Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Tìm hiểu về đại từ tiếng mnông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.07 KB, 45 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐỀ TÀI ĐIỀN DÃ THỰC TẾ
TÌM HIỂU VỀ ĐẠI TỪ TIẾNG M’NÔNG


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH- 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐỀ TÀI ĐIỂN DÃ THỰC TẾ
TÌM HIỂU VỀ ĐẠI TỪ TIẾNG M’NÔNG

GVHD: NGUYỄN THÙY NƯƠNG
NHÓM 3:
1.
2.
3.
4.
5.

TRẦN THỊ PHƯỢNG
MAI THỊ HÀ
ĐOÀN THỊ QUÊ
NGUYỄN PHÚ CƯỜNG


PHẠM THỊ NGỌC CHI

1356010101
1356020015
1356020041
1356020008
1356020006


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH- 2016


MỤC LỤC

Contents


DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một đất nước với sự phong phú về thành phần dân tộc, đa dạng về
bản sắc văn hóa, trong đó 54 dân tộc anh em đều có ngôn ngữ và tiếng nói riêng
của mình, vẫn đang góp phần làm nên sự phong phú cho thành phần ngôn ngữ
dân tộc. Với mong muốn giữ gìn và phát huy tiếng nói của các dân tộc anh em trên
đất nước nói chung mà đặc biệt là dân tộc M’nông ( địa bàn thực tế diền dã của
chúng tôi) nói riêng, chúng tôi đã cố gắng hệ thống hóa ngôn ngữ, đặc biệt là các
vấn đề liên quan đến ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa trong tiếng nói của họ. Để
từ những cơ sở đó sẽ xây dựng nên hệ thống ngôn ngữ học hoàn chỉnh phục vụ
cho việc giảng dạy một cách khoa học nhất.
Nhân chuyến đi thực tập thực tế của Khoa Văn học & Ngôn ngữ trên địa bàn tỉnh
Đăk Nông (từ ngày 23 tháng 02 đến ngày 06 tháng 03 năm 2016), chúng tôi đã có

dịp tìm hiểu về dân tộc M’nông và khảo sát ngôn ngữ của họ.
Dân tộc M'nông có khoảng 12 vạn người, thuộc chủng Indonesian có tầm vóc
thấp, nước da ngăm đen, môi hơi dày, râu thưa, mắt nâu đen, tóc đen, thẳng.
Nhiều người có tóc xoăn. Ngôn ngữ M'nông thuộc nhóm Môn-Khmer miền núi
phía Nam. Trong vốn từ vựng M'nông bộc lộ rõ sự ảnh hưởng của tiếng Chăm, qua
ngôn ngữ Ê Đê và Giarai, là những ngôn ngữ thuộc nhóm Malay-Polynesia, bên
cạnh sự ảnh hưởng sâu đậm của nhóm Môn-Khmer...

Trong quá trình lịch sử phát triển tộc người của mình, do địa bàn cư trú phân tán
trên một vùng rừng núi hiểm trở, việc giao lưu giữa các vùng M'nông rất khó khăn,
hạn chế, đã phân chia cư dân M'nông ra rất nhiều nhóm địa phương. Nhưng các
nhóm này vẫn tự nhận một tên gọi chung là M'nông. Những nhóm địa phương của
người M'nông có thể kể đến như:



M'nông Gar, ở Tây Bắc Lâm Đồng và vùng hồ Lăk thuộc tỉnh Đăk Lăk
M'nông Chil, cư trú trên địa bàn huyện Lạc Dương, Đức Trọng, Lâm Hà và
huyện Lắk thuộc tỉnh Đăk Lăk...


M'nông Nông, ở Đăk Nông, Đăk Min tỉnh Đăk Lăk.
M'nông Préh, ở Đăk Nông, Đăk Min, Krông Nô, Lắk, tỉnh ĐăkLăk
M'nông Kuênh, ở huyện Krông Pách, tỉnh Đăk Lăk.
M'nông Prâng, ở Đăk Nông, dăk Min, Lắk và EA Súp, tỉnh ĐăkLăk
M'nông R'Lâm, ở huyện Lắk, tỉnh Đăk Lăk.
M'nông Bu đâng, ở Bản Đôn, Đăk Lăk.
M'nông Bu Nor, ở các huyện Đăk Nông, Đăk Min, tỉnh Đăk Lăk.
M'nông Din Bri, ở vùng tả ngạn sông EA Krông, tỉnh Đăk Lăk
M'nông Đíp, ở tỉnh Bình Phước và Đăk Lăk.

M'nông Bíat, ở tỉnh Bình Phước và bên kia biên giới Campuchia-Việt Nam.
M'nông Bu Dêh, ở vùng giáp ranh giữa tỉnh Bình Phước và tỉnh Dăk Lăk.
M'nông Si Tô, ở Đăk Song, tỉnh Đắk Nông.
M'nông Káh, ở các huyện Lắk, Đăk Nông, M'Drăk, tỉnh Đăk Lăk.
M'nông Phê Dâm, ở vùng Quảng Tín, huyện Đăk Nông, tỉnh Đăk Lăk
Ngoài ra, còn có một số nhóm địa phương khác của người M'nông như: M'nông Rơ
Đe, M'nông R'ông, M'nông K'Ziêng... cư trú ở Campuchia.
Do có nhiều nhóm địa phương như vậy, nên cộng đồng dân tộc M'nông có nhiều
phương ngữ, nhưng chủ yếu là phương ngữ M'nông miền Đông và phương ngữ
M'nông miền Tây, giữa các phương ngữ, sự khác nhau là không đáng kể.















Thông qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy vấn đề về đại từ trong tiếng M’Nông là
một trong những vấn đề rất thú vị, mới mẻ, hấp dẫn và thu hút sự nghiên cứu, tìm
hiểu của sinh viên chuyên ngành Ngôn ngữ học chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi quyết
định chọn đề tài: “Tìm hiểu về đại từ trong tiếng M’Nông” nhằm trình bày một
cách từ khái quát đến cụ thể các đặc điểm cơ bản của hệ thống đại từ, đồng thời

góp phần vào việc bảo tồn ngôn ngữ, văn hóa của các dân tộc thiểu số trên lãnh
thổ Việt Nam. Từ đó đặt trong mối tương quan so sánh với tiếng Việt để tìm ra
những khác biệt cơ bản về đại từ giữa hai ngôn ngữ.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở Việt Nam, nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc thiểu số đã được quan tâm và nghiên
cứu từ rất sớm. Cuốn “Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
từ những năm 90” của Viện Thông tin Khoa học Xã hội (Trung tâm KHXH & NV
Quốc gia) đã liệt kê thư mục nghiên cứu về ngôn ngữ dân tộc từ những năm 1990
đến năm 2002. Và từ đó cho đến nay có hàng chục cuốn sách, luận văn, luận án…


đã được thực hiện. Điều đó chứng minh một điều là việc nghiên cứu ngôn ngữ dân
tộc ở Việt Nam có một bề dày đáng tự hào.
Và tất nhiên cho đến nay, có thêm nhiều tác giả Việt Nam và nước ngoài nghiên
cứu về các ngôn ngữ dân tộc thiểu số nữa. Chúng ta không thể không nhắc đến
những bài nghiên cứu của Đinh Lư Giang (song ngữ Việt – Khmer), Lê Khắc
Cường (tiếng Stiêng), Phú Văn Hẳn, Marc Brunelle (tiếng Chăm), Đinh Lê Thư,
Thái Văn Chải, Trần Thanh Pôn, Nguyễn Thị Huệ, Phan Trần Công (tiếng Khmer),
Nguyễn Văn Huệ (tiếng Raglai),…
Trong phạm trù đại từ nói chung, các nhà nghiên cứu cũng đã có những quan tâm
tìm hiểu từ rất sớm, với những phương diện, cách thức riêng và với các tên gọi
khác nhau. Trong “Việt Nam Văn phạm”, Bùi Đức Tịnh gọi từ loại đang xét là
“đại danh từ”, với nhận xét sơ lược đó là “những tiếng dùng thay thế các danh từ
không tiện lặp lại hay không thể nói ra”. Các nhà nghiên cứu như Nguyễn Quang
Oánh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim dùng chung khái niệm “Đại danh tự”. Còn lại đại đa
số các nhà ngôn ngữ học khác như Nguyễn Tài Cẩn, Đỗ Hữu Châu, Đinh Văn Đức,
Nguyễn Kim Thản... thì có xu hướng gọi chung cho những từ dùng để chỉ trỏ sự
vật, để xưng hô, để thay thế cho danh từ, động từ, số từ và cụm từ trong câu là Đại
từ.

Về phần tiếng M’nông, chúng ta cũng đã thấy có nhiều công trình nghiên cứu để
từ đó cho ra đời các quyển từ điển Việt – M’nông, truyện cổ M’nông, tạp chí ngôn
ngữ bàn về tiếng M’nông…, trong đó nổi bật lên như các bài viết “Giới thiệu tiếng
M’nông, Cơ - ho, Stiêng” của Lục Văn Pảo được in trong tạp chí Dân tộc học, số 3,
năm 1980 nhằm giới thiệu khái quát về nguồn gốc, đặc điểm của tiếng M’nông,
Stiêng, Cơ – ho trong hệ thống ngôn ngữ Môn- Khmer; bài viết “về từ vựng tiếng
M’nông” của Hoàng Thị Đường trong quyển “Tiếng Việt và các ngôn ngữ dân
tộc phía Nam” của viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, trình
bày về hệ thống từ vựng tiếng M’nông, chỉ ra những điểm giống và khác của các
nhóm từ vựng tiếng M’nông so với tiếng Việt, mối quan hệ của tiếng M’nông và
các ngôn ngữ dân tộc thiểu số phía Nam với tiếng Việt, từ đó chỉ ra sự đa dạng về
hệ thống từ vựng của các ngôn ngữ nước ta... Nhưng về phần hệ thống đại từ


trong tiếng M’nông thì chưa thấy có công trình nào đào sâu một cách chi tiết. Do
đó, tiếp thu những kiến thức ngôn ngữ học về nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc,
chúng tôi thực hiện đề tài này với mong muốn đóng góp cho ngữ pháp tiếng
M’nông những ngữ liệu cần thiết để thiết lập một hệ thống chữ viết M’nông hoàn
chỉnh với đầy đủ các phân loại đại từ. Từ đó cung cấp những luận cứ khoa học cho
việc hoạch định các chính sách dân tộc, chính sách giáo dục về ngôn ngữ cho cộng
đồng M’nông trên địa bàn tỉnh Đăk Nông.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở một số lý thuyết mới về nghiên cứu ngôn ngữ học, cũng như số liệu,
ngữ liệu thu thập được qua thực địa, mục đích nghiên cứu là mô tả các đặc điểm
môi trường sống, đặc điểm cộng đồng, đặc điểm ngôn ngữ học, qua đó mở ra cái
nhìn tổng quát về việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp nói chung cũng như việc vận
dụng hệ thống đại từ trong tiếng M’nông, hay nói theo cách khác chính là phân
tích và chứng minh được vai trò ngữ nghĩa, ngữ dụng của đại từ trong tiếng
M’nông (có so sánh trong tương quan với tiếng Việt), khái quát nên thành cơ cấu

ngữ pháp hoàn chỉnh. Từ đó cung cấp những luận cứ khoa học, ngữ liệu cho các
công trình nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ dân tộc sau này, cũng như hoạch
định các chính sách bảo tồn, chính sách giáo dục ngôn ngữ cho cộng đồng M’nông
trên địa bàn tỉnh Đăk Nông.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện các mục đích trên, thì nhiệm vụ cụ thể của đề tài là: hệ thống hóa và
giới thiệu một cách có chọn lọc các lý thuyết có liên quan đến đề tài, giới thiệu
khái quát về tỉnh Đăk Nông cũng như địa bàn nghiên cứu, miêu tả và chỉ ra các
đặc điểm của việc sử dụng đại từ thông qua việc nghiên cứu trên góc độ định tính
lẫn định lượng. Theo sau đó là tổng hợp, phân tích, đánh giá cũng như gợi ý
những chính sách giáo dục ngôn ngữ (về lý thuyết lẫn thực tiễn) ở khía cạnh học
thuật cho người M’nông một cách cụ thể.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Về mặt đối tượng, đề tài nghiên cứu giới hạn trong việc nghiên cứu người
M’Nông và ngôn ngữ của họ bằng các phương pháp nghiên cứu điền dã khoa học.


Trong đó, chủ thể đối tượng của đề tài nghiên cứu là hệ thống đại từ trong tiếng
M’nông.
- Về mặt thời gian, đề tài này được thực hiện trong chuyến đi thực tập thực tế của
Khoa Văn học & Ngôn ngữ trên địa bàn tỉnh Đăk Nông (từ ngày 23 tháng 02 đến
ngày 06 tháng 03 năm 2016).
- Về mặt không gian địa lý, đề tài thực hiện tại bon Sarpa, xã Thuận An, huyện Đăk
Mil, tỉnh Đăk Nông, nơi mà hầu như tất cả người dân đều thuộc dân tộc M’Nông.
5. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
Về mặt phương pháp, đề tài có sự kết hợp giữa định lượng và định tính, trên cơ sở
các giáo trình về phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội.
-

Hướng tiếp cận định lượng:


Chọn mẫu theo cách phân tầng: chúng tôi phân tầng theo 3 cấp độ là giới tính
(nam, nữ), nghề nghiệp (làm nông, giáo viên, nội trợ...), độ tuổi . Phương pháp này
sẽ được ứng dụng để nghiên cứu chương 2 của đề tài.
Hướng tiếp cận định tính:
o Nghiên cứu ngôn ngữ học điền dã: Phương pháp này thường được sử dụng
-

trong nghiên cứu thực địa, nhất là nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc. Nó bao gồm việc
quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, thu âm dữ liệu, quan sát các tình huống giao
tiếp, chụp và sao lưu tài liệu để tiến hành phân tích. Phương pháp này thường
được sử dụng trong đề tài để đi sâu vào chi tiết và kiểm chứng, mô tả thêm về kết
quả định lượng. Trong bài nghiên cứu này, phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ
học điền dã được áp dụng trong chương 2 và chương 3, nhưng chương 3 là chính.
o Nghiên cứu tư liệu: Phương pháp này thường được sử dụng trong việc tham
khảo các công trình nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn trước đó về tiếng Việt và
tiếng M’nông, các chương trong đề tài nghiên cứu đều có thực hiện phương pháp
này.
. Nghiên cứu lịch sử lời kể: Phương pháp này thường được sử dụng ở các cuộc
phỏng vấn sâu nhằm tìm lại những thông tin trong quá khứ, chương 2 sử dụng
phương pháp nghiên cứu này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học:


Đề tài hướng tới mục tiêu mô tả và phân loại hệ thống đại từ trong tiếng M’nông
và đặt chúng trong hệ qui chiếu so sánh với tiếng Việt và nêu lên mối quan hệ ở hệ
thống đại từ giữa hai ngôn ngữ.
Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài thực hiện việc nghiên cứu hệ thống đại từ trong tiếng M’nông tại bon

Sarpa, xã Thuận An, huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông. Qua đó, mô tả, phân tích một
số góc độ về việc dùng đại từ trong cộng đồng người M’nông trong khu vực và
toàn tỉnh. Từ đó cung cấp những luận cứ khoa học, ngữ liệu cho các công trình
nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ dân tộc sau này, cũng như hoạch định các
chính sách bảo tồn, chính sách giáo dục ngôn ngữ cho cộng đồng M’Nông trên địa
bàn tỉnh Đăk Nông.
7. Kết cấu đề tài nghiên cứu
Ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, chúng tôi chia phần nội dung chính của đề
tài ra thành 3 chương như sau:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN. Chương này giới thiệu sơ lược về vị trí địa lý, dân tộc
M’nông và tiếng M’nông trên địa bàn tỉnh Đăk Nông. Song song đó là những lý
thuyết về các khái niệm liên quan đến vấn đề đại từ, từ đó nêu lên các quy tắc phân
loại cũng như chức năng của chúng.
Chương 2: ĐẠI TỪ TRONG TIẾNG M’NÔNG( SO SÁNH VỚI ĐẠI TỪ TIẾNG VIỆT).
Chương này đề cập đến đại từ và việc phân loại đại từ trong tiếng M’nông có so
sánh, đối chiếu thông qua việc miêu tả và phân tích song song giữa ngữ liệu tiếng
M’nông và tiếng Việt. Từ đó khái quát lên những đặc điểm cơ bản của đại từ trong
tiếng M’nông cũng như những nét tương đồng và khác biệt giữa đại từ tiếng
M’nông và tiếng Việt.
Chương 3: BẢNG ĐẠI TỪ TIẾNG M’NÔNG VÀ TIẾNG VIỆT. Chương này đề cập đến
sự so sánh giữa đại từ trong tiếng M’nông và tiếng Việt thông qua việc miêu tả và
phân tích ngữ liệu như đã trình bày ở chương 2 (lập bảng so sánh, đối chiếu). Từ đó
đưa ra những đánh giá cũng như nhận xét chung về đại từ tiếng M’nông và tiếng
Việt.


NỘI DUNG

CHƯƠNG1: CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Ở chương này, chúng tôi xin trình bày một cách khái quát về dân tộc M’nông cũng

như tiếng M’Nông tại địa bàn nghiên cứu. Đồng thời cũng nêu ra những cơ sở lý
thuyết làm căn cứ cho việc nghiên cứu đề tài. Đó là những khái niệm ,những nhận
định cơ bản về đại từ và sự phân loại của đại từ. Những cơ sở lý luận này sẽ làm
nền cũng như tiền đề cho việc đi sâu tìm hiểu vấn đề ở đề tài sau đây rất nhiều.

1.1.Khái quát về dân tộc M’Nông và tiếng M’nông.
1.1.1 Về dân tộc M’nông.
Người M’Nông là một trong 54 dân tộc anh em và là lớp cư dân bản địa của nước
ta. Thuộc nhóm nhân chủng Anhđônêdiêng,có tầm vóc thấp,nước da ngăm đen,môi
hơi dày,râu thưa,mắt đen nâu,tóc đen ,thẳng,một số người có tóc uốn.
Tính đến năm 2009 có số dân là 102.741 người.
Tên tự gọi: M’nông
Tên gọi khác: Bu-dâng,Preh,Ger,Prâng, Rlăm,Kuyênh,Chil Bu Nor…
Nhóm địa phương: M’Nông Gar, M’Nông Nong, M’Nông Kuyênh, M’Nông Preh,
M’Nông Prông, M’Nông R’lâm, M’Nông Buđàng, M’Nông Chin…
Địa bàn cư trú: Người M’Nông cứ trú tập trung chủ yếu tại các tỉnh : Đăk Lăk, Đăk
Nông, Lâm Đồng, Bình Phước, Quảng Nam.
Với vốn văn hóa nghệ thuật đặc trưng được lưu truyền qua các thế hệ thông qua
việc truyền miệng. Kho tàng truyện cổ bao gồm những thần thoại, truyền thuyết, cổ


tích…phản ánh quá khứ nhận thức của con người về vũ trụ nhân sinh,đồng thời để
lại nhiều dấu vết hoạt động của con người xã hội xưa. Lễ Tết là một trong những
đặc trưng của dân tộc Việt nói chung và dân tộc M’Nông nói riêng nhưng ở dân tộc
M’Nông có những khác biệt rất đặc sắc,phù hợp với lối lao động sản xuất nông
nghiệp của dân tộc họ. Vào cuối tháng 7 đầu tháng 8 âm lịch (đầu vụ thu hoạch),
người dân tộc ở khu vực Bình Phước và Tây Nguyên thường tổ chức Tết mừng lúa
mới (lễ cơm mới). Đây được xem là cái Tết lớn nhất của đồng bào dân tộc M’Nông.
Ở hoạt động sản xuất, người M’Nông là một trong những cư dân tiêu bểu của nền
nông nghiệp dùng cuốc ở Tây Nguyên. Làm nương rẫy chiếm vị trí trọng yếu trong

hoạt động sản xuất của người M’Nông,cây trồng chủ yếu như: tiêu,điều,cà phê. Hái
lượm và săt bắt còn giữ một vai trò đáng kể trong đời sống hằng ngày, là nguồn
lương thực thường xuyên cho các bữa ăn. Một số lâm sản có giá trị kinh tế cao như:
măng khô, nấm hương, mộc nhĩ, mật ong… Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm của
người M’Nông là để tự cung tự cấp. Các nghề thủ công như : dệt, làm gốm,đan lát…
chỉ là những nghề phụ chứ không được phát triển thành những ngành nghề chính.

1.1.2 Về tiếng M’Nông.
Tiếng M’nông là những ngôn ngữ thuộc tiểu nhóm Nam Bahnar. Tiếng M’nông cùng
họ với một số ngôn ngữ khác như tiếng Stiêng, tiếng Mạ, tiếng Kơ ho. Tiểu nhóm
này thuộc họ ngôn ngữ Nam Á, chi Môn-Khmer, nhánh Đông Môn-Khmer, nhóm
Bahnar1. Đây là những ngôn ngữ có vai trò quan trọng tại Tây Nguyên và Đông
Nam Bộ, với số lượng người nói gần 400.000 người.
Có nhiều ý kiến cho rằng nhánh Mon – Khơ me và nhánh Nam Đảo có nguồn gốc
chung là ngôn ngữ Nam Á. Chính vì vậy mà tiếng M ’nông cũng có cùng phổ hệ xa
xưa vói các thứ tiếng như: Ê đê, Gia rai…

1


Trong nhánh Môn – Khơmer vị trí của tiếng M’Nông thuộc nhóm Ba na được
hình dung qua sơ đồ dưới đây.
A . Nhóm Pea có các thứ tiếng: Pea,Chong, Samre, Angrak, Saoch.
B . Nhóm Khơme
C . Nhóm Ba na:
Ba na Bắc: Ba na, Ren gao, Sedang, Halang, Jeh, Momon, Kayong, Hrê, Cua,
Takua, Tơdrah.
Ba na Tây: Loven, Ryaheun, Oi, Laveh, Brao, Sok, Sapuan Cheng, Sup.
Ba na Nam: Stieng, Mnong giữa, Mnong Nam, Mnong Đông, Kơho, Chrau.
D . Nhóm Ca tu: Ca tu, Kan tu, Phuang, Bru, Pacoh, Taoih, Ngeq, kataang, Kuy,

Lor, Leun, Ir, Tong, Souel So, A lak, Kasseng.
E .Nhóm Khơ mú: Khơ mú, Mal, Mrabri, Yumbri, Tay hạt, Puột, lamét.
F .Nhóm Môn: Môn, Niakoul.
G . Palaung, Wa, Riang- lang, Đa nao, La wa, Ka ma, Kha met, Mảng.
H .Kha si
I .Việt Mường : Việt, Mường, Mày, Arem, Tày pọng.
Dân tộc M’Nông có nhiều nhóm địa phương, mỗi nhóm cư trú ở một vùng nhất
định : trong khu vực Tây Nam tỉnh Đắc Lăk nhóm Preh ở Đăk mon và vùng ngoại vi
Buông Ma Thuộc, Nông, Prâng, Bunar, ở vùng Đăk Nông, Kuêng, ở krông pông, Rơ
lâm, ở quen hồ Lăc Car ở trên núi phía Nam sông Krông Ana, Chil ở vùng Đông Nam
khu vực cư trú của nhóm Car : Biat và Bu đâng ở vùng biên giới Việt NamCampuchia.
Dựa vào đặc điểm ngôn ngữ cũng như sự phân bố địa lý, có thể chia M’Nông
thành hai ngôn ngữ chính: Phương ngữ Đông và phương ngữ Tây. M’Nông Tây
thành hai nhánh :


Preh- Bunar




Nông – Prâng

Phương ngữ M’Nông Đông cũng gồm hai nhánh :


Car- Rơlâm




Kuênh- Chil

Về mặt ngôn ngữ, sự khác nhau giữa M’Nông Đông và M’Nông Tây thể hiện ở
một số từ ngữ và một số cách phát âm.
Nếu coi một từ giống nhau hoặc tương tự nhau ở từ bốn nhánh trở lên là phổ
biến, thì trong 356 từ, trong tiếng Preh có 286 từ, Bunâr và Nong không những có
nhiều từ chung với nhau mà còn có nhiều từ chung với nhóm khác. Tiếng Prâng tuy
có nhiều biến thể cổ hơn, nhưng số lượng từ Prâng giống với Preh, Bunâr và Nong
trội hơn hẳn so với nhóm M’ Nông còn lại.
Sự khác nhau giữa cách phát âm giữa M’Nông Đông và M’Tây có thể nhận ra
thông qua hệ thống đầu, nguyên âm hoặc phụ âm cuối.
Tuy có sự khác biệt như vậy nhưng các phương ngữ M’Nông vẫn mang tính thống
nhất cao. Trước hết đó là sự thống nhất về quy tắc ngữ pháp, về phần lớn vốn từ
ngữ và vốn ngữ âm. Đối chiếu những nét khác biệt và những đặc điểm thông nhất
phổ biến ta có thể thấy tiếng M’Nông Preh là một dấu nối tự nhiên và tiếng nói giữa
các nhóm và các nhánh M’ Nông, các biến thể ngữ âm, từ vựng của phương ngữ
M’Nông Tây thường có ưu thế về sự phân bố trên một vùng lãnh thổ rộng lớn, được
sử dụng trong nhiều phạm vi của đời sống. Vì vậy, khi xây dựng phương án chữ
M’Nông hiện nay tiếng Preh được chọn làm đại diện.
Âm tiết mạnh là âm tiết có mang trọng âm, được đọc rõ ràng, còn âm tiết yếu là
âm tiết không mang trọng âm, được đọc lướt nhẹ. Chính vì được đọc lướt nhẹ
nên nhiều nhóm M’ Nông, âm tiết yếu có thể phương ngữ M’Nông tây được xem là
chổ dựa cho cách phát âm.
Về ngữ âm trong tiếng M’Nông, từ được phát âm thành một âm tiết, nhiều âm
tiết mạnh, đi liên tiếp nhau hoặc một âm tiết yếu đi trước, một âm tiết mạnhmất
dần đi cách phát âm, hoặc chuyển thành một phụ âm ghép vào âm tiết mạnh.


Tiếng M’Nông có 26 phụ âm, và có 9 nguyên âm, mỗi một trong số 9 nguyên âm
ấy điều có sự đối lập dài ngắn, tức là trong hai âm tiết giống nhau, có âm chính là

nguyên âm, giống nhau ở hầu hết các đặc điểm, nhưng chỉ khác nhau ở một điểm
đó là cách phát âm ngắn hay cách phát âm dài thì có những từ với ý nghĩa khác
nhau.
1.2. Khái niệm,đặc trưng và phân loại đại từ.
1.2.1.Khái niệm và đặc trưng của đại từ.
Theo Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung, ở cuốn “Ngữ Pháp Tiếng Việt” tập 1
của, đại từ được nêu lên như sau :
Đại từ là lớp từ dùng để thay thế và chỉ trỏ. Đại từ không trực tiếp biểu thị thực
thể,quá trình hoặc đặc trưng như danh từ ,động từ và tính từ. Đại từ chỉ biểu thị
các ý nghĩa đó một cách gián tiếp : chúng mang nội dung phản ánh vốn có của các
thực từ được chúng thay thế. Khi đại từ thay thế danh từ thì chúng biểu hiện ý
nghĩa thực thể của danh từ,khi thay thế cho động từ (hay tính từ) ,chúng biểu thị ý
nghĩa quá trình(hay đặc trưng) của động từ (hay tính từ) đó.
Do chức năng thay thế, đại từ chủ yếu có khả năng hoạt động trên trục đối đoạn
(hệ hình) mà rất hạn chế trên trụ cú đoạn (kết hợp).Đại từ không chỉ thay thế cho
một thực từ (danh từ,động từ,tính từ),mà còn có thể thay thế cho kết hợp từ (cụm
từ),câu,đoạn văn.
Đại từ nói chung, có thể đảm nhiệm các chức năng cúc pháp của thực từ được
thay thế. Ngoài ra, đại từ còn được dùng để thay thế và chỉ trỏ vào người và vật
tham gia quá trình giao tiếp (tương ứng với người và vật được biểu thị trong danh
từ).
Theo Đỗ Hữu Châu:
“Đại từ có chức năng định danh khá đặc biệt: nó không chỉ tên một sự vật, hiện
tượng nào mà chỉ vào các danh từ cho nên nó chỉ định danh một nửa. Chỗ dựa của
nó là danh từ.” ( Đỗ Hữu Châu, “ Giáo trình Việt ngữ” tập 2,NXB. GD, H.,1962, tr.19)
Ở những năm 50 , Phan Khôi đã nghiên cứu thành phần câu của Tiếng Việt đã
thấy có sự chuyển đổi cái nhìn từ bản vị sang cú bản vị , với tinh thần lấy câu làm
gốc thì đại từ đóng vai trò quan trọng nó là thành phần làm câu có sự thay đổi
đáng kể .



1.2.2. Phân loại đại từ.
Có rất nhiều quan niệm về phân loại đại từ. Dưới đây chúng tôi xin điểm qua một
vài ý kiến của một số tác gủa về cách phân chi loại từ đại từ tiếng Việt.
*Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (NXB KHXH – 1983) các tác giả phân loại đại
từ tiếng Việt như sau :
a) Đại từ trỏ người, vật, sự vật. Đó là những từ tương ứng với danh từ chỉ người,
vật, sự vật. Các tác giả đã phân những đại từ này thành các nhóm sau :
+ Đại từ xưng hô ba ngôi số ít, số nhiều : tôi, tao, tớ, chúng tôi, chúng tao, chúng tớ,
chúng mình,… ;mày, mi, chúng mày,…nó, hắn, y, thị.
+ Đại từ trỏ không gian, thời gian : đây, đấy, đó, kia, ấy, nọ, này, bây giờ, bấy giờ,…
+ Đại từ trỏ số lượng : bấy nhiêu, mấy,…
b)Đại từ trỏ phương thức hành động, trạng thái : thế, vậy,…
c)Đại từ nghi vấn :
+ Ai, gì, đâu, nào,…(hỏi người, vật, sự vật)
+ Bao nhiêu, mấy, bấy nhiêu,…(hỏi không gian, thời gian, nơi chốn)
+ Sao, thế nào,…(hỏi tính chất)
+Thế, vậy(hỏi phương thức, trạng thái)
*Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông (1989) Diệp Quang Ban
Ông xác định một loạt đại từ, gọi là đại từ thay thế và phân loại như sau : Trong
tiếng Việt có những nhóm đại từ thay thế xét về mặt ngữ pháp và ngữ nghĩa.
+ Đại từ chỉ thời gian : Theo quan điểm của tác giả, hiện nay đại từ chỉ thời gian
được dùng phổ biến là hai từ bây giờ và bấy giờ.
+ Đại từ chỉ số lượng : bấy nhiêu, tất cả, tất thảy, cả thảy, cả,..
+ Đại từ chỉ người, vật, nơi chốn ở gần, ở xa : này, đây, đấy, đó, kia,…
+ Đại từ- vị từ gồm các từ : thế, vậy,…
+Đại từ nghi vấn : mấy, bao giờ, bao nhiêu, đâu, gì, ai, sao, thế nào,…
*Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt hiện đại (1980) tác giả Hữu Quỳnh cũng xác
định một số đại từ tương đương như sau :
+ Đại từ trỏ không gian như các từ : đây, đấy, đó, kia,…

+ Đại từ tỏ thời gian như nay, này, giờ, bây giờ, bấy giờ,..
+ Đại từ trỏ trạng thái như thế, vậy,…


+ Đại từ trỏ số lượng : cả, tất cả, tất thảy, bấy nhiêu,..
+ Đại từ hỏi con người : sự vật, ai, gì, nào,… ; hỏi thời gian, nơi chốn : đâu, nào, bao
giờ, bao lâu,… ; hỏi cách thức, trạng thái : thế nào, sao
Tác giả Đinh Văn Đức đã phân loại đại từ như sau:
+/ Đại từ nhân xưng: tôi, tao, tớ, chúng tôi, chúng tao, chúng tớ...; mày, mi, chúng
mày, chúng mi, bay...; hắn, nó, gã, y, thị...
+/ Đại từ chỉ định: này, kia, nọ, ấy...
+/ Đại từ nghi vấn: gì, ai, bao nhiêu, mấy, vì sao, tại sao, đâu...
+/ Đại từ tổng thể: cả, tất thảy, tất cả...
+/ Đại từ thay thế: thế, vậy, “bao nhiêu... bấy nhiêu”...
Tác giả Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt
phổ thông” xuất bản năm 1998 đã phân đại từ thành 2 nhóm:
a/ Đại từ nhân xưng dùng ở một ngôi: tôi, tao, ta, tớ, hắn, mày, mi, nó,chúng tao,
chúng nó...
-

Đại từ nhân xưng dùng ở nhiều ngôi: mình, ta

-

Đại từ phiếm chỉ: ai

b/ Đại từ chỉ định: đại từ xác chỉ và đại từ phiếm chỉ gồm các nhóm sau:
+/ Trỏ thời gian: bây giờ, bấy giờ, nãy, nay, bấy, rày, giờ...
+/ Phiếm chỉ thời gian: bao lâu, mấy...
+/ Trỏ không gian: này, đây, đấy, đó, kia, kìa, ấy, nọ...

+/ Phiếm chỉ không gian: đâu, nào...
+/ Trỏ số lượng: tất cả, cả, cả thảy, hết thảy...
+/ Phiếm chỉ số lượng: mấy, bao nhiêu...
+/ Trỏ sự vật: thế, vậy...
+/ Phiếm chỉ sự vật: gì, sao, nào...
Căn cứ vào cách phân loại của một số tác giả đã nêu ở trên, chúng tôi đồng ý với
cách phân loại của tác giả Diếp Quan Bang và Hoàng Văn Thung trong cuốn “Ngữ
pháp tiếng Việt phổ thông” xuất bản năm 1998, phân đại từ thành hai nhóm: Đại từ
nhân xưng và đại từ chỉ định. Theo chúng tôi, thì cách phân loại này phù hợp hơn
cả v ì các tác giả đã dựa vào chức năng trỏ và thế của đại từ để phân loại. Trong


luận án chúng tôi căn cứ vào cách phân loại đại từ của hai tác giả này để so sánh
với các tiểu loại đại từ trong tiếng Hán.

Chương 2
ĐẠI TỪ TRONG TIẾNG M’NÔNG (SO SÁNH VỚI ĐẠI TỪ TIẾNG VIỆT)

2.1 Đại từ nhân xưng
Trong tiếng việt đại từ xưng hô dùng để thay thế, chỉ các đối tượng khi tham gia trong
giao tiếp (người hay vật), được chỉ ra một cách chung nhất ở cương vị ngôi. Đại từ
xưng hô gồm các đại từ chuyên dùng để xưng hô, và các đại từ xưng hô lâm thời,
mượn các danh từ biểu thị quan hệ thân tộc hay quan hệ xã hội.
Tương tự như tiếng Việt, trong tiếng M’nông cũng có những đại từ xưng hô để chỉ
các cương vị các mối quan hệ trong giao tiếp.
Ứng với các cương vị nói, cương vị nghe mà đại từ trong tiếng Việt và trong tiếng
M’nông chia ra các ngôi để biểu thị các mối quan hệ trong giao tiếp.
2.1.1 Đại từ xưng hô chia theo ngôi
- Đại từ nhân xưng dùng ở ngôi xác chỉ:
Số lượng đại từ trong nhóm này không nhiều.Chúng thay thế và chỉ trỏ đối tượng

giao tiếp ở một ngôi xác định tương ứng với cương vị nói, cương vị nghe và cương
vị được nói đến
-

Đại từ nhân xưng dùng ở nhiều ngôi linh hoạt:


Ý nghĩa ngôi trong quan hệ giao tiếp không được biểu hiện trong ý nghĩa tự thân
của đại từ. Chỉ trong hoàn cảnh cụ thể các đối tượng có quan hệ trong giao tiếp
được xác định ngôi theo vị trí và chức năng cú pháp của đại từ.
Bảng từ xưng hô có ngôi xác định được nêu trong bảng sau:
Cương vị ngôi
Ngôi thứ nhất

Ngôi thứ hai

Ngôi thứ ba

Tiếng Việt
Tôi
Tao
Chúng tôi
Chúng ta
Chúng mình
Chúng tớ
Mày
Chúng mày
Mi
Ngươi


Hắn
y/ thị
Chúng nó
Họ
Chúng

Tiếng M’nông
Gâp
Gâp
Phung hên
Phung he
Phung he
Phung hên
May
Phung may
May
Nuyh/ nóm
Păng
Păng
Phung păng
Păng/ phung tê˘
Mphung

Một số ví dụ các đại từ xưng hô ngôi thứ nhất trong tiếng Việt và tiếng M’nông.
Ngôi thứ nhất: Dùng cho người nói tự xưng hô
1)

Gâp hăn tâm chơ
(tôi đi chợ)


2)

Gâp hăn.
( tôi đi)

3)

Gâp hôm e sa piăng
(tao đang ăn cơm)

Trong ba ví dụ trên điểm giống nhau giữa tiếng Việt và tiếng M’nông từ “tôi, tao” đều
chỉ người trong cương vị ngôi thứ nhất, người nói đến với người nghe trong giao tiếp.
Nhưng điều đặc biệt khác nhau giữa tiếng Việt và tiếng M’nông là chữ “tôi” và “tao”
tuy đều chỉ người ngôi thứ nhất nhưng nó là hai từ khác nhau, biểu thị vai trò và sắc


thái khác nhau trong giao tiếp. Còn trong tiếng M’nông “tôi, tao” đều thể hiện và sử
dụng chung một từ là “gâp”.
Tiếp tục xét các ví dụ đại từ khác ở ngôi thứ nhất số nhiều.
Phung hên jêng phung kan mir.

4)

(chúng tôi là nông dân)
5) Phung hê mra hăn tâm bri.

(chúng ta lên rừng)
6) Phung hê jêng du rnăk vâl.

(chúng mình là một gia đình)

Ở các ví dụ này ta có thể thấy rõ ràng sự khác nhau giữa tiếng Việt và tiếng M’nông.
Trong tiếng Việt, các đại từ ngôi thứ nhất số nhiều được sử dụng biểu thị một cách
khác biệt rõ ràng. Còn trong tiếng M’nông thì chỉ sử dụng chung một từ “phung hê”.
Qua các ví dụ trên cho thấy đại từ ở ngôi thứ nhất trong tiếng Việt được sử dụng một
cách đa đạng hơn tiếng M’nông.
Ví dụ:
7) Tri dơh phung hên hăn tâm huyện.

(chúng tôi đi lên huyện vào hôm qua)
Ở ví dụ này trật tự câu trong tiếng M’nông có sự thay đổi so với tiếng Việt. Trong
tiếng Việt “chúng tớ” đứng đầu câu làm chủ ngữ. Nhưng trong tiếng M’nông “phung
hên” đứng sau “tri dơh” (hôm qua) trạng từ chỉ thời gian. Điều này có thể hiểu rằng
vị trí các đại từ trong tiếng Việt và tiếng M’nông đôi khi có sự thay đổi khác nhau.
Ngôi thứ hai: dùng để gọi người/ vật đang tiếp xúc với mình
Các ví dụ đại từ ngôi thứ hai trong tiếng Việt và tiếng M’nông.
8)

Moh ndơ bư may ně?

(Chúng mày đang làm gì vậy?)
9)

Ntŭk hăn may iơn ně.

(chúng mày đi đâu đấy)
10) Ndơ sa may de ně?


(mi ăn gì đấy)
11) Mbu moh may?


(ngươi là ai)
Đại từ ngôi thứ hai ở cương vị người nghe. Ở các ví dụ đại từ ngôi thứ hai này thì đại
từ tiếng M’nông được sử dụng một cách đa dạng hơn. Cụ thể từ “chúng mày” trong
tiếng Việt chỉ xuất hiện sử dụng dưới một từ, nhưng trong tiếng M’nông thì thể hiện ở
hai từ “moh ndơ” “ntŭk”.
Ngôi thứ ba : dùng để chỉ một đối tượng khác ngoài hai đối tượng đang tiếp xúc với
nhau.
Các ví dụ đại từ ngôi thứ ba trong tiếng Việt và tiếng M’nông.
12) Păng bêch jêh?

(nó ngủ rồi)
13) Păng jêng bunuih djơh.

(hắn lag người xấu)
14) Phung tê˘ tât tă bơh Sai Gon/ khăn păng ta Sai Gon tât.

(họ từ Sài Gòn đến)
Ở ba ví dụ này từ “nó và hắn” trong tiếng M’nông đều được sử dụng là từ “păng”.
Còn từ “họ” là “phung tê˘”. Các ngôi xưng hô tring tiếng M’nông không phong phú
như tiếng Việt.
Đại từ nhân xưng là những đại từ chỉ ngôi , tức là để chỉ về người nói như
“Gâp(tôi/tao), “Phung he (chúng tôi)”, chỉ về người đối thoại như: “May(mày)”,
“Phung may(chúng mày)”, hoặc để chỉ về người và vật được nói đến, như “Păng(nó)”,
“Păng(hắn)”, “Phung tê(họ)”. Như vậy, theo những khái niệm lý thuyết của ngôn ngữ
học chung, thì bản thân hệ thống đại từ xưng hô đã chia ra thành các ngôi rõ rệt.
+ Ngôi thứ nhất chỉ người nói: Gâp (tôi/tao), ..
+ Ngôi thứ hai chỉ người đồng thoại : may(mày/mi), …
+ Ngôi thứ ba chỉ người hoặc vật được nói đến: păng ( hắn/nó),…
Và đối lập với ba ngôi số ít, là ba ngôi số nhiều.

+ Ngôi thứ nhất số nhiều : phung he(chúng tôi/chúng ta), phung hên(chúng tớ),…


+ Ngôi thứ hai số nhiều: Phung may(chúng mày),…
+ Ngôi thứ ba số nhiều: Phung tê(họ), Mphung(chúng), …
2.1.2 Đại từ xưng hô trong quan hệ thân tộc
Cũng giống như tiếng Việt, các đại từ đích thực tiếng M’nông thường ít mang màu sắc
trang trọng nên có một số bộ phận danh từ chỉ quan hệ thân tộc được dùng như đại từ
xưng hô như : che (ông), u (bà), nâu (anh), cha( mbơ̆), mẹ(mê̆),…
Danh từ xưng hô lâm thời dùng trong quan hệ thân tộc.
Tiếng Việt
Ông

Anh
Chị
Em
Cháu


Chú
Bác
Cậu
Mợ

Ví dụ:
1.Mê̆ kchoh ao
( Mẹ may áo)
2.Yuh hăn tuy dark
( chị đi vác nước)
3. Nui nay mâu mât kon

(cô ấy không nuôi con)
4. U ê tât phăm jǐt năm
(bà chưa đến 80 tuổi)

Tiếng M’nông
Che
U
Nâu
Yuh
Oh
Mon
Yơ/ nui

Kônh
Va
Kônh



Bên cạnh đó, người M’nông còn dùng nhiều danh từ chỉ người làm đại từ xưng hô để
thể hiện thứ bậc, tuổi tác,giới tính . Gần giống như tiếng việt, trong cách xưng hô của
người M’nông tùy theo mối quan hệ thân thuộc, quan hệ xã hội và hoàn cảnh nói mà
lựa chọn các đại từ cho lịch sự và thích hợp khi giao tiếp với nhau.
Điều đặc biệt trong cách xưng hô của người M’nông trong quan hệ gia đình, họ không
phân biệt bên nội, bên ngoài. Ông nội/ ông ngoại đều dùng chung một từ “ Che” , bà
nội/bà ngoại - “U” ; cậu, chú đều dùng chung một từ “ Kônh” ; cô, dì, mợ dùng
chung từ “ Yơ”. Nên trong những trường hợp giao tiếp, chúng ta khó có thể phân biệt
được đâu là nội/ ngoại, vai vế, thứ bậc như thế nào. Còn trong tiếng Việt, mỗi người,
vai vế đều có cách dùng từ khác nhau.
Những từ như “May” (mày) , “Gâp” (tao) cũng được sử dụng để chỉ quan hệ thân

mật, suồng sã.
Đại từ xưng hô ở nhiều ngôi sử dụng một cách linh hoạt, ý nghĩa ngôi trong quan hệ
giao tiếp thường không biểu hiện trong ý nghĩa tự thân. Phải ở trong hoàn cảnh cụ thể
các mối quan hệ xã hội thì mới xác định rõ các ngôi vị của chúng.
Cách sử dụng các đại từ nhân xưng trong tiếng M’nông:
Xưng hô trong tiếng M’nông có thể biểu thị ba thái độ: tôn trọng, bình thường và
suỗng sã.Xưng và hô phải tương xứng, nghĩa là tự xưng lịch sử thì cũng phải gọi
người một cách lịch sự, tự xưng suồng sã thì cũng phải gọi người một cách suồng sã.
Ví dụ: xưng “Gâp(tao)” thì phải gọi “May(mày)”, chứ không thể gọi “May(mày)” mà
lại xưng “Gâp(tôi)”. Điều đặc biệt trong tiếng M’nông là từ “tôi và tao” đều sử dụng
chung một từ “Gâp” .
- Đại từ Gâp (tôi): đại từ chỉ chính bản thân mình, có một số trường hợp thể hiện sự
kiêu ngạo.
+ Gâp hăn Dak Nong pê măng
( Tôi đi Dak Nong ba buổi tối)
+ Gâp jêng H’đuyên
(Tôi là H’đuyên)
-Đại từ Gâp (tao): là một đại từ thực sự. Hiện nay nó có nghĩa suồng sã hoặc ngạo
mạn
+ Gâp hăn ta may pâl
(Tao đến mày chơi)


-Đại từ “Phung hên(mình)” : dùng để tự xưng khi thân mật, hoặc dùng trong nhật ký,
hay trong văn tự sự
+ Êng du phung hên
(Riêng một mình)
+ Aҍaơ hin phung hên sê̆t yuh yâ
(Bây giờ mình về chị nhé)
-Đại từ “Păng(nó)” : đại từ thường dùng để trỏ người, động vật, vật thể. Khi trỏ

người, “Păng(nó)” chỉ trẻ con hoặc có nghĩa khinh miệt, suồng sã.
+ Păng mâp yuh nĕ
( Nó gặp cô ấy)
+ Gâp gĭt păng
(Tôi biết nó)
-Đại từ “Mphung(chúng)” : có thể tự mình làm thành một từ độc lập chỉ ngôi thứ
ba, số nhiều và hoàn toàn giống “Phung păng(chúng nó)”. Hai từ này khác “Phung
tê(họ)”, phung tê(họ) biểu thị thái độ bình thường, còn Mphung(chúng), Phung
păng(chúng nó) tỏ thái độ khinh miệt hoặc suồng sã.
+ Mphung oh kuh mbah lĕ wa!
(Chúng em kính chào các bác!)
+ Mphung may sa piăng
(Chúng mày ăn cơm)

2.2 Đại từ chỉ định
Qua quá trình khảo sát và nghiên cứu chúng tôi nhận thấy sự giống nhau trong hệ
thống đại từ giữa tiếng M’nông và tiếng Việt nên chúng tôi sẽ chia đại từ theo quan
niệm của tác giả Nguyễn Hữu Quỳnh trong cuốn “Ngữ pháp chức năng” , đại từ chỉ
định phân thành bốn nhóm khác nhau như sau:
2.2.1 Nhóm đại từ chỉ định sự vật
Đại từ chỉ định là những từ dùng để trỏ người và vật được xác định trong không gian
hay thời gian hoặc được thay thế một đơn vị ngữ pháp nào đó trong ngữ cảnh.


Đó là những đại từ: aơ(này), ri(kia), êp ri(đằng kia), nĕ( ấy), tê˘( nọ), tê˘( đó), êp
ri(đấy),aơ (đây), ta aơ(này), mpôe (bây),ló( bấy), lơ âk (bấy nhiêu), nây (vậy),…
Để chỉ quan hệ không gian, cần có vật quy chiếu. Vật quy chiếu có thể là người nói,
người nghe hoặc một đối tượng mà người nói, người nghe đề cập đến
Trong ví dụ (1): “ Con ca aơ dut kuăng”
(Con cá này rất to)

Thì đại từ Aơ(này) cho thấy con cá ở gần với người đang nói, nhưng trong trường
hợp(2) : “ May hăn aơ bơh”
(Mày nghe tao nói này)
Còn trong hợp (2): “Aơ” dùng để chỉ định trong quan hệ giưa người nói và người
nghe.
Tuy nhiên trong các trường hợp vị trí của các sự vật có thể được xác định hoặc không
xác định : Các đại từ aơ(này), ri(kia), êp ri(đằng kia), nĕ( ấy), tê˘( nọ), tê˘( đó),vừa
dùng để chỉ vị trí xác định và không xác định :
Ví dụ: dùng cho những vị trí xác định
1) Aơ jêng săm but Nam

(đây là cuốn sách của Nam)
2) Ri jêng ntŭk nsrưng ndeh buýt

(kia là bến xe buýt )
3)

Êp Ri jêng oh bu ur gâp
(đấy là em gái của tôi)

4) Ri jêng jau phung he

(đó là nhà của chúng ta)
5) Kon itê̆ jêng kon nkăng

( con kia là con gà trống)
6) Bunuih aơ jêng mbơ̆ gâp

(người này là cha của tôi)
Ví dụ: dùng cho những sự vật không xác định



×