Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN CHÍNH TRỊ học NÂNG CAO mối quan hệ giữa đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị với xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.12 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền luôn
được thể hiện ở một hệ thống thể chế và tổ chức nhất định, đó là hệ thống
chính trị. Về cơ bản hệ thống chính trị nước ta cũng được tổ chức theo những
mô hình phổ biến của hệ thống chính trị các nước trên thế giới. Hệ thống
chính trị nước ta là cơ chế, là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, chế độ của dân, do dân và vì dân.
Thực tế cho thấy, hệ thống chính trị nước ta trong quá trình đổi mới,
kiện toàn đã đạt được nhiều thành tựu trong việc phát huy dân chủ như đã
động viên, tạo mọi điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ…Tuy
nhiên, bên cạnh những tác động tích cực của hệ thống chính trị, trong quá
trình thực hiện và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều hạn
chế như chưa thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thậm chí còn có
những biểu hiện vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Một trong những
nguyên nhân này là do chúng ta chưa làm rõ được mối quan hệ giữa đổi mới,
kiện toàn hệ thống chính trị với xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Do đó, với mong muốn góp phần làm rõ hơn mối quan hệ này, là một
học viên tôi xin chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa đổi mới, kiện toàn hệ thống
chính trị với xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” làm đề tài nghiên cứu.


Chương 1.
Những vấn đề chung về hệ thống chính trị và dân chủ
1.1 Những vấn đề chung về hệ thống chính trị
1.1.1 Khái niệm hệ thống chính trị và hệ thống chính trị ở Việt Nam
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền luôn
được thể hiện ở một hệ thống thể chế và tổ chức nhất định, đó là hệ thống
chính trị.
Hệ thống chính trị là một phạm trù dùng để chỉ một chỉnh thể bao gồm


các đảng chính trị hợp pháp, nhà nước của chủ thể cầm quyền và các tổ chức
chính trị - xã hội hợp pháp cùng quan hệ giữa các yếu tố đó để tác động vào
quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát triển chế độ
xã hội đương thời.
Từ những vấn đề trên, có thể định nghĩa: Hệ thống chính trị là tổ hợp
có tính chỉnh thể gồm các thể chế chính trị được xây dựng trên các quyền và
các chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận
hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể nhằm thực thi quyền
lực chính trị.
Ở Việt Nam, hệ thống chính trị là khái niệm được Hội nghị Trung ương
6 khoá VI của Đảng (3/1989) đưa ra để thay cho khái niệm chuyên chính vô
sản đã được dùng phổ biến trong thời kỳ trước đổi mới. Nó phù hợp với với
xu thế của thời đại, vừa đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động của các yếu tố
cấu thành hệ thống chính trị theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Hệ thống chính
trị của xã hội ta là hệ thống các tổ chức chính trị – xã hội trụ cột của nền
chính trị xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thông qua hệ thống chính trị,
nhân dân lao động thực thi quyền lực của mình trong xã hội. Mục tiêu tổng
quát của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta là
“nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.


Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội,
trong đó Đảng giữ vai trò là hạt nhân lãnh đạo.
1.1.2 Một số đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta
Về cơ bản hệ thống chính trị nước ta cũng được tổ chức theo những mô
hình phổ biến của hệ thống chính trị các nước trên thế giới. Mặc khác, hệ
thống chính trị nước ta cũng có những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, hệ thống chính trị nước ta do duy nhất một đảng - Đảng

Cộng sản lãnh đạo.
Thứ hai, hệ thống chính trị nước ta về cơ bản là hệ thống chính trị được
xây dựng theo mô hình Xô Viết, đang trong quá trình đổi mới toàn diện.
Thứ ba, nền hành chính nhà nước, một bộ phận quan trọng còn non trẻ,
hầu như không kế thừa được gì từ nền cai trị thực dân – phong kiến, bị ảnh
hưởng nặng của mô hình tập trung quan liêu cao độ, nhiều năm điều hành
chiến tranh, lại phải quản lý đất nước thực hiện những nhiệm vụ lịch sử mới
mẻ và to lớn.
Nói cách khác, chúng ta đang cố gắng xây dựng hệ thống chính trị hiện
đại, dân chủ - pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhưng nền tảng kinh tế - xã hội
còn thấp kém. Từ đó đặt ra nhiều khó khăn và thách thức cho quá trình đổi
mới hệ thống chính trị ở nước ta.
1.2 Những vấn đề chung về dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.1 Một số quan niệm về dân chủ
Dân chủ tiếng Hy Lạp là: Demoskratia, Demokratia: Nghĩa là quyền
lực của nhân dân. Người Hy Lạp cổ đại quan niệm dân chủ là một hình thức
cai trị, một hình thức chính phủ trong đó quyền lực tập trung vào tay nhân dân
(vào tay Demos với nghĩa là tầng lớp bình dân, nghèo, chiến số đông). Nói
cách khác, dân chủ là chế độ số đông bình dân, nghèo trong xã hội là người
cai trị.


Phạm trù dân chủ có một lịch sử tiến hoá lâu dài, cho đến nay phạm trù
này vẫn được khám phá và mỗi lần như vậy “dân chủ” được hiểu sâu sắc hơn,
đầy đủ hơn, những giá trị của dân chủ càng được khai thác thiết thực hơn và
tích cực hơn trong cuộc sống con người.
* Quan niệm của Mác – Ăngghen, Lênin về dân chủ và nền dân chủ
Theo các ông, dân chủ trước hết và cuối cùng là “chế độ dân chủ” với
tư cách là một giá trị xã hội, một hệ thống quyền lực nhà nước để thực hiện
quyền con người, quyền công dân, quyền cộng đồng, quyền dân tộc…Đặc

biệt, quyền của giai cấp bị áp bức bóc lột trong chế độ tư bản chủ nghĩa – giai
cấp vô sản.
Mác cho rằng: Dân chủ là chính quyền của nhân dân. Và Lênin cũng
quan niệm: Dân chủ là một hình thái của nhà nước, nghĩa là cũng có nhà nước
dân chủ, cũng có nhà nước không dân chủ. Dân chủ là tự do, là bình đẳng, là
quyết định theo của đa số; còn có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết định của
đa số nữa. Dân chủ thì quyết định theo đa số của mọi công dân, quyết định
bằng cách biểu quyết, đó là thực chất của dân chủ hoà bình hoặc dân chủ
thuần tuý…
Bên cạnh đó, Chủ nghĩa Mác – Lênin còn quan niệm rằng: chuyên
chính vô sản và dân chủ XHCN về căn bản là thống nhất. Từ Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta, chuyên chính vô sản được gọi là nền dân
chủ XHCN. Nền dân chủ là một chế độ xã hội mà ở đó dân chủ với nghĩa là
toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Điều đó trở thành mục tiêu của sự phát
triển xã hội và được thực hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
* Hồ Chí Minh quan niệm về dân chủ và chế độ dân chủ XHCN
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ có nghĩa là: dân là chủ, dân làm chủ và
dân chủ là toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Quan niệm về dân: không
phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, trai gái, trẻ già,…Mọi quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều
của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân; dễ trăm lần


không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong. Muốn phát huy được
sức mạnh nhân dân phải đoàn kết toàn dân.
Như vậy, dân chủ được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa hẹp, dân chủ là
quyền lực thuộc về nhân dân; nghĩa rộng, dân chủ là chế độ chính trị, chế độ
nhà nước. Thực chất nhất của dân chủ là quyền lực thuộc về dân.
Về chính trị, Hồ Chí Minh chỉ rõ: chế độ dân chủ XHCN thì bao nhiêu
quyền lực là của dân, sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Chế độ dân chủ XHCN, nhà nước XHCN…thực chất là của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân được quyền làm chủ nhà nước bằng cách
có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy chính quyền các cấp,
tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ nhà
nước.
* Quan niệm của Đảng ta về dân chủ
Kế thừa Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh , Đảng ta
khẳng định: Dân chủ là bản chất của chế độ mới, trong đó nhân dân, trước hết
là nhân dân lao động là người chủ đất nước, tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân.
Với quan điểm “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”, trong suốt quá
trình Đảng định ra đường lối đổi mới là quá trình Đảng xác định rõ Nhà nước
ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nội dung này đã được nêu ra từ Đại
hội II và từng bước được phát triển cho đến nay. Hiến pháp năm 1992 ghi rõ:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” và
“nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân
dân là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân
bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
1.2.2 Dân chủ trong xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Thực tế lịch sử khẳng định, việc xác lập nền dân chủ XHCN ở Việt
Nam là phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội. Vì vậy, Đảng ta đã khẳng
định: “Dân chủ là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện hệ thống


chính tri XHCN, nó vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới”
và “dân chủ là bản chất của chế độ mới”.


Chương 2
Mối quan hệ giữa đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị với xây

dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1 Thực chất, nội dung và phương hướng đổi mới, kiện toàn hệ
thống chính trị với xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN Việt Nam
2.1.1 Thực chất đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị với xây dựng,
hoàn thiện nền dân chủ XHCN Việt Nam
Thực chất của đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị với xây dựng, hoàn
thiện nền dân chủ XHCN Việt Nam là đổi mới tư duy chính trị về CNXH và
con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; đổi mới cơ chế chính sách mà hạt nhân
cơ bản là giải quyết hợp lý, hài hoà quan hệ lợi ích; đổi mới cơ chế tổ chức và
cơ chế vận hành của hệ thống chính trị để xây dựng chế độ xã hội XHCN
ngày càng vững mạnh, thực hiện nền dân chủ XHCN trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN, pháy triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Báo cáo chính trị tại Đại hội VII, năm 1991 chỉ rõ: thực chất của công
cuộc đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị là xây dựng nền dân chủ XHCN,
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, xác định dân chủ vừa là mục tiêu vừa
động lực của công cuộc đổi mới. Do đó, thực chất đổi mới chính trị là đổi mới
hệ thống chính trị: đổi mới tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của các tổ
chức trong hệ thống chính trị, dân chủ hoá mối quan hệ trong hệ thống chính
trị, làm cho hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, trở thành động
lực chủ yếu nhằm khơi dậy, phát huy tối đa mọi nguồn lực và sự sáng tạo của
xã hội phục vụ cho sự nghiệp xây dựng CNXN. Đổi mới hệ thống chính trị
không phải là thay đổi mà là nhằm đẩy mạnh dân chủ hoá xã hội, phát huy
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.


2.1.2 Nội dung và phương hướng đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị
với xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN Việt Nam
Để thực hiện và phát huy dân chủ XHCN, thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, Đảng ta đã tập trung vào đổi mới, kiện toàn các bộ phận cấu thành

hệ thống chính trị.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, đổi mới tổ chức và phương thức
lãnh đạo của Đảng, thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu: Giáo dục
chính trị - tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân;
tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; xây dưng, củng cố các cơ sở đảng; kiện toàn
tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đối với nhà nước, đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy và hoạt động của
nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế với những nội dung: Xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng; cải cách thể
chế và phương thức hoạt động của nhà nước; xây dựng nhà nước dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức có năng lực; đấu tranh chống tham nhũng.
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt
động nhằm mục tiêu góp phần củng cố hệ thống chính trị vững mạnh, tạo điều
kiện để các đoàn thể thực sự là nơi phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân, đủ sức tập hợp nhân dân trong công cuộc đổi mới đất nước.
2.2 Các yếu tố tác động nhằm thực hiện tốt mối quan hệ giữa đổi
mới, kiện toàn hệ thống chính trị với xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa
2.2.1 Trình độ của độ ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị
Đây là đội ngũ rất quan trọng trong việc xây dựng nền dân chủ XHCN,
bởi chính cán bộ là người được nhà nước và nhân dân bầu ra để đại diện cho
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, nhưng nếu cán bộ không có


năng lực và phẩm chất tốt thì sẽ trở thành lực lượng cản trở, thậm chí vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân,…Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nhắc nhở
chúng ta phải thực hiện tốt công tác cán bộ, bởi vì theo Người: “Cán bộ là lực
lượng quyết định sự thành bại của cách mạng” và “mục đích khéo dùng cán
bộ cốt để thực hiện đầy đủ chính sách của Đảng và chính phủ”. Do đó, Đảng

ta phải thực hiện tốt công tác cán bộ, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng
lặp chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan và người
đứng đầu. Đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ,
đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt nhất là
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt; đặc biệt chú ý đến việc xây dựng đội ngũ
cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, từ
các phong trào cách mạng sôi nổi ở cơ sở…
2.2.2 Trình độ dân trí tác động đến đổi mới, kiện toàn hệ thống chính
trị với xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa đổi mới, kiện toàn hệ thống chính
trị với xây dựng nền dân chủ XHCN là một cuộc cách mạng của Đảng và
nhân dân ta trong thời kỳ đổi mới. Sự ngiệp cách mạng là của nhân dân nên
phải huy động toàn dân tham gia, phải dựa vào sự sáng tạo của nhân. Hồ Chí
Minh nói: “Muốn có CNXH trước hết phải có con người XHCN” và “dễ trăm
lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Hồ Chí Minh cũng cho rằng: Một dân tộc dốt cũng là một dân tộc yếu,
điều này càng đúng khi chúng ta tiến hành xây dựng một hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh nhằm xây dựng nền dân chủ XHCN Việt Nam. Muốn
xây dựng được nền dân chủ thực sự thì trước hết quần chúng nhân dân phải có
một trình độ tri thức nhất định để có thể hiểu và làm theo được những chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Đây là một trong những yếu tố rất
quan trọng quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng, nhất là trong
giai đoạn đổi mới hiện nay của đất nước ta.


Thực tế hiện nay, quần chúng nhân dân là lực lượng chiếm đại đa số
dân cư, là lực lượng lao động chủ yếu của đất nước, hoạt động chủ yếu gắn
với đời sống cơ sở nhưng trình độ học vấn, văn hoá chính trị, hiểu biết về các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn nhiều hạn chế.

Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xây dựng hệ thống
chính trị cũng như xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta, nhất là trong điều
kiện mà các thế lực thù địch đang ngày đêm ráo riết tìm mọi cách để chống
phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Do đó, hơn lúc nào hết
chúng ta phải nâng cao trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật, thực hành dân chủ
trong nhân dân, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
2.2.3 Các chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hệ thống chính trị và
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Các cơ chế chinh sách có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị.
Nó là phương tiện phản chiếu những quy luật yếu tố, tổ chức và hoạt động,
của đời sống chính trị. Do đó, để xây dựng được hệ thống chính trị, là công cụ
phát huy quyền làm chủ của nhân dân thì phải xây dựng được hệ thống pháp
luật đồng bộ, với những cơ chế, chính sách phù hợp. Tức là phải xây dựng
được nền pháp quyền của quốc gia dân tộc. Ngày nay pháp quyền và dân chủ
trở thành hai giá trị xã hội và là hai xu hướng vận động cơ bản có ảnh hưởng
lớn đến đời sống xã hội nói riêng và đời sống chính trị quốc tế nói chung.
Dân chủ và pháp luật có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn
nhau. Pháp luật là điều kiện đảm bảo cho dân chủ XHCN được thực hiện,
ngược lại dân chủ là thước đo sự tiến bộ của pháp luật, là cách thức để xây
dựng và thực hành pháp luật trên thực tế. Đặc biệt trong quá trình xây dựng
xã hội công dân và nhà nước pháp quyền của nước ta hiện nay, mối quan hệ
giữa dân chủ và pháp luật lại càng quan trọng. Nhà nước pháp quyền XHCN
chính là yếu tố đảm bảo tính tối thượng của pháp luật và mở rộng dân chủ,
phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân.
2.2.4 Hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị


Trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay, các quan hệ được xác lập do
một cơ chế, một quan hệ chủ đạo là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt

động cơ bản của hệ thống chính trị. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp.
Nhưng để thực hiện được quyền làm chủ của nhân dân, đòi hỏi hệ
thống chính trị nước ta phải thực sự trong sạch, vững mạnh. Bởi hệ thống
chính trị vững mạnh sẽ là điều kiện bảo đảm thực hiện nền dân chủ XHCN.
Do đó, Đảng phải có bản lĩnh vững vàng và đề ra được đường lối cách mạng
đúng đắn, là nhân tố hạt nhân của hệ thống chính trị; Nhà nước phải đẩy mạnh
cải cách tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động, mở rộng dân chủ, tăng
cường pháp chế, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; các tổ chức chính trị xã hội phải luôn luôn kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động. Chính sự
trong sach, vững mạnh của hệ thống chính trị là công cụ quyết định nhất để
xây dựng nền dân chủ XHCN, mới tạo ra được xã hội thực sự dân chủ.
Mặc khác, để xây dựng được mối quan hệ giữa đổi mới, kiện toàn hệ
thống chính trị với xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN Việt Nam thì
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phải luôn thực hiện tốt tinh thần
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng là: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy quyền và trách nhiệm làm chủ của
nhân dân, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, thực
hiện giám sát của nhân dân với công tác, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên, công chức, đại biểu dân cử và cơ quan nhà nước, giải quyết những mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân.


2.3 Quan hệ giữa đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị với xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.3.1 Những tác động hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị với xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
* Hiệu quả tích cực của việc đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị với xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Hệ thống chính trị nước ta tỏ rõ sự ưu việc trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước. Đặc biệt là sau khi thống nhất đất nước, bên
cạnh niềm vui thì chúng ta phải đối mặt với bao khó khăn, thử thách, nhất là
sau khi hệ thống XHCN tan rã. Nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng,
chúng ta vẫn đứng vững và vượt qua thử thách, khủng hoảng, đưa đất nước
phát triển lên một bước mới. Điều này chứng minh sự trưởng thành, phát triển
của hệ thống chính trị nước ta.
Đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị nước ta sẽ tạo ra nhiều tác động
tích cực, to lớn đến việc xây dựng nền dân chủ XHCN nước ta. Nó là cơ sở, là
điều kiện, tiền đề để thực hiện được việc xây dựng nền dân chủ XHCN, từng
bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN.
Đổi mới, kịên toàn hệ thống chính trị sẽ làm cho hệ thống chính trị Việt
Nam vững mạnh, trong sạch. Đảng đủ sức lãnh đạo, Nhà nước nâng cao hiệu
lực quản lý, nhân dân thực hiện được quyền làm chủ của mình. Khi đó cũng
có nghĩa là nền dân chủ XHCN đang được thực hiện. Như vậy, muốn xây
dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN thì phải đổi mới, kiện toàn hệ thống
chính trị.
Trên thực tế, hệ thống chính trị nước ta trong quá trình đổi mới, kiện
toàn đã đạt được nhiều thành tựu trong phát huy dân chủ; động viên, tạo mọi
điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua bộ máy là
hệ thống chính trị và hệ thống pháp quyền XHCN. Nó đã động viên sự tham
gia của công dân vào công việc của Nhà nước và xã hội ở cơ sở trong tất cả


các hoạt động của đời sống, nhằm thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, bảo vệ
quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân; giữ gìn an ninh quốc gia và trật
tự an toàn xã hội; xây dựng chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức kinh tế, hành chính sự nghiệp; chấp hành đúng pháp luật và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trên mọi liãnh vực.

Hệ thống chính trị nước ta là điều kiện, cơ sở, là công cụ thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân. Không có nền dân chủ nếu không có hệ thống
chính trị mạng bản chất dân chủ mà hệ thống chính trị Việt Nam đã tạo ra cơ
hội đó cho nhân dân Việt Nam. Bởi hệ thống chính trị Việt Nam do dân bầu
ra, chế độ này là của dân, do dân và vì dân. Đại hội VII đã khẳng định: “Một
trong những thành tựu của công cuộc đổi mới là bước đầu thực hiện dân chủ
XHCN trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các cơ chế, chính sách đã mở
rộng. Quyền tự chủ của các cơ sở sản xuất kinh tế, phát huy tiềm năng của các
thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho mọi người được tự do kinh doanh theo
pháp luật”.
Tiến thêm một bước trong tư duy dân chủ, Đại hội VIII đã đề ra cơ chế
cụ thể để thực hiện dân chủ theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”. Vấn đề này được thể hiện ngay cả trong quá trình chuẩn bị ra
nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Phương châm này ngày
càng được Đảng ta phát huy mạnh mẽ, góp phần thực hiện tốt nhiều công việc
quan trọng của đất nước, nhờ đó mà xã hội thêm ổn định, văn minh, phát
triển; hạn chế tiêu cực, tham nhũng.
Không những thế, trong quá trình đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị
Việt Nam từng bước đã tạo ra dân chủ cho nhân dân, đó là quyền bầu cử và
ứng cử, trong thảo luận; đóng góp ý kiến xây dựng các dự thảo luật có nhiều
tiến bộ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thể hiện nền dân chủ toàn diện,
thực sự.
Theo kết quả điều tra dư luận xã hội do Trung tâm dư luận xã hội Ban
Tư tưởng - Văn hoá Trung ương tiến hành năm 2003, trong 3000 đảng viên


được hỏi về tình hình dân chủ trong Đảng, có 42% số người khẳng định đã tốt
hơn trước nhiều; 51% số người cho rằng đã tốt hơn nhưng chưa nhiều. Như
vậy, có 93% số người cho rằng dân chủ trong Đảng đã có sự chuyển biến tốt
hơn so với trước đổi mới.

Tóm lại, việc đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị Việt Nam là điều
kiện tiên quyết để xây dựng nền dân chủ. Vì hệ thống chính trị là cơ chế, công
cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
* Những hạn chế tác động của hệ thống chính trị với xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bên cạnh những tác động tích cực của hệ thống chính trị nước ta trong
quá trình thực hiện và phát huy dân chủ XHCN, vẫn còn nhiều hạn chế: chưa
thực sự phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, thậm chí còn có biểu
hiện vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Trước hết, nhận thức về vấn đề dân chủ còn khác nhau, nhiều người
còn cho rằng dân chủ tư sản có nhiều mặt ưu việt hơn dân chủ vô sản; dân chủ
quá trớn, cực đoan, chuyên quyền độc đoán ở một số cán bộ lãnh đạo, quản lý
ở tất cả các cấp vẫn còn diễn ra; tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân
chủ và kỷ cương, dân chủ và pháp luật còn tồn tại trong nhận thức một số
người; vấn đề khiếu kiện ngày một tăng đã làm cho một số cấp uỷ lung túng
trong việc giải quyết. Trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, có tình trạng
vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu kỷ cương; quyền làm chủ của nhân dân chưa
được tôn trọng và phát huy đầy đủ. Trong xã hội còn không ít hiện tượng mất
dân chủ, dân chủ hình thức, dân chủ quá trớn, dân chủ cực đoan. Cải cách
hành chính còn hạn chế, gây phiền hà, mất dân chủ với nhân dân. Thực hiện
chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách chưa thật sự rõ rang; chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách nhiệm của nhiều cơ quan chồng chéo,
nạn tham nhũng vẫn chưa được đẩy lùi.
Bên cạnh đó, vấn đề tất cả quyền lực thuộc về nhân dân chưa thực sự
đặt ra trong quá trình đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị. Thực tế cho thấy


các nguyên tắc xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân mới chỉ được
định hình nhưng chưa sâu sắc về nội hàm, dẫn đến sự lung túng trong tổ chức
và thực hiện quyền lực nhà nước; nguyên tắc pháp chế XHCN vẫn còn đang

trong tình trạng đề ra nền chưa có cơ chế thực thi. Những yếu kém này đã
được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX chỉ ra: “Việc tổ chức thực hiện
chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng chưa tốt; kỷ luật, kỷ cương chưa
nghiêm; một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự thống nhất và
thông suốt ở các cấp, các ngành; cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu
kiên quyết, hiệu quả thấp; công tác tư tưởng lý luận, công tác tổ chức cán bộ
có nhiều yếu kém, bất cập; các cơ quan nhà nước cúng còn nhiều yếu kém,
bất cập; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cũng chưa
ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ của chúng”.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên là do chúng ta chưa xây
dựng hoàn chỉnh một hệ thống quy chế dân chủ; hệ thống pháp luật còn thiếu,
chưa đồng bộ; nhận thức của một bộ phận nhân dân về dân chủ XHCN chưa
thống nhất; nhiều cán bộ trong tổ chức đảng, nhà nước chưa chịu khó nghiên
cứu về dân chủ XHCN dẫn đến tình trạng mở hồ về một nền dân chủ chân
chính ở Việt Nam.
2.3.2 Những tác động của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đối với đổi
mới, kiện toàn hệ thống chính trị Việt Nam
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH được Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: “Toàn bộ hệ thống
chính trị nước ta trong giai đoạn hiện nay là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền
dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Tuy nhiên, để phát
huy dân chủ thì phải có hệ thống chính trị mang bản chất dân chủ, dân chủ
phải được thể hiện trong thực tế, hệ thống chính trị phải trong sạch, vững
mạnh. Có nghĩa là nền dân chủ sau khi hình thành nó sẽ tác động trở lại hệ
thống chính trị làm cho hệ thống chính trị phải tự đổi mới mình, để thực hiện
được vai trò là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ khi là


thực sự, đến lượt nó lại là quy luật hình thành, phát triển, tự hoàn thiện hệ
thống chính trị XHCN, tức là nó buộc các bộ phận của hệ thống chính trị phải

đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và phương thức tổ chức hoạt
động nhằm phát huy được quyền làm chủ của nhân dân.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh: phát huy
dân chủ nhằm tạo ra một động lực mạnh mẽ để phát triển đất nước, dân chủ
hoá đời sống xã hội mở ra con đường phát triển mới của đất nước. Khi tiến
hành đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị Đảng ta luôn khẳng định: đổi mới
vừa để đón kịp thời cơ, vừa chủ động chấp nhận và vượt qua thách thức để
phát triển. Đổi mới do đó cũng là mở đường cho nhận thức sáng tạo, thúc đẩy
mọi hành động tích cực, năng động, sáng tạo, giải phóng sức sản xuất và dân
chủ hoá đời sống xã hội.
Dân chủ hoá chính là điều kiện, tiền đề để xây dựng hệ thống chính trị.
Đổi mới và dân chủ hoá vừa là tiền đề, vừa là điều kiện cho nhau. Đổi mới tạo
điều kiện, mở đường cho dân chủ hoá xã hội và lấy sự phát triển kinh tế - xã
hội, lấy việc mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân làm
mục tiêu; đồng thời, quá trình dân chủ hoá xã hội nhằm phát huy quyền làm
chủ, sức sáng tạo của nhân dân, động viên, khơi dậy sức mạnh vật chất và tinh
thần to lớn của nhân dân vào xây dựng hệ thống chính trị, ngăn chặn, khắc
phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng. Với ý nghĩa đó, dân chủ là
quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện hệ thống chính trị XHCN, nó
vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới.
Sự tác động của nền dân chủ XHCN đối với đổi mới, kiện toàn hệ
thống chính trị còn thể hiện ở việc quyền lực thuộc về nhân dân sẽ hạn chế sự
tha hoá của quyền lực nhà nước. Quyền lực công vốn là của cộng đồng xã hội,
khi xã hội được tổ chức thành nhà nước thì quyền lực đó đứng trên xã hội.
Cuộc đấu tranh của nhân dân đòi thực hiện chức năng công quyền, đảm bảo
lợi ích cho mọi người, chống lại việc dùng quyền lực nhà nước mưu lợi cho
một thiểu số cầm quyền, thực chất là đòi dân chủ, làm chủ và kiểm soát quyền


lực. Kết quả là dẫn đến thay đổi chủ thể cầm quyền, thay đổi chế độ nhà

nước, hình thành nhà nước theo xu hướng ngày càng đảm bảo dân chủ cho
nhân dân, quyền lực của nhân dân, thực hiện tốt hơn chức nang công quyền;
và do đó hạn chế sự tha hóa trong quyền lực nhà nước nhằm góp phần xây
dựng hệ thống chính trị Việt Nam trong sạch, vững mạnh.


Chương 3
Một số định hướng lớn có tính giải pháp về đổi mới, kiện toàn
hệ thống chính trị để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
3.1 Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đối với nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thì vai trò càng thể
hiện rõ trong quá trình xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN Việt Nam,
bởi nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong những năm qua,
Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo hướng pháp quyền
XHCN; đã sửa đổi một số đạo luật để cụ thể hoá Hiếp pháp, bảo vệ tốt hơn
quyền công dân, quyền con người, tạo khuôn khổ cho kinh tế thị trường phát
triển, tiến hành cải cách hành chính…Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta, đó là nhà nước chưa đủ
điều kiện tổ chức pháp lý để đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân;
Hiến pháp, hệ thống pháp luật còn chưa ổn định, vững chắc, dễ bị sửa đổi,
chưa có cơ quan bảo vệ và cơ chế bảo vệ Hiếp pháp, thiếu nhiều bộ luật
khung quan trọng…
Do đó, để xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN Việt Nam đòi hỏi
phải xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam. Đảng Công sản Việt Nam phải là lực lượng lãnh đạo xây dựng
và hoàn thiện nhà nước, hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ Việt Nam.
3.2 Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước, phát
huy dân chủ, giữ kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế

Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, để đẩy mạnh cải cách tổ
chức, hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế cần
thực hiện tốt những nội dung sau:


Cải cách thể chế và hoạt động của nhà nước. Trong đó, kiện toàn tổ
chức, đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội
theo hướng: Tăng cường hoạt động của cơ quan lập pháp, làm tốt chức năng
giám sát tối cao của Quốc hội đối với các hoạt động của nhà nước, trước mắt
tập trung vào một số vấn đề bức xúc như sử dụng vốn và tài sản của nhà
nước; chống quan liêu, tham nhũng; điều tra, xét xử; phát huy dân chủ, giữ
vững kỷ cương, kỷ luật, tăng cường pháp chế, bởi nhà nước ta là nhà nước
dân chủ, dân là chủ, dân làm chủ, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Hoàn
thiện hệ thống bầu cử, nâng cao chất lượng của đại biểu dân cử các cấp và
Quốc hội…
Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, từng bước hiện đại; cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động
của các cơ quan tư pháp. Mặc khác, phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
trong sạch, có năng lực; đấu tranh chống tham nhũng và các hiện tượng tiêu
cực nẩy sinh trong bộ máy nhà nước.
3.3 Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Dưới ssự lãnh đạo của Đảng, hệ thống chính trị nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song bên cạnh cũng còn nhiều hạn chế,
bất cập như: Năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng, quản lý của các cơ quan
nhà nước, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình; bộ máy của Đảng, Nhà nước và
các đoàn thể chậm được đổi mới, tinh giản…
Trong bối cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến động, với cương vị là

đảng cầm quyền, để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững mối liên hệ
giữa Đảng với nhân dân thì điều có ý nghĩa quyết định đó là Đảng phải lãnh
đạo chính quyền của dân, do dân, vì dân. Đảng phải trong sạch, vững mạnh
thì mới đủ sức lãnh đạo cách mạng và xây dựng, hoàn thiện thành công nền


dân chủ XHCN. Đảng thường xuyên tự chỉnh đốn và đây cũng là quy luật tồn
tại và phát triển của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội được thông qua tại đại hội VII của Đảng chỉ rõ: “Để đảm
đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ
trí tuệ, năng lực lãnh đạo”.
3.4 Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội
Hệ thống chính trị nước ta có những tác động đến xây dựng nền dân
chủ, thông qua một bộ phận quan trọng đó là Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vị trí
quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân và bảo vệ Tổ quốc, phát huy
quyền và trách nhiệm làm chủ của nhân dân. Trong những năm qua, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã có nhiều đổi mới tổ chức, phương thức
hoạt động và đạt nhiều kết quả thiết thực, quyền làm chủ của nhân dân được
thể hiện trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị, tư tưởng…Tuy nhiên,
vẫn còn nhiều hạn chế như: biểu hiện sự trì trệ trong nội dung và phương thức
hoạt động, hoạt động theo cơ chế cũ, thụ động, “nhà nước hoá”, “hành chính
hoá” hệ thống tổ chức…
Do đó, để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân thì cần đề ra các chương trình hoạt động cụ thể, phù hợp, sát với thực tế;
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các địa bàn dân cư; nâng cao hiệu
quả hoạt động của các đoàn thể tương xứng với vai trò đại diện quyền làm
chủ của nhân dân; đa dạng, mở rộng các hoạt động và hình thức tập hợp quần

chúng…Có như vậy mới xây dựng được nền dân chủ XHCN. Ngoài ra, cần
thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc; mở rộng và đa dạng hoá các hình thức
tập hợp nhân dân, tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội
nghề nghiệp, văn hoá hữu nghị, từ thiện nhân đạo,… sớm ban hành luật về
hội.


Tóm lại, thực chất của mối quan hệ giữa đổi mới, kiện toàn hệ thống
chính trị với xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN Việt Nam là đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm làm cho hệ thống
chính trị thực sự là cơ chế, công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
xây dựng nền dân chủ XHCN, chế độ của dân, do dân và vì dân. Để thực hiện
và xây dựng tốt mối quan hệ này cần thực hiện các định hướng có tính giải
pháp trên.


KẾT LUẬN
Quan hệ giữa đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị với xây dựng, hoàn thiện
nền dân chủ XHCN Việt Nam là mối quan hệ biện chứng. Không thể xây
dựng được nền dân chủ XHCN nếu không có một hệ thống chính trị trong
sach, vững mạnh. Ngược lại, không thể có hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh khi không xây dựng được nền dân chủ XHCN. Suy đến cùng, việc đổi
mới, kiện toàn hệ thống chính trị là để phát huy được quyền làm chủ của nhân
dân, xây dựng thành công chủ nghiã xã hội ở Việt Nam, bởi hệ thống chính trị
Việt Nam có vai trò quan trọng là cơ chế, công cụ thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân.
Qua những năm đổi mới, hệ thống chính trị nước ta đã tập trung làm rõ
và thực hiện nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội VII đã khẳng định: Một trong những
thành tựu của công cuộc đổi mới là bước đầu thực hiện dân chủ xã hội chủ

nghĩa trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các cơ chế, chính sách mới đã
mở rộng hơn quyền làm chủ của nhân dân, rõ ràng đây là bước tiến quan
trọng của một nền dân chủ tiên tiến trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, hệ thống chính trị Việt Nam cũng chưa thực sự phát huy tốt
quyền làm chủ của nhân dân, chưa xây dựng được mối quan hệ chặt chẽ giữa
đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị với xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Do đó, hơn lúc nào hết chúng ta phải nghiên cứu và xây dựng
tốt mối quan hệ này, làm cho hệ thống chính trị thực sự là cơ chế, công cụ
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và khi đó theo quy luật, dân chủ lại là
điều kiện, tiền đề để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp
phần quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam hiện nay.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Xuân Ngọc (chủ biên), Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị, từ nhận thức đến thực tiễn. Nxb CT-HC, HN, 2009
2. Nguyễn Phú Trọng (chủ biên), Đổi mới và phát triển ở Việt Nam,
một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb CTQG, HN, 2006
3. Đề cương bài giảng chính trị học, Viện chính trị học-Học viện
CTQG Hồ Chí Minh, HN, 2005
4. Dương Xuân Ngọc – Lưu Văn An, Tìm hiểu môn chính trị học (dưới
dạng hỏi đáp), Nxb LLCT, HN, 2005
5. ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ VI, VII, IX, X



×