực trạng khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng
xanh ở Việt Nam
Chương 4: Ðề xuất hoàn thiện, đổi mới khai thác khoáng sản trong chiến
lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam

9


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Ở cấp độ quốc tế, cho đến nay, có nhiều nghiên cứu về thực trạng khai thác và
phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, trong đó đáng chú ý là các nghiên cứu có
giá trị khoa học dưới góc độ bổ sung, hoàn thiện lý luận về tăng trưởng xanh.
1.1.1. Các nghiên cứu bàn về khai thác khoáng và quan hệ của nó với tăng

trưởng kinh tế
1.1.1.1. Các nghiên cứu bàn về vốn tài nguyên, tài nguyên khoáng sản trong tăng
trưởng kinh tế
Các nhà kinh tế học theo trường phái tân cổ điển khi xem xét tới tăng trưởng kinh
tế thường chỉ đề cập đến vốn vật chất và lao động. Robert Solow, năm 1956, đã bổ
sung yếu tố công nghệ cùng với các yếu tố như vốn vật chất, lao động là những đầu
vào của tăng trưởng kinh tế. Các cách tiếp cận này chủ yếu đề cập tới về số lượng
của tăng trưởng kinh tế.
Với cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 1970, các nhà kinh tế học đã nhận ra
“Sự giới hạn của tăng trưởng” (The limits to growth), đó là: tài nguyên thiên nhiên
không phải là vô tận và môi trường đang bị ô nhiễm có nguy cơ tới hạn khả năng
chịu đựng của hệ sinh thái. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng
trong tương lai và chất lượng cuộc sống của con người. Chính vì vậy, đầu những
năm 1970, các nhà kinh tế học đã mở rộng mô hình tăng trưởng tân cổ điển bằng
việc xem vốn tài nguyên với tư cách là đầu vào sản xuất nhằm đánh giá đầy đủ hơn
vai trò và ảnh hưởng của việc sử dụng loại vốn này.
Stiglitz (1974) [151] đã ước lượng độ co giãn giữa các đầu vào sản xuất, bao
gồm: vốn vật chất, lao động và năng lượng. Dasgupta và Heal (1979) [101] ước
lượng sự thay thế lẫn nhau giữa các đầu vào sản xuất và nhấn mạnh rằng đầu ra của
nền kinh tế liệu có đầy đủ khi không có tài nguyên, trong trường hợp việc thiếu tài
nguyên sẽ không xảy ra quá trình sản xuất. Điểm chung trong các nghiên cứu này là
10


đều khẳng định rằng tài nguyên không tái tạo là đầu vào quan trọng của sản xuất.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đã bỏ qua sự thay thế của đầu tư vào các công nghệ mới
và cải thiện các kỹ năng lao động. Hơn nữa, các nguyên cứu chưa xem xét tới
thương mại quốc tế – bắt đầu phát triển mạnh trong những năm 1990 và hiện đã trở
thành xu thế chủ đạo trong kinh tế thế giới – để bổ sung cho nguồn năng lượng ở
trong nước khi cạn kiệt. Mặc dù vậy, các nghiên cứu này cũng đã nhấn mạnh tới

tầm quan trọng của vốn tài nguyên trong tăng trưởng kinh tế.
Các nghiên cứu đã áp dụng hàm sản xuất Cobb–Douglas với việc bổ sung vốn tài
nguyên để đưa ra các giải thích đối với tăng trưởng kinh tế (vốn tài nguyên là đầu
vào sản xuất, mặt trái của khai thác và sự cần thiết đầu tư vào vốn tài nguyên):
– Gylfason và Zoega (2001) [114] áp dụng hàm sản xuất Cobb–Douglas với các
biến đầu vào là lao động, vốn vật chất và vốn tài nguyên; và qua các bước biến đổi
để ước lượng việc gia tăng khối lượng vốn tài nguyên ảnh hưởng như thế nào đến
đầu tư. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng vốn tài nguyên có tác động tới tăng
trưởng kinh tế. Loại vốn này cũng có thể cản trở tới quy mô vốn đầu tư, nếu chúng
chậm quá trình phát triển tài chính và ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng của đầu tư.
– Sturgill và Zuleta (2013) [145] áp dụng hàm Cobb–Douglass với 4 biến gồm
vốn vật chất (tổng tích lũy tài sản), vốn con người (tỷ lệ lao động qua đào tạo), vốn
tài nguyên (tỷ trọng khu vực khai thác tài nguyên trong cơ cấu kinh tế) và quy mô
lao động (số lượng lao động đang làm việc). Nghiên cứu tập trung tính toán đóng
góp của các nhân tố vào tăng trưởng và ảnh hưởng của các nhân tố này vào TFP
(năng suất nhân tố tổng hợp), năng suất cận biên của các yếu tố khác.
– Trong nghiên cứu về vốn tài nguyên và tăng trưởng trong dài hạn, Cai và cộng
sự (2011) [92] nghiên cứu mô hình tăng trưởng nội sinh dựa trên hàm sản xuất
Cobb–Douglass với các biến giải thích gồm vốn vật chất, lao động và vốn tài
nguyên. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hệ kinh tế – môi trường sẽ tăng trưởng ổn
định trong dài hạn nếu có sự đầu tư thỏa đáng cho tái tạo tài nguyên và môi trường.
Các nghiên cứu vừa đề cập chưa bàn đến sự thay thế và độ co giãn thay thế giữa
các loại vốn khác nhau (một đầu vào này có thể thay thế được bao nhiêu các yếu tố

11


đầu vào khác). Hơn nữa, các nghiên cứu này đã bỏ qua sự thay thế của năng lượng
tái tạo đối với tài nguyên không tái tạo.
Ngân hàng Thế giới (2008) [39], trong báo cáo với tựa đề “Của cải của các quốc

gia ở đâu? Đo lường nguồn của cải Thế kỷ 21”, khi hạch toán tài sản của các quốc
gia đã xây dựng các biến số đầu vào là vốn vật chất, vốn con người, nguồn năng
lượng không tái tạo (dầu, khí tự nhiên, than đá) và tài nguyên đất đai. Kết quả
nghiên cứu này khẳng định vốn tài nguyên là một trong các cấu thành quan trọng
nhất trong tổng giá trị của hầu hết các quốc gia. Nghiên cứu đề xuất cách tiếp cận
mới trong việc đo lường sự biến động của cải và nhấn mạnh tới tầm quan trọng của
vốn tài nguyên, song việc quản lý tốt hơn hệ sinh thái và nguồn lực tự nhiên như thế
nào chưa được đề cập tới.
1.1.1.2. Các nghiên cứu về luận điểm “lời nguyền tài nguyên” và các mối quan hệ
đối với tăng trưởng kinh tế
“Lời nguyền tài nguyên” là thuật ngữ bắt nguồn từ các kết quả nghiên cứu thực
nghiệm, được khởi xưởng bởi Sachs và Warner (1995) khi nghiên cứu về mối quan
hệ giữa khai thác tài nguyên và tăng trưởng kinh tế. Thuật ngữ này dùng để nói lên
một nghịch lý rằng các quốc gia giàu có tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài
nguyên không tái tạo (khoáng sản, dầu mỏ và khí đốt), nhưng lại không thể biến được
lợi thế đó để phát triển đất nước, ngược lại, thường là các quốc gia kém phát triển.
– Sachs và Warner (1999) [139] nghiên cứu về các nguy hại tiềm ẩn của việc
khai thác khoáng sản tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Các tác giả nghiên cứu
đối với 85 quốc gia về tăng trưởng kinh tế (được đo lường bằng thu nhập bình quân
đầu người) trong giai đoạn 1965 – 1998 và vốn tài nguyên (được tính bằng tỷ trọng
vốn tài nguyên trong tổng vốn – bao gồm vốn vật chất, vốn con người và vốn tài
nguyên). Tuy nhiên, nghiên cứu này chủ yếu để so sánh giữa các nhóm quốc gia
giàu tài nguyên và nghèo tài nguyên, kết quả nghiên cứu chưa giải thích được cho
quốc gia trong các giai đoạn phát triển như thế nào, nhất là trong giai đoạn đầu của
quá trình phát triển.
– Crowson (2009) [100] nghiên cứu về mối liên hệ giữa đóng góp từ xuất khẩu
khoáng sản và tăng trưởng GDP, qua đó chứng minh về hiện tượng “lời nguyền tài
12



nguyên”. Tác giả đã sử dụng tỷ trọng xuất khẩu tài nguyên trong tổng xuất khẩu, đây
có thể là biến giải thích chưa hoàn hảo, bởi nền kinh tế có khả năng là tái xuất khẩu
(nhập khẩu để gia công và sau đó xuất khẩu).
– Gylfason (2001) [113] tập trung vào chứng minh về mối quan hệ tỷ lệ nghịch
giữa giàu tài nguyên và phát triển giáo dục, các quan hệ này cũng có thể liên quan
tới tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng, các nước giàu tài
nguyên có xu hướng đầu tư cho giáo dục thấp hơn so với các nước nghèo tài
nguyên. Douangngeune và cộng sự (2005) [102] lập luận rằng đóng góp từ khai
thác khoáng sản có quan hệ nghịch đảo với chi tiêu công về giáo dục và số năm đến
trường của học sinh nữ. Các nghiên cứu này sử dụng biến tỷ trọng nguồn thu từ khai
thác tài nguyên trong tổng nguồn thu ngân sách có thể chưa hẳn đã phù hợp, bởi
nguồn thu từ tài nguyên phụ thuộc vào biến động của giá cả trên thị trường và các
chi phí khai thác. Hơn nữa, các nghiên cứu dường như chưa đánh giá thỏa đáng các
lợi ích dài hạn của giáo dục khi được đầu tư bằng nguồn thu từ khai thác tài nguyên.
Trong khi các nghiên cứu tập trung chứng minh “lời nguyên tài nguyên”, không
ít nghiên cứu lại đưa ra các kết luận rằng khai thác tài nguyên có thể đóng góp tích
cực cho tăng trưởng kinh tế. Philippot (2010) [134] nghiên cứu đối với 28 nền kinh
tế đang trong quá trình chuyển đổi thuộc Đông Âu và Liên xô (cũ) trong giai đoạn
1990 – 2003, với biến phụ thuộc là GDP bình quân đầu người và biến giải thích là
sản lượng khai thác các loại tài nguyên không tái tạo (dầu lửa, khí đốt, các loại
khoáng sản), kết quả cho thấy khai thác tài nguyên đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế. Các kết luận tương tự cũng được rút ra từ các nghiên cứu Ahrend
(2002) [82] và Brunnschweiler (2010) [91], đó là, khai thác dầu lửa có tác động tích
cực tới tăng trưởng kinh tế của các vùng lãnh thổ của Liên bang Nga.
Việc các nghiên cứu đưa ra các kết luận và các tranh luận trái ngược nhau về “lời
nguyền tài nguyên” cũng là điều dễ hiểu, bởi sự thiếu nhất quán trong việc sử dụng
phương pháp và các biến đại diện để giải thích cho vấn đề nghiên cứu. Đây cũng là
chủ đề cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa để góp phần làm sáng tỏ vấn đề.
Các nghiên cứu ủng hộ “lời nguyền tài nguyên” đều đề cập đến các bài học cay
đắng từ việc khai thác khoáng sản ở một số quốc gia. Điểm chung của các tác giả là

13


có xu hướng gợi ý các nước giàu tài nguyên khoáng sản nên để giành các tài nguyên
này dưới lòng đất thay vì khai thác. Các gợi ý này có thể đúng khi tài nguyên
khoáng sản ngày càng cạn kiệt, khan hiếm và việc dự trữ càng mang lại giá trị theo
thời gian. Vấn đề đặt ra là các nước phụ thuộc vào tài nguyên để tăng trưởng, nhất là
các nước nghèo, thì việc khai thác khoáng sản như thế nào để mang lại sự thịnh
vượng?; theo nghĩa đó thì các nghiên cứu này chưa thể hiện rõ. Hơn nữa, các nghiên
cứu này cũng chưa đề ra được những cách tiếp cận, giải pháp để hạn chế các tác
động tiêu cực của hoạt động khai thác khoáng sản đối với môi trường – vấn đề
được đề cao trong tăng trưởng xanh.
1.1.1.3. Các nghiên cứu về phân chia lợi ích giữa các chủ thể liên quan trong
khai thác khoáng sản
Chủ đề phân chia lợi ích giữa các bên liên quan trong khai thác tài nguyên thiên
nhiên được đưa ra lần đầu tiên tại Hội nghị về Đa dạng sinh học năm 2009. Đây là
chủ đề tương đối mới mẻ, cho đến nay chưa có nhiều nghiên cứu và các nghiên cứu
đã thực hiện cũng mới chỉ tập trung vào một số khía cạnh nhất định:
– Trong lĩnh vực khai khoáng, World Bank (2011) [167] đã thực hiện thí điểm
nghiên cứu phân chia lợi ích trong khai thác khoáng sản tại Ghana và Papua New
Guinea. Nghiên cứu này được thực hiện để làm cơ sở cho việc thực hiện việc ký kết
thỏa thuận giữa doanh nghiệp và cộng đồng địa phương, và giới thiệu khuôn khổ lý
thuyết về phân chia lợi ích giữa doanh nghiệp và cộng đồng địa phương nơi có hoạt
động khai khoáng. Dù đã đề xuất mô hình, nhưng nghiên cứu này chưa xây dựng
được cơ chế để vận hành nó như thế nào, đặc biệt là chưa gợi ý được các cơ chế để
giám sát việc thực hiện của từng chủ thể trong khai thác khoáng sản.
– Viện nghiên cứu CMI (2012) [95] thực hiện nghiên cứu đối với một số dự án
khai khoáng ở Tanzania về đóng góp của khai thác khoáng sản đối với kinh tế địa
phương và tìm hiểu xem các công ty khai khoáng đã có những hỗ trợ gì cho cộng
đồng trên địa bàn nơi khai thác. Nghiên cứu đã bước đầu phân tích một số khoản

đóng góp của các công ty khai khoáng cho người dân địa phương, song chưa đề cập
tới việc phân chia lợi ích cho người lao động – những người trực tiếp tạo ra của các
cho các doanh nghiệp.
14


– Owens (2011) [132] đã trình bày các quy định của Australia về phân chia lợi
ích giữa nhà nước – doanh nghiệp – người dân, trong đó quy định đối với từng loại
khoáng sản, doanh nghiệp phải trích lại một tỷ lệ nhất định lợi nhuận cho cộng đồng
địa phương để hỗ trợ phát triển. Nghiên cứu đã đề cập tương đối đầy đủ về phân
chia lợi ích giữa các chủ thể trong khai thác khoáng sản, tuy nhiên, tác gia chưa làm
rõ việc phân chia lợi ích đã hợp lý khi những người dân địa phương thường là đối
tượng bị ảnh hưởng do các hoạt động khai thác khoáng sản.
– Morgandi (2010) [127] nghiên cứu và so sánh quy định pháp luật về phân bổ
nguồn thu từ ngành khai khoáng ở các cấp chính quyền khác nhau tại bảy nước giàu
tài nguyên khoáng sản. Nghiên cứu này chủ yếu tập trung phân tích về phân chia lợi
ích theo cấp chính quyền, nhưng tác giả chưa làm rõ các địa phương không có khai
thác khoáng sản không được hưởng lợi liệu có công bằng khi tài nguyên khoáng sản
là tài sản thiên nhiên ban tặng và là tài sản của quốc gia.
Như vậy, chủ đề về phân chia lợi ích giữa các chủ thể liên quan trong khai thác
khoáng sản mới chỉ tiến hành các phân tích thực nghiệm tại một số quốc gia và
đang ở những bước đi đầu tiên trong việc hình thành khung lý thuyết. Các nghiên
cứu về phân chia lợi ích trong khai thác khoáng sản nhằm hướng vào việc đề xuất
các cơ chế phân bổ tối ưu nguồn thu từ khai thác tài nguyên thiên nhiên, tính hiệu
quả của sự phân bổ nguồn thu cũng như tính ổn định và cân bằng chung của hệ
thống tài chính. Đặc biệt, việc nghiên cứu cơ chế phân chia lợi ích là cơ sở để đánh
giá, giải thích các nguyên nhân của xung đột xã hội, tranh chấp tài nguyên – tức là
đề cập tới bền vững về xã hội.
1.1.2. Các nghiên cứu bàn về tăng trưởng xanh
1.1.2.1. Các nghiên cứu về tăng trưởng xanh

Kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu (từ năm 2007), thế giới đã
nhìn nhận lại mô hình tăng trưởng đang thực hiện và khái niệm, nghiên cứu về tăng
trưởng xanh thu hút được sự quan tâm của nhiều người, trong đó đáng chú ý là các
nghiên cứu sau đây.
– Chương trình Môi trường Liên hợp quốc – UNEP (2011a) [154] đưa ra định
nghĩa, cách tiếp cận về tăng trưởng xanh và các ví dụ ở một số ngành tại một số
15


quốc gia. Nghiên cứu cũng đã đề cập tới những lợi ích và thách thức cho việc thực
hiện tăng trưởng xanh.
– Trong khía cạnh về việc làm xanh, nghiên cứu của Chương trình Môi trường
Liên hợp quốc và Tổ chức Lao động quốc tế (2008) [157] đưa ra các định nghĩa về
việc làm xanh, phân tích xu hướng và các nhân tố tác động về việc làm của một số
ngành. Theo nghiên cứu này, ngành công nghiệp khai khoáng có xu hướng sử dụng
nhiều vốn hơn là lao động, tức là sử dụng các công nghệ nhiều vốn và ít có sự cải
thiện năng suất lao động. Hệ quả của cách tăng trưởng này là “lề hóa” một số nhóm
người tham gia vào thị trường lao động, kéo theo đó là bất bình đẳng về thu nhập
trong xã hội.
– Nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương – UNESCAP
(2012) [108] bàn về thực trạng sử dụng, hiệu quả sử dụng các loại tài nguyên và các
tác động tới biến đổi khí hậu. Nghiên cứu đã xây dựng mô hình về tăng trưởng xanh
và đề xuất chính sách can thiệp là đầu tư vào vốn con người (để có năng suất lao
động cao hơn, phân phối thu nhập công bằng) và vào vốn tài nguyên thiên nhiên
(giảm cường độ và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bền vững về sinh thái). Hai quá
trình này đồng hành với nhau góp phần vào phát triển bền vững.
– Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế – OECD (2011) [129] đề ra khuôn khổ
chiến lược và các con đường thực hiện tăng trưởng xanh. Nghiên cứu này đưa ra
chính sách can thiệp thúc đẩy tăng trưởng xanh thông qua cải cách các hệ thống
thuế tài nguyên và các trợ cấp.

– Reilly (2012) [137] đã nghiên cứu về các giải pháp chính sách sử dụng hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên để tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, các đề xuất trong
nghiên cứu này mới chỉ mang tính nguyên tắc, việc vận dụng vào điều kiện cụ thể
từng quốc gia như thế nào là vấn đề cần tiếp tục phân tích.
– Trong khi nhiều nghiên cứu tập trung vào luận giải bản chất của tăng trưởng
xanh cũng như con đường để hướng tới tăng trưởng xanh và những lợi ích của nó,
một số nghiên cứu lại phản bác và tỏ ra nghi ngờ về lợi ích thực sự của tăng trưởng
xanh. Michaels và Murphy (2009) [126], Morris và cộng sự (2011) [128] cho rằng
thiếu bằng chứng đáng tin cậy về lợi ích của năng lượng xanh trong việc tạo thêm
16


nhiều việc làm và phê phán các quan điểm ủng hộ tăng trưởng xanh có thể cải thiện
nền kinh tế và môi trường mà hầu như không có rủi ro.
– Nghiên cứu của các chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới – World Bank
(2012) [37] lại đặt câu hỏi mang tính nghi ngờ về tăng trưởng xanh là liệu công
nghệ có cho phép các nước đang phát triển theo đuổi phương thức phát triển ít tổn
hại đến môi trường? Đây là những câu hỏi mang tính kinh tế học nhằm giải thích
cho các thất bại thị trường và các chính sách kém hiệu quả. Theo đó, nghiên cứu
này đưa ra một số lập luận và cho rằng tăng trưởng xanh là chưa đủ đề nền kinh tế
đạt tới bền vững khi thiếu đồng bộ với các thể chế khác.
Một trong các công cụ để đạt tăng trưởng xanh là áp đặt và gia tăng thuế, phí đối
với môi trường nhằm điều chỉnh hành vi trong các ngành công nghiệp và điều này
sẽ tăng thêm gánh nặng nghĩa vụ tài chính đối với doanh nghiệp. Từ đó, người ta
cũng có những lo ngại rằng việc thắt chặt các chính sách môi trường có thể dẫn đến
việc di chuyển các ngành công nghiệp đến những khu vực có các chính sách môi
trường lỏng lẻo hơn. Copeland (2012) [98] cho rằng thắt chặt các quy định về môi
trường có thể khiến các doanh nghiệp di chuyển địa điểm sản xuất.
Việc có không ít nhà nghiên cứu vẫn hoài nghi về tăng trưởng xanh là điều dễ
hiểu, mặc dù tăng trưởng xanh đã được phần lớn lãnh đạo các quốc gia trên thế

giới chấp nhận như con đường tất yếu. Gần đây nhất, tại Hội nghị thượng đỉnh
toàn cầu về phát triển bền vững năm 2012 tại Rio De Janero (Braxin), tăng
trưởng xanh được các quốc gia đồng thuận coi là con đường kết hợp thực hiện cả
hai mục tiêu là phát triển bền vững và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, vấn
đề thực tế cần giải quyết là giảm thiểu các rủi ro của tăng trưởng xanh, có lộ
trình thực hiện và đề xuất được khung chính sách phù hợp, đặc biệt là trong các
lĩnh vực liên quan đến khai thác tài nguyên, đây vẫn đang là vấn đề chưa có lời
giải ở nhiều nước đang phát triển.
1.1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến công nghiệp xanh
Các nghiên cứu của các tác giả trong khuôn khổ các nghiên cứu của Tổ chức phát
triển công nghiệp Liên hợp quốc – UNIDO (2011a) [159], UNIDO (2011b) [160]
và UNIDO (2010) [161] đã nêu ra các thách thức toàn cầu đối với phát triển bền
17


×