Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Báo cáo ngoại khóa phân tích thị trường tài chính việt nam cấu trúc thị trường sản phẩm và chính sách điều tiết của chính phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.08 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KINH TẾ TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH


Chủ đề:

BÁO CÁO NGOẠI KHÓA

PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG TÀI
CHÍNH VIỆT NAM, CẤU TRÚC THỊ
TRƯỜNG, SẢN PHẨM VÀ CHÍNH
SÁCH ĐIỀU TIẾT CỦA CHÍNH PHỦ


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
I.

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM.............2
Tình hình thị trường tài chính Việt Nam hiện nay..........................................2
Hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần................................................3
Diễn biến thị trường chứng khoán...........................................................4
Hoạt động của thị trường bảo hiểm..........................................................4
Đặc điểm thị trường tài chính Việt Nam hiện nay..........................................5

II. CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG..............................................................................8
Căn cứ theo thời hạn thanh toán của các công cụ tài chính...........................8
Thị trường tiền tệ......................................................................................8
Thị trường vốn..........................................................................................9
Căn cứ trên phương diện cơ chế giao dịch...................................................10



III.

2.1

Thị trường sơ cấp................................................................................... 10

2.2

Thị trường thứ cấp..................................................................................10

CHÍNH SÁCH ĐIỀU TIẾT CỦA CHÍNH PHỦ..........................................11
Định hướng của Đảng và Nhà nước..............................................................11
Giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường tài chính......Error! Bookmark not

defined.
Các giải pháp mở rộng thị trường tài chính..................................................12
Các giải pháp nâng cao hiệu quả phối hợp CSTK và CSTT giai đoạn 20162020......................................................................................................................13


LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính đã và đang đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Để
đảm bảo cho sự phát triển bền vững, yêu cầu đặt ra là phải có một thị trường tài chính ổn
định, hiệu quả, khi đó mới có thể thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước vào phục vụ cho
đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh. Thị trường tài chính là
một sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường, hay nói chính xác hơn, là nền kinh tế
tiền tệ, ở đó,bên cạnh các thị trường khác,thị trường tài chính hoạt động như là một sự kết
nối giữa người cho vay đầu tiên và người sử dụng cuối cùng, tạo ra vô số các giao dịch,
và ở mỗi giao dịch, dù động cơ nào ,cũng tạo ra các dòng chảy về vốn trong một nền kinh
tế - như là sự lưu thông máu trong một cơ thể - một nền kinh tế hoạt động lành mạnh và

có hiệu quả chỉ khi nào thị trường này cũng hoạt động có hiệu quả như thế, và ngược lại.
Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối với người
có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Người cho vay sẽ có lãi thông qua
lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán sử dụng vốn vay đó hiệu quả. Ngoài
ra,thị trường tài chính là chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, tạo điều
kiện thuận lợi chuyển nguồn vốn nhàn rỗi sang nơi thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế. Thông qua thị trường tài chính hình thành giá mua giá bán các loại cổ phiếu,
trái phiếu, kỳ phiếu, giấy nợ ngắn hạn, dài hạn…hình thành nên tỷ lệ lãi suất đi vay, lãi
suất cho vay, lãi suất ngắn, trung hạn và dài hạn.
Trong những năm gần đây, thị trường tài chính đã phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu, đặc biệt là các thị trường: Hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) và các
tổ chức tài chính (TCTC); Thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu; Thị trường bảo
hiểm.Ở Việt Nam, kể từ khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường, đặc
biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, gia nhập WTO, lĩnh vực tài
chính là lĩnh vực mang tính nhạy cảm luôn đòi hỏi sự đổi mới cả về mặt nhận thức và
thực tiễn.


I.

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
Tình hình thị trường tài chính Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, cấu trúc tài chính hiện nay dựa chủ yếu vào hệ thống ngân hàng. Khu vực
ngân hàng vẫn được xem là chủ đạo trong hệ thống tài chính, với tổng tài sản hơn 6,5
triệu tỷ đồng (165% GDP năm 2014), chiếm gần 95% tổng tài sản của cả hệ thống tài
chính. Hệ thống ngân hàng vẫn là kênh huy động vốn chủ yếu góp phần vào mức tăng
trưởng đầu tư toàn xã hội và tăng trưởng kinh tế. Dư nợ cho vay của hệ thống các tổ chức
tín dụng tương đương 107% GDP năm 2014.

Trong khi đó, thị trường vốn còn nhỏ, chậm phát triển với quy mô vốn hóa toàn TTCK

thấp hơn so với hầu hết các nước trong khu vực. Thị trường trái phiếu Việt Nam mặc dù
đã phát triển khá nhanh so với các nước châu Á, nhưng chưa thực sự cân bằng do trái
phiếu chính phủ chi phối thị trường. Trong bối cảnh nợ công và hiệu quả đầu tư công
đang là vấn đề lớn cần giải quyết, thì trái phiếu chính phủ không phải là kênh huy động
vốn đáng khuyến khích.Thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam còn quá nhỏ,
chưa phát triển, trong khi đây là kênh dẫn vốn cho doanh nghiệp theo cách thức mang lại
sự ổn định hơn cho hệ thống tài chính cũng như người đầu tư và giúp doanh nghiệp hạn
chế sự phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng, đồng thời tăng kỳ hạn tài
trợ.Nguyên nhân chính dẫn đến việc thị trường trái phiếu doanh nghiệp chậm phát triển là
do sản phẩm trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường chưa nhiều, chủ yếu do các DNNN
hay tổ chức tín dụng phát hành, tập trung vào 2 loại hình chính là trái phiếu truyền thống
và trái phiếu chuyển đổi (với công ty cổ phần). Nhiều doanh nghiệp trong nước cũng
chưa đáp ứng được yêu cầu phát hành, đặc biệt ở các khía cạnh như trình độ quản trị còn
yếu, hệ thống công bố thông tin chưa minh bạch nên khó có được niềm tin của NĐT…
Bên cạnh đó, điều kiện phát hành khá khắt khe như Nghị định 90/2011/NĐ-CP của Chính
phủ yêu cầu các doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải có 5 năm liền có lãi.
+Về phía đầu tư, cơ sở NĐT còn thiếu khi NĐT chủ yếu trên thị trường trái phiếu hiện
nay là các ngân hàng thương mại. Các đợt phát hành trái phiếu cũng thường là phát hành
riêng lẻ cho một số NĐT, trong khi NĐT cá nhân chưa tiếp cận được.


+Về phía trung gian tài chính, Nghị định về việc thành lập và hoạt động của công ty định
mức tín nhiệm đang trong quá trình lấy ý kiến, vì vậy Việt Nam vẫn chưa có một tổ chức
định mức tín nhiệm chuyên nghiệp nhằm tạo niềm tin cho NĐT khi đánh giá về doanh
nghiệp phát hành.

Hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần
Giao dịch trên thị trường liên ngân hàng sôi động cho thấy thanh khoản một số ngân hàng
không còn ở trạng thái dư thừa.Khối lượng giao dịch, doanh số giao dịch bình quân/1
ngày, lãi suất và doanh số giao dịch bình quân ở các kỳ hạn ngắn đều tăng so với năm

2015 cho thấy thanh khoản hệ thống ngân hàng không còn ở trạng thái dư thừa như các
năm trước đây. Trong năm 2015, tổng khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng
ước trên 5,2 triệu tỷ đồng, giao dịch bình quân 1 ngày là 21.145 tỷ đồng.
Diễn biến giao dịch trên thị trường liên ngân hàng những năm gần đây

Từ năm 2011 đến cuối năm 2015, NHNN đã giảm 9 lần các mức lãi suất điều hành với
tổng mức giảm khoảng 8,5%/năm; quy định trần lãi suất cho vay bằng VND đối với các
lĩnh vực ưu tiên thấp hơn khoảng 2-3%/năm so với lãi suất cho vay thông thường và điều
chỉnh giảm từ mức 15% xuống còn 7%/năm; quy định và điều chỉnh giảm trần lãi suất
huy động bằng VND từ mức 14%/năm xuống còn 5,5%/năm. Đối với ngoại tệ, NHNN đã
6 lần điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi USD, đưa lãi suất tiền gửi USD của tổ chức và cá
nhân xuống mức lãi suất đồng nhất 0%/năm.Mặc dù mặt bằng lãi suất giảm, nguồn vốn
huy động vẫn tăng. Tính cuối tháng 12/2015, nguồn vốn huy động tăng 13,59% so với
cuối năm trước, tạo điều kiện cho các TCTD cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế.Hiện
tại đối với các lĩnh vực ưu tiên, mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến ở mức 6 - 7%/năm
(vay ngắn hạn), 9 - 10%/năm (vay trung - dài hạn). Đối với sản xuất - kinh doanh thông
thường, lãi suất cho vay ở mức 6,8 - 9%/năm (vay ngắn hạn); 9,3 - 11%/năm (vay trung -


dài hạn). Với các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, có phương
án - dự án khả thi thì lãi suất vay chỉ còn 5 - 6%/năm.Bên cạnh các khoản vay mới với lãi
suất thấp, NHNN cũng yêu cầu các TCTD đưa lãi suất của các khoản vay cũ về mức
15%/năm và sau đó là 13%/năm, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và tạo
điều kiện giải phóng kênh tín dụng.Có thể thấy trong 5 năm qua, từ năm 2011-2015,
trước bối cảnh “ảm đạm” của cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt, mặt bằng lãi suất cho
vay ở mức cao, an toàn hệ thống đáng lo ngại, kỷ luật - kỷ cương thị trường bị phá vỡ.
Nhưng NHNN đã thực sự vào cuộc lập lại trật tự, kỷ cương, chèo lái chính sách tiền tệ
một cách quyết liệt và hiệu quả, tạo dấu ấn mạnh mẽ trong việc ổn định và phát triển hệ
thống ngân hàng.


Diễn biến thị trường chứng khoán
Từ tháng 11/2015, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước sẽ ban hành 5 cho đến 6 văn bản mới
để hiện thực hóa các thay đổi ở thị trường chứng khoán và dự định thực hành thị trường
chứng khoán phái sinh trong những năm tới. Trong năm 2016, chứng khoán Việt Nam sẽ
còn gặp một số thách thức nhưng sẽ dần có nhiều cơ hội tăng trưởng và cải thiện, thay
đổi tích cực cùng với sự phục hồi của nền kinh tế. Bối cảnh tài chính Việt Nam năm 2016
sẽ có nhiều dấu hiệu thay đổi tích cực khi cả thị trường cổ phiếu và trái phiếu đều diễn
biến vô cùng sôi động. Nhìn lại nửa năm thị trường chứng khoán Việt Nam. Thị trường
chứng khoán tăng điểm bất chấp các sự kiện vĩ mô không tích cực từ bên ngoài như FED
trì hoãn nâng lãi suất, Brexit, hay bên trong như GDP giảm tốc.

Bênh cạnh đó,thanh khoản thị trường đã tăng 17% về giá trị so với cùng kỳ 2015. Theo
quan sát, dư nợ margin của hầu hết các công ty chứng khoán đều tăng mạnh trong năm
2016, đây có thể coi là một nguồn hỗ trợ giúp tăng thanh khoản và VN-Index. Các CTCK
đều có chiến lược gia tăng số dư margin nên nếu không có rủi ro về chính sách thì nguồn
tiền margin sẽ giúp thị trường ổn định

Hoạt động của thị trường bảo hiểm


Tính từ đầu năm 2016 đến nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam có 61 doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm. Trong đó, có 29 doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) phi nhân thọ, 1 chi
nhánh DNBH phi nhân thọ nước ngoài; 17 DNBH nhân thọ, 2 DN tái bảo hiểm và 12 DN


môi giới bảo hiểm. Tổng doanh thu phí bảo hiểm đạt 38,613 tỷ đồng, tăng 26% so với
cùng kỳ năm 2015. Tổng giá trị tài sản bảo hiểm ước đạt 218,219 tỷ đồng, trong đó, các
DNBH phi nhân thọ là 61,000 tỷ đồng, các DNBH nhân thọ là 157,219 tỷ đồng. Chi trả
quyền lợi bảo hiểm là 16,045 tỷ đồng và đầu tư trở lại nền kinh tế là 171,171 tỷ đồng,
trong đó các DNBH phi nhân thọ đạt khoảng 32,868 tỷ đồng; các DNBH nhân thọ đạt

khoảng 138,303 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, thực hiện Quyết định số 315/QĐ-TTg ngày 01/3/2011 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp đối với 3 sản phẩm bảo hiểm gồm
bảo hiểm cây lúa, bảo hiểm vật nuôi và bảo hiểm thủy sản (tôm, cá) giai đoạn 20112013. Qua 3 năm thực hiện, tổng giá trị bảo hiểm đạt 7,745 tỷ đồng, số hộ nông dân/tổ
chức sản xuất tham gia bảo hiểm đạt 304,017 hộ; tổng phí bảo hiểm đạt 394 tỷ đồng và
số tiền bồi thường bảo hiểm là 713 tỷ đồng.

Đặc điểm thị trường tài chính Việt Nam hiện nay

Do nhiều yếu tố khác quan và chủ quan, xét về tổng thể, thị trường tài chính Việt Nam
hiện nay nổi lên một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, thị trường tài chính chưa phát triển đồng bộ về cơ cấu, chưa
đồng đều về trình độ giữa các bộ phận hợp thành.
Có thể nói, ở nước ta cho đến nay, dường như còn chưa có TTTC thực sự với đầy đủ hình
hài, bộ phận cần có như TTTC ở các nước khu vực có nền kinh tế thị trường phát triển.
Các hoạt động trên TTTC ở nước ta mới chỉ tập trung vào thị trường vốn ngắn hạn, chưa
nhiều các hoạt động trên thị trường vốn dài hạn. Hơn nữa, trong thị trường vốn ngắn hạn
cũng chủ yếu mới chỉ tập trung ở một số hoạt động huy động và cho vay tín dụng thông
thường của các ngân hàng thương mại Nhà nước, còn ở thị trường vốn dài hạn mới chỉ
tập trung ở các hoạt động vay nợ dài hạn của Chính Phủ hoặc doanh nghiệp Nhà nước …
Thị trường chứng khoán - một định chế tài chính tiên tiến, thước đo trình độ phát triển thị
trường của một quốc gia, một hình thức tổ chức trực tiếp giữa người có cung - cầu vốn,
không có trung gian tài chính, một thị trường liên tục, gần với thị trường cạnh tranh hoàn
hảo - thì hầu như chưa hình thành với tư cách một thị trường, cũng như chưa được mở
rộng trên cả nước.
Thứ hai, quy mô thị trường còn nhỏ, các hàng hoá và dịch vụ tài chính còn
nghèo nàn, đơn giản và tính chuyên nghiệp chưa cao
Mặc dầu còn thiếu số liệu đầy đủ để đánh giá tổng quát quy mô thị trường tài chính của
nước ta cả về tổng thể, cũng như từng bộ phận, song có thể cảm nhận thấy sự khiêm tốn
của chúng qua số lượng và quy mô vốn điều lệ, cũng như khả năng thanh toán của các

ngân hàng, công ty tài chính và các cơ sở kinh doanh khác đang hoạt động trong lĩnh vực


tài chính. Hiện tại, trên địa bàn thủ đô Hà Nội - trung tâm tài chính hàng đầu củ cả nước
113 các tổ chức tài chính, tín dụng hoạt động, bao gồm 67 ngân hàng và chi nhánh ngân
hàng, 2 công ty tài chính, 6 công ty cho thuê tài chính, 9 công ty chứng khoán, 9 quỹ tín
dụng nhân dân và 5 quỹ tài chính nhà nước. Các ngân hàng và công ty bảo hiểm quốc
doanh lớn nhất nước ta cũng mới chỉ cung cấp chừng 60 sản phẩm dịch vụ cho các khách
hàng so với từ 200 - 600 sản phẩm dịch vụ hết sức đa dạng và linh hoạt của các ngân
hàng và công ty bảo hiểm trung bình ở các nước phát triển trên thế giới. Đa số dân cư và
phần lớn các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước còn nằm ngoài “vùng phủ sóng” của
các dịch vụ thị trường tài chính; nhiều doanh nghiệp đang khát vốn kinh doanh, trong khi
thiếu cơ chế và công cụ hiệu quả khai thông nguồn vốn “chết” trong dân, trong các ngân
hàng… Tính chuyên nghiệp và năng động của các nhân viên và cơ sở kinh doanh tín
dụng “đen” hoặc tư nhân ở góc độ nào đó đang tỏ ra hiệu quả hơn so với các cơ sở tín
dụng quốc doanh.
Thứ ba, thị trường tài chính còn tập trung vào “sân chơi” và đối tác thuộc
khu vực kinh tế Nhà nước, chưa có sự liên thông và mở rộng trong cả nước
cũng như với nước ngoài.
Có thể nhận thấy trong bức tranh chung hoạt động của thị trường tài chính ở nước ta, các
điểm sáng và đầu mối cung - cầu lớn nhất, các công cụ tài chính quan trọng nhất, dường
như đều tập trung trong sân chơi giữa các đối tác thuộc khu vực kinh tế Nhà nước với
nhau hoặc huy động vốn từ xã hội, nhưng lại đầu tư cho khu vực kinh tế này, và ước tính
có lẽ chiếm không dưới 80% tổng giá trị các giao dịch hiện hành trên thị trường tài chính
nước ta.Các ngân hàng, cơ sở kinh doanh tài chính tư nhân và các đối tượng vay vốn tư
nhân còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Rất nhiều doanh nghiệp tư nhân ở nước ta đang gặp khó
khăn trong tiếp cận các dịch vụ tài chính - ngân hàng do thiếu tài sản thế chấp, thiếu dự
án kinh doanh “khả thi”, thiếu thông tin cần thiết, thiếu sự thấu hiểu và tận tuỵ của ngân
hàng hoặc đơn giản chỉ là do chưa quen vì chưa từng được hưởng các dịch vụ tài chính
này…

Thứ tư, thị trường tài chính hoạt động chưa mang tính thị trường cao và chưa
gắn đồng bộ với các thị trường khác trong nền kinh tế.
Rất nhiều ngân hàng, công ty tài chính vẫn còn mang dáng dấp và phong cách kinh doanh
của thời bao cấp. Hơn nữa, do còn một số bất cập trong khung pháp lý về hoạt động, do
tập trung vào các đối tác thuộc khu vực kinh tế Nhà nước, nên các nguyên tắc kinh doanh
thị trường nhiều khi được thực hiện một cách ước lệ, hình thức. Dòng vốn xã hội, thông
qua TTTC, vẫn chưa được thực sự chảy đến những nơi cần đến và tuân theo tín hiệu,
nguyên tắc thị trường. Tính cạnh tranh thị trường giữa các ngân hàng mới được khởi
động gần đây, từ khi Ngân hàng Nhà nước áp dụng chế độ lãi suất cơ bản và bãi bỏ kiểm
soát lãi suất … Nợ quá hạn, khó đòi của nhiều ngân hàng còn cao hơn ngân hàng chịu sức


ép “cho vay chính sách”, còn các đối tác được vay thì sẵn tâm lý xin hỗ trợ chính sách
càng nhiều càng tốt …
Hơn nữa, thị trường tài chính dường như còn hoạt động một cách đơn độc, thiếu gắn kết
đồng bộ với nhiều thị trường và các hoạt động kinh tế - xã hội lớn khác. Chẳng hạn, thị
trường chứng khoán còn thờ ơ với quá trình cổ phần hoá DNNN; hoặc thị trường tiền tệ
trong nước còn khá “lãnh đạm” với thị trường tài chính quốc tế… Những rủi ro phi thị
trường còn lớn đối với các hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính, nhất là thị
trường chứng khoán (do thông tin cổ phiếu thiếu về số lượng, không đảm bảo về chất
lượng hoặc không kịp thời…).
Thứ năm, thị trường tài chính đang từng bước được xây dựng, củng cố và
phát triển phù hợp quá trình chuyển đổi cơ chế và đáp ứng các cam kết hội
nhập và thông lệ quốc tế.
Đây đã, đang và sẽ còn là đặc điểm lớn nhất bao trùm, xuyên suốt, chi phối và định
hướng toàn bộ quá trình vận động của thị trường tài chính Việt Nam. Cùng với sự chuyển
biến về nhận thức và sự hoàn thiện cơ chế thị trường mở nói chung, hệ thống pháp lý
kinh tế nói riêng, thị trường tài chính Việt Nam sẽ ngày càng được củng cố và phát triển
vững chắc, an toàn và hiệu quả hơn cả về bề rộng lẫn bề sâu. Các bộ phận thị trường
trong hệ thống thị trường tài chính sẽ tiếp tục mở rộng về quy mô, tăng thêm các công cụ,

dịch vụ chuyên nghiệp, phân nhánh chi tiết và rõ nét hơn các bộ phận thị trường chuyên
biệt (ví dụ, thị trường cổ phiếu doanh nghiệp sẽ phân thành thị trường cổ phiếu của nhóm
doanh nghiệp cơ khí, nhóm doanh nghiệp may mặc, nhóm doanh nghiệp giầy…). Kiến
thức, tâm lý và thông tin về thị trường tài chính sẽ được củng cố, cải thiện cả về phía bên
cung lẫn bên cầu, cũng như bên trung gian và toàn xã hội, tạo thuận lợi cho hoạt động của
thị trường tài chính. Đặc biệt, thị trường tài chính Việt Nam sẽ ngày càng được kết nối
đồng bộ với các thị trường khác trong nền kinh tế, được liên thông với thị trường tài
chính quốc tế và thu hút ngày càng rộng rãi hơn và phục vụ ngày càng có chất lượng,
hiệu quả hơn mọi thành viên, đối tác và các hoạt động kinh tế - xã hội đất nước.
Những kế hoạch, mục tiêu được đặt ra về thị trường tài chính trong năm 2016 đã giải
quyết được các vấn đề vướng mắc hiện nay và định hình bước đi đúng đắn cho tình hình
kinh tế tài chính của Việt Nam trong những năm tới. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải
chú ý đến một số rào cản bên ngoài đã được dự báo trước có thể sẽ ảnh hưởng không nhỏ
đến tình hình trong nước như sự biến động về dòng vốn, sự tăng trưởng chậm lại của
Trung Quốc trong năm 2016, thông tin việc FED tăng lãi suất và những bất ổn địa chính
trị. Đòi hỏi Việt Nam phải có những hướng đi, những lộ trình cụ thể, đúng đắn và vận
dụng một cách linh hoạt để đạt được kết hoạch tối ưu nhất.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, thị trường tài chính cũng bộc lộ
không ít bất cập, cũng như những rủi ro tiềm ẩn có thể dẫn đến bất ổn đối với hoạt động
của thị trường tài chính nói riêng và của nền kinh tế nói chung.Điều này đã được thể hiện
khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 - 1998 cũng như cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008, khi đó hoạt động thị trường tài


chính và hoạt động của các doanh nghiệp rất trì trệ, nền kinh tế tăng trưởng thấp do mức
độ phát triển của thị trường tài chính chưa cân đối, hài hòa; ngân hàng vẫn đóng vai trò
chi phối trong việc cung cấp tín dụng cho nền kinh tế; tình hình xử lý nợ xấu của các tổ
chức tín dụng còn chậm, thiếu nguồn lực tài chính an toàn; còn tồn tại tình trạng sở hữu
chéo và chi phối ngân hàng; công tác giám sát ngân hàng chưa thật hiệu quả; các kênh
cung cấp tài chính trung và dài hạn như TTCK chưa thực sự phát huy tác dụng; khuôn

khổ thể chế, pháp lý, hệ thống thông tin, hệ thống quản trị, hệ thống thanh toán chưa đầy
đủ và đồng bộ; việc tuân thủ và thực hiện theo các chuẩn mực quốc tế chưa đầy đủ và
toàn diện.Bên cạnh đó, có một số rủi ro đang tiềm ẩn trong thị trường tài chính liên quan
đến sự lành mạnh tài chính của các định chế tài chính nhận tiền gửi của dân chúng; tính
thanh khoản của thị trường tiền tệ và thị trường vốn; hành vi giao dịch trên thị trường vốn
của các chủ thể tham gia; rủi ro đan chéo giữa các khu vực bộ phận của thị trường tài
chính cũng như trong bản thân của các tập đoàn tài chính; một số định chế tài chính thiết
lập các công ty trực thuộc tiến hành hoạt động đầu tư không được điều chỉnh theo pháp
luật hiện hành.
Ngoài ra, hệ thống kiểm tra, giám sát, thanh tra dựa trên cơ sở rủi ro đang đối mặt với các
thách thức như sự phát triển của các tập đoàn tài chính; sự phát triển của thị trường vốn,
đặc biệt là thị trường trái phiếu sẽ liên quan đến tất cả các tổ chức và cơ quan quản lý,
điều này đòi hỏi tính cấp thiết của nhu cầu điều phối và hợp tác trong công tác điều hành
thị trường tài chính quốc gia.
II.

CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG
Cơ sở để phân loại các thị trường tài chính rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên căn cứ
vào thuộc tính của thị trường hay dựa trên những đặc điểm như thời hạn của các công cụ
tài chính hay tính chất của các giao dịch có thể phân loại thị trường tài chính theo nhiều
cách khác nhau.

Căn cứ theo thời hạn thanh toán của các công cụ tài chính
Theo cách phân chia này, thị trường tài chính được cấu trúc bới thị trường tiền tệ và thị
trường vốn.

Thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là thị trường mua và bán các chứng khoán nhà nước và chứng khoán
công ty có thời gian đáo hạn dưới 1 năm. Thị trường tiền tệ bao gồm 4 thị trường bộ phận
chủ yếu: thị trường tín dụng ngắn hạn; thị trường hối đoái (vàng và ngoại tệ); thị trường

liên ngân hàng; thị trường mở.
+Thị trường tín dụng ngắn hạn: là 1 cơ chế diễn ra các hoạt động giao dịch giữa các ngân
hàng thương mại với công chúng và doanh nghiệp. Chủ thể của thị trường tín dụng ngắn
hạn là các trung gian tài chính, các trung gian tài chính là nơi cung cấp cho doanh nghiệp
những khoản tín dụng ngắn hạn dưới các hình thức cho vay, chiết khấu, cầm cố. Và là nơi


để doanh nghiệp gửi vốn tạm thời nhàn rỗi, cung cấp các dịch vụ thanh toán, ngân quỹ
cho doanh nghiệp.
+Thị trường hối đoái chuyên giao dịch, trao đổi các loại ngoại tệ. Chủ thể của thị trường
hối đoái là người được phép kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc (trong đó chủ yếu là ngân
hàng thương mại), các doanh nghiệp tham gia giao dịch hối đoái, ngân hàng trung ương
tham gia thị trường để thực hiện chính sách tiền tệ và các cá nhân được phép giao dịch
hối đoái có nhu cầu. Các doanh nghiệp có thể mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại ngân
hàng thương mại để thực hiện giao dịch thanh toán, mua bán ngoại tệ phục vụ mục đích
kinh doanh.
+Thị trường liên ngân hàng: là 1 cơ chế diễn ra các giao dịch giữa các ngân hàng thương
mại với nhau và ngân hàng nhà nước. Tại thị trường này hình thành lãi suất cơ bản của
thị trường tài chính: lãi suất cho vay của thị trường liên ngân hàng.
+Thị trường mở: là thị trường mua bán các loại chứng khoán nhà nước ngắn hạn như: tín
phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ,… nhằm điều tiết cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế.
Tức thông qua thị trường mở, ngân hàng Trung ương có thể làm cho “tiền dự trữ” của các
ngân hàng thương mại tăng lên hoặc giảm xuống, từ đó tác động đến khả năng cung cấp
tín dụng của ngân hàng thương mại làm ảnh hưởng đến khối lượng tiền tệ của nền kinh
tế.

Thị trường vốn
Thị trường vốn là thị trường trong đó bao gồm các giao dịch mua bán các công cụ tài
chính có thời hạn thanh toán trên 1 năm. Thị trường vốn hoạt động với các công cụ thuộc
về vốn chủ và vốn vay dài hạn có thời gian đáo hạn trên 1 năm: trái phiếu, cổ phiếu.

Thị trường vốn có 4 thị trường bộ phận là: thị trường chứng khoán, thị trường tín dụng
trung và dài hạn, thị trường cho thuê tài chính và thị trường cầm cố bất động sản.
+Thị trường cầm cố bất động sản: là 1 cơ chế chuyên cung cấp những khoản tài trợ dài
hạn được đảm bảo bằng việc cầm cố, thế chấp, các loại giấy chứng nhận quyền sở hữu
hay các loại bất động sản.
+Thị trường chứng khoán: là 1 cơ chế chuyên giao dịch các loại chứng khoán, đó là thị
trường sử dụng các loại thông tin, dữ liệu có liên quan đến mức sinh lời tiềm năng và coi
đó như 1 chuẩn mực đầu tư. Các loại công cụ vốn, trái khoán, được sử dụng giao dịch
trên thị trường chứng khoán bao gồm cổ phiếu, trái phiếu công ty, công trái quốc gia và
nhiều loại giấy tờ có giá khác.
+Thị trường tín dụng trung và dài hạn: là thị trường diễn ra các giao dịch tín dụng nhằm
tài trợ cho các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh khác thuê dài hạn hay thuê mua trả
góp các loại máy móc thiết bị hay các loại bất động sản.
+Thị trường cho thuê tài chính: là thị trường diễn ra các hoạt động tín dụng trung gian và
dài hạn thông qua việc cho thuê các máy móc, thiết bị, phương tiên vận chuyển và các bất
động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên thuê và bên cho thuê.


Căn cứ trên phương diện cơ chế giao dịch
Trong khi đó, trên phương diện cơ chế giao dịch, thị trường tài chính được cấu trúc bởi
thị trường sơ cấp hay còn gọi là thị trường cấp một và thị trường thức cấp hay còn gọi là
thị trường cấp hai.

2.1Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mới phát hành, trong đó những công cụ tài chính chỉ mới
bán ra lần đầu. Ở đây, nguồn vốn thông qua việc bán các chứng khoán mới, dịch chuyển
từ người tiết kiệm đến những người đầu tư.
Thị trường sơ cấp là thị trường không có địa điểm cố định, người bán công cụ tài chính
cho người đầu tư hoặc trực tiếp tại phòng của tổ chức huy động vốn, hoặc thông qua tổ
chức đại lý. Đối với nhà đầu tư, thị trường sơ cấp là nơi để thực hiện đầu tư vốn vào các

công cụ tài chính. Do các công cụ tài chính được bán trên thị trường sơ cấp thường không
thông qua đấu giá nên việc định giá công cụ tài chính lúc bán ra hết sức quan trọng.
Riêng đối với việc bán cổ phiếu ra lần đầu, việc định giá để bán có 2 phương thức chính,
đó là:
+Phương thức định giá cố định: người bảo lãnh phát hành và người phát hành thỏa thuận
ấn định giá sao cho đảm bảo quyền lợi của người phát hành, lợi ích của người bảo lãnh
phát hành.
+Phương thức lập sổ (book building): Người bảo lãnh phát hành đề ra 1 phương án sơ bộ
và tổ chức thăm dò các nhà đầu tư tiềm tàng về số lượng, giá cả cổ phiếu mà họ có thể
đặt mua, sau đó thống kê lại số lượng phát hành với những mức giá khác nhau để cùng
người phát hành chọn ra những phương án tối ưu.

2.2Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là thị trường tài chính mà các công cụ tài chính đã mua bán lần đầu
tiên trên thị trường sơ cấp được mua đi bán lại. Trên thị trường thứ cấp, các chứng khoán
này được mua và bán. Các giao dịch của các chứng khoán trên thị trường thứ cấp không
làm tăng thêm vốn để tài trợ cho hoạt động đầu tư.
Thị trường thứ cấp có 2 chức năng chủ yếu:
+Tạo tính “lỏng” cho các công cụ tài chính sơ cấp, vì vậy làm cho các công cụ tài chính
trên thị trường sơ cấp có sức hấp dẫn hơn. Không có thị trường thứ cấp thì hoạt động của
thị trường sơ cấp sẽ khó khăn, hạn chế.
+Xác định giá các công cụ tài chính đã được bán trên thị trường sơ cấp. Gía ở thị trường
thứ cấp được hình thành chủ yếu dựa trên quan hệ cung – cầu và thông qua đấu giá hoặc
thương lượng giá trên thị trường 1 các công khai hóa.
Ngoài ra, trong thị trường tài chính phải kể đến các tổ chức tham gia giao dịch cũng như
các trung gian tài chính, các tổ chức tiền gửi, công ty bảo hiểm, các trung gian tài chính
khác.


III.


CHÍNH SÁCH ĐIỀU TIẾT CỦA CHÍNH PHỦ
Định hướng của Đảng và Nhà nước
Trong bối cảnh tiến trình đổi mới và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đang được thúc
đẩy nhanh, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của Đại hội Đảng XI đã chỉ
rõ: “Phát triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô tăng nhanh, phạm vi
hoạt động mở rộng, vận hành an toàn, được quản lý và giám sát hiệu quả. Phát triển và
kiểm soát có hiệu quả TTCK…”.
Có thể nói, Đảng và Nhà nước đã nhận thức được rõ vị trí quan trọng của thị trường tài
chính trong quá trình đổi mới và hội nhập, nên đã chú trọng đặc biệt đến việc phát triển
một cách đầy đủ, toàn diện thị trường này cả về cơ chế vận hành, khuôn khổ pháp luật,
chiến lược phát triển sản phẩm, cũng như năng lực cung cấp dịch vụ.
Triển khai chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển thị trường tài chính, Chiến
lược tài chính đến năm 2020 đã xác định các nhiệm vụ cụ thể là: “Phát triển đồng bộ các
loại thị trường; tái cấu trúc thị trường tài chính và các dịch vụ tài chính; mở rộng và đa
dạng hóa các hình thức hoạt động trên thị trường để động viên các nguồn lực trong và
ngoài nước cho phát triển kinh tế - xã hội”.
+Theo đó, tập trung cơ cấu lại thị trường tài chính, bảo đảm lành mạnh hóa và ổn định
vững chắc kinh tế vĩ mô, hướng tới loại bỏ nguy cơ mất an toàn hệ thống.
+Đẩy mạnh tái cơ cấu ngân hàng thương mại và xử lý nợ xấu, nâng cao hiệu quả và năng
lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Thực hiện các chính sách tín dụng, lãi suất,
tỷ giá, các công cụ của Ngân hàng Nhà nước theo nguyên tắc thị trường và có sự quản lý
của Nhà nước.
+Hình thành và phát triển đồng bộ cơ cấu của thị trường vốn, trong đó TTCK có vai trò
quan trọng, đảm bảo huy động và phân bổ có hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho tăng trưởng
kinh tế; phối hợp chặt chẽ với thị trường tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định
tiền tệ; hội nhập thành công với thị trường vốn quốc tế; đảm bảo thị trường hoạt động
minh bạch, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động
trên thị trường; tổ chức vận hành thị trường vốn hoạt động an toàn, hiệu quả và lành
mạnh, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

+Tập trung phát triển TTCK có khả năng cạnh tranh trong khu vực, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể tham gia TTCK. Thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái
phiếu, bao gồm thị trường trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái
phiếu công ty. Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu phấn đấu đạt khoảng 50% GDP vào
năm 2015 và đạt khoảng 70% vào năm 2020; dư nợ thị trường trái phiếu đạt khoảng 30%
GDP vào năm 2020; tổng doanh thu ngành bảo hiểm đạt 2 - 3% GDP vào năm 2015 và 3
- 4% GDP vào năm 2020.
+Phát triển bộ máy giám sát tài chính đồng bộ, có khả năng phân tích, đánh giá, cảnh báo
trung thực mức độ rủi ro của toàn bộ hệ thống tài chính và từng phân đoạn trong hệ thống
tài chính.


Các giải pháp mở rộng thị trường tài chính
Nối tiếp những kết quả trên, nhằm phát huy vai trò của TCTC trong bối cảnh tái cơ cấu
nền kinh tế, trong thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp để phát triển KVTC, cụ
thể như sau:
Thứ nhất, đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính:
- Đổi mới và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp lý về hoạt động ngân hàng. Cụ thể,
ban hành chuẩn mực an toàn vốn phù hợp với Basel II; Sửa đổi, bổ sung quy định về cấp
tín dụng, phân loại nợ, trích lập; Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm tiền
gửi và Luật Phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố; Hoàn thiện các quy định về cấp phép
thành lập TCTD; Sửa đổi, bổ sung hệ thống kế toán của các TCTD phù hợp hơn với
chuẩn mực kế toán quốc tế; Đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2011 2015 theo Quyết định số 2459/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ;
- Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả thanh tra, giám sát ngân hàng thông qua việc
hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng;
Phát triển hệ thống giám sát theo tiêu chuẩn CAMELS - hệ thống đánh giá tình trạng
vững mạnh của các TCTC và cảnh báo sớm trong hoạt động ngân hàng...;
- Tạo điều kiện cho các TCTD sáp nhập, hợp nhất, mua lại thông qua tìm kiếm, giới thiệu
đối tác, cung cấp thông tin cho các TCTD có nhu cầu tham gia, hỗ trợ về kỹ thuật, pháp
lý và thủ tục;

- Điều hành chủ động, linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, tỷ giá, lãi
suất theo nguyên tắc thị trường để bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng; Giảm thiểu rủi
ro cho nền kinh tế, đồng thời góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững;
- Tiếp tục hiện đại hóa và phát triển đồng bộ hệ thống công nghệ ngân hàng. Đặc biệt, hệ
thống thông tin quản lý của NHNN và hệ thống thanh toán ngân hàng phù hợp với các
nguyên tắc cơ bản của các hệ thống thanh toán trọng yếu của Ngân hàng thanh toán quốc
tế.
Thứ hai, đối với thị trường chứng khoán:
TTCK Việt Nam trong thời gian qua đã có những chuyển biến khả quan, nhờ vào những
tín hiệu ổn định kinh tế vĩ mô và các giải pháp tích cực trong lĩnh vực chứng khoán. Để
đẩy mạnh hơn nữa, thời gian tới cần tiếp tục triển khai các giải pháp sau:
- Rà soát, đánh giá hệ thống văn bản pháp luật nhằm đẩy nhanh tiến trình tái cấu trúc và
phát triển TTCK: Tiếp tục hoàn thiện các đề án như: Đề án TTCK phái sinh; Nghị định
về TTCK phái sinh; Đề án thành lập Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam và quyết định
về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư (NĐT) nước ngoài trên TTCK Việt Nam;


- Thực hiện tái cấu trúc cơ sở hàng hóa: Nâng cao chất lượng DN niêm yết, tăng cường
tính minh bạch trên TTCK, đẩy nhanh cổ phần hóa, đấu giá cổ phần các DN nhà nước
nhằm tạo hàng hóa có chất lượng cao cho thị trường;
- Thực hiện tái cấu trúc cơ sở NĐT và tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán:
Trên cơ sở phân loại và nâng cao chất lượng dịch vụ chứng khoán; Nâng cao năng lực tài
chính, quản trị công ty, quản trị rủi ro, cho phép NĐT nước ngoài sở hữu các tổ chức
kinh doanh theo các cam kết của Tổ chức Thương mại thế giới, khuyến khích các tổ chức
tài chính quốc tế có uy tín tham gia;
Tiếp tục tái cấu trúc tổ chức quản lý thị trường: Xây dựng và hoàn thiện đề án, quyết định
về tổ chức và hoạt động của Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam trên nguyên tắc thống
nhất về chức năng như bộ máy quản lý và quản trị hoạt động; Củng cố mô hình hoạt động
độc lập của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam theo hướng bổ sung chức năng

đối tác thanh toán trung tâm...
Thứ ba, đối với TTBH:
Trong năm 2014, TTBH được định hướng phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững; Tiếp
cận các chuẩn mực quốc tế; Nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cho các lĩnh
vực kinh tế và dân cư; Góp phần ổn định nền kinh tế - xã hội. Theo đó, giải pháp áp dụng
nhằm phát triển TTBH trong thời gian tới cụ thể gồm:
- Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của
TTBH; Bổ sung các quy định về bảo hiểm bảo lãnh; Ban hành tiêu chí đánh giá, xếp loại
DNBH; Ban hành quy định triển khai BHNT qua ngân hàng; Sửa đổi, bổ sung chế độ bảo
hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; Phê duyệt các quy chế quản lý, sử
dụng Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm; Nghiên cứu xây dựng chính sách phát triển
BHNT dành cho người có thu nhập thấp;
- Tiếp tục thực hiện các giải pháp tái cấu trúc DNBH theo đúng lộ trình; Tăng cường
công tác quản lý, giám sát, đảm bảo mức độ an toàn vốn của các DNBH phù hợp với quy
mô hoạt động, cơ cấu đầu tư và khả năng thanh toán theo quy định của pháp luật; Tổ
chức kiểm tra hoạt động chi trả, giải quyết quyền lợi cho khách hàng của các DNBH;
- Mở rộng, phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm bảo hiểm. Đồng thời, triển khai
thí điểm bảo hiểm hưu trí tự nguyện. Đặc biệt là tăng cường hợp tác giữa các DNBH,
khắc phục tình trạng trục lợi bảo hiểm và cạnh tranh không lành mạnh; Củng cố bộ máy
tổ chức, nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của Hiệp hội bảo hiểm...

Các giải pháp nâng cao hiệu quả phối hợp CSTK và CSTT giai đoạn
2016-2020
+Một là, nên có sự phối hợp CSTK và CSTT trong việc xác định mục tiêu kinh tế vĩ mô
ưu tiên trong từng thời kỳ và phải tuân thủ điều phối chung cho mục tiêu đó.Trong giai
đoạn tới, trên cơ sở thực trạng và diễn biến của kinh tế trong nước cũng như quốc tế, cần
xác định rõ mục tiêu kinh tế vĩ mô là: tập trung tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn


định, trong đó chú ý đến các vấn đề về lạm phát và các cân đối vĩ mô, tạo môi trường

thuận lợi cho DN phát triển thay vì mục tiêu hướng tới tăng trưởng nhanh như giai đoạn
trước đây.
Theo đó, Bộ Tài chính và NHNN nên có sự phối hợp trong việc xác định mục tiêu vĩ mô
ưu tiên trong từng thời kỳ và phải tuân thủ điều phối chung cho mục tiêu đó. Đồng thời,
Chính phủ nên xem xét đến việc chuyển đổi khung mục tiêu chính sách theo hướng thực
hiện chính sách mục tiêu lạm phát linh hoạt - mục tiêu lạm phát linh hoạt nhằm hướng
hai chính sách vào mục tiêu chung.
Trên cơ sở các mục tiêu chung, NHNN và Bộ Tài chính sẽ cùng tham gia xác định khung
mục tiêu chính sách cho giai đoạn trung hạn, tạo thế chủ động và linh hoạt trong quá trình
phối hợp để đạt mục tiêu, xây dựng kế hoạch tài chính – tiền tệ tổng thể cho từng năm,
trong đó các vấn đề về bội chi ngân sách, đầu tư công, hiệu quả đầu tư cần phải được tính
toán và xem xét cụ thể trên các vấn đề có liên quan tới CSTT như tổng phương tiện thanh
toán, tăng trưởng tín dụng... để đảm bảo việc thực thi 2 chính sách được đồng bộ và hiệu
quả.
+Hai là, phải có nhất quán giữa các mục tiêu chính sách ngắn hạn và dài hạn trong phối
hợp CSTK - CSTT. Về ngắn hạn, CSTK - CSTT cần phối hợp chặt chẽ nhằm đạt được
mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức dưới một con số và hỗ trợ tăng
trưởng, đồng thời tháo gỡ khó khăn cho DN, thúc đẩy sản xuất kinh doanh của DN. Về
dài hạn, CSTK phải hướng tới việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế
xã hội, hỗ trợ tăng trưởng bền vững.
Thu chi ngân sách và tín dụng nhà nước phải gắn chặt với mục tiêu ổn định tiền tệ. CSTT
phải kiên trì với mục tiêu ổn định lạm phát, vấn đề kiểm soát mức độ tăng giá cần phải
được đặt lên hàng đầu không chỉ trong thời kỳ có lạm phát cao mà ngay cả thời kỳ lạm
phát thấp nhằm tạo lập niềm tin cho thị trường, xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn
định.
Theo đó, cần tính toán và kiểm soát được lượng cung tiền (tổng phương tiện thanh toán
M2) trên cơ sở lạm phát mục tiêu, tốc độ tăng trưởng GDP và các yếu tố khác. Chủ động
sử dụng các công cụ của CSTT để kiểm soát cung tiền, tiến tới chuyển từ kiểm soát M2
sang điều hành dựa vào mục tiêu trung gian khác là lãi suất.
+Ba là, thiết lập hệ thống cung cấp thông tin, thực hiện minh bạch đối với các kỳ vọng

chính sách cũng như trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định và thực thi chính
sách.
Đối với CSTT, việc hoạch định và thực thi chính sách phải phải đảm bảo duy trì tính ổn
định của kinh tế vĩ mô trong khuôn khổ điều tiết lãi suất thị trường theo hướng kiềm chế
lạm phát, ổn định sức mua đồng tiền, kiểm soát tỷ giá, huy động vốn và cung cấp vốn cho
thị trường; phát triển hệ thống ngân hàng tạo cơ sở thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền
vững qua đó tạo điều kiện tăng nguồn thu và huy động vốn để bù đắp thâm hụt cho ngân
sách nhà nước.


Đối với CSTK, cần nỗ lực tập trung các khoản thu, chi ngân sách nhà nước nhằm đạt
được mục tiêu ổn định nền kinh tế, phát triển nền kinh tế vĩ mô bền vững, xác lập cơ sở
kinh tế cho việc thực thi CSTT có hiệu quả, kiểm soát lạm phát, giữ sức mua của đồng
tiền ổn định và phát triển thị trường tiền tệ.
+Bốn là, tiến tới thực hiện khuôn khổ CSTT lạm phát mục tiêu và nâng cao kỷ luật tài
khóa. Với việc xác định mục tiêu phối hợp tài khóa – tiền tệ giai đoạn tới tập trung vào
việc xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thì việc áp dụng chính sách khuôn khổ
lạm phát mục tiêu và nâng cao kỷ luật tài khóa là lựa chọn thích hợp đối với CSTK CSTT của Việt Nam.
Đối với điều kiện hiện nay của Việt Nam, để có thể áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu
trong tương lai cần phối hợp đồng bộ các nhóm giải pháp sau: (i) Nhóm giải pháp đổi
mới thể chế: Xây dựng Luật Ngân hàng Trung ương Việt Nam thay thế Luật NHNN theo
hướng đổi mới NHNN thành Ngân hàng Trung ương hiện đại; (ii) Nhóm giải pháp kỹ
thuật: Hoàn thiện phương pháp xác định chỉ số lạm phát (CPI); (iii) Nhóm giải pháp hỗ
trợ: Đẩy mạnh công tác truyền thông về lạm phát mục tiêu; Nâng cao năng lực dự báo;
Phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính; Củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng;
Nâng cao tính minh bạch của CSTT; Phối hợp tốt giữa CSTK và CSTT; Hoàn thiện cơ
chế điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng linh hoạt hơn. Đối với CSTK, cần tăng cường
kỷ luật tài khóa, cải thiện tính minh bạch, công khai trong quy trình ngân sách, mở rộng
hình thức và nội dung công khai; tăng cường trách nhiệm giải trình.
+Năm là, phối hợp CSTK - CSTT phải tính đến sự phối hợp với các chính sách vĩ mô

khác, đặc biệt giám sát thận trọng vĩ mô. Trong quá trình phối hợp CSTK và CSTT, cần
xem xét và tính đến sự phối hợp với các chính sách khác, đặc biệt là các biện pháp giám
sát thận vĩ mô thận trọng. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng và được quan tâm nhiều
trong bối cảnh Việt Nam tham gia ngày càng nhiều vào các khu vực thương mại, các hiệp
định thương mại tự do (Cộng đồng Kinh tế ASEAN, TPP, Việt Nam – EU...), nhằm hạn
chế sự biến động của các dòng vốn vào – ra , đồng thời tạo sự ổn định tài chính trong nền
kinh tế.


NGUỒN THAM KHẢO:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Tapchitaichinh.vn
Giáo trình Ngân Hàng Trung Ương ĐH Kinh Tế TPHCM
Quantri.vn
Đặc san Toàn cảnh ngân hàng 2016
Tapchithue.com.vn
Tạp chí Tài chính số 7 – 2014
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ1+2 tháng 1/2016



×