Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Phân tích quy định của pháp luật về di sản dùng vào việc thờ cúng.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.68 KB, 9 trang )

DS1HK10

Phân tích quy định của pháp luật về di sản dùng vào việc thờ cúng. Hãy
sưu tầm và phân tích một vụ việc về thừa kế có di sản dùng vào việc thờ
cúng trên cơ sở quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành.

A. LỜI NÓI ĐẦU
Tín ngưỡng thờ cúng người đã khuất có mặt ở nhiều dân tộc Đông
Nam Á và phổ biến, phát triển hơn cả ở Việt Nam. Nó không xa lạ gì khi
ngay cả những gia đình không tin thần thánh cũng đặt bàn thờ tổ tiên ở
trong nhà. Cũng có thể thấy bóng dáng của việc lo trước ma chay của
người để lại di sản trong các tác phẩm văn học nước ta, như Lão Hạc
trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao đã để lại trong “di chúc miệng”
rằng: “Lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào : con không có
nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho được ; để phiền cho hàng xóm
thì chết không nhắm mắt : lão còn được hăm nhăm đồng bạc với năm
đồng vừa bán chó là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi để lỡ có chết thì tôi
đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu
đành nhờ hàng xóm cả...”. Có thể nói việc thờ cúng đã trở thành văn hóa
của Việt Nam và nhà nước tôn trọng tín ngưỡng ấy, cũng như tôn trọng ý
nguyện của người lập di chúc, cho nên, trong Pháp lệnh thừa kế trước đây
và ngày nay Điều 670 Bộ luật dân sự đã quy định người lập di chúc có
quyền chỉ định người thừa kế thực hiện việc thờ cúng. Tuy nhiên, xoay
quanh luật định này đang có rất nhiều vấn đề chưa rõ ràng và tranh chấp
nảy sinh trên thực tế. Vì vậy việc quan tâm nghiên cứu về về việc để lại
di sản cho việc thờ cúng nhằm hoàn thiện điều luật hơn nữa là rất cần
thiết. Tiểu luận xin được phân tích quy định của pháp luật về di sản dùng
vào việc thờ cúng và đưa ra ví dụ để làm rõ trên cơ sở quy định của pháp
luật dân sự Việt Nam hiện hành.

B. NỘI DUNG:


I. Phân tích điều luật
Di sản dùng vào việc thờ cúng được quy định tại Điều 670 BLDS năm
2005:
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng
vào việc thờ cúng, thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được
giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lí để thực hiện
việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc
hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người


thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người
khác quản lí để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lí di sản
thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lí di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đã chết thì
phần di sản dùng vào việc thờ cúng thuộc về người đang quản lí hợp
pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh
toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản
dùng vào việc thờ cúng.”
1. Tính chất pháp lí của di sản dùng vào việc thờ cúng
1.1. Di sản thờ cúng không thể được chuyển nhượng
Điều 670 BLDS không có quy định về tính chất của di sản dùng vào
việc thờ cúng (không định tính), mà chỉ định lượng phần di sản dùng vào
việc thờ cúng. Thực tế thì di sản dùng vào việc thờ cúng có thể do nhiều
nguồn khác nhau ví dụ như của gia đình hay của cả một dòng họ đóng
góp lại nên có nhiều nguồn căn cứ xác định khác nhau nhưng Pháp luật
quy định căn cứ theo người lập di chúc để giải quyết cho các tranh chấp
về quyền thừa kế. Người lập di chúc có thể định đoạt bất kì tài sản nào
trong khối tài sản thuộc quyền sở hữu của mình dùng vào việc thờ cúng.

Khối tài sản này tuy có thể đã được chỉ định người quản lí theo như di
chúc hoặc được những người thừa kế bầu ra người để quản lí nhưng nó
vẫn là một khối tài sản không có chủ sở hữu bởi vì khối tài sản ấy không
phải là di sản được chuyển nhượng cho người khác qua hình thức thừa kế.
Vì vậy, thông thường tài sản này có mục đích chính là thờ cúng chứ
không thể bán, cầm cố, chuyển nhượng được vì không ai có quyền hạn
làm việc đó.
Quy định “nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc
hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người
thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người
khác quản lí để thờ cúng” hành động chuyển giao này hực chất không
phải là chuyển nhượng di sản thờ cúng mà chỉ là chuyển nhượng Quyền
quản lí di sản dùng vào việc thờ cúng.
Vì vậy, chỉ trong trường hợp vì một lí do nào đó mà Di sản dùng vào
việc thờ cúng lại không được dùng vào việc thờ cúng nữa và tài sản ấy rơi
vào khối “Di sản thường” thì mới được phép chuyển nhượng.
1.2. Di sản thờ cúng không thể bị kê biên


Khoản 2 điều 670 quy định: “ Trong trường hợp toàn bộ di sản của
người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì
không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”
Mục đích của những nhà làm luật ở đây đó là bảo vệ quyền lợi cho các
chủ nợ (hay người có quyền lợi trong quan hệ dân sự với người để lại di
chúc) khi di sản còn lại chưa đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người
chết để lại. Nghĩa là quy định như vậy để tránh kẽ hở rằng người để lại di
sản vì không muốn thanh toán nghĩa vụ của mình sau khi mất đi nên đã
để lại nhiều tài sản giá trị lớn của mình vào phần Di sản dùng cho việc
thờ cúng.
Tuy nhiên, một khi được lập ở phạm vi cho phép thì các tài sản dùng

cho việc thờ cúng không thể bị kê biên theo yêu cầu của các chủ nợ của
người để lại di chúc hay khoản nợ từ các chi phí mai táng phát sinh từ cái
chết của người đó. Tất nhiên nguyên tắc này không được áp dụng trước
khi thừa kế được mở vì lúc đó di chúc chưa có hiệu lực, cũng không áp
dụng đối với các tài sản chung dùng vào việc thờ cúng đồng thời là vật
đảm bảo nghĩa vụ dân sự trước ngày mở thừa kế.
Di sản dùng trong việc thờ cúng cũng không thể được kê biên theo yêu
cầu của các chủ nợ của những người thừa kế hay người quản lí di sản
dùng vào việc thờ cúng bởi vì họ không phải là chủ sở hữu của những tài
sản đó.
2. Việc quản lí di sản dùng vào việc thờ cúng
2.1. Chỉ định người quản lí di sản thờ cúng
Theo nghĩa thông thường thì người quản lý di sản dùng vào việc thờ
cúng đồng thời cũng là người đảm nhận việc thờ cúng tổ tiên. Theo quy
định của Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005, thì có hai loại người quản lý
di sản dùng vào việc thờ cúng, đó là, người quản lý di sản dùng vào việc
thờ cúng được người để lại thừa kế chỉ định rõ trong di chúc và người
quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng do những người thừa kế cử ra.
*Người thực hiện quản lí đã được chỉ định trong di chúc:
Điều 670 nhà làm luật đã không quy định người thờ cúng phải là con
trai trưởng hoặc theo hướng ưu tiên con trai mà để dành quyền chủ động
cho người lập di chúc như những bộ luật thời phong kiến xưa mà bất cứ
người con hoặc cháu nào không phân biệt con trưởng hay con thứ, con
trai hay con gái thậm chí cả người không có quan hệ huyết thống (tất
nhiên điều này ít xảy ra) cũng có thể là người quản lý di sản thờ cúng nếu
được người để lại di sản chỉ định trong di chúc. Một vấn đề đặt ra liệu
những người thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản ví dụ như
bị truất quyền hưởng thừa kế (Điều 643 Bộ luật dân sự năm 2005) có
được phép là người quản lý di sản thờ cúng không. Giải quyết vấn đề này,
cần chia ra hai trường hợp:



- Trường hợp thứ nhất, nếu người lập di chúc để lại di sản dùng vào việc
thờ cúng không biết người mà mình chỉ định quản lý di sản thờ cúng có
những hành vi mà theo quy định của pháp luật sẽ bị truất quyền thừa kế
thì những người thừa kế của người để lại di sản có quyền yêu cầu tòa án
buộc người đã được chỉ định quản lý di sản thờ cúng giao lại di sản thờ
cúng.
- Trường hợp thứ hai, nếu người để lại di sản thờ cúng đã biết người có
hành vi mà theo quy định sẽ bị truất quyền hưởng di sản thừa kế nhưng
vẫn giao di sản thờ cúng cho họ thì cần công nhận theo ý chí của người
để lại di sản.
* Người thực hiện quản lí do những người thừa kế cử ra
Cần xác định ai là những người có quyền cử người quản lý di sản
dùng vào việc thờ cúng? Theo nội dung điều luật thì nhà làm luật quy
định “những người thừa kế” nghĩa là bao gồm cả những người thừa kế
theo pháp luật và những người thừa kế theo di chúc.
Luật cũng không xác định các điều kiện cụ thể mà người được cử phải
thỏa mãn. Mà bất cứ con cháu nào cũng có quyền bày tỏ lòng thành kính,
biết ơn đối với công lao của tổ tiên. Thờ cúng cũng nhằm mục đích củng
cố tình cảm, sự đoàn kết giữa các thành viên trong gia đình nên nếu trong
trường hợp có người ở hàng thừa kế thứ nhất bị truất quyền hưởng thừa
kế, không được tham gia cử người quản lý di sản thờ cúng để dùng vào
việc thờ cúng mà những người thừa kế còn lại không có điều kiện quản lý
di sản thờ cúng thì con của người bị truất quyền hưởng thừa kế có thể
được giao quản lý di sản thờ cúng nếu không có những hành vi đồng
phạm với người bị truất quyền hưởng thừa kế.
2.2. Quyền lợi và nghĩa vụ của người quản lí di sản thờ cúng
Để đảm bảo người thờ cúng thực hiện theo di chúc thì cần phải chỉ ra
người thờ cúng có những quyền lợi và những nghĩa vụ gì.

*Về quyền, người quản lí tài sản dùng vào việc thờ cúng có quyền chiếm
hữu và sử dụng các tài sản dùng cho việc thờ cúng. Di sản này có thể là
một tài sản cụ thể như nhà ở, cây lâu năm.. người quản lí di sản thờ cúng
có quyền sinh sống trong nhà, canh tác đất đai, thu hoa lợi lợi tức từ các
tài sản có liên quan, có quyền đứng ra khởi kiện đòi lại các tài sản trong
khối di sản dùng trong việc thờ cúng bị chiếm giữ bất hợp pháp.
*Về nghĩa vụ: Điều 670 quy định: “giao cho một người trong di chúc
quản lí để thực hiện việc thờ cúng”
-Trước hết có thể xác định việc để lại di sản dùng vào việc thờ
cúng không ngoài mục đích để thờ cúng, việc thờ cúng này ít nhất
cũng phải thực hiện trong dịp giỗ kỵ hàng năm. Trong trường hợp
di chúc hay thỏa thuận giữa những người thừa kế còn quy định
những hình thức thờ cúng nào khác thì phải thực hiện đầy đủ. Các
chi phí tổ chức lễ, giỗ..có thể lấy từ phần hoa lợi mà người quản lí


có được từ phần di sản hoặc do những người thừa kế thỏa thuận
đóng góp.
- Ngoài nghĩa vụ đương nhiên là thờ cúng, người được chỉ định còn
có nghĩa vụ quản trị phần di sản dùng vào việc thờ cúng. Tuy
không phải là chủ sở hữu nhưng có trách nhiệm phải giữ gìn, chăm
sóc và bảo quản, sửa chữau bổ. Người quản lí tham gia vào các thủ
tục hành chính, tư pháp để bảo vệ toàn vẹn cho phần di sản mình
quản lí. Trong trường hợp bất khả kháng không trực tiếp đứng ra
quản lí được thì phải có trách nhiệm tìm người để ủy quyền trong
thời gian đó.
3. Tỉ lệ phần di sản thờ cúng
Người lập di chúc có thể để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng, vậy như thế nào là “một phần của di sản”? Có thể hiểu đó là một
phần tài sản của toàn bộ khối di sản mà người lập di chúc để lại, chứ

không thể hiểu là một phần của từng tài sản đơn lẻ.
Vì vậy, ngoài việc cần đảm bảo tôn trọng quyền lợi của chủ nợ di sản,
người lập di chúc cần phải lưu ý chỉ được định “một phần di sản” vào
việc thờ cúng chứ không được dành toàn bộ di sản vào việc thờ cúng.
4. Chấm dứt việc dùng một phần di sản vào việc thờ cúng
Theo khoản 1 điều 670 BLDS: “Trong trường hợp tất cả những người
thừa kế theo di chúc đã chết thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng
thuộc về người đang quản lí hợp pháp di sản đó trong số những người
thuộc diện thừa kế theo pháp luật.”
Căn cứ theo quy định này, nếu tất cả những người thừa kế theo di chúc
đều đã chết thì bắt buộc tài sản sẽ chia theo pháp luật một cách khách
quan và di sản dùng vào việc thờ cúng trong di chúc ở đây sẽ không còn
được định nghĩa là “Di sản dùng vào việc thờ cúng” nữa mà sẽ trở về
dạng tài sản thường và thuộc về người thừa kế theo pháp luật đang quản lí
hợp pháp phần di sản dó. Lúc này người đó sẽ không còn là người quản lí
di sản dùng vào việc thờ cúng nữa mà trở thành chủ sở hữu thực sự.

II.
Ví dụ thực tiễn về một vụ việc thừa kế có di sản dùng
vào việc thờ cúng:
1.

Vụ án dân sự:

Ngày 26 tháng 1 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở
phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “ Tranh chấp quyền quản lý
di sản dùng vào việc thờ cúng”:
Vợ chồng cụ Đinh Văn Tôn và cụ Phạm Thị Lên có 6 người con Cụ
Tôn chết năm 1982, không để lại di chúc. Cụ Tôn và cụ Lên tạo dựng
được 1 căn nhà 3 gian tại ấp 4, xã Xuân Thới Thượng, Hóc Môn, thành

phố Hồ Chí Minh. Ngày 22/5/1990 cụ Lên lập di chúc với nội dung:


’’Sau này tôi chết cháu nội tôi : Đinh Tiến Phúc (Đạt) được quyền thừa
hưởng của hương hỏa do tôi để lại, ngoài ra không ai được quyền tranh
chấp mọi tài sản đã nêu trên. Đinh Tiến Phúc được quyền thừa hưởng chứ
không được quyền bán’’. ; tiếp dó ngày 04/10/1993, cụ Lên và các người
thừa kế của cụ Tôn gồm có anh Đinh Tiến Dũng, anh Đinh Tiến Phúc, bà
Đinh Thị Phấn, ông Đinh Văn Trèo, bà Đinh Thị Thắng, bà Đinh Thị
Năm và bà Đinh Thị Muôn đã lập biên bản thỏa thuận:’’đối với Đinh
Tiến Phúc là người được giao quản lý cũng như khai thác huê lợi trên đất
để lo thờ cúng ông, bà, nếu sau này điều kiện nào đó không sử dụng nữa
thì báo cho cô bác họp có ý kiến quyết định ’’ Năm 1996, cụ Lên chết,
anh ĐinhTiến Phúc quản lý toàn bộ tài sản cho đến nay.
Ngày 24/5/2001, bà Đinh Thị Phấn, ông Đinh Văn Trèo cho rằng anh
Phúc không thực hiện đúng nội dung di chúc và thỏa thuận về quản lý di
sản dùng vào việc thờ cúng, nên đã khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện
Hóc Môn yêu cầu thay đổi người quản lý di sản . Tại Bản án dân sự sơ
thẩm số 02/ST-DS ngày 28/01/2002, Tòa án đã quyết định bác yêu cầu
thay đổi người quản lý di sản của bà Phấn và ông Trèo. Bản án có hiệu
lực pháp luật.
Ngày 20/02/2004, bà Phấn và ông Trèo lại kiện anh Phúc do cho rằng
anh không thực hiện nghĩa vụ theo di chúc nên yêu cầu giao tài sản cho
bà Phấn quản lý để thờ cúng chung. Anh Phúc không đồng ý theo yêu cầu
của các nguyên đơn. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 37/DSST ngày
12/7/2004, Toà án quyết định: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Giao
cho bà Đinh Thị Phấn đại diện gia tộc quản lý nhà thờ.
Ngày 16/7/2004 anh Phúc kháng cáo yêu cầu được tiếp tục quản lý di
sản để thờ cúng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn
kháng nghị bản án sơ thẩm nêu trên với nhận định: nội dung di chúc

không nêu rõ nghĩa vụ của người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng,
nên không có cơ sở cho rằng anh Phúc vi phạm nghĩa vụ của người quản
lý di sản.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 166/DSPT ngày 26/01//2005, Toà án
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã
đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân tối cao hủy Bản án dân sự sơ
thẩm số 37/DSST ngày 12/7/2004 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn,
thành phố Hồ Chí Minh và đình chỉ giải quyết vụ án.
2. Làm rõ các vấn đề pháp lí cần giải quyết và lập luận cho hướng
giải quyết
XÉT THẤY


Thứ nhất: theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thì căn nhà 3
gian trên diện tích 0,1 ha đất thổ cư và 0,5ha đất ruộng tại ấp 4, xã Xuân
Thới Thượng, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh là tài sản chung
của vợ chồng cụ Đinh Văn Tôn và cụ Phạm Thị Lên. Cụ Tôn chết năm
1982, không để lại di chúc. Ngày 22/5/1990, cụ Lên lập di chúc có nội
dung: ’’Sau này tôi chết cháu nội Đinh Tiến Phúc (Đạt) được quyền thừa
hưởng của hương hỏa do tôi để lại, ngoài ra không ai được quyền tranh
chấp mọi tài sản đã nêu trên. Đinh Tiến Phúc được quyền thừa hưởng chứ
không được quyền bán ’’; tiếp dó ngày 04/10/1993, cụ Lên và các người
thừa kế của cụ Tôn gồm có anh Đinh Tiến Dũng, anh Đinh Tiến Phúc, bà
Đinh Thị Phấn, ông Đinh Văn Trèo, bà Đinh Thị Thắng, bà Đinh Thị
Năm và bà Đinh Thị Muôn đã lập biên bản thỏa thuận:’’đối với Đinh
Tiến Phúc là người được giao quản lý cũng như khai thác huê lợi trên đất
để lo thờ cúng ông, bà, nếu sau này điều kiện nào đó không sử dụng nữa
thì báo cho cô bác họp có ý kiến quyết định ’’. Năm 1996 cụ Lên chết,
anh Đinh Tiến Phúc quản lý toàn bộ tài sản của hai cụ.
Như vậy, theo nội dung di chúc và thỏa thuận của cụ Lên với những

người thừa kế của cụ Tôn, thì cụ Lên để lại tài sản cho cháu nội là anh
Đinh Tiến Phúc (Đạt) gìn giữ và thờ cúng ông bà, anh Phúc được ’’quyền
thừa hưởng của hương hỏa..chứ không được quyền bán ’’, “ngòai ra
không ai được quyền tranh chấp ’’; còn các thừa kế của cụ Tôn cũng
thống nhất giao phần tài sản của cụ Tôn cho anh Phúc có trách nhiệm
’’...quản lý sử dụng cũng như khai thác huê lợi trên đất được giao để lo
thờ cúng ông bà ’’, chỉ khi nào ’’không sứ dụng nữa thì báo cho cô, bác
họp có ý kiến quyết định ’’.
Khoản 1 Điều 670 BLDS: “nếu người được chỉ định không thực hiện
đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì
những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng
cho người khác quản lí để thờ cúng.”
Thực tế, anh Phúc vẫn đang trực tiếp quản lý sử dụng, đồng thời thực
hiện nghĩa vụ thờ cúng và không bán tài sản, nên phải xác định anh Phúc
đang thực hiện nghĩa vụ theo đúng nội dung di chúc của cụ Lên và thỏa
thuận của các đồng thừa kế, do đó, trong trường hợp này, lẽ ra phải xác
định các nguyên đơn khởi kiện chưa đủ điều kiện khởi kiện để trả lại đơn
khởi kiện cho các nguyên đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ
luật tố tụng dân sự mới đúng, nhưng Tòa án các cấp lại xác định tài sản
có tranh chấp là di sản dùng vào việc thờ cúng và xác định anh Phúc
không thực hiện nghĩa vụ của người quản lý di sản dùng vào việc thờ
cúng, từ đó chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn, buộc anh Phúc phải
giao di sản cho người khác quản lý là đánh giá không đúng về nội dung di
chúc ngày 22/5/1990 của cụ Lên và thỏa thuận của cụ Lên và các đồng
thừa kế của cụ Tôn ngày 04/10/1993.


Thứ 2: Vụ kiện này Toà án nhân dân huyện Hóc Môn đã thụ lý ngày
29/5/2001 và được giải quyết bằng Bản án số 02/DSST ngày 28/01/2002,
bản án sơ thẩm này không có kháng cáo, không bị kháng nghị và đã có

hiệu lực pháp luật . Năm 2004,các nguyên đơn trong bản án trên có đơn
khởi kiện tại Toà án nhân dân huyện Hóc Môn yêu cầu giải quyết lại vụ
việc đối với bị đơn đã được giải quyết bằng Bản án sơ thẩm số 02/DSST
ngày 28/01/2002 và đã có hiệu lực pháp luật. Việc Toà án nhân dân
huyện Hóc Môn thụ lý và giải quyết lại vụ kiện là vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 168 Bộ luật tụng
dân sự. Lẽ ra, Toà án cấp phúc thẩm phải khắc phục vi phạm trên nhưng
lại xử chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn là không đúng.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào ý nguyện của người để lại di sản là cụ Lên
trong di chúc ngày 22/5/1990, căn cứ vào bản án sơ thẩm có hiệu lực số
02/DSST ngày 28/01/2002. Việc Bản án dân sự sơ thẩm số 37/DSST
ngày 12/7/2004 quyết định: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và giao
cho bà Đinh Thị Phấn đại diện gia tộc quản lý nhà thờ là không phù hợp
vớii ý nguyện của người để lại di sản và vi phạm thủ tục tố tụng điểm c
khoản 1 Điều 168 Bộ luật tụng dân sự. Vì vậy vụ việc cần được giải
quyết bằng cách chấp nhận kháng cáo của anh Đinh Tiến Phúc, bàn giao
lại căn nhà dùng vào việc thờ cúng cho anh Phúc quản lí như theo di chúc
nêu trên.

C. Kết Luận
Thờ cúng là sự bày tỏ lòng thành kính biết ơn đối với tổ tiên, cầu
mong tổ tiên che chở, phù hộ. Bất cứ con cháu nào cũng có quyền bày tỏ
lòng thành kính, biết ơn đối với công lao của tổ tiên. Thờ cúng cũng
nhằm mục đích củng cố tình cảm, sự đoàn kết giữa các thành viên trong
gia đình. Việc ghi nhận một phong tục, một tín ngưỡng của người Việt
bằng việc xây dựng lên Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005 là một sự đảm
bảo của Nhà nước cho quyền tự do tín ngưỡng của người dân. Mong rằng
các nhà làm luật nhìn từ góc độ thực tiễn cuộc sống để tiếp tục hoàn
chỉnh những điểm chưa khả thi trong điều luật, từ đó tạo điều kiện để kế
thừa được những giá trị nhân bản của phong tục thờ cúng tốt đẹp của

người Việt Nam.


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 1, NXB. Công an nhân dân,
ĐH Luật Hà Nội.
2. Bàn về quy định người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng trong
pháp luật dân sự Việt Nam, ThS. CVC. Lê Quang Hậu – Vụ Tư
pháp, Văn phòng Quốc hội
3. />4. />


×