Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận môn quản lý nhà nước trong các lĩnh vực trọng yếu thực trạng quản lý giáo dục việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.96 KB, 17 trang )

Mở đầu
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập, quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng,
quyết định, sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng
có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam
mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Chính vì những lí do đó việc xây
dựng một nền giáo dục phát triển có thể đào tạo một đội ngũ nguồn nhân lực đông
về số lượng, vững về chất lương trở thành một yêu cầu bức thiết quyết định đến
việc thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình hội
nhập quốc tế. Những thành tựu của giáo dục nước ta trong những năm qua đã
khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Nhờ những thành tựu của giáo dục và
các lĩnh vực xã hội khác mà chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta theo
bảng xếp loại của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc trong những năm gần
đây có những tiến bộ đáng kể: từ 0,688, xếp thứ 109 trong số 174 quốc gia vào
năm 2000 đã tăng lên 0,733, xếp thứ 105 trong số 177 quốc gia vào năm 2005.
Những thành tựu của giáo dục đã và đang góp phần quan trọng vào sự phát triển
kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh chính trị của đất nước trong hơn 20 năm đổi mới,
tạo điều kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đó, nền giáo dục Việt Nam cũng bộc lộ rất nhiều yếu kém
đòi hỏi phải có những quan điểm chỉ đạo sáng xuốt, kịp thời cũng như giải pháp
thời điểm và lâu dài để giải quyết dứt điểm những tồn tại, yếu kém đó nhằm đạt
hiệu quả giáo dục toàn diện với chất lượng sánh ngang với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Chính vì thế, tác giả chọn đề tài "thực trạng quản lý giáo dục Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay" làm tiểu luận môn "quản lý nhà nước trong các
lĩnh vực trọng yếu" với mong muốn những kiến nghị về giải pháp trong tiểu luận


có thể có những đóng góp nhất định cho việc đánh giá thực trạng cũng như xây
dựng giải pháp toàn diện hơn cho nền giáo dục nước nhà.



Chương 1. Một số vấn đề về lý luận
1.1 khái niệm giáo dục
Giáo dục (theo nghĩa rộng):
Là sự hình thành nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có tổ chức
thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà Giáo dục với người được giáo
dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài
người.
Để hiểu rõ hơn khái niệm Giáo dục (theo nghĩa rộng) cần làm sáng tỏ khái
niệm nhân cách và khái niệm xã hội hoá con người.
Hình thành nhân cách: Đó là quá trình phát triển con người về mặt sinh lý,
tâm lý và mặt xã hội, mang tính chất tăng trưởng về lượng và biến đổi về chất. Quá
trình này diễn ra do ảnh hưởng của các nhân tố bên trong (bẩm sinh, di truyền, tính
tích cực của chủ thể…), và các nhân tố bên ngoài (ảnh huởng của hoàn cảnh tự
nhiên và hoàn cảnh xã hội, tác động giáo dục), do ảnh hưởng của các tác động tự
phát, ngẫu nhiên (tác động bên trong, bên ngoài chưa được kiểm soát, điều khiển)
và các tác động có mục đích, có tổ chức (kiểm soát được, điều khiển được). Quá
trình này làm biến đổi đứa trẻ với những tư chất vốn có của con người thànhmột
nhân cách.
Xã hội hoá con người: Đó là quá trình có tính chất xã hội hình thành nhân
cách. Quá trình này chỉ bao hàm các tác động do những nhân tố xã hội; xã hội tác
động một cách có mục đích, có tổ chức tới cá nhân, mặt khác cá nhân tích cực tái
sản xuất các mối quan hệ xã hội bằng hoạt động, bằng sự tham gia tích cực vào
môi trường xã hội. Từ đó, giáo dục nói một cách khác là sự xã hội hoá con nguời
chỉ dưới những tác động có mục đích và có tổ chức.
Giáo dục (theo nghĩa hẹp):


Đó là một bộ phận của quá trình sư phạm, là quá trình hình thành những cơ
sở khoa học của thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ,

những tính cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội, kể cả việc
phát triển và nâng cao thể lực.
Chức năng trội của quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) chỉ được thực hiện
trên cơ sở vừa tác động đến ý thức, vừa tác động đến tình cảm và hành vi.
Giáo dưỡng (hay trau dồi học vấn):
Dưới góc độ là quá trình thì đó là quá trình con người lĩnh hội hệ thống tri
thức nhất định về khoa học tự nhiên, xã hội và về tư duy.
Dưới góc độ kết quả lĩnh hội thì đó là trình độ học vấn, nghĩa là trình độ tri
thức, kỹ năng kỹ xảo đã được lĩnh hội, chẳng hạn như người ta nói trình độ THPT
cơ sở, trình độ Đại học…Chức năng trội của nó là sự tác động đến ý thức là chính.
Dạy học – Đó là con đường, phương tiện của giáo dưỡng (trau dồi học
vấn) và giáo dục (nghĩa hẹp):
Dưới góc độ quá trình thì dạy học là quá trình tác động qua lại giữa giáo
viên và học sinh, điều khiển hoạt động tâm lý của học sinh để giúp họ tự giác, tích
cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo hoạt động nhận
thức và thực tiễn, trên cơ sở đó phát triển năng lực nhận thức và hình thành thế giới
quan khoa học cho họ.
1.2. Các quan điểm của Đảng về quản lý và phát triển giáo dục.
Đại hội VI (1986): chiến lược giáo dục là một bộ phận của chiến lược con
người. Đầu tư cho giáo dục không phải là một khoản phúc lợi đơn thuần mà là đầu
tư phát triển. Chỉ có đầu tư thỏa đáng cho giáo dục thì đất nước mới phát triển
được.
Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khóa VII) ra nghị quyết «Tiếp tục đổi mới
sự nghệp giáo dục – đào tạo»


Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) đã đề ra những tư tưởng chỉ đạo và
mục tiêu cơ bản để phát triển giáo dục là:
Một là, giữ vững mục tiêu XHCN của giáo dục – đào tạo là tạo ra những lớp
người vừa hồng vừa chuyên để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc XHCN.
Hai là, phải thực sự coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu
Ba là, giáo dục – đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân
Bốn là, phát triển giáo dục – đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội.
Năm là, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục – đào tạo, tạo điều kiện
ai cũng được học hành.
Sáu là, đa dạng hóa các loại hình giáo dục, trong đó các trường công lập giữ
vai trò nòng cốt, mở rộng các hình thức đào tạo đi đôi với quản lý chặt chẽ để bảo
đảm chất lượng.
Kết luận Trung ương 6 khóa XI, với đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng XHCN và hội nhập quốc tế".


Chương 2. Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay
2.1. Thành tựu
Hiện nay, hệ thống giáo dục ở nước ta đã khá hoàn chỉnh từ bậc mầm non
đến sau đại học; hầu hết các bản, làng, xã, phường đều có trường lớp tiểu học;
trường trung học cơ sở được xây dựng ở các xã hoặc cụm liên xã; trường trung học
phổ thông được xây ở các huyện, một số huyện có 2 ÷ 3 trường. Hệ thống giáo dục
ở nước ta về cơ bản đã đáp ứng được như cầu học tập của nhân dân. Đến nay, hầu
hết người dân trong độ tuổi đi học đều được đến trường[1].
Các trường Trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) được củng cố và phát triển,
mở rộng quy mô đào tạo, cơ cấu ngành nghề đào tạo đang từng bước đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cả nước hiện có 553 cơ sở có đào tạo TCCN, trong
đó: 246 trường trung cấp chuyên nghiệp, 201 trường cao đẳng đào tạo TCCN, 74
trường đại học có đào tạo TCCN, 32 cơ sở đào tạo TCCN, quy mô đào tạo trình độ
trung cấp chuyên nghiệp là 614.516 học sinh.
Công tác dạy nghề phát triển mạnh mẽ. Năm 2010, cả nước có khoảng 2300

cơ sở dạy nghề (kể cả các trường trung cấp nghề và cao đẳng nghề). Quy mô đào
tạo nghề dưới một năm vào khoảng 1.268.150 người, ở bậc trung cấp nghề, cao
đẳng nghề là 394.350.
Với hệ thống đào ta như trên đã hình thành lên lực lượng lao động ở nước ta
qua đào tạo hiện nay ở các trình độ khác nhau chiếm gần 40% dân số trong độ tuổi
lao động cả nước.
2.2. hạn chế
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển,
có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào


tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng
thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập, mà Đại hội IX, X đến
Đại hội XI của Đảng vẫn nêu rất đậm nét, đó là:
Chất lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn
chất lượng; so với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt;
chưa thực sự là quốc sách hàng đầu.
Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi mới,
chậm hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp;
chưa phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên.
Chất lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo
đức, lối sống; giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy “người” và dạy
“nghề” vẫn yếu kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, lịch sử dân tộc,
tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, kỹ năng sống…
Hệ thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa liên thông,
mất cân đối.
Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi mới,
là nguyên nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý giáo dục
chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh

vực khác của đất nước.
Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo đức và
năng lực của một bộ phận còn thấp.
Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định
hướng liên kết với nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng túng, chưa
xác định rõ phương châm. Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu
đổi mới-phát triển đất nước trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập


quốc tế; khoa học giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu
khoa học giáo dục còn nhiều bất cập.
Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng thành
cơ chế, chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham mưu, thiếu
những quyết sách đồng bộ và hợp lý ở tầm vĩ mô (có khi chính sách được ban hành
rồi nhưng chỉ đạo tổ chức thực hiện không đến nơi đến chốn, kém hiệu quả); một
số chính sách về giáo dục còn chủ quan, duy ý chí, xa thực tế, thiếu sự đồng thuận
của xã hội.
Không ít người cho rằng chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta đang
giảm sút. Tình trạng này tồn tại trong suốt một thời gian dài nhưng chưa có biện
pháp khắc phục hữu hiệu. Nguồn nhân lực qua đào tạo không đáp ứng yêu cầu phát
triển xã hội đang trở thành nhân tố cản trở sự phát triển đất nước. Một nghịch lý là
số lượng cán bộ khoa học (đặc biệt là số tiến sĩ, PGS, GS) ở nước ta cao vào loại
nhất trong khu vực, thế mà chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục lại
được đánh giá vào loại thấp. Trong khi giáo dục đang bộc lộ nhiều yếu kém thì chi
phí cho giáo dục vẫn tăng liên tục đang trở thành gánh nặng đối với ngân sách
quốc gia và của người dân.
Đạo đức, nhân cách của thế hệ trẻ đang có chiều hướng xấu đi đến mức báo
động. Tệ nạn xã hội và tội phạm trong lứa tuổi học sinh, sinh viên đang gia tăng cả
về số vụ và mức độ vi phạm. Trong số hơn 200 dạng tội phạm ở xã hội hiện nay thì
học sinh, sinh viên đều mắc phải, kể cả tội cướp của giết người, buôn bán ma túy

và nhiều loại tội phạm nghiêm trọng khác. Tuổi đời vi phạm đang được trẻ hóa,
một số hành vi ngày càng phức tạp và dã man. Những biểu hiện thiếu văn hóa diễn
ra trong nhà trường không còn là chuyện cá biệt, mà đã trở thành tình trạng khá
phổ biến ở nhiều nơi. Một số trường học quan hệ thầy trò thiếu lành mạnh, có phần


thô bạo, vô văn hóa mà trước đây chưa từng có cũng đã xuất hiện. Văn hóa học
đường đang bị tổn thương nghiêm trọng. Nền giáo dục ở nước ta mới đạt tới mục
tiêu dạy chữ chưa đạt yêu cầu về dạy người và dạy nghề.
Một số nội dung trong sách giáo khoa vừa thiếu tính khoa học, vừa cũ kĩ
không còn giá trị sử dụng, không cần thiết cho cuộc sống. Những yếu kém này đã
làm cản trở sự liên thông, liên kết giữa các bậc học, các ngành đào tạo, tình trạng
này vẫn chưa được khắc phục. Tình trạng "đói" giáo trình vẫn xảy ra ở nhiều
trường đại học, cao đẳng, trung cấp, nhất là đối với khối khoa học kỹ thuật.
Phương pháp dạy và học ở các cấp còn lạc hậu, mô hình tổ chức giáo dục,
đào tạo vẫn rập khuôn theo kiểu hàn lâm, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo
theo kiểu hình ống mà không có sự sàng lọc. Hiện nay giáo dục ở nước ta vẫn chủ
yếu tập trung vào truyền đạt kiến thức cho học sinh, mà chưa làm cho cho học
sinh, sinh viên biết cách học, cách làm người, có óc phê phán và sáng tạo, sẵn sàng
chấp nhận mạo hiểm, không ngại gian khổ hy sinh để có những thành công trong
cuộc sống. Trước những yêu cầu của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì giáo
dục không thể nhồi nhét càng nhiều kiến thức càng tốt, mà giáo dục cần rèn luyện
khả năng tư duy, khả năng thích ứng mau lẹ trong mọi hoàn cảnh, có đủ bản lĩnh tự
khẳng định mình, hình thành thói quen tự học, tự rèn luyện để hoàn thiện bản thân,
có hoài bão lớn lao và luôn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với bản thân, gia
đình và Tổ quốc nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội nhanh chóng và lành
mạnh.
Công tác quản lý giáo dục ở nước ta còn ôm đồm, chưa phát huy quyền chủ
động, linh hoạt của các cấp. Quản lý thi cử, bằng cấp quá nhiều sơ hở, lỏng lẻo
trong công tác kiểm tra, thanh tra, dẫn đến hiện tượng mua bằng, bán điểm, học

“giả”, thi “giả” nhưng “bằng cấp thật” ở các ngành học, bậc học, loại hình học.
Điều này đã tạo ra không ít cán bộ “trình độ giả”, sản phảm “giả” trong xã hội.
Nhưng sự giả dối trong bằng cấp, không thể đổ lỗi hoàn toàn cho giáo dục mà


chính là do cách sử dụng người của chúng ta còn quá nặng về bằng cấp mà chưa
coi trọng thực tài.
2.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế
2.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu
Sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ và chính quyền
các cấp, sự quan tâm, tham gia đóng góp của các tổ chức kinh tế-xã hội và toàn dân
đối với giáo dục đã góp phần quyết định cho sự thành công của sự nghiệp giáo dục.
Sự ổn định chính trị, những thành quả phát triển kinh tế, cải thiện đời sống
nhân dân của thời kỳ đổi mới đã tạo môi trường với các điều kiện thuận lợi cho
phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục trong tổng chi ngân sách nhà nước đã liên
tục tăng qua các năm.
Lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề, sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo và
quyết tâm đổi mới của ngành giáo dục đào tạo đã góp phần quan trọng thực hiện
nhiệm vụ giáo dục. Các giáo viên và cản bộ quản lý công tác ở mọi miền tổ quốc,
đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách to lớn,
đóng góp công sức vào sự nghiệp trồng người.
Truyền thống hiếu học của dân tộc được phát huy mạnh mẽ, thể hiện trong
từng gia đình, từng dòng họ, từng cộng đồng dân cư. Nhân dân đã không tiếc công
sức, tiền của đầu tư và khuyến khích động viên con em vượt khó, chăm chỉ học tập,
hỗ trợ và tạo điều kiện dạy tốt, học tốt cho các nhà trường.
2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế
Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu chưa thực sự được quán triệt
đúng mức ở các cấp quản lý và chỉ đạo giáo dục Trong nhiều năm qua Đảng ta đã
luôn luôn nhấn mạnh quan điểm “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực của quá trình phát triển”. Tuy nhiên trong

thực tiễn, quan điểm này chưa được hiểu một cách đầy đủ để triển khai một cách
thực sự hiệu quả ở mọi lĩnh vực. Nhiều bộ, ngành, địa phương chưa nhận thức đầy


đủ về vai trò của giáo dục, chưa thấy hết trách nhiệm đối với giáo dục nên chưa
dành ưu tiên thỏa đáng tạo điều kiện phát triển giáo dục. Một số địa phương còn sử
dụng ngân sách giáo dục vào những hoạt động không phục vụ mục đích giáo dục.
Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế. Trong khi tình hình
kinh tế xã hội trong nước có nhiều biến đổi sâu sắc và trên thế giới đang diễn ra
nhiều xu thế đổi mới giáo dục mạnh mẽ thì nhiều tư tưởng chỉ đạo giáo dục ở nước
ta vẫn còn xơ cứng, trì trệ.
Chưa nhận thức đúng mức sự cần thiết phải tập trung quản lý nhà nước đối
với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Nhận thức về những tác động của nền
kinh tế thị trường chưa đầy đủ nên chưa tạo được sự phù hợp của cơ chế quản lý
giáo dục với cơ chế thị trường. Tư tưởng trọng bằng cấp dẫn đến những thành tích
giả tạo trong giáo dục. Ở đại học, các nhà trường thường chỉ dạy những cái mình
có mà chưa quan tâm đến nhu cầu của xã hội. Ở phổ thông, quan niệm đề cao kiến
thức, coi nhẹ năng lực hoạt động của học sinh đã dẫn đến tình trạng còn tổ chức
nhiều môn học trong chương trình giáo dục, phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là
truyền thụ một chiều, chưa tạo được niềm vui học tập cho người học.
Công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập.

Quản lý nhà nước của Bộ

Giáo dục và Đào tạo còn nặng tính quan liêu bao cấp, vẫn còn tình trạng ôm đồm,
sự vụ, làm hạn chế quyền chủ động, sáng tạo và ý thức trách nhiệm của các đơn vị
cơ sở. Hệ thống luật pháp và các chính sách về giáo dục chưa hoàn chỉnh. Việc
chia cắt các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo
với các bộ ngành khác đã làm cho việc quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục

chồng chéo, phân tán, thiếu thống nhất. Việc tách rời quản lý nhà nước về chuyên
môn với quản lý nhân sự, tài chính đã làm giảm tính thống nhất trong chỉ đạo, điều
hành đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân và làm cho bộ máy quản lý giáo
dục trở nên cồng kềnh, nặng nề. Năng lực của các cơ quan quản lý giáo dục chưa


đáp ứng được nhiệm vụ quản lý trong tình hình mới. Chính sách huy động và phân
bổ nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa hợp lý, chưa quan tâm đúng mức đến các
địa phương khó khăn. Đầu tư của nhà nước cho giáo dục còn thiếu hiệu quả, chưa
tập trung cao cho những mục tiêu ưu tiên. Cơ cấu chi ngân sách giáo dục chưa hợp
lý, trong đó phần chi cho hoạt động chuyên môn là không đáng kể.
Những tác động khách quan làm tăng thêm những yếu kém bất cập của giáo
dục : Quá trình hội nhập quốc tế đã mang tới những cơ hội lớn nhưng cũng mang
đến nhiều thách thức lớn đối với giáo dục. Trong xã hội, chủ nghĩa hình thức, hám
danh vọng còn nặng nề; tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối
mạnh việc dạy, học và thi cử. Mặt trái của kinh tế thị trường đã có nhiều ảnh
hưởng tiêu cực đến giáo dục. Nhu cầu học tập của nhân dân ngày càng cao trong
khi khả năng đáp ứng của ngành giáo dục và trình độ phát triển kinh tế của đất
nước còn hạn chế. Sức đón nhận của thị trường lao động còn hạn hẹp, chưa đáp
ứng nhu cầu việc làm của người lao động đã qua đào tạo.


Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý giáo dục
Việt Nam hiện nay
3.1. Các quan điểm chỉ đạo
Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 nêu 4 quan điểm chỉ đạo gồm:
Thứ nhất, phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của Nhà nước và của toàn dân.
Thứ hai, xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, tiên tiến, hiện
đại, XHCN, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.

Thứ ba, đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích hợp với nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, gắn với phát triển khoa học và công nghệ.
Thứ tư, hội nhập quốc tế sâu rộng về giáo dục trên cơ sở bảo tồn và phát
huy bản sắc dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ định hướng XHCN.
Các giải pháp đột phá mà chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 đề ra
gồm: Đổi mới quản lý giáo dục, phát triển nhân lực ngành giáo dục, đổi mới nội
dung, phương pháp và kiểm tra - đánh giá. Bên cạnh đó, tăng cường đầu tư cho
giáo dục, tăng cường gắn đào tạo với sử dụng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ đáp ứng nhu cầu xã hội. Đồng thời tăng cường hỗ trợ giáo dục đối với
các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số và đối tượng chính sách xã hội. Phát triển khoa
học giáo dục, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Có như vậy, đến năm
2020 nền giáo dục nước ta mới được đổi mới căn bản và toàn diện, chất lượng giáo
dục mới được nâng cao. Giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo kỹ
năng thực hành được chú trọng đáp ứng mọi nhu cầu nhân lực, đảm bảo công bằng
xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân để từng bước
hình thành xã hội học tập.
3.2. Giải pháp thực hiện:
Thứ nhất, tăng cươǹ g công tác quản lý giáo dục


Thực hiện Thanh tra kiểm tra thường xuyên hoạt động giáo dục ở tất cả các
bậc đào tạo. Thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm, đưa ra giải pháp kịp thời điểu
chỉnh và khắc phục những vấn đề còn tồn tại.
Tổ chức đội ngũ cán bộ quản lý có chuyên môn, giỏi về cả lý thuyết và thực
tiễn. Thường xuyên tạo điều kiện cho họ được học tập trong môi trường tiên tiến
dể tiếp thu những thành tựu hiện đại, áp dụng một cách hiệu quả vào nền giáo dục
nước nhà.
Thứ hai, đẩy mạnh thực hiện chưon̛ g trình giáo dục theo hệ thống tín chỉ
Đào tạo theo tín chỉ là phưon̛ g thức đào tạo ở bậc đại học đã được áp dụng từ lâu ở

Mỹ và ở nhiều nươć trên thế giới. Trong quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế hiện
nay, giáo dục đại học Việt Nam cũng đang chuyển dần sang phưon̛ g thức đào tạo
theo tín chỉ. Từ năm 1993, nhiều trươǹ g đại học ở Việt Nam đã bắt đầu thử nghiệm
hệ thống tín chỉ, bao gồm Đại học Cần Thơ, Đại học Đà Lạt, Đại học Bách khoa...
Tuy vậy, các trươǹ g đại học ở Việt Nam vẫn chưa xem hệ thống tín chỉ như một
phưon̛ g tiện đẩy mạnh việc thực hiện những quan niệm giáo dục có được thông qua
quá trình tranh luận, tư vấn và lãnh đạo. Thay vào đó, hệ thống tín chỉ đang đươc̣
dùng như một thứ băng dán nhằm xoa dịu những chỉ trích hiện tại, mà không tác
động thật sự đến việc cải cách chưon̛ g trình, nên việc sử dụng vẫn còn nhiều bất
cập, hạn chế. Việc thực hiện hệ thống tín chỉ ở Việt Nam rất giống với những thử
nghiệm ở Trung Quốc mặc dù với ít tham vọng hơn. Nếu muốn thành công trong
việc dùng hệ thống tín chỉ như một công cụ để cải cách giáo dục, trươć hết cần có
nhiều hơn những công trình nghiên cứu về những vấn đề quản lý đang đặt ra cho
cơ chế hiện tại của hệ thống đại học Việt Nam, đồng thời các nhà quản lý giáo dục,
giảng viên và những người làm chính sách cần phải tự mình sáng tạo một tầm nhìn,
một quan niệm, cũng như mục tiêu giáo dục chứa đựng trong những quan niệm ấy.
Mặt khác, khi chuyển sang phưon̛ g thức đào tạo theo tín chỉ, đòi hỏi các
trươǹ g cần phải tăng cươǹ g việc kiểm tra, đánh giá. Hoạt động này phải được tiến


hành liên tục, nhanh chóng, khách quan, công bằng và chính xác. Các kết quả thu
đươc̣ qua kiểm tra, đánh giá phải phản ánh đúng năng lực, mức độ nắm vững kiến
thức, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu và khả năng ứng dụng của sinh viên, đồng thời
phải phản ánh đúng hiệu quả của quá trình giảng dạy và hươń g dẫn sinh viên tự
học của giáo viên. Những tác kết quả đó phải có tác dụng phản hồi rất nhanh chóng
tới việc học của trò, việc dạy của thầy, việc điều chỉnh nội dung, phưon̛ g pháp dạy
học, chưon̛ g trình đào tạo và hợp lý hóa quá trình giáo dục chung của từng trường
đại học.
Thứ ba, tổ chức định kỳ hoạt động đánh giá chất lươṇ g giảng dạy của giáo
viên. Khi tổ chức đánh giá chất lươṇ g giảng dạy của giáo viên, cần đánh giá lươṇ g

kiến thức và những kỹ năng cần thiết mà sinh viên hấp thụ đươc̣ qua bài giảng đó,
với những tiu chí cụ thể là
- Nội dung bài giảng phải làm tăng thêm sự hiểu biết và khả năng áp dụng lý
thuyết vào thực tế của sinh viên.
- Nâng cao kỷ năng phân tích và lập luận của sinh viên.
- Phát triển tính sáng tạo và khuyến khích sự đổi mới ở sinh viên.
- Tạo điều kiện để cho các sinh viên học hỏi, trao đổi kinh nghiệm.
- Phát triển các kỹ năng ứng xử, tinh thần tập thể, tính trách nhiệm, kiên
nhẫn, biết lắng nghe và tự khẳng định.
-Thay đổi thái độ của học viên trước một vấn đề cụ thể.
- Luôn đặt học sinh, sinh viên vào trạng thái suy nghĩ, phải hành động nên
đã tạo hứng thú, tập trung sự chú ý trong học tập, góp phần phát huy cao độ tính
tích cực, độc lập và tư duy sáng tạo của học sinh, sinh viên.
Thứ tư, tăng cươǹ g hợp tác trên lĩnh vực giáo dục – đào tạo với các nước
phát triển.
Trong những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các nhà làm công tác quản
lý giáo dục đã thuờng xuyen chú trọng đến việc giao lưu, hợp tác với các nền giáo


dục, trươǹ g Đại học có uy tín trên thế giới. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, nhiều
nội dung quan trọng đươc̣ bàn thảo trong các chuyến thăm của các nguyên thủ
quốc gia đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp giáo dục của nước nhà.
Ngoài ra, Để khắc phục những khuyết điểm nêu trên, thiết nghĩ giáo dục ở
nước ta cần: Tập trung nghiên cứu đưa ra triết lý giáo dục cho phù hợp với yêu cầu
của thời đại.Thực hiện tốt chính sách công bằng, dân chủ trong giáo dục. Bảo đảm
cho mọi công dân quyền bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trong học tập để mọi
người, dù giàu nghèo đều có cơ hội học tập và thành đạt ngang nhau. Giáo dục
phải tôn trọng, phát triển cá tính, phải mở ra nhiều con đường, nhiều hướng, tạo
nhiều cơ hội lựa chọn cho thế hệ trẻ phát triển tài năng, bồi dưỡng nhân tài. Đặc
biệt chú ý đến giáo dục nhân cách và phương pháp tự học, phát huy khả năng tư

duy sáng tạo cho học sinh, sinh viên. Các trường từ phổ thông đến đại học cần giáo
dục cho học sinh, sinh viên có lòng ham mê khoa học và rèn luyện thói quen tự
học, tự đọc, tự tìm thông tin để nâng cao sự hiểu biết. Tiếp tục đẩy mạnh việc đổi
mới quản lý giáo dục, nhất là việc quản lý chất lượng đào tạo ở các cấp học, bậc
học để khắc phục dần tình trạng "học giả, bằng thật".
Đánh giá chung
Những vấn đề, những yếu kém và bất cập nêu trên của giáo dục không thể
giải quyết khắc phục được căn bản chỉ bằng các giải pháp cục bộ, đơn lẻ, bề mặt
nhất thời, thiếu chiến lược và tầm nhìn dài hạn, thiếu tính đồng bộ và hệ thống,
chưa đạt tới chiều sâu bản chất của vấn đề. Để giải quyết được căn bản những vấn
đề đặt ra, những người lãnh đạo - quản lý, những nhà khoa học, những người làm
giáo dục phải có cách nhìn toàn diện, đầy đủ, khách quan, như các văn kiện của
Đảng đã nêu, sâu hơn, bản chất hơn những gì nêu trên báo chí và những báo cáo
tổng kết thành tích.


Kết luận
Xu hướng toàn cầu hoá đã mở ra cho chúng ta rất nhiều những cơ hội nhưng
cũng không ít khó khăn, thách thức trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có giáo dục,
đào tạo. Đòi hỏi Đảng, nhà nước phải có tầm nhìn chiến lược, lâu dài cũng như
những giải pháp để thực hiện một cách hiệu quả nhất những mục tiêu đã đề ra. Đây
là một nhiệm vụ khó khăn đòi hỏi quá trình thực hiện phải quyết liệt và chất lượng
vì chúng ta là đất nước có xuất phát điểm. Đi lên từ những năm tháng khó khăn,
gian khổ và tâm lý cũng như tác phong học tập, làm việc theo kiểu nhà nông vẫn
còn in đậm trong rất nhiều những hoạt động thực tiễn của người Việt Nam trên tất
cả các lĩnh vực.
Mong rằng trong thời gian tới, hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực giáo
dục sẽ ngày một nâng lên, đáp ứng sự mong mỏi và kỳ vọng của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta về một nền giáo dục chất lượng và tiên tiến, Hoà nhập và ngang
tầm với nền giáo dục của các nước tiên tiến trên thế giới, gắn với đào tạo sẽ góp

phần cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian tới.
Danh mục Tài liệu tham khảo
1.

Giáo trình "quản lý nhà nước trên các lĩnh vực trọng yếu" học viện Báo

Chí và Tuyên truyền, nhà xuất bản chính trị, Quốc gia năm 2013
2. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khóa VII)
3. Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII)
4. Kết luận Trung ương 6 khóa XI
5. Tạp Chí khoa học giáo dục tháng 12 năm 2014.



×