MỤC LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới đã và đang phát triển theo xu hướng toàn
cầu hóa. .Xu hướng hòa nhập và hội tụ toán quốc tế ngày càng được sự quan tâm của các quốc
gia trên thế giới.
Xu hướng hòa nhập và hội tụ toán quốc tế ngày càng được sự quan tâm của các quốc gia
trên thế giới. Nhiều quốc gia đã chủ động và tích cực tham gia bằng việc áp dụng chuẩn mực báo
cáo tài chính quốc tế (IAS/IFRS). Hoà nhập và hội tụ kế toán quốc tế là xu thế tất yếu khách
quan trong tiến trình phát triển. Trước tình hình đó, một quốc gia đang phát triển như Việt Nam
không thể đứng ngoài dòng chảy của xu hướng này.
Hội nhập với thế giới, tranh thủ tối đa các cơ hội do toàn cầu hóa mang lại là cách tốt nhất
để giúp Việt Nam rút ngắn con đường phát triển, thu hẹp khoảng cách và từng bước đuổi kịp các
nước tiên tiến về kinh tế. Muốn được như vậy, Việt Nam phải cải tiến hệ thống kế toán cho phù
hợp với thông lệ quốc tế, cung cấp được những thông tin trung thực và đáng tin cậy giúp cho các
nhà đầu tư có niềm tin khi đưa ra quyết định. Tuy nhiên, lộ trình và chiến lược hội tụ kế toán
quốc tế tại Việt Nam vẫn còn chưa rõ nét.
Vì lý do này mà chúng tôi đã chọn đề tài: “Xu hướng hòa nhập và hội tụ kế toán quốc tế
của các quốc gia, bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” làm bài thảo luận của mình.
Bài tiểu luận được chia thành những phần chính sau:
Phần 1: Tổng quan về hệ thống kế toán và xu hướng hòa hợp– hội tụ kế toán quốc tế
Phần 2: Xu hướng hòa nhập và hội tụ kế toán quốc tế của một số quốc gia
Phần 3: Các mô hình hội tụ kế toán trên thế giới
Phần 4: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
2
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI TẠI VIỆT NAM
Quá trình hội tụ kế toán quốc tế ngày càng được sự quan tâm của các tổ chức quốc tế về
kế toán cũng như các quốc gia trên thế giới. Nhiều quốc gia đã chủ động và tích cực tham gia
bằng việc áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IAS/IFRS) trong đó có cả Việt Nam.
Tuy nhiên, viễn cảnh hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực đến thực tiễn là cả một quá trình
đầy thử thách bởi thực trạng việc vận dụng chuẩn mực của các quốc gia và từng khu vực theo
những phương pháp tiếp cận khác nhau. Nên trước tình hình đó, Việt Nam cũng đã có rất nhiều
nghiên cứu liên quan đến “Xu hướng hòa nhập và hội tụ kế toán quốc tế của các quốc gia, bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam” để có thể lựa chọn mô hình hội tụ kế toán cho phù hợp, đưa ra
những lộ trình rõ ràng trong quá trình hội nhập, đáp ứng được sự phát triển kinh tế như:
Ths. Trần Quốc Thịnh, 3/2012. Thách thức của quá trình hội tụ kế toán quốc tế và những
kinh nghiệm cho Việt Nam, sav.gov.vn ( Bài viết này bàn luận về những
thách thức của quá trình hội tụ kê toán tại một vài quốc gia. Từ đó rút ra được bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hội nhập kế toán quôc tế.
Phạm Hoài Hương, Mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế
toán quốc tế, Tạp chí Khoa học và công nghệ, ĐH Đà Nẳng số 52010. Cho biết về mức độ phù
hợp và hài hòa của chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế đang diễn ra như
thế nào. Có những điểm nào phù hợp và chưa phù hợp, biện pháp để khắc phục vấn đề.
Tăng Thu Hà, 2011.Quá trình hòa hợp – hội tụ kế toán quốc tế và phương hướng, giải
pháp của Việt Nam. Luận văn thạc sĩ kinh tế. Trường Đại Học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh.
Đề cương bài giảng “ Lý Thuyết Kế Toán”, 12/2015. Hệ Cao Học. Trường Đại Học Công
Nghiệp Hà Nội. Cung cấp thêm nhiều kiến thức lý thuyết cơ bản về xu hướng hòa nhập và hội tụ
kế toán quốc tế.
Các công trình nghiên cứu đó đã có những đóng góp và đạt được thành tựu nhất định đối
với quá trình hòa nhập và hội tụ kế toán quốc tế củaViệt Nam. Sau đây chúng em xin phép được
đi nghiên cứu và tổng hợp lại, làm sáng tỏ hơn nữa Xu hướng hòa nhập và hội tụ kế toán quốc tế
của các quốc gia,sau đó có thể đưa ra những ý kiến đóng góp về bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam.
3
PHẦN 1.
TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG KẾ TOÁN VÀ XU HƯỚNG HÒA
HỢP HỘI TỤ KẾ TOÁN QUỐC TẾ
1.1.
Định nghĩa về kế toán và chuẩn mực kế toán
1.1.1.
Định nghĩa về kế toán
Theo Neddles, Anderson & Caldwell (2003), Viện Kế toán Công chứng Hoa Kỳ vào năm
1941 khái niệm về kế toán như sau : kế toán là nghệ thuật ghi chép, phân loại và tổng hợp một
cách có ý nghĩa và dưới hình thức bằng tiền các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, các sự kiện mà ít
nhiều có liên quan đến tài chính, và giải trình kết quả của việc ghi chép này. Định nghĩa này của
kế toán chú trọng đến nhiệm vụ giữ sổ sách cố hữu của người kế toán.
Theo điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước Việt Nam thì kế toán được xem là việc ghi chép,
tính toán bằng con số dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động, chủ yếu dưới hình
thức giá trị để phản ánh kiểm tra tình hình vận động của các loại tài sản, quá trình và kết quả sản
xuất kinh doanh, sử dụng vốn của Nhà nước, cũng như của từng tổ chức, xí nghiệp.
Ngày nay, với quan điểm mới, kế toán không chỉ quan tâm đến việc giữ sổ sách mà kế
toán liên quan đến toàn bộ các hoạt động bao gồm việc hoạch định chiến lược, giải quyết vấn
đề về tài chính kế toán và đánh giá tổng quát các hoạt động của doanh nghiệp. Kế toán ngày nay
phải chú trọng việc xử lý thông tin kế toán cho người sử dụng thông tin dù họ ở bên trong hay
bên ngoài doanh nghiệp.
1.1.2.
Định nghĩa về chuẩn mực kế toán
Chuẩn mực kế toán (accounting standards) là những quy định và thủ tục liên quan đến việc
ghi nhận, đo lường, đánh giá và công bố thông tin kế toán.
Theo thông lệ phổ biến ở các quốc gia trên thế giới, cơ quan nghiên cứu và công bố chuẩn
mực kế toán quốc gia thường là các Hiệp hội nghề nghiệp, Bộ tài chính hoặc các tổ chức vừa có
tính chất Nhà nước, vừa có tính nghề nghiệp như:
•
•
•
Ở Anh: Chuẩn mực kế toán do Hội đồng Chuẩn Mực Kế Toán Quốc Tế (IASB) công bố.
Ở Mỹ: Chuẩn mực kế toán do Hội đồng Chuẩn Mực Kế Toán Tài Chính (FASB) ban hành.
Ở Pháp: Chuẩn mực kế toán do Hội đồng Kế Toán quốc gia soạn thảo, Bộ Kinh Tế Tài Chính
•
(CNCC) ban hành.
Ở Việt Nam: Chuẩn mực kế toán do Bộ Tài Chính ban hành.
1.2.
Đặc điểm quá trình hòa hợp – hội tụ kế toán
1.2.1.
Nguyên nhân hòa hợp – hội tụ kế toán
Quá trình toàn cầu hóa cùng sự phát triển nhanh chóng của thị trường vốn quốc tế đòi hỏi
phải nâng cao chất lượng thông tin tài chính, đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư. Do sự khác
nhau về môi trường văn hóa, pháp lý, chính trị, quá trình hình thành và phát triển các hội nghề
nghiệp, mỗi quốc gia đều có các tổ chức thiết lập hệ thống chuẩn mực riêng. BCTC của các quốc
gia khác nhau được lập theo các chuẩn mực khác nhau. Từ đó cung cấp các kết quả khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau. Vì thế yêu cầu phải thiết lập một hệ thống chuẩn mực chung luôn được
xem là vấn đề bức thiết trong bối cảnh thương mại quốc tế hiện nay.
4
1.2.2.
Quá trình hội tụ kế toán quốc tế
Khái niệm “hội tụ” (convergence) lần đầu tiên được IASC (Uỷ ban chuẩn mực kế toán
quốc tế) đề cập đến trong Báo cáo chiến lược của mình năm 1998 và sau đó khái niệm này được
khẳng định trong Hiến chương của IASB (Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế) như một mục
tiêu của tổ chức này. Quá trình hội tụ kế toán quốc tế được chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn từ
năm 1973 đến năm 2001 - Giai đoạn trước hội tụ và giai đoạn từ năm 2001 đến nay - Giai đoạn
hội tụ.
+ Giai đoạn trước hội tụ (1973 - 2001) - giai đoạn hội tụ. Đây là giai đoạn đầu của hòa hợp
kế toán quốc tế, được đánh dấu khi IASC hình thành và kết thúc, chuyển giao vai trò cho IASB.
Ở giai đoạn này, mức độ hòa hợp mới chỉ dừng lại ở việc IASC cho phép các công ty nước ngoài
được phép lựa chọn chuẩn mực kế toán quốc tế thay cho chuẩn mực kế toán quốc gia. Tuy
nhiên, trong giai đoạn này, sự hình thành của IASC xảy ra cùng lúc với quá trình hội tụ kế toán
quốc tế và chưa thành công trong việc thay đổi các chuẩn mực kế toán hiện tại hoặc ban hành các
chuẩn mực mới. Các công ty đa quốc gia chưa áp dụng nhiều các quy định của Chuẩn mực kế
toán quốc tế.
+ Do đó, đến năm 2001, IASC tiến hành tái cấu trúc để hình thành Hội đồng chuẩn mực kế
toán quốc tế (IASB) với mục tiêu nhằm thúc đẩy quá trình hòa hợp kế toán. Theo đó, thuật ngữ
“hội tụ” bắt đầu được chính thức sử dụng để thay thế cho thuật ngữ “hòa hợp” trước đây. Trong
giai đoạn này, IASB đã tiến hành chỉnh sửa, xem xét lại các Chuẩn mực BCTC hiện hành và ban
hành mới dưới tên chuẩn mực BCTC quốc tế. Hội tụ kế toán trong giai đoạn này không chỉ dừng
lại trong các quy định mà còn thể hiện sâu sắc trong thực tế. Từ năm 2005, việc áp dụng Chuẩn
mực BCTC trong việc lập và trình bày BCTC trở nên phổ biến hơn ở các nước Hoa Kỳ, Hàn
Quốc, Canada, Nga, Mexico, Trung Quốc,... Tuy nhiên, mức độ tuân thủ giữa các quốc gia là
không giống nhau.
1.2.3 Đặc điểm của quá trình hòa hợp – hội tụ kế toán quốc tế
- Nguyên nhân hòa hợp - hội tụ kế toán quốc tế: Quá trình toàn cầu hóa cùng với sự phát
triển nhanh chóng của thị trường vốn quốc tế đòi hỏi phải nâng cao chất lượng thông tin tài
chính, đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư. Do sự khác nhau về môi trường văn hóa, hệ thống
pháp lý, chính trị, quá trình hình thành và phát triển các hội nghề nghiệp, mỗi quốc gia đều có
các tổ chức thiết lập hệ thống chuẩn mực riêng. Báo cáo tài chính của các quốc gia khác nhau
được lập theo các chuẩn mực khác nhau. Từ đó cung cấp các kết quả khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau. Vì thế yêu cầu phải thiết lập một hệ thống chuẩn mực kế toán “chuẩn” luôn được
xem là một vấn đề vô cùng bức thiết trong bối cảnh thương mại quốc tế hiện nay.
- Mặc dù IASB đã ban hành rộng rãi các chuẩn mực kế toán quốc tế, thế nhưng việc áp
dụng toàn văn thường gặp rất nhiều khó khăn. Vì thế chỉ có thể vận dụng các chuẩn mực kế toán
quốc tế và điều chỉnh cho thích hợp với bối cảnh của từng quốc gia.
5
PHẦN 2. CÁC MÔ HÌNH HỘI TỤ KẾ TOÁN TRÊN THẾ GIỚI
Như vậy, có thể thấy rằng hội tụ kế toán là đòi hỏi mang tính tất yếu với tất cả các quốc
gia. Mỗi một quốc gia có quá trình và phương thức hội tụ khác nhau. Song tựu chung lại, có 3
phương thức hội tụ kế toán quốc tế chủ yếu: Mô hình hội tụ toàn bộ, mô hình hội tụ theo hướng
tiệm cận và mô hình hội tụ từng phần.
6
2.1. Mô hình hội tụ toàn bộ
Đây là mô hình mà các quốc gia chuyển hẳn sang sử dụng hệ thống chuẩn mực BCTC
quốc tế và chấp nhận hệ thống khuôn mẫu lý thuyết này cho việc lập và trình bày BCTC.
Các quốc gia lựa chọn mô hình này gồm Singapore và Philippines. Tuy nhiên, cho đến nay
việc chấp nhận toàn bộ chuẩn mực BCTC quốc tế tại các quốc gia này vẫn chưa hoàn thành.
Theo mô hình này, Hội đồng chuẩn mực BCTC quốc gia giám sát hoạt động của ISAB, tham gia
quá trình góp ý các dự thảo của IFRS và khi chúng được ban hành bởi ISAB thì cũng đồng thời
được công nhận là chuẩn mực BCTC quốc gia. Hội đồng chuẩn mực BCTC quốc gia, được thành
lập để hướng dẫn việc áp dụng chuẩn mực BCTC trên phạm vi quốc gia. Mô hình này giúp tiết
kiệm chi phí và thời gian cho việc soạn thảo và ban hành chuẩn mực, thông tin tài chính cung
cấp sử dụng được trên phạm vi toàn cầu. Từ đó, nâng cao chất lượng thông tin và khả năng tiếp
cận với thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, mô hình này gây cản trở vì sự khác biệt ngôn ngữ và mức độ phù hợp giữa các
quốc gia khác nhau là không như nhau.
2.2. Mô hình hội tụ theo hướng tiệm cận
Đây là mô hình hội tụ kế toán mà các quốc gia không vận dụng toàn bộ chuẩn mực
BCTC quốc tế mà tiến hành sửa đổi, bổ sung chuẩn mực BCTC cho phù hợp với quốc gia mình.
Các quốc gia lựa chọn mô hình này, gồm có: Thái Lan, Indonesia. Song chưa hoàn thành lộ
trình hội tụ. Hoạt động theo mô hình này, hệ thống chuẩn mực BCTC được sửa đổi, điều chỉnh
cho phù hợp với tình hình thực tế của quốc gia mình. Chuẩn mực kế toán quốc gia được Liên
đoàn Kế toán quốc tế ban hành và hướng dẫn sử dụng. Mô hình này hạn chế được những nhược
điểm của mô hình hội tụ toàn phần, là mức độ phù hợp với điều kiện thực tiễn của các quốc gia
cao hơn. Tuy nhiên, áp dụng mô hình hội tụ này, các quốc gia phải mất một khoảng thời gian khá
dài và tốn kém chi phí.
2.3. Mô hình hội tụ từng phần
Hội tụ từng phần là phương thức hội tụ được thực hiện cho từng đối tượng khác nhau.
Trung Quốc, Mỹ, Pháp, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,... là những quốc gia tuyên bố áp dụng
mô hình hội tụ này.
Theo mô hình này, việc vận dụng chuẩn mực BCTC quốc tế được quy định áp dụng đối
với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Các công ty có quy mô lớn hoặc các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Tài chính, Bảo hiểm,... Còn lại các doanh nghiệp có quy
mô vừa và nhỏ áp dụng hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia. Áp dụng mô hình này, HTKT
quốc gia chịu sự ảnh hưởng của Chuẩn mực BCTC quốc tế, song vẫn tồn tại hệ thống chuẩn mực
kế toán quốc gia, đã dẫn đến thực trạng hội tụ kế toán không đồng đều.
Tuy nhiên, đây là mô hình phù hợp với xu thế hội tụ kế toán quốc tế hiện nay.
7
PHẦN 3. XU HƯỚNG HÒA NHẬP VÀ HỘI TỤ KẾ TOÁN QUỐC TẾ CỦA MỘT
SỐ QUỐC GIA
Hội tụ kế toán quốc tế đang trở thành một trong những vấn đề nhận được sự quan tâm lớn
từ các quốc gia trên thế giới. Nhờ có quá trình hội tụ kế toán quốc tế mà thông tin được cung cấp
một cách nhanh chóng, kịp thời và đáp ứng được yêu cầu có thể so sánh được giữa các quốc gia.
Chính vì thế, mục tiêu hội tụ quốc tế đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở các quốc gia.
8
3.1. Nước Úc
Úc đã có những bước chuẩn bị nhất định cho việc chuyển đổi từ CMKT Úc sang
IAS/IFRS từ năm 2002 và Úc đã chính thức chuyển sang áp dụng IAS/IFRS từ ngày 01.01.2005.
Úc là một trong những quốc gia đầu tiên áp dụng IAS/IFRS. Tuy nhiên, Hội đồng chuẩn mực kế
toán của Úc (AASB) đã xem xét việc ban hành IAS/IFRS tại riêng quốc gia. Theo đó, CMKT Úc
đã có sự chỉnh sửa cho tương thích với môi trường pháp lý và những đặc điểm riêng biệt để phù
hợp với Úc. CMKT Úc không đơn thuần là IAS/IFRS mà bản chất đã có sự thay đổi theo hình
thức A-IAS/IFRS (IAS/IFRS đã được chuyển đổi theo Úc). Sự điều chỉnh của A-IAS/IFRS bao
gồm những thay đổi trong việc lựa chọn được ban hành theo IAS/IFRS và bổ sung những hướng
dẫn và thay đổi một số thuật ngữ khác so với IAS/IFRS. Chính sự điều chỉnh, bổ sung này dẫn
đến A-IAS/IFRS không nhất quán với IAS/IFRS. Việc áp dụng IAS/IFRS theo phương cách
trung lập A-IAS/IFRS của Úc đã tạo nên nhiều khác biệt không chỉ trong hệ thống CMKT mà
ngay cả các công ty khi áp dụng vào thực tế.
Mặc dù Úc chấp nhận toàn bộ các chuẩn mực theo IAS/IFRS nhưng Úc vẫn có những điều
chỉnh nhất định cho phù hợp với đặc điểm riêng của quốc gia. Việc xây dựng CMKT quốc gia
như Úc là một hướng tiếp cận riêng, thể hiện chính sách trung lập trong việc thực thi CMKT
quốc tế.
3.2. Nước Mỹ
Mỹ là quốc gia có nền kinh tế mạnh và có sức ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thế giới và xu
hướng hội tụ kế toán quốc tế. Bên cạnh đó, Mỹ là quốc gia thành viên sáng lập IASC, chính vì
thế hội tụ kế toán tại Mỹ diễn ra mạnh mẽ. Khi thương mại quốc tế phát triển Mỹ đã đặt ra đòi
hỏi việc so sánh BCTC của các quốc gia với Mỹ. Năm 1966, các quốc gia thuộc Anglo Saxon đã
có ý định hình thành một nhóm nghiên cứu quốc tế cùng với các thành viên từ Hội Kế toán viên
chứng Mỹ, Anh và xứ Wales. Khởi đầu của quá trình hợp tác kế toán đó là dự án đầu tiên của
FASB (Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ). Năm 2002 thỏa thuận Norwalk ký kết
giữa IASB và FASB, xác định sự hợp tác giữa hai tổ chức nhằm xây dựng một bộ chuẩn mực kế
toán quốc tế chất lượng cao toàn cầu, mở đàu cho một kỷ nguyên mới của quá trình hội tụ kế
toán quốc tế.
Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ (SEC) thực hiện một số động thái nhằm giúp IFRS (Chuẩn
mực báo cáo tài chính quốc tế) được chấp nhận toàn cầu, cho phép các công ty nước ngoài bán
chứng khoán tại Mỹ nộp BCTC sử dụng IFRS. Đến 2008, SEC quyết định chấp nhận sử dụng
IAS/IFRS và lộ trình này là cơ sở để hình thành một chuẩn mực toàn cầu.
3.3. Nước Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia thuộc châu Á với nền kinh tế phát triển và HTKT có ảnh hưởng
không nhỏ đến HTKT Việt Nam.
9
Bộ Tài chính (BTC) Trung Quốc bắt đầu thiết lập CMKT từ năm 1988. Cuối năm 1992,
BTC đã phát triển chuẩn mực cơ bản của kế toán cho hoạt động doanh nghiệp (tương tự khuôn
mẫu lý thuyết). Điều này đánh dấu sự kiện trong cải cách kế toán của Trung Quốc, bãi bỏ hệ
thống kế toán truyền thống và sử dụng chuẩn mực quốc tế. Sau đó, khuôn mẫu lý thuyết ban
hành năm 1992 được thay thế bởi 16 CMKT và những qui định khác như hệ thống kế toán cho
hoạt động doanh nghiệp (ASBE) ban hành 2001. Mục đích của ASBE là so sánh thông tin tài
chính, hạch toán tách biệt giữa thuế và kế toán, đảm bảo hội nhập với thực hành kế toán được
chấp nhận bởi quốc tế. Tuy nhiên, trước sức ép hội nhập kinh tế thế giới, Trung Quốc đã chấp
nhận xây dựng hệ thống CMKT mới theo hướng hội tụ kế toán quốc tế trên cơ sở IAS/IFRS gồm
38 CMKT có hiệu lực từ ngày 1.1.2007. Việc chuyển đổi chuẩn mực Trung Quốc gần với
IAS/IFRS nhưng chuẩn mực mới không phải dịch lại theo IAS/IFRS mặc dù vẫn dựa trên nền
tảng, nguyên tắc cơ bản. Nhìn chung, xét về hệ thống chuẩn mực, CMKT Trung Quốc đã hình
thành trên nền tảng của IAS/IFRS.
Tuy nhiên, giữa CMKT Trung Quốc và IAS/IFRS có những điểm khác biệt rõ rệt, cụ thể
CMKT Trung Quốc không phát triển và áp dụng đầy đủ giá trị hợp lý, yêu cầu công bố các bên
liên quan được chỉnh sửa lại cũng như không thực hiện đánh giá tổn thất tài sản. Trong nghiên
cứu của Jean Jinghan Chen and Peng Cheng (2007), về mức độ hội tụ của CMKT Trung Quốc và
IAS/IFRS trong thực tế đi đến kết luận rằng Trung Quốc chỉ hội tụ về hình thức vì CMKT Trung
Quốc được che đậy bên ngoài với IAS/IFRS nhưng thực chất Trung Quốc vẫn áp dụng chính
sách kế toán doanh nghiệp. Trong nghiên cứu của Tymothy Doupnik, Hector Perera (2007) nhìn
nhận rằng phương cách tiếp cận của Trung Quốc mang tính “đối phó” giữa IAS/IFRS và thực tế.
Phương pháp tiếp cận này thực chất chỉ là hội tụ bên ngoài, được che đậy bởi hệ thống CMKT
quốc tế nhưng thực tế Trung Quốc không vận dụng theo những nguyên tắc chuẩn mực mà vẫn
thực thi chính sách kế toán doanh nghiệp. Qua đó cho thấy, một thời gian dài Trung Quốc đã vận
dụng “chiến thuật” nhằm thích ứng dần với những cải cách trong hệ thống kế toán quốc gia. Bản
chất thận trọng vẫn được quan tâm trong việc thực thi chính sách kinh tế toàn cầu.
Trước sức ép ngày càng gia tăng từ các tổ chức quốc tế, đặc biệt trong hội nghị nhóm các
quốc gia phát triển (G20) được tổ chức tại London tháng 4.2009, theo đó Trung Quốc phải xây
dựng lộ trình hội tụ đầy đủ CMKT quốc tế. Trong báo cáo dự thảo của Ngân hàng thế giới được
công bố tháng 10.2009 về lộ trình và tiếp tục hội tụ đầy đủ giữa ASBE với IAS/IFRS. Theo báo
cáo, nhìn chung ASBE về cơ bản đã đáp ứng hội tụ CMKT quốc tế nhưng CMKT phải được hội
tụ một cách toàn diện và đầy đủ. Đồng thời, ASBE cam kết giai đoạn chuyển đổi từ 2009 đến kết
thúc 2011 và đã lên chương trình những nội dung cơ bản cho lộ trình hội tụ đầy đủ.
Gần đây, BTC của Trung Quốc tuyên bố quốc gia này áp dụng đầy đủ theo IFRS nhưng có
một số loại trừ. Đồng thời BTC cho biết tất cả các công ty có qui mô lớn và vừa sẽ phải áp dụng
theo CMKT từ năm 2012.
10
Nhìn chung, hội tụ kế toán quốc tế là hướng đi tích cực của các quốc gia trên thế giới. Những ích
lợi từ việc sử dụng ngôn ngữ kinh tế chung toàn cầu đã giải quyết được bài toán thống nhất
thông tin trình bày trên BCTC của các quốc gia, đáp ứng xu hướng toàn cầu hóa kinh tế. Nhiều
quốc gia và khu vực kinh tế thế giới đang hướng tới chuẩn mực quốc tế và tích cực ủng hộ, tham
gia, chung tay góp sức trong việc xây dựng chuẩn mực quốc tế thành chuẩn mực toàn cầu chất
lượng cao. Tuy nhiên, viễn cảnh hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực đến thực tiễn là cả một quá
trình đầy thử thách bởi thực trạng việc vận dụng chuẩn mực quốc tế vào chính các quốc gia và
từng khu vực theo những phương pháp tiếp cận khác nhau, điển hình có quốc gia áp dụng
nguyên bản IAS/IFRS như Úc nhưng có chỉnh sửa, bổ sung thể hiện chính sách trung lập trong
quá trình thực thi; có quốc gia áp dụng IAS/IFRS mang tính hình thức như Trung Quốc, được thể
hiện bên ngoài là IAS/IFRS nhưng thực tế vẫn thực thi chế độ, chính sách kế toán doanh nghiệp;
và lại có quốc gia hình thành những “sức ép” về kinh tế, chính trị như Mỹ nhằm đạt đến sự hội tụ
CMKT quốc tế nhưng “có điều kiện”. Mặc dù viễn cảnh hội tụ kế toán quốc tế còn nhiều cản trở
và khó khăn phải hướng tới để đạt được mục tiêu chung nhưng hội tụ kế toán quốc tế là xu thế
tất yếu khách quan trong tiến trình quốc tế hóa kinh tế.
PHẦN 4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
4.1. Khái quát về hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam
Ở Việt Nam, do đặc điểm phát triển nền kinh tế, Luật kế toán và các chế độ kế toán đã quy
định một số vấn đề mang tính chất chuẩn mực nhưng chưa đầy đủ, đồng bộ và chưa phù hợp với
thông lệ và chuẩn mực kế toán quốc tế. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng gặp rất nhiều khó
khăn trong việc tổ chức công tác kế toán, công tác kiểm tra vận dụng những cách khác nhau,
thiếu cơ sở khẳng định khi đưa ra nhận xét đúng, sai.
Việc xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia cho Việt Nam là vấn đề vô cùng cần
thiết để tạo dựng một hành lang pháp lý cho hoạt động kế toán, đồng thời cũng là đòi hỏi của quá
trình hội nhập quốc tế và khu vực.
11
4.2. Những thành quả và tồn tại trong quá trình xây dựng hệ thống chuẩn mực kế
toán Việt Nam
4.2.1. Thành quả
-
Những đổi mới trong hệ thống kế toán Việt Nam nói trên đã từng bước đáp ứng được nhu cầu
quản lý ngày càng cao đối với hoạt động kinh tế tài chính ngày càng phức tạp, phong phú và đa
-
dạng của nền kinh tế nói chung và tiến trình mở cửa, hội nhập nói riêng.
Đã tạo lập được khuôn khổ pháp lý về kế toán và kiểm toán cho sự vận hành và hoạt động nghề
nghiệp. Đặc biệt, từ năm 2001 đến nay, sau khi nghiên cứu chuẩn mực kế toán quốc tế, học tập
kinh nghiệm của các nước trong khu vực, trong khuôn khổ pháp luật, phù hợp với yêu cầu quản
lý, yêu cầu hội nhập quốc tế, Bộ Tài Chính đã ban hành và công bố năm đợt (26 chuẩn mực kế
toán) và hướng dẫn thực hiện từng đợt bằng các Thông tư. Hệ thống kế toán đã được đổi mới và
-
tiếp cận dần với nguyên tắc, thông lệ và chuẩn mực kế toán thế giới và khu vực
Chế độ kế toán doanh nghiệp mới xây dựng trên nguyên tắc hệ thống và cập nhật các quy định
-
mới nhất của Luật kế toán
Đội ngũ hành nghề kế toán được đào tạo có hệ thống và có kinh nghiệm trong hoạt động nghề
nghiệp.
4.2.2. Tồn tại
-
Hệ thống chuẩn mực kế toán ban hành chưa đầy đủ và vẫn còn nhiều khác biệt, chưa thực sự phù
-
hợp với quốc tế.
Việc áp dụng hệ thống chuẩn mực Việt Nam chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp lớn. Các doanh
nghiệp vừa và nhỏ vẫn chủ yếu làm kế toán theo định hướng thuế nhiều hơn là tuân thủ theo hệ
-
thống chuẩn mực kế toán đã ban hành.
Hệ thống kế toán Việt Nam còn mang tính thống nhất cao, một số quy định, hướng dẫn còn mang
-
tính cứng nhắc, làm giảm tính linh hoạt trong chuyên môn, nghiệp vụ.
Hệ thống các văn bản pháp lý về kế toán tuy đã được liên tục sửa đổi nhưng các văn bản này vẫn
-
thường có sự mâu thuẫn hoặc ban hành chậm trễ, sửa đổi chưa kịp thời.
Hệ thống kế toán lai tạp, trong khi hệ thống các chuẩn mực mới đang được soạn thảo và thực thi
thì hệ thống cũ vẫn còn hiệu lực. Điều này khiến cho hệ thống kế toán trở nên lẫn lộn.
4.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Đứng trước yêu cầu của hội tụ kế toán quốc tế, Việt Nam đã và đang hoàn thiện HTKT,
kiểm toán. Từ năm 2006 cho đến nay, Việt Nam đã ban hành 26 chuẩn mực kế toán dựa trên
chuẩn mực BCTC và điều kiện thực tiễn của mình. Tuy nhiên, HTKT Việt Nam chịu sự chi phối
khá cao của các quy định về thuế, sự đan xen giữa Chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán.
Đồng thời Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế thị trường còn khá non trẻ.
Thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây có những chuyển biến, đặc biệt là
thị trường chứng khoán đã có những bước phát triển nhất định, song trình độ phát triển và
quy mô còn rất hạn chế. Mức độ lạm phát được kiểm soát, ổn định. Hệ thống pháp luật
12
Việt Nam dựa trên điể n luậ t, do vậy, Nhà nước giữ vai trò quyết định trong hệ thống kế toán
quốc gia. Thuế và các chính sách tài chính vẫn có những chi phối nhất định đến kế toán. Về
văn hóa, Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều theo văn hóa Á Đông, trong một chừng mực nào
đó, tính thận trọng, sự tuân thủ các qui định được đề cao, hạn chế những vấn đề mang tính
xét đoán.
Nhà nước ta cần xây dựng một chiến lược và phương hướng hội tụ kế toán quốc tế một
cách cụ thể. Trên cơ sở nghiên cứu về quá trình hội tụ của một số quốc gia tiêu biểu và nghiên
cứu các mô hình hội tụ kế toán quốc tế của Việt Nam như sau:
•
Thứ nhất, Việt Nam nên lựa chọn mô hình hội tụ kế toán quốc tế từng phần.
Từ đặc điểm của các mô hình, kinh nghiệm của các quốc gia trong hội nhập với chuẩn
mực BCTC quốc tế, cũng như đặc điểm của các yếu tố môi trường Việt Nam, Việt Nam nên
lựa chọn mô hình hội tụ kế toán quốc tế từng phần trong xác định phương thức và lộ trình hội
nhập với chuẩn mực BCTC quốc tế, cũng như xây dựng và hoàn thiện nguyên tắc, tiêu chuẩn và
nội dung soạn thảo và trình bày BCTC doanh nghiệp Việt Nam.Đây là mô hình hội tụ phù hợp
với điều kiện kinh tế, khả năng ngoại ngữ, trình độ của thị trường lao động và sự phát triển của
thị trường chứng khoán Việt Nam. Với mô hình này, Việt Nam có khả năng thực hiện được song
song 2 hệ thống chuẩn mực: Chuẩn mực BCTC quốc tế và chuẩn mực kế toán quốc gia. Đối với
các công ty niêm yết, các công ty đại chúng, các công ty bảo hiểm, tổ chức tín dụng, tổng công
ty Nhà nước cần quy định bắt buộc áp dựng chuẩn mực BCTC trong việc lập và trình bày BCTC.
Còn đối với các đối tượng khác, do nghiệp vụ kinh tế tài chính chưa phức tạp, nhu cầu thông tin
có thể so sánh được trên phạm vi quốc tế chưa cao, các yêu cầu về pháp lý, kinh tế, văn hóa, xã
hội và trình độ tiếng Anh còn hạn chế thì đây là lộ trình tương đối phù hợp để Việt Nam hội nhập
quá trình hội tụ kế toán quốc tế.
Một số đặc điểm của việc áp dụng mô hình này ở Việt Nam như sau :
- Không thể áp dụng ngay toàn bộ IAS/IFRS cho hệ thống kế toán Việt Nam, do những
điều kiện về chế độ chính trị, hệ thống pháp luật và mức độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam
hiện nay
- Cần thiết xây dựng một chiến lược, xác định lộ trình cho quá trình hội nhập với chuẩn
mực BCTC quốc tế. Nội dung của chiến lược cần thể hiện tính chủ động và thận trọng trong
hội nhập. Trong điều kiện hiện nay, việc áp dụng có chọn lọc chuẩn mực BCTC quốc tế có thể
xem là sự lựa chọn phù hợp. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hệ thống chuẩn mực kế toán quốc
gia cần phù hợp với đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và áp dụng được IAS/IFRS
càng nhiều càng tốt.
•
Thứ hai, Việt Nam cần xây dựng một lộ trình hội tụ kế toán cụ thể.
Việc xây dựng một lộ trình cụ thể có ý nghĩa lớn cho một quốc gia đang dần hội nhập với
quá trình hội tụ kế toán quốc tế như Việt Nam. Theo đó, việc xây dựng lộ trình hội tụ giúp chúng
13
ta có căn cứ quan trọng để đánh giá những thành quả đạt được và xây dựng mục tiêu của từng
giai đoạn. Lộ trình này có thể được xây dựng, lên hế hoạch một cách cụ thể cho từng giai đoạn,
bắt đầu từ việc hoàn chỉnh chuẩn mực kế toán Việt Nam, chuẩn bị hội tụ với chuẩn mực BCTC
quốc tế. Qúa trình thực hiện hội tụ thường xuyên phải được tổng kết đánh giá những mặt đạt
được, những mặt còn hạn chế để có biện pháp khắc phục kịp thời, tránh tình trạng mất phương
hướng và dẫn đến thất bại như một số quốc gia.
•
Thứ ba, Việt Nam cần xây dựng bộ chuẩn mực kế toán áp dụng riêng cho các doanh nghiệp
ngoài các doanh nghiệp áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế. Đó là nhóm các doanh nghiệp có
quy mô vừa và nhỏ. Nhóm doanh nghiệp này có số lượng các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát
sinh ít, bản chất nghiệp vụ đơn giản nên nếu áp dụng cùng bộ chuẩn mực BCTC quốc tế thì quá
phức tạp và không phù hợp. Mặt khác, do điều kiện về năng lực của kế toán viên của nhóm
doanh nghiệp này còn hạn chế nên khả năng vận dụng chuẩn mực BCTC quốc tế là hết sức khó
•
khăn.
Thứ tư, Việt Nam cần nâng cao vai trò của các Hiệp Hội ngành nghề kế toán, kiểm toán. Theo
thông lệ quốc tế, việc ban hành các chuẩn mực kế toán được chuyển giao cho các tổ chức, hội
hành nghề kế toán, kiểm toán. Việc làm này sẽ có hiệu quả hơn, bởi đây là những người có kinh
nghiệm thực tiễn và là người trực tiếp triển khai, vận dụng các chuẩn mực kế toán vào cuộc
sống. Trong khi đó, hiện nay việc ban hành chuẩn mực kế toán Việt Nam do Bộ Tài chính thực
hiện mà chưa có sự góp mặt của các Hội Nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, các kiểm toán viên
cũng như của các doanh nghiệp. Vì thế, trong thời gian tới Việt Nam cần nâng cao vai trò của các
hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán cũng như đóng góp ý kiến của các kế toán, kiểm toán viên
trong việc vận dụng các chuẩn mực BCTC quốc tế đối với các doanh nghiệp niêm yết, các công
ty bảo hiểm, tổ chức tín dụng, ngân hàng,... và trong việc ban hành bộ chuẩn mực kế toán quốc
•
gia áp dụng riêng cho các doanh nghiệp còn lại.
Thứ năm, Việt Nam cần không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo kế toán. Để có thể hội nhập
với quốc tế về kế toán thì yếu tố đầu tiên mà Việt Nam cần quan tâm đặc biệt tới chính là nguồn
nhân lực kế toán. Một trong những lý do Việt Nam không phù hợp với các mô hình hội tụ khác
chính là hạn chế về năng lực của đội ngũ kế toán viên. Việc vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế
yêu cầu người lao động kế toán phải có kiến thức tốt, trình độ tiếng Anh giỏi. Trong khi đó, thực
trạng đào tạo nhân lực kế toán của chúng ta hiện nay nghiêng về mặt đào tạo theo “Chế độ kế
toán”, trang bị kiến thức mang tính chất hình thức mà không phải hướng tiếp cận theo bản chất.
14
KẾT LUẬN
Như vậy, hội tụ kế toán là quá trình tất yếu của quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Nó
mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia trong việc thúc đẩy đầu tư và thương mại quốc tế. Chính
vì thế, các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng đang không ngừng tìm kiếm các giải pháp
nhằm đáp ứng được xu thế hội tụ kế toán trên thế giới.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, song vẫn còn nhiều tồn tại, để vượt qua
những thử thách hiện nay, chúng ta cần phải nghiên cứu và xây dựng một chiến lược mới. Chiến
lược mới được dựa trên thực tiễn quốc gia và tham khảo bài học kinh nghiệm của các nước trên
thế giới. Do đó, từng bước xây dựng lộ trình cũng như hoàn thiện HTKT Việt Nam để hội tụ kế
toán thế giới là yêu cầu cấp thiết.
Do còn nhiều hạn chế về kiến thức và thời gian nghiên cứu nên bài trình bày chắc chắn
không tránh khỏi thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành từ phía
cô.
15
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính, 2000. Quyết định 38/2000/QĐ-BTC, ngày 14/3/2000 về việc ban hành và
công bố áp dụng hệ thống chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán.
2 .Đề cương bài giảng “ Lý Thuyết Kế Toán”, 12/2015. Hệ Cao Học. Trường Đại Học
Công Nghiệp Hà Nội
3. Tăng Thu Hà, 2011.Quá trình hòa hợp – hội tụ kế toán quốc tế và phương hướng, giải
pháp của Việt nam. Luận văn thạc sĩ kinh tế. Trường Đại Học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh.
4. Ths. Trần Quốc Thịnh,3/2012. Thách thức của quá trình hội tụ kế toán quốc tế và những kinh
nghiệm cho Việt Nam, sav.gov.vn ( />5. Phạm Hoài Hương, Mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán
quốc tế, Tạp chí Khoa học và công nghệ, ĐH Đà Nẳng số 52010.
16