Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.05 KB, 12 trang )



Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1



MỤC LỤC
Trang
A: MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
B: NỘI DUNG.................................................................................................................1
I. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội hiếp dâm…....2
II. Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án..........................4
III. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình
thức? Giải thích rõ tại sao.................................................................................................5
IV. A, N, V, Q có phải là những người đồng phạm không? Hãy xác định vai trò của
từng người trong vụ án nêu trên .....................................................................................6
V. Giả thiết Q chỉ có hành vi giữ tay chân B để 3 tên A, N, V giao cấu với nạn nhân. Có
ý kiến cho rằng A, N, V là người thực hành, còn Q là người giúp sức. Vậy ý kiến của
anh chị thế nào? Giải thích rõ tại sao.........................................................................7
C: KẾT LUẬN................................................................................................................8

MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT TRONG BÀI:
1. BLHS……………………………..: Bộ luật hình sự
2. CTTP…………………………......: Cấu thành tội phạm
3. XHCN…………………………….: Xã hội chủ nghĩa



Họ và tên: Phạm Thị Loan - Lớp N02-TL 2, Nhóm 2, MSSV:351945





1




Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1



MỞ ĐẦU
Sự phát triển của luật hình sự Việt Nam gắn chặt với quá trình phát triển của cách
mạng Việt Nam, cùng với việc xuất phát từ đặc điểm riêng của mình, luật hình sự Việt
Nam có nhiệm vụ: “...bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo
pháp luật, đấu tranh trong phòng ngừa và chống tội phạm” (Điều 1 BLHS). Con người
được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được luật hình sự nói riêng cũng
như pháp luật nói chung bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, bảo vệ danh dự, nhân phẩm và tự do của họ,đó là những điều có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu đối với con người, đồng thời pháp luật cũng đưa ra những biện pháp
trừng phạt nghiêm khắc đối với những hành vi phạm tội. Một thực tế không thể phủ
nhân xã hội ngày càng phát triển, loại tội xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm và tự do của con người ngày càng gia tăng, đặc biệt là loại tội xâm hại tới
tính mạng, sức khỏe của con người. Có rất nhiều vụ án đều đề cập đến loại tội phạm
xâm hại tới nhân phẩm, danh dự của con người và dưới đây là một tình huống cụ thể mà
em lựa chọn để nói tới loại tội phạm trên:
A làm quen với B trên mạng. Sau vài lần trò chuyện, A ngỏ lời yêu B và hẹn B
đi chơi, B nhận lời. Được B nhận lời mời đi chơi, A có ý định hiếp dâm B nên gọi

điện cho N, V, Q và rủ ba tên cùng thực hiện tội phạm. Sau khi đưa nạn nhân đến
chỗ vắng, cả 4 tên thay nhau thực hiện hành vi hiếp dâm nạn nhân nhiều lần.
Câu hỏi:
1.
Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội
hiếp dâm.
2.
Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án.
3.
Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội
phạm hình thức? Giải thích rõ tại sao.
4.
A, N, V, Q có phải là những người đồng phạm không? Xác định vai trò
của từng người trong vụ án nêu trên.
5.
Giả thiết Q chỉ có hành vi giữ tay chân B để 3 tên A, N, V giao cấu với
nạn nhân. Có ý kiến cho rằng A, N, V là người thực hành, còn Q là người
giúp sức. Vậy ý kiến của anh chị thế nào? Giải thích rõ tại sao.
NỘI DUNG
I. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội hiếp dâm.
Khoản 1 Điều 8 BLHS (1999) quy định, “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính
 Họ và tên: Phạm Thị Loan - Lớp N02-TL 2, Nhóm 2, MSSV:351945

2





Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1



mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản”. Tuy tội phạm có chung các dấu
hiệu trên nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội rất khác nhau. Chính do sự khác nhau như vậy mà vấn đề phân hóa và cá thể hóa
hình phạt đã được đặt ra và được coi là nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. Thể hiện
nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam phân tội phạm ra thành 4 nhóm tội khác nhau
được quy định tại Khoản 3 Điều 8 BLHS:|Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là
đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm
trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm
gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội
ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Điều 111 nói đến “Tội hiếp dâm”. Tội hiếp dâm thuộc nhóm tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người; được quy định tại Chương XII: “Các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người”.
Hiếp dâm là hành vi đồi bại, thú tính không thể chấp nhận được vì hoạt động của
con người là hoạt động có nhận thức, hiếp dâm bị xã hội lên án, bị pháp luật trừng trị
nghiêm khắc.
Khoản 1 Điều 111 quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc
lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với
nạn nhân trái ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.
Hành vi giao cấu với người phụ nữ trái ý muốn của họ được thực hiện bằng một
trong các thủ đoạn sau:

- Dùng vũ lực là dùng sức mạnh vật chất đè bẹp sự kháng cự của nạn nhân chống lại sự
giao cấu như xô ngã, vật, giữ, bóp cổ nạn nhân...
- Đe dọa dùng vũ lực là thủ đoạn làm ý chí của người phụ nữ bị tê liệt, buộc họ phải
chịu sự giao cấu mà không dám kháng cự như dọa giết, dọa gây thương tích cho nạn
nhân.
- Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của người phụ nữ là thủ đoạn lợi dụng
người phụ nữ vì lí do nào đó không thể chống lại được hành vi giao cấu trái với ý muốn
của mình như lợi dụng người phụ nữ đang trong tình trạng ốm đau, một mình trong
đêm tối...
- Dùng thủ đoạn khác là người phạm tội có hành vi đe dọa dùng vũ lực uy hiếp tinh
thần hoặc dồn ép họ hay lợi dụng tình thế không thể chống cự... làm cho họ khiếp sợ.
Với khung cơ bản, mức hình phạt mà người thành niên phạm tội hiếp dâm phải
chịu tại Khoản 1 Điều 111 là từ 2 năm đến 7 năm tù , vậy với mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội hiếp dâm được quy định tại Khoản 1 Điều 111 BLHS là 7 năm tù.
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 8 BLHS thì Khoản 1 Điều 111 sẽ được áp dụng đối với tội
phạm nghiêm trọng.
Khoản 2 Điều 111 quy định s: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,
thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;
 Họ và tên: Phạm Thị Loan - Lớp N02-TL 2, Nhóm 2, MSSV:351945

3




Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1




b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
c) Nhiều người hiếp một người;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Đối với nhiều người;
e) Có tính chất loạn luân;
g) Làm nạn nhân có thai;
h) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%
i) Tái phạm nguy hiểm.
Khoản 2 có thêm tình tiết tăng nặng TNHS được ghi rõ tại các điểm a, b, c, d, đ,
e, g, h, i. Nếu người phạm tội thuộc một trong các trường hợp được BLHS quy định tại
Khoản 2 thì người phạm tội đó phải chịu mức hình phạt tù là từ 7 năm đến 15 năm.Với
mức cao nhất của khung hình phạt theo Khoản 2 Điều 111, căn cứ vào Khoản 3 Điều 8
BLHS, người phạm tội theo Khoản 2 Điều 111 thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.
Người phạm tội chỉ phải chịu TNHS tại Khoản 2 nếu có những dấu hiệu được quy định
trong đó; và phải chịu TNHS về loại tội phạm mà mình đã thực hiện: Tội phạm rất
nghiêm trọng.
Người phạm tội thuộc Khoản 3 quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử
hình:
a) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Nếu người phạm tội, phạm tội hiếp dâm được ghi rõ trong Khoản 1 và có thêm
các tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại điểm a, b, c trong Khoản 3 Điều 111,
những người đó phải chịu mức hình phạt từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử
hình, từ việc chịu mức hình phạt theo khung cơ bản tại Khoản 1 chuyển sang phải chịu
mức hình phạt quy định tại Khoản 3; như vậy, đã có sự dịch chuyển khung hình phạt, có
thêm các tình tiết tăng nặng định khung. Với mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội hiếp dâm theo Khoản 3 Điều 111, căn cứ theo khoản 3, Điều 8 BLHS tội phạm quy
định tại Khoản 3 Điều 111 BLHS 1999 là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Khoản 4 của tội hiếp dâm quy định: Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này,
thì bị xử phạt theo hình phạt quy định tại các khoản đó.
Tội phạm khi thực hiện hành vi hiếp dâm mà chưa đạt đến độ tuổi nhất định, chỉ
mới là người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì vẫn phải chịu TNHS về
hành vi phạm tội mà mình thực hiện, hình phạt mà người đó phải chịu trong trường hợp
này là 5 đến 10 năm.Với mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội hiếp dâm theo
Khoản 4 Điều 111, căn cứ theo Khoản 3 Điều 8 thì Khoản 4 Điều 111 quy định người
phạm tội thuộc khoản này là tội phạm rất nghiêm trọng.
Người phạm tội hiếp dâm ngoài hình phạt chính phải chịu trong mỗi điều khoản
quy định, còn phải chịu thêm các loại hình phạt bổ sung được quy định trong Khoản 5


Họ và tên: Phạm Thị Loan - Lớp N02-TL 2, Nhóm 2, MSSV:351945



4




Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1



như sau: “Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm”.
II. Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án.

Điều 71 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”.
Nhân phẩm, danh dự con người là những yếu tố về tinh thần bao gồm phẩm giá, giá trị,
sự kính trọng của những người xung quanh, của xã hội đối với một người. Xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người là làm cho người đó bị coi thường, bị khinh rẻ trong
gia đình, tập thể, trong nhân dân, trong xã hội.
+ Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm
xâm hại. Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo
vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định trong Điều 8 của BLHS.
Hành vi bị coi là tội phạm, theo luật hình sự Việt Nam, là hành vi gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho một trong những quan hệ xã hội đã được xác định. Như vậy,
không phải mọi quan hệ xã hội đều là khách thể của tội phạm, mà chỉ quan hệ xã hội
được cụ thể hóa trong những quy phạm pháp luật hình sự và bị hành vi gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội xâm phạm mới bị coi là khách thể của tội phạm.
Tội hiếp dâm được quy định tại Điều 111, Chương XII – Các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Cụ thể, Tội hiếp dâm nằm trong
nhóm “Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người”. Trong trường này, thì
khách thể của tội phạm là quyền được tôn trọng về danh dự, nhân phẩm của người phụ
nữ - cụ thể là danh dự, nhân phẩm của B. Ngoài ra, khách thể của tội hiếp dâm còn có
thể là sức khỏe, tính mạng của họ; trật tự an toàn xã hội.
Việc nghiên cứu khách thể của tội phạm có ý nghĩa về nhiều mặt, kể cả trong
công tác lập pháp và trong thực tiễn áp dụng. Việc xây dựng hệ thống các quy phạm
pháp luật hình sự, đặc biệt là các quy phạm phần các tội phạm đều phải bắt đầu bằng sự
xác định phạm vi những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự.
+ Khi xâm phạm khách thể bao giờ tội phạm cũng tác động đến đối tượng nhất định.
Tuy gần gũi với khách thể nhưng đối tượng tác động của tội phạm khác khách thể. Đối
tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm
tội tác động để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ. Các bộ phận của khách thể có thể bị tác động là:
- Chủ thể của các quan hệ xã hội;

- Nội dung của các quan hệ xã hội: Là hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào các
quan hệ xã hội;
- Đối tượng của các quan hệ xã hội: Là các sự vật khác nhau của thế giới bên ngoài
cũng như các lợi ích mà qua đó các quan hệ xã hội phát sinh và tồn tại.
Con người với ý nghĩa vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội có thể là
chủ thể của nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Trong số những quan hệ xã hội đó có
những quan hệ xã hội chỉ có thể bị gây thiệt hại khi có sự biến đổi tình trạng bình
thường của con người. Quan hệ nhân thân là quan hệ xã hội thuộc loại này. Các tội
phạm được quy định trong Chương XII BLHS đều có tác động là con người. Những
hành vi phạm tội của nhóm này có thể là hành vi tước đoạt tính mạng, hành vi gây tổn
 Họ và tên: Phạm Thị Loan - Lớp N02-TL 2, Nhóm 2, MSSV:351945

5




Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1



hại đến sức khỏe hoặc là hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của con người. Trong
tình huống trên, đối tượng tác động của tội phạm là con người – B là con người đang
sống, đang tồn tại trong thế giới khách quan vói tư cách là chủ thể của quyền sống,
quyền được tôn trọng về danh dự, nhân phẩm. Tóm lại, hành vi của 4 tên A, N, V, Q
làm biến đổi tình trạng bình thường của B, là hành vi xâm phạm trái pháp luật quyền
được tôn trọng danh dự, nhân phẩm của B.
III. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm
hình thức? Giải thích rõ tại sao.
Quá trình áp dụng pháp luật để xử lý đối với các trường hợp phạm tội “Hiếp

dâm”, theo quy định tại Điều 111 BLHS hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau về
việc xác định đây có phải là tội phạm cấu thành vật chất hay tội phạm có cấu thành hình
thức. Và để xác định tội hiếp dâm thuộc loại cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành
tội phạm hình thức, chúng ta phải căn cứ vào tầm quan trọng của khách thể cần bảo vệ
và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Có thể chia cấu thành tội phạm thành hai
loại: Cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức.
- Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm có các dấu hiệu bắt buộc là: Dấu
hiệu hành vi, dấu hiệu hậu quả và dấu hiệu mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả. Ở tội phạm có cấu thành vật chất thì thời điểm hoàn thành tội phạm khi có dấu
hiệu hậu quả và dấu hiệu mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
- Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu hành vi ở mặt
khách quan mang tính chất nguy hiểm cho xã hội mà không cần phải chờ đến khi hậu
quả xảy ra.
Tội hiếp dâm là tội phạm có cấu thành hình thức. Bởi vì:
Tội hiếp dâm thuộc nhóm tội xâm phạm đến quyền được tôn trọng về danh dự,
nhân phẩm của người phụ nữ được thực hiện do lỗi cố ý. Hành vi phạm tội được thực
hiện dưới dạng hành động. Hậu quả của tội phạm là những thiệt hại gây ra cho nhân
phẩm, danh dự (thiệt hại về tinh thần).
Người phạm tội biết hành vi của mình xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự của
người khác nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm đạt được mục đích của mình.
Hành vi khách quan của tội này là: Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng
tình trạng không thể tự vệ được hoặc bằng thủ đoạn khác... nhằm giao cấu trái ý muốn
với nạn nhân. Do đó, tội hiếp dâm mặc dù là tội có cấu thành hình thức xong nó chỉ
hoàn thành khi đã xảy ra đầy đủ các hành vi. Đối với tội hiếp dâm thì chỉ cần người
phạm tội có một trong các hành vi như mô tả trong điều luật: Dùng vũ lực, lợi dụng tình
trạng không thể tự vệ được hoặc bằng thủ đoạn khác... để giao cấu với nạn nhân (trái ý
muốn) cho dù đã giao cấu được hay chưa thì vẫn bị coi là đã phạm tội hiếp dâm và ở
giai đoạn phạm tội chưa đạt.s
Vì khi thực hiện một trong các hành vi nêu trên thì cũng chính là người phạm tội
đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Và cũng chính từ việc thực hiện hành vi

nguy hiểm đó mà đã gây ra hậu quả tổn thất về tinh thần (danh dự, nhân phẩm) cho nạn
nhân. Giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội nêu trên mà người phạm tội thực hiện với tổn
thất mà nạn nhân phải gánh chịu có mối quan hệ nhân quả với nhau. Có thể kết luận
rằng: Ngay cả trong trường hợp người phạm tội mới chỉ thực hiện được một hành vi
 Họ và tên: Phạm Thị Loan - Lớp N02-TL 2, Nhóm 2, MSSV:351945

6




Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1



khách quan là dùng vũ lực (vật ngã, bịt miệng, giằng xé quần áo...) thì ít nhiều đã gây
hậu quả cho người bị hại dưới dạng thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, nên đây là tội
phạm có cấu thành hình thức.
Hành vi giao cấu chỉ có ý nghĩa nhất định trong việc xem xét áp dụng khung hình
phạt đối với bị cáo hay để cá thể hóa hình phạt, chứ không phải là dấu hiệu để định tội
và đây cũng không phải là dấu hiệu về hậu quả được mô tả trong điều luật. Do vậy, tội
hiếp dâm phải là tội phạm có cấu thành hình thức.
Hậu quả của tội hiếp dâm thực chất là thiệt hại gây ra cho quan hệ xã hội, nhưng
về hình thức nó lại thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng của đối tượng tác động của
tội phạm và được cụ thể hóa dưới các dạng như: biến đổi tình trạng bình thường của
thực thể tự nhiên của con người (thiệt hại về thể chất, tinh thần); biến đổi tình trạng bình
thường của vật chất (thiệt hại về vật chất) và sự biến dạng xử sự của con người. Do
vậy, nếu xét sự biến đổi tình trạng bình thường của người bị hại để xác định hậu quả của
tội hiếp dâm thì không thể xác định được sự biến đổi về mặt thể chất của người bị hại
(trừ nhũng trường hợp phạm tội làm người bị hại có thai, chết hoặc thiệt hại về sức

khỏe... thì đây là tình tiết để định khung chứ không phải là tình tiết để cấu thành tội
phạm). Còn trong trường hợp bình thường thì chỉ có thể xác định chung đó là những
biến đổi về mặt tinh thần chứ không phải chỉ là trường hợp người bị hại đã bị hiếp và
hậu quả này không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Do vậy, từ sự
phân tích nêu trên, tội hiếp dâm phải là tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức.
IV. A, N, V, Q có phải là những người đồng phạm không?Xác định vai trò của
từng người trong vụ án nêu trên.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 BLHS thì: “Đồng phạm là trường hợp có hai
người trở nên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”
Đồng phạm là một khái niệm pháp lý nói lên quy mô tội phạm, được thể hiện
trong vụ án có nhiều người tham gia. Tuy nhiên, không phải cứ có nhiều người tham gia
đã coi là đồng phạm, mà nhiều người đó phải cố ý cùng thực hiện một tội phạm, nếu có
nhiều người phạm tội nhưng không cùng thực hiện một tội phạm thì không gọi là đồng
phạm.
Xét trong vụ án, cả 4 tên A, N, V, Q đều là những người đồng phạm vì chúng đều
có dấu hiệu về mặt khách quan và mặt chủ quan quy định trong người đồng phạm.
+ Những dấu hiệu về mặt khách quan:
- Tham gia vào vụ án trên, đã có 4 người (A, N, V, Q) cùng tham gia thực hiện hành vi
hiếp dâm và cả 4 tên đó đều có đủ điều kiện của chủ thể tội phạm. Chúng đều có năng
lực TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS.
- Chúng đều có hành vi thực hiện tội hiếp dâm (sau khi đưa nạn nhân vào chỗ vắng, cả
4 tên thay nhau thực hiện hành vi hiếp dâm nạn nhân – B nhiều lần).
+ Những dấu hiệu về mặt chủ quan:
- A, N, V, Q cùng thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp và có cùng mục đích phạm
tội.
Dấu hiệu lỗi, Cả 4 tên cùng nhau cố ý thực hiện hành vi hiếp dâm.
Về lí trí: Mỗi người đều biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và đều
biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình. Họ cùng nhau
 Họ và tên: Phạm Thị Loan - Lớp N02-TL 2, Nhóm 2, MSSV:351945


7




Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1



thực hiện hành vi hiếp dâm B nhiều lần. Nhận thức được hành vi hiếp dâm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến quyền được tôn trọng về danh dự, nhân phẩm của
người phụ nữ. Và còn thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình cũng như hậu quả chung của tội hiếp dâm mà họ tham gia thực hiện, là những
thiệt hại gây ra cho nhân phẩm, danh dự (thiệt hại về tinh thần); những quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ.
Về ý chí: Những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và cùng
mong muốn cho hậu quả phát sinh. Chúng mong muốn thực hiện hành vi hiếp dâm đối
với B; chúng đều biết rằng hậu quả xảy ra đối với B là việc gây ra thiệt hại về mặt thể
chất như sức khỏe, có thể còn ảnh hưởng đến tính mạng của B và về mặt tinh thần là B
sẽ bị hoảng loạn về mặt tâm lý dẫn đến suy nghĩ tiêu cực (sợ không lấy được chồng, xấu
hổ mà dẫn tới việc tự sát...). Mặc dù hành vi này trái pháp luật nhưng chúng vẫn mong
muốn cho hậu quả phát sinh.
Dấu hiệu mục đích: Ngoài hai dấu hiệu cùng thực hiện và cùng cố ý, đồng phạm
còn đòi hỏi dấu hiệu cùng mục đích. A, N, V, Q cùng có chung mục đích là hiếp dâm
B. A có ý định hiếp dâm B, sau đó rủ N, V, Q cùng thực hiện hành vi hiếp dâm. Hẹn B
ra ngoài, cả 4 tên kéo B vào chỗ vắng rồi thay nhau hiếp dâm B nhiều lần. Chúng đã
đạt được mục đích của mình là đã thực hiện được hành vi giao cấu với B, hành vi đó
trái với ý muốn của B.
Tóm lại, A, N, V, Q đều là những người đồng phạm.
Vai trò của từng người trong vụ án nêu trên.

Trong vụ án có đồng phạm, tùy thuộc vào quy mô và tính chất mà có thể có
những người giữ vai trò khác nhau như: người tổ chức, người thực hành, người xúi giục,
người giúp sức. Trong tình huống trên, cả bốn tên A, N, V, Q đều là người thực hành.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm (khoản 2 Điều 20 BLHS),
là người mà hành vi của họ được quy định trong yếu tố khách quan của CTTP. Hành vi
của người thực hành là trực tiếp gây ra hậu quả tác hại. Người thực hành có thể trực tiếp
thực hiện tội phạm hoặc thực hiện tội phạm thông qua hành vi của người không đủ năng
lực trách nhiệm hình sự. Người thực hành luôn là người giữ vai trò quan trọng trong vụ
án. Tuy vậy, về mặt pháp lí, hành vi của người thực hành được coi là vị trí trung tâm.
Trong vụ án, sau khi đưa nạn nhân đến chỗ vắng, cả 4 tên thay nhau thực hiện hành vi
hiếp dâm nạn nhân nhiều lần. A, N, V, Q đều trực tiếp thực hiện hành vi hiếp dâm nạn
nhân – B; chúng đã giao cấu được với nạn nhân là B. Hành vi hiếp dâm đã diễn ra và đã
hoàn thành khi việc giao cấu với B đã được thực hiện xong. Chúng đã trực tiếp thực
hiện hành vi hiếp dâm B nhiều lần. Tóm lại, tất cả những tên này đều là người thực
hành đều là người trực tiếp thực hiện tội hiếp dâm.
Tuy nhiên, ngoài việc A cùng 3 tên N, V, Q là người thực hành, thì A còn là
người xúi giục trong vụ hiếp dâm B. Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy
người khác thực hiện tội phạm (khoản 2 Điều 20 BLHS). Đặc điểm của người xúi giục
là tác động đến tư tưởng, và ý chí của người khác, khiến người này phạm tội. Người xúi
giục có thể là người đã nghĩ ra việc phạm tội và đã thúc đẩy cho tội phạm đó được thực
hiện thông qua người khác. Người xúi giục cũng có thể cùng tham gia vào việc thực
hiện tội phạm nhưng cũng có thể không. Sự xúi giục có thể được thực hiện bằng nhiều
 Họ và tên: Phạm Thị Loan - Lớp N02-TL 2, Nhóm 2, MSSV:351945

8




Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1




thủ đoạn như kích động, lôi kéo, cưỡng ép, dụ dỗ, lừa phỉnh. Hành vi xúi giục phải trực
tiếp, nghĩa là kẻ xúi giục phải nhằm vào một hoặc một số người nhất định. Việc kêu gọi,
hô hào mà không hướng tới những người xác định thì không phải là hành vi xúi giục.
Hành vi xúi giục phải cụ thể, nghĩa là phải nhằm gây ra việc thực hiện tội phạm nhất
định.
Trong tình huống cho biết: A làm quen với B trên mạng sau đó ngỏ lời yêu B, A
hẹn B đi chơi và có ý định hiếp dâm B sau khi B đã nhận lời đi chơi; A gọi điện cho N,
V, Q và rủ ba tên cùng thực hiện tội phạm. Sau khi đưa nạn nhân đến chỗ vắng, cả 4 tên
thay nhau thực hiện hành vi hiếp dâm nạn nhân nhiều lần.
Từ lúc B nhận lời đi chơi, A đã có ý định hiếp dâm B. A là kẻ xúi giục vì đã nghĩ
ra việc hiếp dâm và đã có hành vi của người xúi giục, A nhằm vào 3 đối tượng cụ thể là
N, V, Q để kích động, dụ dỗ, lôi kéo ba người đó cùng thực hiện tội phạm (tội hiếp
dâm). A gọi điện rủ ba tên N, V, Q cùng thực hiện tội phạm, hành vi của A là cố ý, biết
rõ mình trực tiếp thúc đẩy những người đồng phạm khác thực hiện tội phạm; nhằm đến
ba đối tượng cụ thể là N, V, Q và tác động vào tư tưởng, ý chí của chúng để chúng cùng
thực hiện hành vi hiếp dâm; sau đó A cùng 3 tên đó đưa B vào chỗ vắng rồi thực hiện
hành vi hiếp dâm B nhiều lần.
Như vậy, có thể kết luận rằng: A là người xúi giục trong vụ án hiếp dâm B, và
cũng đồng thời cùng với 3 tên N, V, Q là người thực hành.
VI. Giả thiết Q chỉ có hành vi giữ tay chân B để 3 tên A, N, V giao cấu với nạn
nhân. Có ý kiến cho rằng A, N, V là người thực hành, còn Q là người giúp sức. Vậy
ý kiến của anh chị thế nào? Giải thích rõ tại sao.
Trong vụ phạm tội cố ý, có thể có nhiều người cùng thực hiện hành vi được mô tả
trong CTTP. Trong đó, không đòi hỏi mỗi người phải thực hiện trọn vẹn hành vi được
mô tả trong CTTP mà có thể mỗi người chỉ thực hiện một phần hành vi đó. Nhưng đòi
hỏi hành vi tổng hợp của họ phải là hành vi có đủ dấu hiệu của CTTP. Trong vụ đồng
phạm hiếp dâm, nếu Q chỉ có hành vi giữ tay chân để 3 tên A, N, V giao cấu với nạn

nhân; thì cả bốn tên vẫn là người thực hành, mặc dù hành vi của từng người đồng phạm
không thỏa mãn hết các dấu hiệu của CTTP hiếp dâm nhưng hành vi tổng hợp của từng
người này thỏa mãn hết các dấu hiệu đó. Tất cả những người đồng phạm này (nam giới)
đều được coi là người thực hành – đều là người trực tiếp thực hiện tội hiếp dâm.
Nếu giả thiết Q chỉ có hành vi giữ tay chân B để 3 tên A, N, V giao cấu với nạn
nhân thì ý kiến nêu trên cho rằng A, N, V là người thực hành, còn Q là người giúp sức
là chưa hoàn toàn chính xác. Vì đối với những tội đòi hỏi phải có chủ thể đặc biệt, thì
người đồng thực hiện chỉ có thể là những người có đầy đủ dấu hiệu của chủ thể đặc biệt.
Nếu không họ chỉ có thể là người giúp sức hoặc cá biệt có thể phạm tội khác.
Tội hiếp dâm là tội phạm có cấu thành hình thức, chủ thể của tội này phải là chủ
thể đặc biệt – nam giới. Người thực hiện hành vi hiếp dâm của tội này chỉ có thể là nam
giới. Tội hiếp dâm đòi hỏi phải có thêm các đặc điểm về giới tính, đặc điểm đó được
quy định trong CTTP và trở thành dấu hiệu bắt buộc. Những đặc điểm này chỉ đòi hỏi ở
những người trực tiếp thực hiện tội phạm (người thực hành). CTTP cơ bản của tội hiếp
dâm đòi hỏi chủ thể phải là nam giới. Nếu nữ giới tham gia vào vụ đồng phạm hiếp dâm
thì người đó chỉ có thể tham gia với vai trò là người xúi giục, giúp sức hay tổ chức.
 Họ và tên: Phạm Thị Loan - Lớp N02-TL 2, Nhóm 2, MSSV:351945

9




Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1



Vì vậy, nếu trong vụ án trên, giả sử Q là nam và chỉ thực hiện hành vi giữ chân
tay B để cho 3 tên còn lại là A, N, V thực hiện hành vi hiếp dâm B thì cả 4 tên A, N,
V,Q đều là người thực hành mặc dù Q không thực hiện hành vi giao cấu với B. Vì Q đã

đủ điều kiện là chủ thể đặc biệt của tội hiếp dâm; theo BLHS Việt Nam năm 1999 quy
định thì chủ thể đặc biệt của tội hiếp dâm phải là nam giới. Q đã thực hiện hành vi giữ
chân tay; còn 3 tên A, N, V thực hiện hành vi hiếp dâm B. Hành vi dùng vũ lực để giữ
chân tay của B khiến cho B không có sức kháng cự để chống lại việc giao cấu thuộc mặt
khách quan của tội phạm. Hành vi khách quan của tội hiếp dâm là hành vi giao cấu với
người phụ nữ trái ý muốn của họ bằng thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi
dụng tình trạng không thể tự vệ được hoặc thủ đoạn khác...và khi thực hiện một trong
các hành vi nêu trên thì cũng chính là người phạm tội đã thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Chính từ việc thực hiện hành vi nguy hiểm đó mà đã gây hậu quả tổn thất về
tinh thần (danh dự, nhân phẩm) cho nạn nhân. Và cũng chỉ cần người đó thực hiện hành
vi dùng vũ lực mà không cần biết là có giao cấu hay không thì cũng có thể kết luận rằng
đó là người thực hành.
Còn nếu Q là nữ và chỉ là người thực hiện hành vi giữ chân tay B thì 3 tên A, N,
V là người thực hành; còn Q là người giúp sức. Vì nữ giới không đủ điều kiện là chủ thể
đặc biệt của tội hiếp dâm được quy định tại Điều 111 BLHS.
Căn cứ vào việc xác định hành vi đó có phải là hành vi của người thực hành hay
không, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội danh, xác định giai đoạn phạm tội,
đánh giá mức độ nghiêm trọng của vụ án về các mặt phương pháp và thủ đoạn thực hiện
tội phạm.
KẾT LUẬN

Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Qua việc nghiên cứu về các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Nhà nước đã có những hình phạt
trừng trị thích đáng đối với tội phạm nói chung và tội hiếp dâm nói riêng. Nhưng tại sao
trên thực tế, tội phạm vẫn xảy ra và tiếp diễn không ngừng trong xã hội? Đó là do thói
quen coi thường pháp luật của người dân, và trong một bộ phận nhân dân vẫn có tư
tưởng “Phép vua thua lệ làng” tạo ra ý thức tuân thủ pháp luật nói chung rất thấp.
Thêm vào đó, trong những năm qua, chất lượng giáo dục và đào tạo của nước ta thấp
hơn rất nhiều so với yêu cầu thực tế, còn có nhiều hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại;

trong công tác quản lý báo chí, văn hóa, nghệ thuật cũng có nhiều bất cập và bị buông
lỏng, làm nảy sinh khuynh hướng không lành mạnh. Vì vậy, pháp luật cần phải tiếp tục
đổi mới và hoàn thiện, Đảng và Nhà nước nên cố gắng hơn nữa trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm để bảo vệ chế độ XHXN, bảo vệ chính quyền nhân dân, lợi ích
chính đáng của công dân, trật tự an toàn xã hội và pháp chế XHCN.


Họ và tên: Phạm Thị Loan - Lớp N02-TL 2, Nhóm 2, MSSV:351945



10




Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1999.
2. Đinh Văn Quế (Thạc sĩ luật học, Tòa án nhân dân tối cao), Bình luận khoa học BLHS
– Phần các Tội phạm, Tập 1, (Bình luận chuyên sâu), Nxb. TPHCM, Hà Nội, 2002.
3. Học viện cảnh sát nhân dân – Thạc sĩ luật học: Phùng Văn Ngân, Hỏi và trả lời về
Luật hình sự Việt Nam, Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2004.
4. Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (Phần chung), Nxb.
ĐHQG, Hà Nội, 2005, 2007.
5. Luật gia: Hoàng Hoa Sơn, Hỏi đáp về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người, Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2006.

6. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa – PGS.TS. Lê Thị Sơn. Từ điển pháp luật hình sự, Nxb.
Tư pháp, Hà Nội, 2006.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập 1, Nxb.CAND,
Hà Nội, 2007, 2009, 2010.
8. TS. Phùng Thế Vắc – TS. Trần Văn Luyện – Luật sư. Th.S Phạm Thanh Bình – Th.S
Nguyễn Đức Mai – Th.S Nguyễn Sĩ Đại – Th.S Nguyễn Mai Bộ, Bình luận khoa học
BLHS 1999 (Phần các tội phạm), Nxb. CAND, Hà Nội, 2001.
9. Trường Đại học Luật Hà Nội – Trần Quang Tiệp, Đồng phạm trong Luật hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2000.
10. Trường Đại học Luật Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp, Các loại người đồng phạm và
trách nhiệm hình sự của họ, Bắc Ninh, 1997.
11. TS. Trần Minh Hưởng, Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, Tập 1, Bình luận
khoa học Bộ luật hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (thực hiện từ 01/01/2010),
Nxb. Lao động, Hà Nội, 2009.
12. Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp, Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001.
13. Tạp chí Luật học, số 1/ 1995, Trường Đại học Luật Hà Nội, Khái niệm người thực
hiện tội phạm và khái niệm người đồng phạm.
14. Tạp chí Luật học, số 3/ 1998, Trường Đại học Luật Hà Nội, Về các giai đoạn thực
hiện hành vi đồng phạm.
15. Tạp chí kiểm sát, số 13/ 2009, Trường Đại học Luật Hà Nội, Một số vấn đề về tội
hiếp dâm.
http: //www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com
http: //www.laws.gov.vn



Họ và tên: Phạm Thị Loan - Lớp N02-TL 2, Nhóm 2, MSSV:351945




11




Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1



Trang
A: MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
B: NỘI DUNG.................................................................................................................1
I. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội hiếp dâm…....2
II. Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án..........................4
III. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình
thức? Giải thích rõ tại sao.................................................................................................5
IV. A, N, V, Q có phải là những người đồng phạm không? Hãy xác định vai trò của
từng người trong vụ án nêu trên .....................................................................................6
V. Giả thiết Q chỉ có hành vi giữ tay chân B để 3 tên A, N, V giao cấu với nạn nhân. Có
ý kiến cho rằng A, N, V là người thực hành, còn Q là người giúp sức. Vậy ý kiến của
anh chị thế nào? Giải thích rõ tại sao.........................................................................7
C: KẾT LUẬN................................................................................................................8



Họ và tên: Phạm Thị Loan - Lớp N02-TL 2, Nhóm 2, MSSV:351945




12



×