Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Tiểu luận Quy hoạch du lịch tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.09 KB, 48 trang )

Chương 1 - ĐÁNH GIÁ, PHÂN TÍCH NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN DU
LỊCH TỈNH QUẢNG NINH
1.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÍ
 Lãnh thổ
Quảng Ninh là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Tỉnh
Quảng Ninh nằm ở vị trí có kinh độ 106º25'đến 108º25' Đông và vĩ độ
20º40' đến 21º40' Bắc, với bề rộng 195 km từ Đông sang Tây và trải dài 102 km từ
Bắc xuống Nam. Điểm cực bắc là dãy núi cao thuộc thôn Mỏ Toòng, xã Hoành
Mô, huyện Bình Liêu. Điểm cực nam ở đảo Hạ Mai thuộc xã Ngọc Vừng, huyện
Vân Đồn. Điểm cực tây là sông Vàng Chua ở xã Bình Dương và xã Nguyễn Huệ,
huyện Đông Triều. Điểm cực đông trên đất liền là mũi Gót ở đông bắc xã Trà Cổ,
thị xã Móng Cái.
Quảng Ninh có biên giới quốc gia và hải phận giáp giới nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa. Trên đất liền, phía bắc của tỉnh (có các huyện Bình Liêu,
Hải Hà và thị xã Móng Cái) giáp huyện Phòng Thành và thị trấn Đông Hưng, tỉnh
Quảng Tây với 132,8 km đường biên giới; phía đông là vịnh Bắc Bộ; phía tây giáp
các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương; phía nam giáp Hải Phòng. Bờ biển dài
250 km.
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh Quảng Ninh là 611.081,3 ha (số liệu năm
1998). Trong đó đất nông nghiệp 243.833,2 ha, đất chuyên dùng 36.513 ha, đất ở
6.815,9 ha, đất chưa sử dụng 268.158,3 ha.
 Kinh tế - chính trị
Quảng Ninh là một tỉnh có điều kiện tự nhiên đa dạng phong phú về nhiều mặt.
Đó là những tiềm năng to lớn để Quảng Ninh phát triển một nền kinh tế khá toàn
diện từ sản xuất công, nông, ngư nghiệp đến phát triển thương mại, dịch vụ. Đặc
biệt là Quảng Ninh có tiềm năng phát triển du lịch rất lớn. Chính vì vậy mà Quảng
Ninh đang là một một trọng điểm trong chiến lược phát triển kinh tế của vùng tam
giác Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
- Về nông nghiệp
Do đặc thù địa hình, Quảng Ninh không có điều kiện đề trồng cây lương
thực thực phẩm như các tỉnh khác ở vùng đồng bằng sông Hồng. Thay vào đó, tỉnh


đang chú trọng phát triển các loại cây công nghiệp và ăn quả như thông, chè, dứa,
nhãn, vải... Ngành chăn nuôi của tỉnh cũng rất phát triển với các loại vật nuôi như
trâu, bò, lợn, bê, gà, ngan, ngỗng, vịt...Đáng chú ý là Quảng Ninh có giống lợn
Móng Cái nổi tiếng vì dễ nuôi, chóng lớn, nạc nhiều, sinh sản tốt. Các huyện miền
Đông còn nuôi nhiều ngan lai vịt, tiếng địa phương gọi là "cà sáy" thịt ngon,
chóng lớn. Quảng Ninh cũng là nơi nhập nhiều giống ngoại: trâu Mu-ra ấn Độ, bò
Sinơ ấn Độ, bò sữa Hà Lan, ngựa, cừu, dê Mông Cổ. Hiện nay trong đàn gia súc
có thêm hươu sao. Thế mạnh nông nghiệp của tỉnh là thuỷ hải sản. Hiện nay,
Quảng Ninh là một trong 4 ngư trường lớn nhất cả nước. Dọc chiều dài 250 km bờ
biển Quảng Ninh có trên 40.000 ha bãi biển, 20.000 ha eo vịnh và hàng chục
nghìn ha vũng nông ven bờ là môi trường thuận lợi để phát triển nuôi và chế biến
hải sản xuất khẩu.


- Về công nghiệp
Thế mạnh của tỉnh là ngành công nghiệp khai khoáng. Trong đó, quan
trọng nhất là than đá. Tỉnh có nhiều mỏ than lớn nhất cả nước như Hòn Gai, Hà
Tư, Cẩm Phả, Uông Bí, Cái Bàn. Mỏ than Quảng Ninh sản xuất 90% sản lượng
than toàn quốc, cung cấp cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra, tại
Uông Bí còn có mỏ sắt, Hoành Bồ có mỏ đá chứa dầu, Lệ Viên có mỏ đồng, đảo
Hai Sông có nhiều mỏ đá vôi và nhà máy xi măng, khu Hoành Bồ có mỏ đất sét.
- Về dịch vụ
Quảng Ninh là tỉnh có mạng lưới giao thông vận tải thuận lợi cho giao lưu
kinh tế trong nước và quốc tế. Đường bờ biển dài thuận lợi cho giao thông nội
thuỷ và viễn dương. Hệ thống cảng biển ngày càng phát huy tác dụng tích cực đối
với sự phát triển kinh tế của tỉnh. Khối lượng vận tải hàng hoá của tỉnh tăng nhanh
qua các năm. Khối lượng hành khách vận chuyển là 7.5 triệu người và ngày càng
phát triển về số lượng.
Trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kĩ thuật - xã hội, Quảng Ninh là một trong
những tỉnh phát triển thông tin liên lạc vào loại nhanh và hiệu quả. Hiện nay,

Quảng Ninh là một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước về mật độ sử dụng diện
thoại với 5 máy/ 100 dân.
Với những thuận lợi về vị trí địa lí, thương mại của tỉnh cũng phát triển
vượt bậc, đặc biệt là hai lĩnh vực kinh tế cửa khẩu và du lịch. Để đẩy mạnh kinh tế
thương mại, Quảng Ninh đã củng cố trung tâm thương mại - tài chính ở thành phố
Hạ Long cũng như mở rộng các hệ thống bán lẻ, phát triển kinh tế ngoại thương,
khai thác thị trường mậu biên, trao đổi tiểu ngạch biên giới. Kim ngạch xuất khẩu
trực tiếp của tỉnh tương đối cao..
Quảng Ninh là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc.Quảng Ninh có nhiều Khu kinh tế , Trung tâm thương mại Móng
Cái là đầu mối giao thương giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc và các nước
trong khu vực. Năm 2010, Quảng Ninh là tỉnh có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh đứng thứ 7 ở Việt Nam
Quảng Ninh hội tụ những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội
quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Là một tỉnh có
nguồn tài nguyên khoáng sản, nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng, cung cấp
vật tư, nguyên liệu cho các ngành sản xuất trong nước và xuất khẩu, đóng góp
quan trọng cho sự phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP của tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh với di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long 2 lần được Tổ chức
UNESCO tôn vinh. Với di tích văn hóa Yên Tử, bãi cọc Bạch Đằng, Đền Cửa
Ông, Đình Quan Lạn, Đình Trà Cổ, núi Bài Thơ... thuận lợi cho phát triển du lịch
biển, du lịch sinh thái, du lịch thể thao, du lịch văn hóa tâm linh. Quảng Ninh được
xác định là 1 điểm của vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ, là cửa ngõ quan trọng của
hành lang kinh tế Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh. Có hệ thống cảng biển , cảng
nước sâu có năng lực bốc xếp cho tàu hàng vạn tấn,... tạo ra nhiều thuận lợi cho
ngành vận tải đường biển giữa nước ta với các nước trên thế giới. Quảng Ninh có
hệ thống cửa khẩu phân bố trên dọc tuyến biên giới, đặc biệt cửa khẩu quốc tế


Móng Cái là nơi hội tụ giao lưu thương mại, du lịch, dịch vụ và thu hút các nhà

đầu tư; Là cửa ngõ giao dịch xuất nhập khẩu với Trung Quốc và các nước trong
khu vực.
Quảng Ninh xếp thứ 5 cả nước về thu ngân sách nhà nước (2011) sau thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa-Vũng Tàu và Hải Phòng. Tính đến hết năm
2011 GDP đầu người đạt 2264 USD/năm. (Hạ Long 3063 USD/năm, Móng Cái
2984 USD/năm ,Cẩm Phả 2644 USD/năm ,Uông Bí 2460 USD/năm). Lương bình
quân của lao động trong tỉnh ở các ngành chủ lực như than, điện, cảng và du lịch
đều ở mức cao .(Năm 2011 Điện: 8,6 triệu đồng, Than: 7.7 triệu đồng, Du Lịch Dịch vụ 9.2 triệu đồng).
Quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo; hợp tác kinh
tế quốc tế ngày càng mở rộng
Tỉnh đã phối hợp với các Bộ ngành Trung ương hoàn thành công tác phân
giới cắm mốc trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc đoạn tỉnh
Quảng Ninh quản lý, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, quản lý và bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ, tạo môi trường thuận lợi để tăng cường hợp tác phát triển. Kết hợp
tốt việc củng cố quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế, chú trọng xây dựng
cơ sở chính trị vững mạnh làm nòng cốt để xây dựng khu vực phòng thủ vững
chắc, giữ vững an ninh chính trị, nhất là khu vực biên giới và hải đảo.
Quan hệ đối tác được mở rộng, các hoạt động hữu nghị, giao lưu và hợp tác
Nhân dân với các tỉnh của Trung Quốc (Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam, Trùng
Khánh; khu tự trị dân tộc Choang), tỉnh Gang Won - Hàn Quốc, tỉnh Hủa Phăn Lào và một số địa phương khác trong diễn đàn hợp tác du lịch liên khu vực Đông
Á (EATOF) được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việc tạo dựng và giữ vững
môi trường quốc tế hòa bình, ổn định và thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
 Giao thông, giao lưu trao đổi
Hệ thống giao thông của Quảng Ninh rất phong phú bao gồm giao thông
đường bộ, đường sắt, đường biển và cảng hàng không. Trong đó, hệ thống đường
bộ có 5 tuyến Quốc lộ dài 81 km, đường tỉnh có 12 tuyến với 301 km, 764 km
đường huyện và 2.500 km đường xã, toàn tỉnh có 16 bến xe trong đó 6 bến xe liên
tỉnh hỗn hợp. Đối với hệ thống đường thuỷ nội địa toàn tỉnh có 96 bến thuỷ nội
địa, 5 cảng biển (9 khu bến) thuộc Danh mục cảng biển trong Quy hoạch phát triển

cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Các cảng biển lớn
như Cảng Cái Lân, Cảng Vạn Gia, Cảng Cửa Ông, Cảng Hòn Nét và Cảng Mũi
Chùa. Ngoài ra tỉnh còn có 65 km đường sắt quốc gia thuộc tuyến Kép - Hạ Long
và hệ thống đường sắt chuyên dùng ngành than. Trong tương lai gần, tại huyện
đảo Vân Đồn sẽ hoàn thành Cảng hàng không Quảng Ninh (Sân bay Vân Đồn)
đáp ứng nhu cầu đi lại, giao thương và tham quan du lịch cho người dân và khách
du lịch tới đây. Quảng Ninh cũng đã và đang phát triển dịch vụ thuỷ phi cơ cho
mục đích di chuyển và ngắm cảnh.
 Du lịch
Thành phố Hạ Long là thủ phủ của tỉnh, nơi có Di sản thế giới Vịnh Hạ


Long. Tỉnh cũng được kết nối với 4 cảng biển quốc tế: Cẩm Phả, Cái Lân, Hòn
Gai và Vạn Gia. Về khu vực kinh tế cửa khẩu, tỉnh có 3 khu gồm: Móng Cái,
Hoành Mô, Bắc Phong Sinh và Khu kinh tế đặc biệt (SEZ) Vân Đồn. Toàn tỉnh có
4 thành phố: Hạ Long, Uông Bí, Cẩm Phả, Móng Cái và 1 thị xã: Quảng Yên.
Tỉnh cũng kết nối trong nước với Hải Phòng (cách trung tâm Hải Phòng 70 km),
thành phố lớn thứ ba trên toàn quốc.
Những điểm đến du lịch chính chủ yếu nằm ở khu vực phía đông nam của
tỉnh. Với những tài sản vật thể và phi vật thế vốn có, Quảng Ninh sở hữu những
tiềm năng lớn để trở thành một điểm đến du lịch chính của Việt Nam. Trong vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Quảng Ninh chính là cửa ngõ thông sang thị trường
Trung Quốc, một trong những thị trường lớn nhất thế giới. Với tiềm năng và vị
16 trí địa lý kinh tế thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế và phát triển du lịch với
Trung Quốc cũng như các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ,
Quảng Ninh được xác định là một cực trong tam giác phát triển vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ cùng với Hà Nội và Hải Phòng.
Thành phố Hạ Long là trung tâm chính trị - hành chính - kinh tế - văn hóa
của tỉnh Quảng Ninh, là mắt xích quan trọng trong tam giác kinh tế du lịch Hà Nội
- Hải Phòng - Hạ Long, là trung tâm du lịch của tỉnh với sản phẩm du lịch đặc

trưng của vùng là du lịch biển, du lịch văn hóa, sinh thái, nghỉ dưỡng kết hợp với
các loại hình du lịch khác. Du lịch Quảng Ninh đã và đang đóng một vai trò khá
quan trọng trong ngành du lịch vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và Vùng du lịch
Bắc Bộ, không chỉ thu hút được lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước,
đồng thời cũng mang lại một nguồn thu tương đối lớn. Do đó, sự phát triển của du
lịch tỉnh Quảng Ninh sẽ đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của
ngành du lịch Việt Nam nói chung và sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói
riêng.

1.2. TÀI NGUYÊN DU LỊCH
1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
1.2.1.1. Địa hình
 Đặc điểm hình thái địa hình
Dạng địa hình
1. Núi

Phân tích
- Hơn 80% đất đai là đồi núi
- Có độ cao trung bình trên 1000m
- Các ngọn núi ở Quảng Ninh đã đóng góp vào du
lịch của Quảng Ninh, với việc khai thác các loại hình
du lịch từ các ngọn núi như: du lịch khám phá, mạo
hiểm, chinh phục độ cao của nhiều ngọn núi. Bên
cạnh đó, còn có thể tìm hiểu những nét văn hóa đặc
sắc của một số dân tộc và người dân bản địa…
- Các núi có ý nghĩa du lịch: dãy Quảng Nam Châu
(1.507 m) và Cao Xiêm (1.330 m) chiếm phần lớn
diện tích tự nhiên các huyện Bình Liêu, Hải Hà,



Đầm Hà, dãy Ngàn Chi (1.166 m), đỉnh Yên Tử
(1.068 m) trên đất Uông Bí và đỉnh Am Váp (1.094
m) trên đất Hoành Bồ, núi Bài Thơ, núi Chùa
Lôi/Lôi Âm (thành phố Hạ Long), núi Kỳ
Thượng (huyện Hoành Bồ), núi Chúc Bài Sơn
(huyện Hải Hà)…
2. Đồi (trung du) và đồng - Diện tích chiếm 10% diện tích tự nhiên, bao gồm
bằng
những dải đồi thấp bị phong hoá và xâm thực tạo nên
những cánh đồng từ các chân núi thấp dẫn xuống các
triền sông và bờ biển. Có thể chia thành 2 tiểu vùng :
+ Tiểu vùng phù sa cổ: Là các dạng đồi gò hoặc dải
đất hẹp ở phía Bắc Đông Triều, chạy dọc từ Dốc Đỏ
(Uông Bí) qua Minh Thành, Yên Lập (TX. Quảng
Yên) và dải chạy dọc đường số 4 từ Tiên Yên tới
TP.Móng Cái. Độ cao trung bình 25m, lớp phủ thực
vật bị tàn phá mạnh. Dải đồi có độ dốc thoải nhất là
ở thung lũng sông Vai Lai, có nhiều đồi thấp khoảng
trên dưới 50m, đỉnh bằng, sườn rất thoải. Dạng địa
hình này phù hợp với cây lâu năm và sản xuất nông,
lâm kết hợp.
+ Tiểu vùng phù sa mới: Là vùng đồng bằng để sản
xuất nông nghiệp ở TX. Đông Triều, TX. Quảng
Yên và từ Tiên Yên đến TP. Móng Cái. Đây là
những dải đồng bằng thường có diện tích nhỏ hẹp,
nằm gần như ngang với mực nước biển và là sản
phẩm tích tụ của phù sa biển và phù sa sông. Chúng
còn được tiếp tục lấn ra ngoài khơi bởi những bãi
phù sa biển rất rộng lớn, đặc biệt là ven bờ biển TP.
Móng Cái..

 Các dạng địa hình đặc biệt
Dạng địa hình

Phân tích

1. Ven biển

- Đường bờ biển có chiều dài 250km, với 2.000 hòn
đảo lớn nhỏ của tỉnh chiếm
hơn hai phần ba số đảo trên toàn quốc.
- Các bãi biển và chiều dài của các bãi
Bãi biển Trà Cổ (17km đường bờ biển), Bãi biển Bãi
Cháy - Hạ Long (chiều dài hơn 500m và rộng 100m),
Bãi biển Tuần Châu - Hạ Long (trải dài 2km, độ mặn
25,4 %), Bãi biển Bãi Dài - Vân Đồn (trải dài gần 2
km)…
- Độ mặn, độ trong


Bãi biển

2. Karst

Độ
(‰)

muối

1. Bãi tắm Tuần Châu
25,4

2. Bãi tắm Bãi Cháy
28,7
3. Bãi tắm Ti Tốp
30,9
4. Bãi tắm Bãi Dài
27,2
5. Bãi tắm Trà Cổ
29,9
Nguồn: Trung tâm Quan trắc và Phân tích Môi trường
tỉnh Quảng Ninh, (2011)
- Nhìn chung biển ở Quảng Ninh đều có giới hạn độ
mặn nằm trong quy định đối với vùng bãi tắm, thể thao
dưới nước, nước biển ở Quảng Ninh xanh và trong,
bên cạnh đó còn có nhiều bãi cát trắng dài và mịn.
- Thời gian có thể khai thác (tắm biển): vào mùa hè
khoảng tháng 4 đến tháng 6
- Các bãi biển đẹp có giá trị cho du lịch như: Bãi biển
Trà Cổ, Bãi biển Bãi Cháy - Hạ Long, Bãi biển Ti Tốp
- Vịnh Hạ Long, Bãi biển Tuần Châu - Hạ Long, Bãi
biển Bãi Dài - Vân Đồn, Bãi biển Hồng Vàn - Cô Tô,
Bãi biển Vàn Chảy - Cô Tô…
- Một số đảo đẹp có giá trị cho du lịch như: Đảo Tuần
Châu, Đảo Cô Tô, Đảo Quan Lạn, Đảo Cái Chiên, Đảo
Ngọc Vừng, Đảo Vĩnh Thực,
- Dạng Karst chủ yếu ở Quảng Ninh: Karst ngập nước.
- Một số điểm có giá trị du lịch như:
+ Nhóm 1, là di tích các hang ngầm cổ, tiêu biểu là
hang Sửng Sốt, động Tam Cung, động Lâu Đài, động
Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, Thiên Long,v.v...
+ Nhóm 2, là các hang nền Karst tiêu biểu là Trinh Nữ,

Bồ Nâu, Tiên Ông, Hang Trống v.v..
+ Nhóm 3, là hệ thống các hàm ếch biển, tiêu biểu như
3 hang thông nhau ở cụm hồ Ba Hầm, hang Luồn, Ba
Hang…

1.2.1.2. Khí hậu
 Đặc điểm khí hậu thời tiết
Khí hậu Quảng Ninh tiêu biểu cho khí hậu các tỉnh miền Bắc Việt Nam vừa có
nét riêng của một tỉnh miền núi ven biển. Các quần đảo ở huyện Cô Tô và Vân
Đồn ... có đặc trưng của khí hậu đại dương.
Quảng Ninh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới có một mùa hạ nóng ẩm, mưa
nhiều; một mùa đông lạnh, ít mưa và tính nhiệt đới nóng ẩm là bao trùm nhất.
Do nằm trong vành đai nhiệt đới nên hàng năm có hai lần mặt trời qua thiên đỉnh,
tiềm năng về bức xạ và nhiệt độ rất phong phú.


Ảnh hưởng bởi hoàn lưu gió mùa Đông Nam Á nên khí hậu bị phân hoá thành
hai mùa: mùa hạ nóng ẩm với mùa mưa, mùa đông lạnh với mùa khô.
- Về nhiệt độ: được xác định có mùa đông lạnh, nhiệt độ không khí trung bình
ổn định dưới 200C. Mùa nóng có nhiệt độ trung bình ổn định trên 250C.
Trong tỉnh, ở cùng một độ cao, nhiệt độ giảm dần từ phía Nam lên phía Bắc và
từ Đông sang Tây, từ vùng thấp lên vùng cao. Nhiệt độ vào mùa đông ở mức khá
thấp, nhiệt độ trung bình trong tháng 1 tại các nơi đều dưới 17 0C (không đạt tiêu
chuẩn nhiệt đới) so với các nơi khác cùng vĩ tuyến, nhiệt độ trong tháng 1 của tỉnh
thấp hơn 5 – 60C. Nhiệt độ mùa hè khá cao, trị số trung bình tháng 7 ở hầu hết các
nơi đều đạt trên 280C, trị số cao nhất lên tới 390C.
Giữa hai mùa lạnh và mùa nóng, hai mùa khô và mùa mưa là hai thời kỳ
chuyển tiếp khí hậu, mỗi thời kỳ khoảng một tháng (tháng 4 và tháng 10).
Sự chênh lệch về nhiệt độ trung bình của tháng tiêu biểu cho mùa đông (tháng
1) thấp hơn nhiệt độ trung bình của tháng tiêu biểu cho mùa hạ (tháng 7) là 12 0C

và thấp hơn nhiệt độ trung bình của tháng 1 theo tiêu chuẩn nhiệt độ cùng vĩ tuyến
là 5,10C
- Về mưa: theo quy ước chung, thời kỳ có lượng mưa ổn định trên 100 mm là
mùa mưa; còn mùa khô là mùa có lượng mưa tháng ổn định dưới 100 mm.
Theo số liệu quan trắc, mùa lạnh ở Quảng Ninh bắt đầu từ hạ tuần tháng 11 và
kết thúc vào cuối tháng 3 năm sau, mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào
đầu tháng 10.
Mùa ít mưa bắt đầu từ tháng 11 cho đến tháng 4 năm sau, mùa mưa nhiều bắt
đầu từ tháng 5 và kết thúc vào đầu tháng 10.
- Về độ ẩm: Độ ẩm không khí tương đối cao, nhất là các vùng: đảo Cô Tô,
Tiên Yên, TP. Móng Cái, Đầm Hà, Hải Hà. Trị số bình quân năm 84%, các nơi
khác từ 81-83%. Nhìn chung độ ẩm không khí tương đối ở Quảng Ninh chênh lệch
giữa các vùng không lớn lắm, mùa mưa độ ẩm không khí cao hơn mùa khô.
 Các hiện tượng thời tiết bất thường
- Gió mùa: Thông thường mùa gió mùa bắt đầu từ tháng 9, 10 kết thúc vào tháng
5, 6. Trung bình mỗi năm ở Quảng Ninh có 20 - 25 đợt gió mùa, trung bình mỗi
tháng có gần 3 đợt. Khoảng cách giữa các đợt rất thất thường, thông thường chỉ 5
-10 ngày, có khi chỉ 3 - 4 nhưng nhiều khi lại là 10 - 15 ngày hoặc hơn nữa. Gió
mùa làm tăng tốc độ gió, giảm nhiệt độ và nhiều khi gây mưa. Khi có gió mùa,
hướng gió thường chuyển sang Bắc, Đông Bắc hay Tây Bắc, tốc độ gió lớn nhất
có thể trên 15m/s. Ở các đảo khơi, tốc độ gió lớn nhất thường là 10 - 15m/s. Trên
đất liền, tốc độ gió nhỏ hơn.
- Mưa phùn: Mưa phùn trong vùng không lớn, nơi mưa phùn nhiều nhất chỉ có 38
ngày/năm kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4, tháng nhiều mưa phùn nhất là tháng 3,
hầu hết các nơi trung bình đều có trên 8 ngày mưa phùn trong năm.
- Hiện tượng bão, lũ lụt: Tháng có nhiều bão đổ bộ vào khu vực nghiên cứu là
tháng 7, 8. Trung bình mỗi năm Quảng Ninh chịu ảnh hưởng của 3 - 4 cơn bão,
bão đổ bộ vào Quảng Ninh phần lớn là bão nhỏ và vừa. Tốc độ gió trong bão ở
nhiều nơi trên 20m/s; cá biệt một số cơn bão có tốc độ gió trên 40m/s. Các cơn bão



đổ bộ trực tiếp thường cho mưa rất lớn, ít nhất cũng một vài nơi có lượng mưa trên
100mm. Mưa bão thường kéo dài 3, 4 ngày, có khi đến 6, 7 ngày, có ngày mưa
trên 200mm.
- Sương muối: Hầu hết các đợt gió mùa thường gây ra sự giảm nhiệt độ đột ngột.
Trong 24 giờ, chênh lệch nhiệt độ trước và sau lúc gió mùa về thường vào khoảng
4 – 50C, có khi trên 100C. Đây là cơ hội để hình thành sương muối. Sương muối
thường chỉ xảy ra trong tháng 12, 1, 2 thời gian mà nhiệt độ thấp nhất của mặt đất
có khả năng thấp hơn nhiệt độ đông kết (0 0C). Sương muối là thiên tai gây nhiều
tác hại nghiêm trọng đối với sản xuất nông nghiệp.
- Lốc xoáy và mưa đá
- Lũ ống
- Tình trạng nắng nóng kéo dài
- Khô hạn vào mùa đông
- Rét đậm, rét hại
Chúng ta có thể đến Quảng Ninh vào bất kỳ thời gian nào trong năm. Tuy
nhiên thời điểm tuyệt vời nhất để du lịch ở đây là vào khoảng tháng 3 đến tháng 5
và tháng 8 đến tháng 10.
1.2.1.3. Nguồn nước
Nguồn nước
Phân tích
1. Sông
- Quảng Ninh có khoảng 30 sông lớn nhỏ, trong đó có 4
sông lớn, diện tích lưu vực thông thường không quá
300 km2. Phần nhiều các sông đều nhỏ, ngắn và dốc,
thung lũng sâu và hẹp, xâm thực mạnh nhưng xâm thực
ngang yếu và hầu như không có bồi tụ. Các sông, suối
đều bắt nguồn từ các vùng núi cánh cung Đông Triều ở
độ cao 500 - 1.300m, chảy theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam, vuông góc với bờ biển. Các sông phần lớn không

có trung lưu, cửa sông đổ ra biển có dạng vịnh cửa
sông.
- Có 4 con sông lớn là hạ lưu sông Thái Bình, sông Ka
Long, sông Tiên Yên và sông Ba Chẽ (80km). Ngoài 4
sông lớn trên, Quảng Ninh còn có 11sông nhỏ, chiều
dài các sông từ 15 – 35 km; diện tích lưu vực thường
nhỏ hơn 300 km2, chúng được phân bố dọc theo bờ
biển, gồm sông Tràng Vinh, sông Hà Cối, sông Đầm
Hà, sông Đồng Cái Xương, sông Hà Thanh, sông Đồng
Mỏ, sông Mông Dương, sông Diễn Vọng, sông Man,
sông Trới, sông Míp.
- Mật độ trung bình 1,0 - 1,9 km/km 2, có nơi đến
2,4km/km2
- Do hệ thống sông suối chằng chịt nên vào mùa mưa
(nhất là vào tháng 8, tháng 9) thường xảy ra lũ lụt gây
ách tắc giao thông và phá hoại mùa màng của nông dân


2. Hồ

3. Nước khoáng

4. Thác

nên việc khai thác trực tiếp cho du lịch còn nhiều hạn
chế mà chỉ khai thác gián tiếp thông qua các suối,thác
được tạo bởi các nhánh sông phù hợp với các điều kiện
để phát triển được các điểm du lịch sinh thái
- Hồ ở Quảng Ninh có nguồn gốc tự nhiên và cũng có
hồ được con người làm nên hay còn gọi là hồ nhân tạo.

- Quảng Ninh có nhiều hồ gắn liền với cảnh quan rừng
núi rất tốt cho phát triển du lịch sinh thái. Điển hình là
hồ Yên Trung (thành phố Uông Bí), , hồ Khe Chè, hồ
Bến Châu (huyện ĐôngTriều), hồ Tràng Vinh, hồ
Phềnh Hồ, hồ Mán Thí (thành phố Móng Cái), hồ Yên
Lập (thành phố Hạ Long), hồ Chúc Bài Sơn (huyện Hải
Hà), , hồ Quất Đông…
- Các mỏ nước khoáng: Có nhiều điểm nước khoáng
uống được ở Quang Hanh (Cẩm Phả), Khe Lạc (Tiên
Yên), Đồng Long (Bình Liêu) trong suốt không màu,
không mùi, có vị hơi mặn, độ khoáng hoá từ 3,5-5,05
g/l. Thành phần vi lượng chủ yếu là Na, K, Ca, Mg, Cl,
SO4, H2CO3.Với các vi lượng này, rất có lợi cho giải
khát và tiêu hoá.. Ngoài ra, còn có nguồn nước khoáng
không uống được tập trung ở Cẩm Phả có nồng độ
khoáng khá cao, nhiệt độ trên 350 C, có thể dùng chữa
bệnh
- Các nguồn nước khoáng ở Quảng Ninh đều có giá trị
cho loại hình du lịch nghĩ dưỡng và chữa bệnh.
- Trên các vùng rừng núi Quảng Ninh có một số thác có
cảnh quan đẹp, điển hình là thác Lựng Xanh (thành phố
Uông Bí), thác Mơ (thị xã Quảng Yên), thác Khe Vằn
(huyện Bình Liêu). Tuy nhiên, quy mô của những suối
thác này không lớn, nguồn nước vào mùa khô thường
bị giảm nhiều nên sức hấp dẫn còn hạn chế.

1.2.1.4. Sinh vật
 Đặc điểm chung về hệ sinh thái
Điều kiện tự nhiên phong phú, hội tụ đầy đủ núi, đồi, đồng bằng, các thủy vực,
vùng cửa sông, ven biển đã hình thành nên tính đa dạng sinh học của Quảng

Ninh.
Trong số 4350 loài của hệ động thực vật Quảng Ninh ghi nhận được có tới
2236 chi, 721 họ thuộc 19 ngành của 3 giới động vật, nấm và thực vật. Trong số
đó có 182 loài (4,81%) được ghi nhận là đặc hữu thuộc các bậc khác nhau;154 loài
được ghi trong sách đỏ Việt Nam (3,54%), 56 loài trong Nghị định 32/2006/NĐCP, 72 loài trong danh mục đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế
(IUCN).
 Vườn quốc gia Bái Tử Long


Được thành lập vào năm 2001. VQG Bái Tử Long nằm trong quần thể vịnh Bái
Tử Long, thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, cách Hà Nội gần 200km về
phía đông. Vườn quốc gia Bái Tử Long bao gồm hệ sinh thái biển với diện tích
mặt biển chiếm 2/3 diện tích vườn quốc gia và là nơi lưu giữ nhiều mẫu gen động
thực vật quý hiếm nhiều loài được ghi vào sách đỏ.
Trong đó khu sinh thái đảo Ba Mùn, xã Minh Châu là vùng lõi của vườn quốc gia.
Các loài động thực vật sinh sống trong vườn rừng và vùng biển tại khu vực Vườn
Quốc gia Bái Tử Long rất phong phú, quý hiếm, có giá trị cao về bảo tồn nguồn
gen.
Theo khảo sát Vườn Quốc gia có trên 178 loài thực vật thuỷ sinh 119 loài
cá, 132 loài động vật không xương sống, 106 loài san hô trú ngụ, sinh trưởng tại
vùng biển, bãi triều, vụng áng và hàng chục loài chim săn mồi đặc hữu như: diều
hâu Miến Điện, chim ưng Nhật Bản, diều hâu đen, chích chòe lửa, bìm bịp lớn,
đớp ruồi Hải Nam...
Cấu tạo địa chất của Vườn quốc gia Bái Tử Long bao gồm những đảo đất
nằm xen kẽ với đảo đá như: Ba Mùn, Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ Nhỏ, Sậu Nam, Sậu
Động, Đông Ma, Hòn Chính, Lò Hố, Máng Hà Nam, Máng Hà Bắc, Di To, Chầy
Cháy, Đá Ẩy, Soi Nhụ, có những dãy núi đá vôi vây quanh những thung lũng rộng
lớn tạo thành những thung áng tạo ra môi trường sống phong phú của nhiều loại
động thực vật khác nhau.
Nổi bật là Thung áng Hang Dơi nằm ở khu vực Cái Lim, thuộc đảo Trà

Ngọ Lớn, đây là khu rừng ngập mặn rộng khoảng 10ha, địa hình của thung áng
Hang Dơi là không trực tiếp tiếp xúc với nước biển. Nước biển chảy qua những
hang ngầm hay những khe hốc đá, cộng với nước ngọt chảy trên sườn núi xuống
tạo ra sự đa dạng của các loài động thực vật. Ở đây có nhiều loài sinh sống như
ếch, nhái, rắn, xen kẽ với những loài nước mặn như tôm, ngán, sam...
Nằm ở phía cuối rừng ngập mặn này là Hang Dơi, đây là nơi trú ngụ của hàng
ngàn con dơi. Hiện tại Hang Dơi còn là nơi cư trú cho nhiều loài động vật như dái
cá, cầy, cáo. Đặc biệt là loài khỉ xuất hiện khá nhiều, bao gồm giống khỉ ức trắng
lông vàng sống tồn tại tự nhiên ở đây.
Đây còn là khu bảo tồn về cảnh quan thiên nhiên, bảo tồn văn hóa lịch sử với
các di chỉ khảo cổ như hang Soi Nhụ nơi phát hiện sự tồn tại của người Việt cổ
cách đây khoảng 14 nghìn năm với dấu tích một thương cảng Vân Đồn sầm uất
trước đây.
1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
1.2.2.1. Di tích văn hóa lịch sử
Toàn tỉnh có 626 di tích đã được kiểm kê, 125 di tích được xếp hạng, trong đó
64 di tích được xếp hạng quốc gia trong đó có 4 di tích được xếp hạng di tích quốc
gia đặc biệt, gồm: Thắng cảnh Vịnh Hạ Long (đợt 1, năm 2009), Di tích và danh
thắng Yên Tử, Di tích lịch sử Bạch Đằng (đợt 3, năm 2012) và Khu di tích nhà
Trần tại Đông Triều và 61 di tích cấp tỉnh.
Bảng: SỐ LƯỢNG VÀ MẬT ĐỘ DI TÍCH QUỐC GIA TỈNH QUẢNG NINH


TT

1
2
3
4
5

6
7
8

Tỉnh
Quảng Ninh

Cả tỉnh
Huyện Vân Đồn
Huyện
Đông
Triều
TX. Quảng Yên
TP. Móng Cái
TP. Cẩm Phả
TP. Uông Bí
TP. Hạ Long

Diện tích
( km2)

Di tích

Mật độ

6.103,2 km2
551,5 km2
396,6 km2

626

6
121

***
**
***

Số DT được xếp hạng
QG
Di tích Mật
độ
XHQG
DTXHQG
64
***
1
*
5
*

325,9 km2

200

***

39

**


6
2
1
5

**
*
*
*

1
1
1
2

*
*
*
**

2

516,6 km
339 km2
243,5 km2
271,5 km2

Tổng số di tích

Quy ước mật độ: * thưa (rất thưa); ** trung bình; *** dày (khá dày)

Ngoại trừ Danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long và Quần thể di tích danh thắng
Yên Tử đang là tiêu điểm thu hút các đối tượng khách du lịch trong nước và quốc
tế, sức hấp dẫn du lịch của các di tích còn lại chủ yếu xuất phát từ đặc trưng văn
hóa, nhu cầu tâm linh, vị trí địa điểm, cảnh quan, điều kiện giao thông, quy mô
kiến trúc xây dựng và hiệu quả quảng bá của từng di tích cụ thể.
Theo đó, một xu hướng chung dễ nhận thấy là: Những di tích lịch sử - văn hóa
có cảnh quan đẹp, điều kiện giao thông thuận lợi, được đầu tư quy mô lớn và được
quảng bá giới thiệu tốt thì khả năng thu hút khách du lịch sẽ tốt hơn. Điển hình là
đền Cửa Ông (thành phố Cẩm Phả), chùa Cái Bầu (huyện Vân Đồn), chùa Long
Tiên, đền thờ Đức Ông Trần Quốc Nghiễn (thành phố Hạ Long), chùa Ba Vàng
(thành phố Uông Bí)…Gắn liền với những di tích này là các Lễ hội truyền thống
được tổ chức chủ yếu vào mùa Xuân. Đây là một nét đặc trưng văn hóa truyền
thống của Việt Nam. Tiêu biểu cho xu hướng nói trên là chùa Cái Bầu, chùa Ba
Vàng và đền thờ Đức Ông Trần Quốc Nghiễn. Mặc dù mới được đầu tư tôn tạo
trong thời gian gần đây, nhưng 3 di tích nói trên đã nổi lên như những điểm thu
hút khách tâm linh - văn hóa sôi động. Trong khi đó, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
còn rất nhiều di tích có giá trị như chùa Quỳnh Lâm (huyện Đông Triều), đền thờ
Trần Hưng Đạo, miếu Vua Bà, đình Phong Cốc (thị xã Quảng Yên), đình Trà Cổ,
nhà thờ Trà Cổ, chùa Xuân Lan, đền Xã Tắc (thành phố Móng Cái), nhà thờ Hòn
Gai 26 (thành phố Hạ Long), đình Quan Lạn (huyện Vân Đồn)…nhưng chưa thực
sự thu hút được nhiều khách tham quan. Có một thực tế là, ngoại trừ danh lam
thắng cảnh Vịnh Hạ Long, phần lớn các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh mới chỉ có sức hấp dẫn đối với khách du lịch nội địa, trong đó chủ
yếu là dòng khách tâm linh. Sức hút đối với khách du lịch nước ngoài chưa đáng
kể.
1.2.2.2. Lễ hội
Có tổng số 8 lễ hội được diễn ra ở Quảng Ninh


Lịch lễ hội diển ra trong năm

TT Tên lễ Thời
Địa điểm
hội
gian
(âm lịch)
1
đền Cửa Từ ngày Diễn ra tại đền
Ông
mùng 2 Cửa
Ông,
tháng
phường Cửa
giêng
Ông, thị xã
cho đến Cẩm Phả.
hết tháng
3

2

Thập
Cửu
Tiên
Công

Ngày
tháng
giêng

7 Ở đền Thập

Cửu
Tiên
Công, thuộc
xã Cẩm La,
đảo Hà Nam,
huyện
Yên
Hưng.

Nội dung

Khả năng
khai thác
du lịch
Đền Cửa Ông thờ Trần ***
Quốc Tảng, con thứ ba
của Trần Hưng Đạo
cùng nhiều tướng lĩnh
nhà Trần có công đánh
giặc và trấn ải vùng
Đông Bắc. Đền còn thờ
Hoàng Cầu, một tướng
lĩnh người địa phương
có công dẹp giặc. Lễ hội
tưởng niệm công ơn
tướng Trần Quốc Tảng
và các tướng lĩnh.
Đền Cửa Ông là một
trong những di tích nhà
Trần nổi tiếng ở vùng

Đông Bắc.
Đền Thập Cửu Tiên *
Công (còn gọi là miếu
Tiên Công) thờ 19 vị
Tiên Công - những
người có công đầu tiên
quai đê lấn biển lập nên
khu đảo Hà Nam trù
phú, làng xóm đông vui
như ngày nay. Lễ hội
được tổ chức để tưởng
nhớ công lao của các vị
Tiên Công.
Truyền thuyết kể lại
rằng ngày mở hội chính
là ngày các vị Tiên
Công tìm ra mạch nước
ngọt trên đảo cách đây
trên 500 năm.


3

Yên Tử

4

Bạch
Đằng


5

chùa

Bắt đầu
từ ngày
10 tháng
giêng và
kéo dài
hết tháng
3

Vùng núi Yên
Tử thuộc xã
Thượng Yên
Công, thị xã
Uông Bí

Yên Tử là trung tâm ***
Phật giáo của nước Đại
Việt thuở trước, nơi
phát tích của thiền phái
Trúc Lâm. Du khách
đến lễ hội chùa Yên Tử
để được tách mình khỏi
thế giới trần tục, thực
hiện cuộc hành hương
tôn giáo giữa thiên
nhiên hùng vĩ.
mùng 8 Tại xã Yên Lễ hội kỷ niệm chiến **

tháng 3 Giang, huyện thắng Bạch Đằng của
hàng
Yên Hưng.
những người anh hùng
năm.
dân tộc chống giặc
ngoại xâm: Ngô Quyền
(năm 938), Lê Hoàn
(năm 981), Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn
và các danh tướng nhà
Trần (năm 1288).
Dòng sông Bạch Đằng
đời đời còn ghi chiến
tích của những người
anh hùng dân tộc chống
giặc ngoại xâm. Đó là:
Ngô Quyền với trận địa
cọc gỗ đánh tan quân
Nam Hán (năm 938); Lê
Hoàn (năm 981) chống
quân Tống; Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn
và các danh tướng nhà
Trần (năm 1288) chống
quân Nguyên Mông.
Lễ hội Bạch Đằng diễn
ra trên vùng đất cổ với
bao chứng tích hào
hùng, thu hút hàng vạn

người khắp vùng châu
thổ sông Hồng về dự.
24/3 âm Tại chùa Long Chùa Long Tiên được **


Long
Tiên

6

Trà Cổ

7

Quan
Lạn

8

Hội
Xuống
đồng

lịch hàng Tiên,
dưới
năm
chân núi Bài
Thơ,
thành
phố Hạ Long


xây dựng cách đây
không lâu (nãm 1941)
nhưng là ngôi chùa lớn
nhất ở thành phố Hạ
Long. Lễ hội chùa Long
Tiên không chỉ dành
riêng cho các tín đồ đạo
Phật, nó mang ý nghĩa
tâm linh cao cả cho tất
cả mọi người
Bắt đầu . Tại làng Trà Cách đây gần 600 năm, *
từ ngày Cổ, thị xã người Trà Cổ đã xây
30 tháng Móng Cái
dựng được ngôi đình
5
đến .
làng để thờ các vị tổ
ngày
(Thành Hoàng làng). Lễ
mùng 6
hội tưởng nhớ đến công
tháng 6
ơn của Thành Hoàng
(âm lịch)
làng và cầu mong trời
hàng
đất thần linh mang lại
năm
những điều tốt lành cho

dân làng.
Được tổ
chức vào
ngày 18
tháng 6
(âm lịch)
hàng
năm
nhưng lễ
hội kéo
dài
từ
ngày 10
đến hết
ngày 20
tháng 6

Bến
Đình
thuộc xã Quan
Lạn,
huyện
Vân Đồn

Lễ hội Quan Lạn vừa kỷ *
niệm chiến thắng giặc
Nguyên Mông năm
1288 và chiến công của
Trần Khánh Dư, một
danh tướng của nhà

Trần vừa là ngày hội
cầu được mùa của cư
dân vùng biển.
Lễ hội Quan Lạn (còn
gọi là hội đua bơi Quan
Lạn), là hội làng của
người dân xã đảo Quan
Lạn, một hòn đảo nằm ở
khu trung tâm thương
cảng cổ Vân Đồn.
Ngày tốt Huyện
Yên . Các bô lão ra đình và *
trong
Hưng,
tỉnh miếu tế Tiên công và
tháng 6
Quảng Ninh.
Thần Nông. Cây nêu
được cắm xuống ruộng
trước cửa đình, một vị


thủ từ cấy mạ quanh cây
nêu trong tiếng hò reo
của dân làng.
Quy ước đánh giá khả năng khai thác du lịch: * (thấp), ** (trung bình), *** (cao)
Quảng Ninh có nhiều lễ hội văn hóa, dân gian truyền thống mang đặc trưng
văn hóa Việt Nam. …Trong đó, các lễ hội liên quan đến chùa, đền thường được tổ
chức vào mùa Xuân nhân dịp đầu năm mới sau Tết âm lịch. Những lễ hội này
thường kéo dài nhiều ngày để dân chúng có dịp vui chơi giải trí, thưởng ngoạn

không khí Xuân - Tết sau một năm vất vả mưu sinh. Vì vậy, những lễ hội này là
một nét đẹp văn hóa, có sức thu hút tâm linh sâu rộng trong cộng đồng người Việt
Nam, đồng thời có sức hấp dẫn đối với nhiều khách du lịch quốc tế.
Hầu hết các lễ hội của Quảng Ninh đều có sự gắn kết với các di tích - thắng
cảnh, hay nói cụ thể hơn là không gian lễ hội luôn được đặt trong một tổng thể của
các danh thắng sơn thuỷ hữu tình. Do vậy, có rất nhiều các yếu tố thuận lợi cho
công tác quản lý, tổ chức, khai thác phát huy và thu hút khách du lịch.
Lễ hội ở Quảng Ninh chủ yếu là lễ hội mang tính địa phương.
Lượng khách đến với lễ hội Quảng Ninh những năm qua ngày càng tăng, nhất
là các lễ hội Yên Tử, Cửa Ông, thu hút mỗi năm khoảng từ vài trăm ngàn đến trên
1 triệu lượt khách.
1.2.2.3. Dân tộc
Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh năm 2013 (xuất bản năm 2014),
dân số của tỉnh khoảng 1.202.900 người, với mật độ trung bình 197 người/km 2.
Ở Quảng Ninh gồm 11 dân tộc đang sinh sống, gồm:
+ Dân tộc Kinh chiếm 85,23%
+ Dân tộc Dao (Mán) chiếm 4,45%: có hai nhánh chính là Thanh Y, Thanh
Phán, thường cư trú ở vùng núi cao. Họ còn giữ được bản sắc dân tộc trong ngôn
ngữ, y phục, lễ hội và phong tục, một bộ phận vẫn giữ tập quán du canh du cư làm
cho kinh tế văn hoá chậm phát triển.
+ Dân tộc Tày chiếm 2,84%: Người Tày thích ăn nếp. Trong các ngày tết,
ngày lễ thường làm nhiều loại bánh làm từ bột nế.. Ðặc biệt người Tày có bánh bột
nhân bằng trứng kiến và cốm nếp.
Cư trú tập trung ở những thung lũng ven suối hoặc triền núi thấp. Cư trú theo
đơn vị làng, bản. Nhà ở có nhà sàn, nhà đất và một số vùng giáp biên giới có loại
nhà phòng thủ được xây dựng theo kiểu pháo đài đề phòng hoả hoạn. Nhà sàn là
nhà truyền thống có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ; thưng ván gỗ hoặc che
bằng liếp nứa.
Nam nữ tự do yêu đương nhưng hôn nhân phụ thuộc bố mẹ hai bên và "số
mệnh" theo quan niệm. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang

sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.
Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau (Tết Nguyên đán, tết
rằm tháng 7, Tết gọi hồn trâu bò, cơm mới..)
Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra người Tày còn thờ cúng thổ
công, vua bếp, bà mụ.


+ Dân tộc Sán Dìu chiếm 1,85%: Người Sán Dìu còn có các tên gọi khác.
Theo phong tục ở, họ được gọi là: Người Trại, Trại Đất, San Déo Nhín (Sơn Dao
Nhân = Người Dao Núi). Theo trang phục truyền thống, họ được gọi là: Mán quần
cộc, Mán váy xẻ.
Người Sán Dìu có nhiều họ: Tạ, Diệp, Lý , Từ, Ninh, Trương, Lê, Ân, Trần ...
Tuy có nhiều dòng họ, song ở bất kỳ đâu, khi gặp nhau và nhận ra nhau cùng là
người Sán Dìu thì họ thường nói với nhau câu: "San Déo loỏng si”, ý nói: người
Sán Dìu ít ỏi, cần phải thương yêu đùm bọc nhau. Thực tế, họ có tinh thần tương
thân, tương ái cao không chỉ trong một tộc người Sán Dìu mà tinh thần đó đối với
cả các tộc người khác sinh sống trong cộng đồng.
Ở Quảng Ninh, do người Sán Dìu sống xen kẽ với người Hoa, Sán Chỉ, Cao
Lan nhiều năm nên phần nào phong tục, tập quán của người Sán Dìu đã có phần
pha trộn, ảnh hưởng bởi phong tục tập quán của các dân tộc sống liền kề. Mặc dù
vậy, người Sán Dìu ở Quảng Ninh về cơ bản vẫn còn giữ được bản sắc văn hóa
riêng của mình.
Phong tục tập quán: Người Sán Dìu ăn cả cơm và cháo. Thức ăn uống thông
thường là nước cháo loãng. Họ có nhiều loại cháo: cháo ngô, khoai, cháo cơm vớt
và đặc biệt có món chúc líp (cháo trộn với một số loại rau có thể dùng làm thuốc
chữa bệnh như cháo lá lốt, rau cải; cháo lá ngải).
Việc chế biến các món ăn của họ cũng khá cầu kỳ, dùng nhiều gia vị như gừng,
tỏi, địa liền. Đặc biệt, các món ăn khi dùng dù mùa lạnh hay mùa nóng cũng đều
phải giữ ở nhiệt độ nóng (vừa ăn vừa thổi).
Người Sán Dìu kiêng ăn thịt chó, đặc biệt đối với nhà làm thầy cúng (có tích

lưu truyền về việc kiêng kỵ này).
Ngoài nước cháo loãng, người Sán Dìu còn thường dùng nước chè xanh. Trong
bữa tiệc đồ uống chủ yếu là rượu trắng do họ tự nấu thông qua công nghệ làm men
bằng thứ lá cây rừng với gạo hoặc rượu mía, rượu sắn. Ngày Tết, có thêm rượu cái
nếp do họ tự làm.
Người Sán Dìu còn làm các loại bánh: Bánh chưng gói hình ống, hai đầu có
bắt góc (mỗi đầu bắt thành 3 góc); bánh chưng gù. Bánh tro (hay "bánh do") gói
hình như bánh chưng nhưng nhỏ hơn, nguyên liệu làm bằng gạo nếp ngâm nước
tro đốt từ một loại cây ở rừng gọi là cây nham nháp và rơm lúa chiêm xuân còn
mới với nước vôi trong. Bánh nhân điền làm bằng bột gạo nếp có nhân bằng lạc
rang giã trộn với đường phên hoặc nhân đỗ xanh. Ngoài ra còn có loại bánh dày.
Các loại bánh trên được dùng các dịp lễ, tết, hội, cưới hỏi. Riêng lễ lại mặt và
lễ tang ma chỉ dùng bánh nhân điền hoặc bánh dày.
Họ ở nhà đất lợp rạ hay tranh. Các nhà thường quần tụ thành bản nhỏ, kín đáo
và cũng có lũy tre xanh bao bọc.
Phương tiện vận chuyển của đồng bào là gánh, đặc biệt có chiếc xe quệt bằng
gỗ, tre trâu kéo, rất thích hợp với nơi có độ dốc thoai thoải.
Người Sán Dìu có tục xem lá số, xem tuổi cho cuộc tìm hiểu cưới xin của đôi
trai gái. Trong đám cưới, lễ cưới diễn ra ở nhà gái là quan trọng nhất.
Tang ma: Khi lấp huyệt xong, con cái đi vòng quanh mộ. nhúm một nắm đất


đặt lên mộ. Có tục cải táng.
Tín ngưỡng: Người Sán Dìu thờ tổ tiên, có miếu thờ thổ thần...
Trang phục: Phụ nữ mặc áo dài, quần chàm đen, đội khăn đen, thắt dây lưng
màu trắng, đeo tạp dề trước bụng quấn xà cạp trắng . đeo vòng ở cổ, ở tay và đeo
xà tích bạc bên hông. Nam giới mặc quần áo màu chàm.
Nghề chính của người Sán Dìu là làm ruộng. Họ đã tiếp cận và vận dụng nền
văn minh lúa nước từ rất lâu. Họ còn làm nương, bãi, thả cá, đánh bắt thủy hải sản.
Đặc biệt, họ có nghề thủ công gia truyền: nghề mộc, đan lát mây tre, làm gạch,

làm rèn, thầy thuốc. Tuy nhiên, sản phẩm họ làm chỉ mang tính tự cấp tự túc, chưa
trở thành hàng hóa phổ biến. Ngày nay, những nghề thủ công này vẫn còn được
lưu truyền nhỏ lẻ ở một số hộ sống 3 -4 thế hệ.
Đời sống văn hóa: Người Sán Dìu cũng có hát giao duyên nam nữ mà họ gọi
là soọng cô, thường được hát về đêm. Truyện kể - chủ yếu truyện thơ khá đặc sắc.
Các điệu nhảy múa thường xuất hiện trong đám ma. Nhạc cụ có tù và, kèn, trống,
sáo, thanh la, não bạt cũng để phục vụ nghi lễ tôn giáo. Nhiều trò chơi dân tộc
được họ ưa thích là: đi cà kheo, đánh khăng, kéo co...
Trong một năm, người Sán Dìu có nhiều lễ tiết. Tháng 7 âm lịch, họ có Tết
Mười Tư (14/7). Tết Mười tư tháng Bảy âm lịch của người Sán Dìu được tổ chức
trong khuôn khổ gia đình hoặc dòng tộc nhưng khá thịnh soạn bởi nó có ý nghĩa
văn hóa truyền thống. Vào ngày này, cả làng, bản, dòng tộc làm lễ cúng Gia Tiên
và Thần Nông cẩn báo với các Bậc Linh thiêng: công việc đồng áng cấy cày vụ
mùa đã vừa xong, tiết Hạ đã qua và chuyển sang tiết Thu, nhà nông sắp sửa làm
những công việc mới của tiết Thu. Người Sán Dìu thường gọi Tết Mười Tư (14/7)
là “Lễ rửa cày bừa” hoặc “Lễ lên đồng” vì trước đó họ có “Lễ xuống đồng” vào
dịp đầu tháng 6 âm lịch, lúc sắp bước vào cấy vụ mùa.
+ Dân tộc Sán Chay (dân tộc Cao Lan và Sán Chỉ) chiếm 1,1%: làm ruộng là
chính. Họ tiếp cận và vận dụng nền văn minh lúa nước từ rất lâu. Họ còn chăn
nuôi và trồng trọt. Đây là nghề chính đem lại thu nhập chủ yếu cho từng gia đình
người Sán Chỉ. Bên cạnh đó, họ có nghề thủ công như làm mộc, đan lát mây tre,
rèn. Tuy nhiên, những sản phẩm này chỉ mang tính tự cung, tự cấp trong cộng
đồng, chưa trở thành hàng hóa
+ Dân tộc Hoa chiếm 0,43%: Người Hoa gồm nhiều dân tộc thiểu số từ miền
Nam Trung Quốc di cư sang từ lâu bằng rất nhiều đợt. Một số ít là Hoa Kiều sang
buôn bán làm nghề thủ công ở các thị trấn miền Ðông, còn phần lớn sống ở nông
thôn, sản xuất nông nghiệp, đánh cá, làm nghề rừng.
Còn lại là các dân tộc khác có số dân từ vài chục đến vài trăm người như:
Nùng, Mường, Thái, Thổ ...
Các nhóm dân tộc này sống trong cộng đồng riêng của họ, có phương ngữ

riêng và các đặc tính dân tộc riêng. Tính đa dạng dân tộc với các tài sản văn hóa
bao gồm kiến trúc địa phương, hàng thủ công mỹ nghệ như thêu thùa, đồ gốm, âm
nhạc và các lễ hội.
Những nét đặc trưng văn hóa được thể hiện trong chính đời sống sinh hoạt
thường ngày đã tạo nên bản sắc độc đáo và đa dạng của các dân tộc có thể khai


thác để phát triển du lịch văn hóa. Từ các nghề làm thủ công, trồng dâu, nuôi tằm,
dệt vải, từ bản sắc văn hóa phong tục tập quán của các dân tộc về nhà ở, sinh hoạt,
hay văn hóa ẩm thực, từ nghi lễ văn hóa của dân tộc Sán Dìu, hát “Then" của
người Tày, hát “Soóng cọ” của người Sán Chỉ, hát “Sán Cố” của người Dao, thi
ném “Còn”, thi bắn “Nỏ” của người Dao ở các huyện miền núi, biên giới; hát Đối,
hát Giao duyên, hát Chèo đường của dân cư vùng biển… Trong đó, một số loại
hình tiêu biểu đã được Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch và các địa phương phục
dựng, tổ chức biểu diễn trong các lễ hội và lễ hội đường phố. Tuy nhiên, do quy
mô nhỏ và chưa được chuyên nghiệp hóa nên giá trị phục vụ du lịch chưa nhiều.
1.2.2.4. Các tài nguyên du lịch nhân văn khác
 Các làng nghề
- Làng nghề nuôi trai cấy ngọc trai
- Làng nghề gốm Đông Triều
- Làng chài Cửa Vạn
- Làng nghề mỹ nghệ than đá
Phần lớn các làng nghề ở Quảng Ninh thu hút rất nhiều khách du lịch
không chỉ tring nước mà con có du khách quốc tế. Do sản phẩm từ các làng
nghề rất độc đáo về chất liệu, tính thẩm mỹ từ bàn tay khéo léo của người thợ
và mang nét riêng của vùng mà các làng sản xuất khác không thể làm được,
trong đó có gốm Đông Triều, sản phẩm mỹ nghệ than đá…
Các làng nghề đang dần trở thành những địa chỉ tham quan du lịch hấp dẫn
vừa góp phần bảo tồn và phát huy truyền thống bản sắc văn hoá vùng.
 Các đặc sản địa phương

- Ruốc lổ Hoành Bồ
- Tu hài
- Bánh cuốn chả mực
- Xôi trắng chả mực
- Sam biển
- Rươi Đông Triều
- Cà sáy
- Gà đồi Tiên Yên
- Rượu mơ Yên Tử
- Nem chua, nem chạo Quảng Yên
- Món ngán
- Bánh tài lồng ẹp
- Bánh gật gù
- Rượu nếp ngâm Hoành Bồ
- Sá sùng
- Cá khô một nắng
- Tôm khô bóc nõn
Đặc sản ở Quảng Ninh khá đa dạng và phong phú, mỗi món ăn đều mang
đậm hương vị đặc trưng của từng vùng, mà khi du khách đến đây thưởng thúc
một lần thì rất khó quên được.


Các đặc sản địa phương trên đều góp phần làm cho du lịch ở Quảng Ninh
ngày một hoàn thiện hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của du khách trong và ngoài
nước.
 Các món ăn dân tộc
- Bánh bạc đầu (người Sán Dìu)
- Bánh chưng gù
- Xôi ngủ sắc
- Bánh giò

Tuy các món ăn dân tộc có phần chưa phong phú và đa dạng nhưng vẫn thể
hiện rõ giá trị văn hóa ẩm thực đặc sắc của các dân tộc và đó cũng tạo nên ấn
tượng về Quảng Ninh đối với du khách khi đến nơi đây.
 Các sự kiện văn hóa
STT Tên
Địa điểm
Đánh giá
1
Carnaval
Quảng
trường - Một hình thức nghệ thuật hoàn toàn mới
Hạ Long
30/10, TP. Hạ mẻ, là sự kết nối Lễ hội Carnaval với Lễ
Long.
hội âm nhạc trẻ trung, sôi động, hiện đại.
- Sự kiện đáng được mong chờ nhất năm
của người dân và du khách khi đến Quảng
Ninh cũng như trở thành thương hiệu cho
du lịch Quảng Ninh mỗi mùa du lịch. Thu
hút đông đảo du khách trong và ngoài
nước, thông qua sự kiên này thì càng
khẳng định sự thân thiện và một môi
trường du lịch văn minh - hiện đại của Hạ
Long - Quảng Ninh.
- Giới thiệu với bạn bè 5 châu, Hạ Long Di sản, kỳ quan Thiên nhiên mới của thế
giới là niềm tự hào không chỉ của người
dân Quảng Ninh, mà còn của đất nước
Việt Nam.
2
Khai hội Núi Yên Tử, xã - Lễ hội xuân Yên Tử là một trong những

Yên Tử
Yên Công, thành lễ hội có quy mô lớn nhất nhì ở miền Bắc,
phố Uông Bí, tỉnh diễn ra từ mùng 10 tháng Giêng âm lịch
Quảng Ninh
và kéo dài suốt 3 tháng mùa xuân, đón
trên 250.000 lượt khách tham quan, chiêm
bái.
- Có nhiều điểm mới cả về khâu tổ chức,
quản lý cũng như nội dung lễ hội.
3
Kỷ niệm Tại đền Trần Sự kiện này thu hút 20.000 khách trực
725 năm Hưng Đạo-miếu tiếp tham gia lễ kỷ niệm và cũng là dịp để
Chiến
Vua Bà
Quảng Ninh đón nhận Bằng di tích quốc
thắng Bạch
gia đặc biệt khu di tích Chiến thắng Bạch
Đằng
Đằng 1288.


4

Lễ hội hoa Tại Quảng trường - Lễ hội đã giới thiệu đến du khách những
Anh đào
30/10, TP Hạ nét đặc sắc của nền văn hoá Nhật Bản
Long.
cũng như tiềm năng, thế mạnh về du lịch,
thương mại và văn hoá Hạ Long - Quảng
Ninh đến với nhân dân Nhật Bản.

- Lễ hội được tổ chức quy mô, hoa nhiều
và đẹp.
- Lễ hội thúc đẩy mối quan hệ ngoại giao,
hợp tác hữu nghị giữa tỉnh Quảng Ninh và
các địa phương, cơ quan, tổ chức của
Nhật Bản; thu hút sự tham gia của doanh
nghiệp Việt Nam, Nhật Bản, nhân dân và
khách du lịch; tăng cường hợp tác, xúc
tiến đầu tư phát triển về du lịch, thương
mại giữa các doanh nghiệp 2 nước.

1.3.CƠ SỞ HẠ TẦNG
1.3.1. Mạng lưới và phương tiện giao thông
Đường bộ
- Hệ thống đường bộ có 5 tuyến Quốc lộ dài 381 km, đường tỉnh có
12 tuyến với 301 km, 764 km đường huyện và 2.500 km đường xã.
- Mật độ đường bộ của Quảng Ninh đạt 0,53 km/km2.
- Các tuyến chính:
+ Hà Nội - Bắc Ninh - Hạ Long: 155 km.
Đây là tuyến đường bộ từ Hà Nội đi Hạ Long ngắn nhất, đi bằng
ôtô hết 2 giờ 30 phút đến 3 giờ 30, hành trình như sau:
* Hà Nội theo tuyến đường 5 - ngã ba Sài Đồng: 10 km.
* Sài Đồng theo đường 1 - Bắc Ninh: 23 km.
* Từ Bắc Ninh theo đường 18 - Phả Lại- Chí Linh - Đông Triều –
Uông Bí – Hạ Long: 122 km.
+ Hà Nội - Hải Dương - Hạ Long: 170km.
Đây là tuyến đường bộ thuận lợi, từ Hà Nội qua thành phố Hải
Dương, đến thị trấn Nam Sách rẽ theo Quốc lộ 183 qua thị trấn Sao
Đỏ, Đông Triều, Uông Bí, đến Hạ Long.
+ Hà Nội - Hải Dương - Hải Phòng - Hạ Long: 160km.

Đây là tuyến đường bộ đi qua thành phố Hải Dương, đến Quán
Toan (Hải Phòng) rẽ theo Qquốc lộ 10 nối vào Quốc lộ 18A tại thị
xã Uông Bí đến Hạ Long.
+ Sân bay Nội Bài ( Hà Nội) -Bắc Ninh - Hạ Long: 160km.
+ Sân bay Nội Bài (Hà Nội) theo đường Nội Bài - Bắc Ninh (32km)
đến Bắc Niinh nối vào Quốc lộ 18A qua Phả Lại, Sao Đỏ, Đông
Triều, Uông Bí đến Hạ Long.
+ Hải Phòng - Uông Bí - Hạ Long: 73 km: Hải Phòng theo đường 5
- Quán Toan: 8 km, Quán Toan (Hải Phòng) theo đường 10 - thị xã
Uông Bí: 25 km, Uông Bí theo đường 18 - Hạ Long: 40 km.


Đường sắt

Đường biển

+ Hải Phòng - Quảng Yên - Hạ Long: 70km
+ Từ các tỉnh phía Nam đi theo đường 1 đến thị xã Ninh Bình theo
đường số 10, qua Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng, nối vào Quốc
lộ 18A tại Uông Bí đến Hạ Long.
+ Lạng Sơn - Hạ Long: 250km
+ Móng Cái - Hạ Long: 180km
- Mạng lưới quốc lộ và cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao thông
vận tải và kết nối với các trung tâm kinh tế - chính trị lớn trong
vùng như Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh lân cận, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đi du lịch của du khách đến với Quảng Ninh dể
dàng và nhanh chóng hơn.
- Quảng Ninh có tuyến đướng sắt cấp quốc gia dài 64,08 km kết nối
Đông Triều, Uông Bí và Hạ Long. Ngoài ra còn có khoảng 200 km
đường sắt khổ 1m chuyên dùng của ngành than nhưng vẫn được coi

là tuyến giao thông công cộng.
- Mật độ đường sắt của Quảng Ninh là 0,9 km/100 km2.
- Đường sắt từ Hà Nội - Kép - Hạ Long: 190km.
- Các cảng biển lớn như Cảng Cái Lân, Cảng Vạn Gia, Cảng Cửa
Ông, Cảng Hòn Nét, Cảng Mũi Chùa, Cảng than Cẩm Phả, Cảng
nhà máy xi măng Cẩm Phả, Cảng tổng hợp Cái Lân, Cảng xăng dầu
B12, Cảng nhà máy đóng tàu Hạ Long, Cảng khách Hòn Gai, Cảng
nhà máy xi măng Hạ Long, Cảng nhà máy xi măng Thăng Long,
Cảng xăng dầu Cái Lân.
- Các tuyến đường biển nội địa và quốc tế:
+ Tuyến đường biển Hồng Kông - Tam Á - Hạ Long
+ Tuyến đường biển Bắc Hải (Trung Quốc) - Hạ Long (Việt Nam).
- Các cảng và cụm cảng ở Quảng Ninh đã góp phần phục vụ cho
công nghiệp khai thác than và một số cơ sở công nghiệp tập trung
khác trong khu vực, không chỉ cho riêng thành phố các cảng biển
này mà còn là cửa ngõ giao thương của cả tỉnh, các địa phương
khác với khu vực Nam Trung Quốc rộng lớn, làm tăng kim nghạch
xuất nhâp khẩu của tỉnh. Bên cạnh đó, Quảng Ninh đang dần khẳng
định vị trí quan trọng trong lòng khách du lịch đường biển mỗi khi
đến Việt Nam. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, lượng du khách
đến bằng tuyến du lịch đường biển đã tăng lên rất nhiều so với
trước đây. Quảng Ninh đã bắt đầu được các hãng tàu biển lớn trên
thế giới biết đến.

1.3.2. Hệ thống cung cấp điện – nước
Điện

- Hiện tại đến nay 97% dân số trong
tỉnh được tiếp cận với điện lưới.
Đa phần các trạm biến áp vận hành



Nước

tương đối ổn định đảm bảo được nhu
cầu cung cấp điện cho sản xuất, sinh
hoạt của nhân dân và khách du lịch khi
đến địa bàn tỉnh. Tuy nhiên vẫn còn
một số lượng nhỏ các trạm đang vận
hành ở chế độ đầy tải và ngành điện
đang tiến hành xây dựng kế hoạch nâng
cấp công suất trạm để đảm bảo việc
cung cấp điện được tốt hơn.
- Các nhà máy điện:
+ Nhiệt điện Uông Bí I & II (410 MW +
300 MW).
+ Nhiệt điện Quảng Ninh I & II (600
MW + 300 MW); Dự kiến năm 2015, tổ
máy 4 nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh
II đi vào vận hành với công suất 300
MW.
+ Nhiệt điện Cẩm Phả I & II (300 MW
+ 300 MW);
+ Nhiệt điện Mạo Khê (440 MW).
+ Nhà máy nhiệt điện Mông Dương II
(1200 MW), Mông Dương I (1000
MW) hiện đang được xây dựng, dự kiến
đi vào hoạt động năm 2015 sẽ đáp ứng
tốt nhất nhiệm vụ cung ứng điện cho
sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội

trên địa bàn tỉnh).
+ Nhà máy nhiệt điện Thăng Long tại
huyện Hoành Bồ (600 MW) đã khởi
công xây dựng ngày 23/10/2014
- Quảng Ninh đã xây dựng được hệ
thống các nhà máy nước có công suất
lớn, đáp ứng đủ nhu cầu nước sinh hoạt
và sản xuất. 92% dân số được tiếp cận
với nước sạch. Chỉ có một số vùng sâu
vùng xa và một số làng mạc ở nông
thôn chưa có điện lưới nhưng sẽ yêu cầu
nâng cấp để phát triển các hoạt động du
lịch.
- Toàn tỉnh còn có 69 công trình hồ, đập
các loại. Hệ thống hồ, đập chính tập
trung tại các vùng nông nghiệp như
huyện Đông Triều, Yên Hưng và các


huyện miền Đông. Hệ thống này gồm 7
công trình với tổng trữ lượng 222 triệu
m3, có khả năng cung cấp nước tưới cho
28.500 ha; trong đó công trình lớn nhất
là hồ Yên Lập (thuộc dịa phận huyện
Yên Hưng) với trữ lượng 118 triệu m 3,
có khả năng cung cấp nước tưới cho
10.000 ha và cung cấp nước sinh hoạt
cho 100.000 dân.
1.3.3. Hệ thống thông tin – liên lạc
Hệ thống bưu chính viễn thông đã đạt tiêu chuẩn quốc tế, đủ điều kiện đáp

ứng được các nhu cầu và hình thức thông tin.
Mạng viễn thông được trang bị các thiết bị kỹ thuật số với công nghệ tiên tiến,
hiện đại, đa dịch vụ.
Đến đầu năm 2009 trên địa bàn tỉnh đã có 693 trạm phát sóng di động BTS,
trong đó số trạm phát triển mới trong năm 2008 là 206 trạm. Đặc biệt, Vinaphone
đã lắp đặt trạm BTS trên đảo Ti Tốp (Vịnh Hạ Long) nên đã phủ sóng di động cơ
bản trên Vịnh Hạ Long, góp phần phục vụ tốt nhu cầu du lịch trên Vịnh. Mạng
BTS đang được triển khai ở khu vực di tích danh thắng Yên Tử (TP Uông Bí) và
Núi Bài Thơ (TP Hạ Long). Mạng thông tin di động của mạng Vinaphone,
Viettel, Mobiphone và mạng S-phone đã phủ sóng 14/14 huyện, thị xã, thành phố
cùng nhiều đảo xa của tỉnh.
Tổng số thuê bao trên toàn tỉnh tính đến hết năm 2008 đạt 1.795.970 thuê
bao, đưa mật độ điện thoại cố định và điện thoại di động trả sau đạt 34,4 thuê
bao/100 dân).
Hệ thống Internet băng rộng, tính đến hết năm 2008 tổng số thuê bao
Internet trên toàn tỉnh là 36.173 thuê bao.

Chương 2 - PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
2.1. HOẠT ĐỘNG THEO NGHÀNH
2.1.1. Nguồn khách
- Tổng nguồn khách đến qua các năm
+ Khách quốc tế: 20,7 triệu lượt khách
+ Khách nội địa: 13,4 triệu lượt khách
- Tốc độ tăng trưởng bình quân năm
(Đơn vi: triệu lượt)

2010

2012


2013

Mức
tăng
trưởng
TB
năm (%)


Tổng số
+ Nội địa
+ Quốc tế

6,2
3,9
2,3

6,4
7,5
10,1
4,2
4,9
11,8
2,3
2,6
6
(Nguồn: Sở Văn Hóa – Thể Thao và Du Lịch)

Biểu đồ lượt khách đến Quảng Ninh
(Đơn vi: triệu lượt)


 Khách quốc tế
- Châu Âu, Bắc Mỹ và Úc hiện tại chiếm từ 10 đến 15% lượng khách du lịch.Hầu
hết khách du lịch đến từ những vùng này là những khách du lịch tiết kiệm và sinh
viên hoặc những người trung tuổi khá giả đi du lịch một mình hoặc theo tour, thích
được ở trên tàu thuyền, du lịch sinh thái với tự nhiên và văn hóa và thường du lịch
vào khoảng thời gian giữa tháng 10 và tháng 4. Đối với loại khách này, Quảng
Ninh có thể đáp ứng được nhu cầu về thăm thú rất nhiều nơi có cảnh đẹp thiên
nhiên và các hoạt động nhưng lại thiếu những nơi ăn nghỉ hiện đại cao cấp và
những trải nghiệm chân thực với dịch vụ đầy đủ và trình độ thông thạo ngôn ngữ,
từ đó làm cho tỉnh bỏ lỡ những khách du lịch ở tầng lớp trung lưu.
- Trung Quốc chiếm 5-10% tổng lượng khách du lịch và đang tăng trưởng nhanh
chóng. Hầu hết khách du lịch là những người khá giả trong những tour du lịch
theo nhóm, là những người thích ở những nơi bình dân trên đất liền với những
hoạt động mua sắm giải trí và thường đi du lịch vào khoảng thời gian giữa tháng
10 và tháng 4. Quảng Ninh có thể đáp ứng được nhu cầu cần các bãi tắm và những


chốn ăn nghỉ hợp lý cho nhóm khách du lịch này nhưng lại thiếu những dịch vụ
giải trí, từ các trung tâm mua sắm đến các công viên giải trí.
- Những quốc gia Châu Á khác chiếm từ 15 đến 20% tổng lượng khách du lịch.
Khách du lịch từ những quốc gia này khá tương đồng với khách du lịch đến từ
Trung Quốc ngoại trừ việc họ thích những nơi ăn nghỉ tầm trung.
- Khách quốc tế đến Quảng Ninh chủ yếu là đường hàng không, ô tô, tàu thủy và
một số phương tiện khác.
 Khách nội địa
Chiếm từ 55 – 60% tổng lượng khách du lịch. Thị trường khách du lịch nội địa
bao gồm khách du lịch ở các độ tuổi và mức thu nhập khác nhau và cả những
doanh nhân từ những tỉnh thành lân cận đến để tham gia hội họp. Họ có thể đi du
lịch một mình hoặc theo nhóm và ưa chọn những di tích lịch sử, văn hóa và

thường đi du lịch vào mùa hè và những kỳ nghỉ lễ, đặc biệt là vào mùa xuân.
Quảng Ninh có thể phục vụ tốt cho nhóm này kết hợp với các dịch vụ bãi biển và
những nơi ăn nghỉ hợp lý và đặc biệt là các di tích văn hóa như Yên Tử và các
đền, chùa khác.
2.1.2. Cơ sở vật chất – kĩ thuật
2.1.2.1. Số cơ sở lưu trú và số phòng
2.1.2.2. Số khách sạn được xếp sao ( từ 1 đến 5)
- Tổng số khách sạn là: 638 khách sạn
- Tổng số phòng: 10000 phòng
2.1.2.3. Các cơ sở vui chơi, giải trí
 Công viên Hà Lan - Đông Triều
Toạ lạc giữa khu trung tâm phường Mạo Khê (TX Đông Triều), Công viên Thể
thao - Văn hoá Hà Lan (gọi tắt là Công viên Hà Lan) đã trở thành tổ hợp giải trí
mới của người dân nơi đây, cũng là điểm du lịch hấp dẫn dành cho du khách trong
hành trình khám phá Đông Triều nói riêng, Quảng Ninh nói chung. Với kiến trúc
được thiết kế độc đáo, đa dạng mang phong cách hiện đại, gần gũi với thiên nhiên,
công trình còn là điểm nhấn trong bức tranh đô thị của địa phương.
Chính thức đi vào hoạt động trong dịp 30-4-2015, Công viên thu hút khoảng
gần 3.000 lượt người đến vui chơi mỗi ngày, cao điểm 5.000 lượt người/ngày cuối
tuần. Trên diện tích 12.000m 2, khu công viên nước có bể tạo sóng với 8 chế độ
theo công nghệ Tây Ban Nha, bể thi đấu đạt chuẩn quốc tế, hệ thống máng trượt
cho mọi lứa tuổi.
Hệ thống ống trượt, đồ chơi được lắp đặt khoa học, độc đáo nhằm kích thích
tính sáng tạo, sự tò mò của trẻ. Công viên nước còn được đầu tư xây dựng đồng bộ
với hệ thống khu nhà gửi đồ, tắm tráng, dịch vụ ăn, uống hiện đại…
Đến ngày 1-6, các hạng mục còn lại của Công viên như rạp chiếu phim 9D,
nhà hát hơn 2.000 chỗ ngồi, nhà vui chơi thanh, thiếu nhi cũng sẽ chính thức hoạt
động.
 Công viên quốc tế Hoàng Gia (Khu du lịch Bãi Cháy, TP Hạ Long)
Nằm dọc theo bờ biển Bãi Cháy, dài hơn 2 km từ cảng tàu du lịch đến đường

vào khách sạn Heritage gồm:


×