Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TÌNH HÌNH về KHUYNH HƯỚNG NGHIÊN cứu xã hội học tôn GIÁO HIỆN NAY ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.88 KB, 25 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG

Chuyên đề:

Các trào lưu, khuynh hướng nghiên cứu tôn giáo đương đại

TIỂU LUẬN
TÌNH HÌNH VỀ KHUYNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI
HỌC TÔN GIÁO HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

Học viên

: Cao Nguyên

Lớp

: NCS K32 Tôn giáo

Hà Nội, 2016


A/ MỞ ĐẦU
Hiện nay toàn cầu hóa là một xu thế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu và
rộng đối với các quốc gia trên thế giới, điều này sẽ dẫn tới những va chạm, xung đột
hay cũng có thể tạo ra sự dung hoà thâm nhập ảnh hưởng lẫn nhau. Bởi vậy, với tư
cách là một bộ phận quan trọng cấu thành các nền văn minh, các quốc gia dân tộc, đời
sống tôn giáo hiện nay rất đa dạng và tiềm chứa nhiều khuynh hướng trái ngược nhau.
Một mặt, tôn giáo đang được nhìn nhận như một loại sức mạnh mềm, có khả năng chi
phối đời sống chính trị -xã hội trên thế giới. Điều này đã diễn ra qua các xung đột vũ
trang ở cấp độ khu vực và cấp độ quốc gia mang sắc thái tôn giáo. Mặt khác, trong đời


sống tôn giáo đã xuất hiện những nét mới: khuynh hướng cá nhân hoá(thế tục hóa) ở
các nước phát triển và khuynh hướng xã hội hoá (chấn hưng) ở các nước đang hoặc
chậm phát triển và hiện lại đang xuất hiện ngày càng nhiều các hình thức tôn giáo mới,
phản ánh nhu cầu tìm kiếm những mô thức văn hoá mới.
Do vậy, nhu cầu nghiên cứu tôn giáo đã thúc đẩy các phương thức tiếp cận mới,
trong đó phải kể đến phương thức đối thoại giữa khoa học và phương thức tiếp cận
tổng thể, dựa trên sự hợp nhất văn hoá với văn hoá. Cùng với sự phát triển của lịch sử,
tôn giáo cũng đang biến đổi và do đó có thêm sức sống mới để khẳng định vị trí của
mình trong đời sống xã hội hiện đại.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội đầy bí ẩn, đồng hành với con người suốt từ
buổi ban đầu đến hôm nay và lâu dài cùng xã hội loài người. Tôn giáo là thực tại
khách quan, xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người. Tôn giáo là một nhu cầu tinh
thần của cá thể, của cộng đồng và toàn xã hội. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải nghiên
cứu, qua đó hiểu được đời sống xã hội và văn hóa tinh thần của nhân loại, dân tộc, của
một cộng đồng, hay một cá thể. Vì vậy, việc nghiên cứu tôn giáo với tư cách là một
hiện tượng xã hội là một lĩnh vực quan trọng của xã hội học tôn giáo. Mặt khác, để
biến tôn giáo thành lực lượng xã hội phục vụ cho những lợi ích chung của dân tộc, đất
nước và để hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của nó thì việc cần thiết, là phải
hiểu biết sâu sắc về đặc trưng và bản chất của tôn giáo, có nghĩa là phải hiểu những
khía cạnh của tôn giáo ảnh hưởng đến niềm tin, tín ngưỡng, hành vi, lối sống, những
khía cạnh xã hội của nó.
Việt Nam là đất nước có nhiều loại hình tôn giáo cùng tồn tại, lại có tính đan
xen, thể hiện khác biệt với nhiều nước khác ngay trong khu vực và trên thế giới. Trong
những năm gần đây, tôn giáo ở nước ta có nhiều biểu hiện phát triển. Bên cạnh những
mặt tích cực là đáp ứng nhu cầu tin thần của nhân dân, hướng con người sống lành
mạnh, lương thiện, đã nảy sinh những biểu hiện tiêu cực cần khắc phục. Với phương
châm: tôn trọng quyền tự do tham gia tín ngưỡng và không tham gia tín ngưỡng của
nhân dân, hướng các tôn giáo đồng hành cùng dân tộc. Do vậy, nghiên cứu tôn giáo để

1



hiểu đúng, hiểu rõ bản chất, chức năng của đời sống tôn giáo đối với sự phát triển xã
hội là một nhiệm vụ cần thiết hiện nay. Ðiều đáng lưu ý là nghiên cứu tôn giáo dưới
góc độ xã hội học tôn giáo ở nước ta, vẫn còn là vấn đề khá mới mẻ và còn nhiều hạn
chế, ít có những công trình xã hội học nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, đặc biệt
từ lĩnh vực nghiên cứu lý thuyết. Do vây, trong bài tiểu luận này, sẽ bước đầu tìm hiểu
một cách tổng quan về khuynh hướng nghiên cứu xã hội tôn giáo ở Việt Nam. Với
mong muốn được tìm hiểu về một phương diện tiếp cận nghiên cứu tôn giáo ở giác độ
xã hội học nhằm có được góc nhìn tôn giáo đa diện. Đồng thời cũng có cái nhiền toàn
diện hơn về khuynh hướng nghiên cứu xã hội học tôn giáo hiên nay.

B/ Khuynh hướng nghiên cứu xã hội học tôn giáo
1. Một số quan điểm xác định đối tượng nghiên cứu của xã hội học
tôn giáo hiện nay
Linh vực tôn giáo luôn được nhiều bộ môn khoa học xã hội quan tâm nghiên
cứu như triết học, tâm lý học, lịch sử, dân tộc học, thần học… trong đó góc độ nghiên
cứu trên giác độ xã hội học tôn giáo. Xã hội học tôn giáo đi vào tiếp cận khái niệm tôn
giáo theo chiều cạnh của xã hội học. Nhiều nhà xã hội học cho rằng, nên coi việc định
nghĩa về tôn giáo như những chiến lược hơn là chân lý{1. tr 4}, hiện nay có 2 loại định
nghĩa về tôn giáo, định nghĩa bản chất và định nghĩa chức năng. Trong khi định nghĩa
bản chất cố gắng xác định tôn giáo là gì, thì định nghĩa chức năng lại cố gắng tìm xem
tôn giáo làm gì cho cá nhân, nhóm và xã hội. Mỗi cách định nghĩa tôn giáo đều có
những mặt mạnh khiến nó thích hợp với những nhiệm vụ nhất định, nhưng mỗi cách
tiếp cận cũng dần đi đến nhìn nhận rất khác nhau về nhiều vấn đề như, biến đổi tôn
giáo, thế tục hoá, hay quan hệ giữa tôn giáo với các thiết chế xã hội khác, các hình
thức tôn giáo mới{1. tr 4}.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa cho rằng, Xã hội học chỉ là một cách tiếp cận
về tôn giáo. Nó tập trung vào nghiên cứu các tương tác giữa tôn giáo và xã hội, giữa
tôn giáo với các thể chế, cấu trúc, tầng lớp và các nhóm xã hội. Trong nghiên cứu xã

hội học tôn giáo, hiện nay người ta vẫn đang đứng trước nan giải giữa các định nghĩa
hoặc là quá hẹp hoặc quá rộng về tôn giáo, giữa định nghĩa bản thể và định nghĩa chức
năng.
Tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa tiếp tục phân tích đối tượng nghiên cứu của xã hội
học tôn giáo: chúng ta thấy rằng bản chất, chức năng của tôn giáo là gì đều thay đổi,
tùy thuộc những bối cảnh xã hội nhất định, tùy thuộc vị trí xã hội của những thành
phần xã hội đưa ra những định nghĩa trên và tùy thuộc chính vị trí của tôn giáo trong
xã hội tổng thể, vào những thời điểm nhất định. Nhà xã hội học tôn giáo khi nghiên
cứu tôn giáo không thể tránh việc đưa ra những định nghĩa về tôn giáo như là một giả
thiết làm việc, vấn đề là phải ý thức những bối cảnh xã hội của những định nghĩa này,

2


những thành phần xã hội nào ủng hộ những quan điểm trên. Hiện nay khi phải định
nghĩa tôn giáo, một số nhà xã hội học không tập trung nêu lên bản chất của hiện tượng
tôn giáo mà chỉ "nêu lên những thành tố xã hội thích đáng của hiện tượng tôn giáo, có
nghĩa là những yếu tố mà không có chúng ta không thể nói gì về cái tôn giáo; lối tiếp
cận này có tính giản lược về mặt phương pháp luận, tuy nhiên nó là giai đoạn chủ yếu
qua đó đối tượng được thiết kế như là một khái niệm có thể có một vị trí trong lập luận
khoa học”.
Xu hướng xã hội học tôn giáo nghiên cứu quan hệ giữa tôn giáo và xã hội, cơ
cấu và quy luật tồn tại của tôn giáo với tư cách là hiện tượng xã hội. Xã hội học tôn
giáo sẽ đi vào nghiên cứu: biểu hiện lí luận của tôn giáo (thần thoại, tín ngưỡng, giáo
lí, thần học) với ý nghĩa tư tưởng của nó (lí luận của tôn giáo coi như là tự ý thức của
xã hội biểu hiện nhu cầu, chuẩn mực, mục đích, giá trị của xã hội và những thiết chế
tôn sùng ý thức ấy); mặt thực hành của tôn giáo (thờ cúng, nghi thức, lễ hội) như là
công cụ để xây dựng và củng cố cộng đồng tôn giáo; cơ cấu và sự vận hành của những
tổ chức riêng biệt của tôn giáo (nhà thờ, giáo hội, giáo phái...).
Trong đó những yếu tố xã hội học tôn giáo không chỉ phản ánh tính xã hội của

tín đồ tôn giáo mà còn phản ánh tính xã hội của các nhóm tôn giáo và sự phản ánh tính
xã hội của nhóm tôn giáo là một trong những nội dung của những yếu tố cấu thành xã
hội học tôn giáo. Các tín đồ và những người theo tôn giáo nói chung, không thực hiện
hành vi tôn giáo của mình một cách đơn lẻ mà thực hiện trong các nhóm nhất định. Sự
hình thành, phát triển và tính tổ chức của các nhóm tín đồ có thể ở những mức độ khác
nhau. Có những nhóm hình thành một cách tự phát, nhưng có những nhóm hình thành
mang tính tổ chức cao. Những quan niệm cảm xúc và hành vi tôn giáo đều được hình
thành qua giao tiếp và các hoạt động chung trong cộng đồng tôn giáo
Tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa nhận định rằng, xã hội học tôn giáo là một ngành
trong bộ môn tôn giáo học, nó nghiên cứu quá trình phát triển của tôn giáo, bản chất,
vai trò và vị trí của tôn giáo trong xã hội.
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học tôn giáo nói riêng, cũng như việc xác
đinh đối tượng nghiên cứu của các môn học nói chúng, luôn luôn là vấn đề có vị trí
đầu tiên. Tuy nhiên, việc xác định đối tượng nghiên cứu của xã hội học tôn giáo lại có
tính đặc thù và rất phức tạp. Vì vậy, việc xác định đối tượng nghiên cứu tôn giáo của
xã hội học, còn là sự phân định khác biệt giữa xã hội học tôn giáo với các môn khoa
học khác. Vì vậy, trước hết chúng ta cần xác định xã hội học tôn giáo nghiên cứu vấn
đề gì?
Tác giả Vũ Quang Hà khặng định:xã hội học tôn giáo là một chuyên ngành
thuộc bộ môn xã hội học nghiên cứu quan hệ giữa tôn giáo và xã hội, cơ cấu và quy
luật tồn tại của tôn giáo với tư cách là hiện tượng xã hội. Xã hội học tôn giáo nghiên

3


cứu: biểu hiện lí luận của tôn giáo (thần thoại, tín ngưỡng, giáo lí, thần học) với ý
nghĩa tư tưởng của nó (lí luận của tôn giáo coi như là tự ý thức của xã hội biểu hiện
nhu cầu, chuẩn mực, mục đích, giá trị của xã hội và những thiết chế tôn sùng ý thức
ấy); mặt thực hành của tôn giáo (thờ cúng, nghi thức, lễ hội) như là công cụ để xây
dựng và củng cố cộng đồng tôn giáo; cơ cấu và sự vận hành của những tổ chức riêng

biệt của tôn giáo (nhà thờ, giáo hội, giáo phái...). Các nhà xã hội học Macxit cũng như
những nhà khoa học tiến bộ đều cho rằng: nhiệm vụ cơ bản của xã hội học tôn giáo, là
tìm ra cái chung nhất của những tôn giáo trong hình thức biểu hiện đa dạng, đồng thời
cũng cần nghiên cứu đi sâu nghiên cứu tôn giáo cụ thể(11. tr 20). Tác giả phân tích
tiếp: trọng tâm của xã hội học tôn giáo là nghiên cứu những tác động tôn giáo mang
tính tương hỗ trong cuộc sống cá nhân của cá thể, tức nghiên cứu kinh nghiệm tôn
giáo, niềm tin tôn giáo, lối sống tôn giáo. Vì vậy, nghiên cứu tôn giáo không tách khỏi
xã hội học tôn giáo, tổ chức tôn giáo, niềm tin tôn giáo, lối sống tôn giáo, nhu cầu tôn
giáo...Như vậy, đối tượng của xã hội học tôn giáo được xác định: nghiên cứu sự biến
đổi sự điều chỉnh hành vi tôn giáo, đặc điểm xã hội của những tín đồ tôn giáo và phân
biệt những đặc điểm này trong hành vi của tín đồ tôn giáo và những người không theo
tôn giáo(11.tr 24).
Theo tác giả Bùi Thế Cường cho rằng: về mặt xã hội học, tôn giáo có ý nghĩa ở
chỗ nó là ví dụ tuyệt vời về việc một hiện tượng phi hợp lý nhưng lại đóng một vai trò
căn bản trong đời sống xã hội. Lý thuyết xã hội học về tôn giáo cho phép ta hiểu nghi
lễ xã hội và cái cách thức mà nghi lễ xã hội tạo ra tình cảm đạo đức cũng như các ý
tưởng mang tính biểu trưng, vượt ra khỏi phạm vi hiểu về tôn giáo, lý thuyết xã hội
học về tôn giáo còn giúp ta hiểu về chính trị và hệ tư tướng, về tiến trình đoàn kết mà
lại tạo ra xung đột giữa các nhóm. Thậm chí nó còn giúp ta hiểu về những cơ sở của sự
thế tục riêng tư trong đời sống hiện đại. Nghi lễ xã hội là cái gì đó phổ quát, thấm
trong mọi ngóc ngách của đời sống hiện đại, hệt như nó đã từng là như vậy trong mọi
thời, chỉ có các hình thái và sự sấp xếp của các nghi lễ là thay đổi mà thôi.
Tác giả Mai Huy Bích cho rằng, tâm lý học tôn giáo, triết học tôn giáo có
phương pháp, cách thức, nội dung... tiếp cận rất khác xã hội học tôn giáo: Ví dụ theo
một số tác giả, nếu tâm lý học tập trung vào các khía cạnh tâm lý tôn giáo ở cá nhân
con người, những biểu hiện của các khía cạnh đó theo giới, lứa tuổi thì xã hội học
quan sát tất cả những gì thuộc về tập thể, nhóm, cộng đồng và xã hội chứ không phải
cá nhân. Đồng thời, triết học tôn giáo cũng không đồng nghĩa với xã hội học tôn giáo.
Bởi vì, nghiên cứu bản chất của tôn giáo là một vấn đề triết học chứ không là trọng
tâm của xã hội học. Khác với triết học, xã hội học không đặt vấn đề tìm hiểu nội dung

tôn giáo(giáo lý, truyền thuyết tôn giáo) mà coi nội dung tôn giáo là sự kiện, hiện
tượng xã hội cần tìm hiểu. Xã hội học không phân tích rằng nội dung đó là đúng sai,

4


tốt xấu, tiến bộ lạc hậu, có cơ sở lý tính hay không. Thay vào đó, nhà xã hội học đặt
câu hỏi như: trên cơ sở xã hội nào những hiện tượng tôn giáo nảy sinh, tồn tại, phát
triển, Lôgic xã hội của chúng ra sao. Nếu như nhà triết học tôn giáo quan tâm đến câu
hỏi: có thượng đế hay không, thì nhà xã hội học lại quan tâm đến vấn đề; tôn giáo làm
gì, thoả mãn nhu cầu nào cho con người, chức năng của nó là gì. Cuối cùng, tác giả
cũng cho rằng: Xã hội học tôn giáo cũng khác với lịch sử tôn giáo. Trong khi sử học
tôn giáo ghi lại và xem xét các sự kiện tôn giáo theo thời gian, tầm quan trọng về mặt
thời gian của những sự kiện đó, thì xã hội học lại tìm cái logic xã hội trong lịch sử tôn
giáo. Xã hội học tôn giáo cũng không quan tâm đến nguồn gốc lịch sử của tôn giáo
trong những xã hội thường được gọi là nguyên thuỷ. Các nhà lịch sử tôn giáo nghiên
cứu sự phát triển lịch sử của các tín ngưỡng, các niềm tin tôn giáo và các nhà dân tộc
học nghiên cứu sự vận hành đời thường của tôn giáo và các chức năng xã hội của
chúng. Tác giả nhấn mạnh, điểm khác biệt của xã hội học tôn giáo so với các khoa học
cùng lấy tôn giáo làm đối tượng nghiên cứu chính là: cách tiếp cận của xã hội học tập
trung vào sự tác động qua lại giữa tôn giáo và xã hội, giữa tôn giáo với các thiết chế,
cấu trúc, hệ tư tưởng giai cấp và các nhóm khác trong xã hội. Xã hội học tôn giáo coi
tôn giáo như một hiện tượng xã hội thực tế, tức là mọi tôn giáo là sản phẩm cuả sự
tương tác giữa con người với nhau, là một kiến tạo xã hội chứ không phải do lực lượng
siêu nhiên tạo ra. Xã hội học tôn giáo đặt câu hỏi về vai trò, ý nghĩa của tôn giáo trong
xã hội con người nói chung, cũng như ý nghĩa và vai trò của việc hiểu đức tin và thực
hành cụ thể của các nhóm và các xã hội cụ thể( 1. tr 8).
Theo tác giả Vũ Quang Hà, việc phân định xã hội học tôn giáo với một số
ngành khoa học xã hội khác có cùng đối tượng nghiên cứu là tôn giáo chỉ mang tính
chất tương đối. Và đương nhiên nghiên cứu khía cạnh xã hội của tôn giáo cũng không

thể tách rời các phân ngành xã hội học.

2. Cách tiếp cận xã hôi học tôn giáo qua các phương pháp
Việc xác định phương pháp nghiên cứu của xã hội học tôn giáo là vấn đề có ý
nghĩa rất quan trọng trong quá trình thực hiện các nghiên cứu xã hội học tôn giáo
Tác giả Vũ Quang Hà cho rằng: những phương pháp luận nghiên cứu các
phương pháp nghiên cứu của xã hội học có ý nghĩa quyết định đối với xã hội tôn giáo.
Nguyên tắc hoạt động, cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản để nghiên cứu xã
hội học tôn giáo(11. tr 32).
Tác giả Vũ Quang Hà cho rằng: phương pháp luận triết học là một phương pháp
hết sức quan trọng của việc tiếp cận tôn giáo học và xã hội học tôn giáo. Ông phân
tích: triết học biện chứng duy vật đã chỉ ra rằng, thế giới quan tôn giáo là thế giới quan
hoang đường, hư ảo của con người. Song vì sao thế giới quan hoang đường, hư ảo ấy
của hiện tượng tôn giáo lại có vai trò, có sự tác động hết sức phức tạp đến đời sống xã

5


hội, điều này không thể lý giải được một cách đầy đủ nếu như không có sự tiếp cận tôn
giáo về mặt xã hội học. Có thể nói xem xét tôn giáo về mặt triết học là sự nghiên cứu
về thế giới quan và mặt nhận thức luận, còn nghiên cứu tôn giáo về mặt xã hội học là
nghiên cứu về mặt bản thể luận (cái bản thể ở đây được hiểu là sự tồn tại hiện hữu của
hiện tượng tôn giáo với những chức năng xã hội của nó). Như vậy có thể nói, sự thống
nhất trong việc nghiên cứu tôn giáo về mặt triết học và mặt xã hội học đó là sự thống
nhất của việc nghiên cứu tôn giáo về mặt thế giới quan, nhận thức luận và bản thể
luận. Đây là một yêu cầu quan trọng của nhận thức luận duy vật khoa học (11. tr 24).
Cũng theo Vũ Quang Hà thì: Triết học có nhiều phương pháp, nhưng những
phương pháp ấy đều quy về 2 phương pháp chung nhất, phương pháp biện chứng và
phương pháp siêu hình. Xã hội học nói chung đã sử dụng cả hai phương pháp này
trong nghiên cứu của mình, tuy nhiên phương pháp biện chứng thường được sử dụng

như là phương pháp nền tảng của xã hội học Macxit. Phương pháp biên chứng cho
phép chúng ta nhận thức đối tượng trong các mối quan hệ với nhau, ảnh hưởng qua lại
với nhau. Phương pháp biên chứng, trong nghiên cứu xã hội học tôn giáo cho chúng ta
nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động, biến đổi và phát triển. Mọi sự biến đổi của
tôn giáo, hành vi của tín đồ…đều có nguồn gốc từ sự tương tác mang tính xã hội mà
thực chất là xuất phát từ sự xung đột và giải quyết các xung đột( 11. tr 25).
Tác giả Vũ Quang Hà đi đến kết luận: để nghiên cứu xã hội học tôn giáo cần có
sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa kinh nghiệm và những nghiên
cứu mang tính hệ thống.
Trong giáo trình xã hội học tôn giáo(2005), tác giả Vũ Quang Hà đã lần lượt
trình bày:
1. Phương pháp quan sát là một phương pháp nghiên cứu xã hội học tôn giáo.
Nhưng người nghiên cứu thực hiện quan sát hành vi của các cá thể hay cộng đồng tôn
giáo trong việc thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Do hạn chế của phương pháp quan sát là
chỉ ghi lại được các trạng thái cảm xúc, hành vi của tín đồ thể hiện ra bên ngoài nên
phương pháp này cần kết hợp với một số phương pháp khác;
2. Phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu xã hội học tôn giáo, chủ yếu
được thực hiện dưới dạng tự nhiên. Không dùng những tác động bên ngoài ảnh hưởng
đến đời sống xã hội của tín đồ, nên có thể thu được những kết quả có tính khách quan.
Đối tượng nghiên cứu là các tín đồ riêng lẻ, tập đoàn, nhóm xã hội và cộng đồng tôn
giáo;
3. Phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp sử dụng nhiều trong các
nghiên cứu hiện tượng xã hội của tôn giáo. Việc nghiên cứu các tài liệu, hiện vật có
thể giúp chúng ta làm sáng tỏ sự hình thành và phát triển của một tôn giáo hay một
cộng đồng nào đó, sự hình thành các đặc điểm xã hội của một tín đồ hay thủ lĩnh tôn

6


giáo. Nhiều nhà xã hội học đã nghiên cứu những tài liệu ghi chép công việc hằng ngày

của các nhà thần học, những người theo chủ nghĩa khổ hạnh, các tu sĩ ẩn dật…trong
việc tìm hiểu tính xã hội của các tôn giáo. Kết quả nghiên cứu tài liệu này đã giúp họ
hoàn thành nhiều công trình về hành vi tôn giáo, kinh nghiệm tôn giáo… Các kết quả
nghiên cứu này đã trở thành cơ sử cho nghiên cứu tôn giáo học và xã hội học tôn giáo;
4. Phương pháp phỏng vấn được sử dụng nhiều trong xã hội học tôn giáo.
Phỏng vấn được tiến hành dưới 2 hình thức: phỏng vấn sâu và phỏng vấn bằng bảng
anket. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế riêng.; vì vậy khi nghiên
cứu một vấn đề nào đó của xã hội học tôn giáo cần phải kết hợp nhiều phương pháp
khác nhau. Có như vậy kết quả thu được mới có tính khoa học, tính chân thực và độ tin
cậy cao(11. tr 33-37).
Bên cạnh phương pháp nghiên cứu xã hội học nói chung, theo tác giả Vũ
Quang Hà (2005), còn khẳng định, trong quá trình nghiên cứu xã hội học tôn giáo cần
chú ý đến phương pháp luận duy vật biện chứng; phương pháp lịch sử cụ thể; phương
pháp cấu trúc-chức năng; phương pháp xem tôn giáo là nhu cầu xã hội.
Tác giả Vũ Quang Hà còn cho rằng: Tôn giáo là hiện tượng xã hội rất phức tạp.
Tính phức tạp đó biểu hiện ở tính đa dạng, đa diện, đa chức năng. Có lẽ vì tính phức
tạp ấy mà đã có người đồng nhất tôn giáo với chính trị, với đạo đức, với triết học, với
văn hóa..., điều này khiến ta không thể dùng một loại phương pháp riêng biệt nào để
nghiên cứu về tôn giáo được. Từ việc xác định đối tượng nghiên cứu của tôn giáo học,
cần thiết phải nghiên cứu tôn giáo bằng một hệ thống những phương pháp.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa, một trong những nguyên tác đầu tiên mà nhà
xã hội học khi nghiên cứu về tôn giáo là phải tuân theo sự trung lập về mặt giá trị khi
nghiên cứu các hiện tượng xã hội, nhưng mặt khác, nhà xã hội học phải đi vào lý giải ý
nghĩa trong hành vi của con người trong mối quan hệ với người khác(8; tr 7).
Còn tác giả Mai Huy Bích thì nhận định: Nhãn quan xã hội học tôn giáo có 2
đặc điểm với nhãn quan của các khoa học khác bàn về tôn giáo. Đó là nhãn quan xã
hội học mang tính chất thực nghiệm và mang tính khách quan(1. tr 8).
Hiện nay có thể khái quát có 3 cách tiếp cận chủ yếu của xã hội học khi nghiên
cứu về tôn giáo: tiếp cận chức năng (Malinowski; Dur kheim; T Parsons); cách tiếp
cận hành động xã hội về tôn giáo của (MaxWeber và P Berger); cách tiếp cận xung đột

của (Các Mác và Ănghen).
(1) Tiếp cận xung đột xã hội, quan điểm của Marx-Engels
Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả Vũ Quang Hà khẳng định: Ngay
từ trong thời kỳ đầu hình thành các quan điểm duy vật biện chứng Các Mác và Anghen
đã kiên quyết đấu tranh bảo vệ quyền lãnh đạo của triết học đối với tư duy con người
và sự độc lập hoàn toàn của triết học đối với tôn giáo. Hai ông chỉ ra rằng, triết học

7


duy tâm có lợi cho tôn giáo. Hai ông đã liên tục đấu tranh chống lại luận điểm duy tâm
và tôn giáo về xã hội cho rằng, sự tồn tại của các nhà nước và các nền văn minh nhất
thiết phải gắn liền với sự tồn tại của những tôn giáo nhất định. Thực tế mỗi bước ngoặt
lịch sử trong các chế độ xã hội lại đưa đến sự thay đổi trong quan điểm và quan niệm
của con người. Tôn giáo đã có những thay đổi để thích nghi với chế độ chiếm hữu nô
lệ, phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa(11. tr 39).
Cho đến nay sự ảnh hưởng cuả cách tiếp cận tôn giáo theo khuynh hướng xung
đột xã hội vẫn tiếp tục được khẳng định. Tác giả Vũ Quang Hà cho biết: Sự phát sinh
của tôn giáo từ nguyên nhân kinh tế, tôn giáo là sản phẩm xã hội nó được quy định và
quyết định bởi lịch sử. Các ông cũng cho rằng, giáo hội luôn là một bộ phận của giai
cấp bóc lột, luôn tìm cách củng cố sự thống trị của giai cấp và của giới tu sĩ là giải
thích bênh vực cho chế độ đó. Ngày nay, mặc dù tương quan lực lượng đã thay đổi,
nhiều biến cố chính trị, kinh tế, xã hội nảy sinh, toà thánh Vadtican vẫn luôn tuyên bố,
chế độ tư hữu là do ý Chúa, là phù hợp với ý nguyện của xã hội(11. tr 43). Tiếp tục
quan điểm này, trong một công trình nghiên cứu gần đây, tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa
khẳng định: P. Bourdieu chịu ảnh hưởng Marx về khái niệm hệ tư tưởng được xem
như «hoá thân của các quan hệ xã hội thành các quan hệ siêu tự nhiên và do đó hằn sâu
trong bản chất và như vậy các quan hệ được xác nhận ». Trong cái nhìn đó, tôn giáo có
chức năng chính trị duy trì trật tự xã hội. Quan điểm này chịu ảnh hưởng rõ ràng lý
thuyết mác-xít. Sau này vào những năm 1990, trong tác phẩm: Sự thống trị của nam

giới - nó càng đậm nét hơn khi ông khẳng định tôn giáo có vai trò trong việc hợp thức
sự thống trị của nam giới đối với nữ giới. Các tác nhân trong trường lực tôn giáo có
vốn liếng tôn giáo khác nhau. Vốn liếng này tuỳ thuộc sức mạnh vật chất hay biểu
trưng của các nhóm, tầng lớp có thể động viên bằng cách cung cấp các sản phẩm và
dịch vụ có thể thoả mãn những lợi ích tôn giáo.
(2)Tiếp cận chức năng xã hội của Emile Durkheim
Theo sự lý giải của Vũ Quang Hà, cách tiếp cận chức năng xã hội của
Durkheim được phiên giải như sau: Sự tách biệt sẽ trở thành sự khác biệt căn bản: một
sự vật, một hiện tượng, một cá thể trở thành thiêng liêng, khi những thứ đó chuyển vào
một lĩnh vực được coi là khác với lĩnh vực của thế giới phàm tục. Cái thiêng liêng là
một sự tách rời rõ ràng của một sự vật khỏi thế giới hiện thực, nhằm thực hiện những
chức năng không còn phàm tục nữa. Cái thiêng liêng là một cái gì đó phàm tục và đã
thay đổi bản chất, thay đổi về ký tự do ý muốn của con người. Chính con người tạo ra
cái thiêng liêng như những thần thánh của họ, rồi họ cho rằng vị thần này hay vị thần
khác tồn tại độc lập với ý muốn của họ; cái bình thường trở thành khác thường và do

8


đó, có thể được coi là một nền tảng cao cả, không thể tranh cải và không thể vượt
qua(11.tr 97).
Bàn về cách tiếp cận chức năng xã hội của Dur kheim, tác giả Bùi Thế Cường
lý giải: Emile Durkheim xây dựng một lý thuyết về tôn giáo, theo đó điểm then chết
của tôn giáo không phải là niềm tin của nó mà là những nghi lễ xã hội mà các tín đồ
thực hiện. Tôn giáo là chìa khóa của sự đoàn kết xã hội, các niềm tin tôn giáo là quan
trọng nhưng không phải ở chính bản thân chúng mà ở chỗ chúng là biểu trưng của các
nhóm xã hội.Cơ sở chung của các tôn giáo Giả thuyết cơ bản của Durkheim là tôn
giáo biểu hiện cho một cái gì đó có thực. Không có lý gì để tin rằng có tồn tại
một Đấng tối cao siêu tự nhiên, siêu việt. Cái mà tôn giáo phản ánh phải là một cái gì
đó mạnh hơn các cá nhân. Như vậy, tôn giáo được tạo thành từ niềm tin và nghi lễ, cả

hai liên quan với nhau. Các nghi lễ là những thủ tục mà con người phải tự thực hiện
với sự có mặt của những vật mà họ tin là thiêng. Ngược lại, hành vi thông thường.
không có tính nghi lễ được làm với sự có mặt của những cái được xem là trần tục. Xã
hội học của Durkheim đặt ưu tiên chú ý vào nghi lễ chứ không phải vào niềm tin. Việc
tiến hành đúng đến nghi lễ là điều sẽ tạo ra niềm tin vào cái thiêng.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa thì: Lối tiếp cận về các chiều kích của tính
tôn giáo đặc biệt phù hợp với quan điểm chức năng luận về tôn giáo, vì quan điểm này
cho rằng, tôn giáo đáp ứng những nhu cầu khác nhau của những cá nhân cụ thể; nó
cũng phù hợp với lí thuyết tước đoạt về tôn giáo cho rằng con người hướng về “siêu
nhiên” để đáp ứng những nhu cầu mà họ không tìm thấy một cách thích đáng ở thế
giới này. Trong một công trình nghiên cứu khác, tác giả tiếp tục đề cập đến cách tiếp
cận chức năng: Trong các chức năng xã hội của tôn giáo mà Durkheim đề cập, P.
Bourdieu nhấn mạnh đến các phản chức năng và chức năng chính trị của tôn giáo.
Trong các chức năng xã hội của tôn giáo mà Durkheim đề cập, P. Bourdieu nhấn mạnh
đến các phản chức năng và chức năng chính trị của tôn giáo.
(3) Tiếp cận biến đổi xã hội của Max Weber
Đối với cách tiếp cận biến đổi xã hội của Max weber, tác giả Vũ Quang Hà đã
có những phân tích hết sức cụ thể: Cũng như Các Mác, MaxWeber tìm cách giải thích
sự biến đổi xã hội. Tại sao lại có thể xảy ra những biến đổi xã hội sâu sắc của trật tư xã
hội hiện có vào một thời điểm tiến hoá lịch sử nào đó với những điều kiện cụ thể thúc
đẩy các quá trình biến đổi của lịch sử. Đối với Mac, nhân tố biến động là sự xung đột
xã hội. Bằng cách đem đối lập lẫn nhau những giai cấp xã hội đối kháng, sự xung đột
này đưa vào cấu trúc xã hội những yếu tố mâu thuẫn, khiến cho chúng tạo ra những
biến đổi kinh tế và chính trị có tính cách mạng. Đối với MaxWeber sự giải đáp cho
vấn đề biến đổi phải được tìm thấy theo một hướng khác: nếu xã hội biến đổi thì đó là
do những nguyên nhân khủng hoảng kinh tế, xã hội hay chính trị; những nhân tố này

9



có thể được những nhà cách tân xã hội hay chính trị lý giải. Đó là những người xuất
hiện để có thể hiểu và đọc được những tín hiệu của thời đại và nêu các nhu cầu biến
đổi ở mọi người vào một thời điểm lịch sử nhất định. Theo ông, gương mặt của thủ
lĩnh có sức lôi cuốn, chính là nhân tố trung tâm trong các quá trình biến đổi xã hội. Vì
vậy mà Max Weber tập trung sự quan tâm vào những nhân vật tôn giáo thuộc kiểu có
sức lôi cuốn, những người này đóng vai trò những nhà cách tân lớn về đạo đức xã hội
và chính trị. Thật ra, các nhà tiên tri là kẻ nói lên một điều gì đó mới mẻ so với các tôn
giáo thời đại mình: người đó bảo trước một cách nói với thượng đế và mối quan hệ
giữa Thượng đế với con người. Sức thúc đẩy ban đầu của nhà tiên tri, người tự cảm
thấy mình được phú cho sứ mệnh thần thánh để báo trước những bầu trời mới và mãnh
đất mới, thường bị cạn kiệt đi với chính người mang theo tài năng lôi cuốn này, vì thế
vấn đề về sự tồn tại của tài năng lôi cuốn ấy sau khi người đó mất đi được đặt ra.
Trong mỗi trường hợp đó, chính là ở phép biện chứng giữa sức sống đổi mới và thông
điệp tôn giáo được cố định dưới những hình thức có tổ chức, có quy định về nghi thức.
Đối với Max Weber, đã xảy ra nghịch lý của sức lôi cuốn thần thánh và chiều kích
xung đột trong những biến đổi tôn giáo. Như vậy, cách đặt vấn đề của ông khác với
cách tiếp cận theo lý thuyết chức năng về nhiều mặt. Cái mà ông tìm hiểu không phải
là tại sao có trật tự xã hội mà chủ yếu là tại sao trật tự xã hội biến đổi. Đó cũng chính
là nguyên nhân tại sao tôn giáo không chỉ được coi như một nhân tố cấu trúc mà chủ
yếu như một yếu tố có thể tạo ra sự cách tân và biến đổi(11. tr 110).
Những quan điểm của Vũ Quang Hà về cách tiếp cận biến đổi xã hội của Weber
tiếp tục được Nguyễn Xuân Nghĩa đưa ra bằng chứng: Một trong những đóng góp lớn
của P. Bourdieu cho xã hội học là nghiên cứu sự thống trị, đặc biệt sự thống trị do
quyền lực biểu tượng. Quyền lực biểu tượng không chỉ giới hạn ở tôn giáo mà còn ở
nhiều lãnh vực khác của hoạt động xã hội, nhưng nó thể hiện rõ hơn ở tôn giáo so với
các trường lực khác. Chính vì vậy mà nhiều khái niệm xã hội học của P. Bourdieu bắt
nguồn từ nghiên cứu tôn giáo. Cũng từ ảnh hưởng của M. Weber mà Bourdieu quan
niệm xã hội học tôn giáo là một bộ phận của xã hội học về sự thống trị nói chung. P.
Bourdieu đã chịu ảnh hưởng M. Weber về lối tiếp cận cũng như các thuật ngữ kinh tế
khi phân tích hiện tượng xã hội, kể cả tôn giáo. Trước đó, trong một công trình nghiên

cứu xã hội học tôn giáo ông đã khẳng định: Theo Max Weber nghiên cứu tôn giáo là
quan trọng bởi lẽ trong ứng xử của con người các biểu tượng tôn giáo có thể chi phối
nhận thức của con người trong nhiều hoạt động, từ lao động, đời sống gia đình, đời
sống xã hội, hành vi tình dục, hoạt đọng nghệ thuật văn hoá(8; tr 11).

3.Đoàn kết xã hội qua tôn giáo
Theo quan điểm của Durkheim tôn giáo có chức năng đoàn kết xã hội, tôn giáo
là sợi dây vô hình nhưng tạo ra sự liên kết mạnh mẽ, sống hài hoà với nhau trong xã

10


hội, đặc biệt là những người có cùng chung tôn giáo. Như vậy, tôn giáo là một cấu trúc
xã hội để tạo ra sự đồng thuận xã hội. Mỗi xã hội, giống như mỗi cơ thể, cần tìm được
một điểm cân bằng chung quanh những giá trị được mọi người thừa nhận, nhưng cách
hình dung về thế giới. Theo ý nghĩa đó, A.Comte đã không hề bỏ qua điều mà sau này
được E. Durkheim đi sâu nghiên cứu tôn giáo thoả mãn những nhu cầu sâu xa thuộc về
nhận thức và ứng xử trong con người (11. tr 25 ). Trên thế giới là vậy, tuy nhiên ở Việt
Nam việc khẳng định giá trị có tính hiển nhiên của tôn giáo là đoàn kết xã hội chỉ thực
sự được làm rõ trong những năm gần đây. Tuy nhiên, việc tiến hành khảo nghiệm nó
như là một chủ đề nghiên cứu quan trọng của xã hội học dường như chưa có nghiên
cứu nào thực hiện một cách chuyên biệt.
Theo tác giả Đặng Thế Đại, việc hình thành cộng đồng trước hết có vai trò
đóng góp của tôn giáo. Tác giả viết: Mối quan hệ giữa các thành viên cộng đồng là
vừa hỗ trsợ lẫn nhau, vừa phụ thuộc ẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau, cả trong lĩnh vực sản
xuất, trong sinh hoạt, cả trong đời sống tình cảm và tôn giáo. Cộng đồng tôn giáo và
cộng đồng sản xuất, cộng đồng sinh hoạt của người Việt không tác rời. Rút cuộc, sinh
hoạt tôn giáo trở thành một mặt, một bộ phận hữu cơ của sinh hoạt cộng đồng nói
chung(19. tr.42). Trong một công trình nghiên cứu, tác giả Vũ Quang Hà đã khẳng
định việc thực hiện chức năng đoàn kết xã hội của tôn giáo theo lát cắt lịch đại: Chức

năng nghiên cứu nền tảng của đời sống tôn giáo là bảo tồn những giá trị truyền thống
xã hội. Tại đây chúng ta có thể nói đến một nét đặc biệt quan trọng của nó, đó là sự
trung thành với ký ức tập thể. Chính ở điểm này mà tôn giáo phát huy vai trò của nó là
tạo thành những chất keo dính kết tình đoàn kết xã hội, nhằm thiêng liêng hoá các
quan hệ bởi sự gắn bó những người đang sống với nhau và đặc biệt với những người
đã chết. Nội dung quan trọng đích thực của việc thờ cũng là bảo tồn ký ức qua đó mà
mỗi tập thể có thể tiếp tục tự mình tái tạo và phát triển(11. tr 26). Trong khi đó, tác giả
Thích Tâm Thiện thì nhìn nhận chức năng đoàn kết xã hội của tôn giáo như là một vấn
đề không thể thiểu được trong việc hình thành giá trị xã hội và tạo ra sự tồn tại, phát
triển của mọi xã hội: khi các nhu cầu hình thành các giá trị, và các giá trị hội nhập vào
đời sống văn hóa để bảo đảm sự cố kết của xã hội, thì tôn giáo trở thành cơ cấu của
một nền luân lý tự nhiên, cho dù nó được nhìn nhận và đánh giá qua bất kỳ góc độ
nào.
Không dừng lại bàn ở vấn đề lý luận, tác giả Nguyễn Đức Lữ (2007) đã đi sâu
vào phân tích vấn đề đoàn kết xã hội của các tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam. Qua đó
khẳng định, chính điều này đã tạo nên tính đặc biệt về trong lịch sử phát triển của các
tôn giáo ở Việt Nam: Lòng nhân ái, đức khoan dung vốn có của người Việt bắt
gặp đức từ bi của Phật giáo, hiếu nghĩa của Khổng giáo làm cho tính khoan dung tôn
giáo càng được nhân lên và trở thành một trong những đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam.

11


Dù tôn giáo ở đâu đến xứ sở này thì quá trình du nhập, tồn tại ở Việt Nam đã được bản
địa hóa khiến cho các tôn giáo luôn có xu hướng tác động, ảnh hưởng lẫn nhau và
chung sống một cách hòa bình, hữu hảo bên nhau. Tôn giáo vào trước mở rộng cửa
đón tôn giáo vào sau, tạo nên một sự hòa hợp rộng rãi. Có thể nói, ở Việt Nam
có nhiều người là Phật tử nhưng rất am hiểu Khổng giáo và cũng trọng Đạo giáo.
Ngược lại, các thầy pháp của Đạo giáo (phù thủy, chiêm tinh, bói toán...) cũng không
hề bài bác Phật giáo và Nho giáo. Thực tế, có nhà Nho nương thân trong chốn cửa

thiền, mà cũng không ít tăng, ni thông thạo Khổng giáo.
Không chỉ bàn đến vấn đề thực hiện chức năng đoàn kết xã hội ở Việt Nam, tác
giả Đỗ Quang Hưng(2006) còn đi xa hơn khi khẳng định vai trò của tôn giáo trong
thực hiện đoàn kế của kiều bào, hướng kiều bào luôn gắn kết cùng sự phát triển của
quốc gia, dân tộc: Có thể nói, trên đất nước Việt Nam đổi mới hôm nay và có lẽ trong
cả một thế kỷ qua, chưa bao giờ Phật giáo Việt Nam có vị thế như hôm nay. Thực thể
Phật giáo Việt Nam thời hiện đại là một thực thể được trải nghiệm, đã thực sự “hòa
quang đồng trần” qua những bước gập ghềnh của lịch sử. Chưa bao giờ Phật giáo Việt
Nam có được một khoảng không gian tồn tại rộng lớn như ngày nay, họ có mặt ở
nhiều nước với nhiều tông phái, tổ chức khác nhau. Phật giáo Việt Nam ở Pháp do
những đặc thù dân tộc đang phải giải đáp những vấn đề nhu cầu cá tính cộng đồng của
những kiều dân, lại đi tìm những nét mới trong đời sống tâm linh do tiếp cận với một
xã hội dân chủ như nước Pháp.

4. Tôn giáo trong đời sống thế tục
Một trong những xu thế biến đổi tôn giáo hiện nay chính là quá trình thế tục
hoá. Thực tế ở Việt Nam cho thấy vai trò của các tôn giáo đang gia tăng trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng chính là lý do khẳng định sự cận thiết của tôn giáo,
một sự đền bù chia sẻ trong đời sống thế tục của các tôn giáo. Việc nhìn nhận tôn giáo
đóng vai trò như một tổ chức có khả năng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội đã
được nhiều nhà xã hội học ở Phương Tây đề cập từ rất sớm. Tại Việt Nam chủ đề này
cũng đã được một số tác giả quan tâm nghiên cứu.
Chủ đề nghiên cứu này được các nhà khoa học Việt Nam xác lập bắt nguồn từ
sự lý giải của Mác về nguyên nhân ra đời và chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo.
Trong một công trình nghiên cứu gần đây tác giả Đỗ Quang Hưng(2006) viết: Tôn
giáo có thể đem lại cho con người dũng khí, trước những thử thách bất kỳ của cá nhân
hay dân tộc, do người tôn giáo cảm nhận cuộc đời là vô thường, cuộc sống là tạm bợ.
Gặp cảnh ngộ éo le, gian khổ, con người thường được tôn giáo an ủi, đảm bảo hy
vọng. Đó là tác dụng thuốc phiện của tôn giáo, như Mác nói. Trong nhiều trường hợp
cần kíp, dùng thuốc gây mê hay gây tê là cần thiết. Đề cập đến chức năng thực hiện an


12


sinh xãd hội của tôn giáo, trong công trình nghiên cứu tác giả Vũ Quang Hà(2005) đã
khẳng định: Chức năng thứ ba của xã hội học tôn giáo là nghiên cứu sự an ủi, khơi dậy
lòng khao khát sống ở những người gặp bất hạnh, cũng như giúp đỡ những người có
mong muốn làm được những điều vượt quá khả năng của mình. Loại hình này của tôn
giáo thể hiện một cách sinh động trong các hành vi đủ loại của mối quan hệ giữa con
người với thế giới huyền bí. Rõ ràng, nếu vai trò đầu của tâm linh dễ được xã hội chấp
nhận một cách phổ biến do tính chất chuẩn mực và lý tưởng của nó, thì vai trò thứ ba
này lại nhận được một thái độ đối xử khá phức tạp vì nó là một nhu cầu cá nhân hơn,
sát thực tế hơn nhiều và vì thế đa dạng hơn(11.tr 28). Còn tác giả Bùi Thế
Cường(2007) thì cho rằng: Song song với niềm tin tôn giáo cơ bản là hành động tôn
giáo cơ bản, đó là nghi lễ. Một nghi lễ là cái gì đó rất khác với hành vi thông thường.
Một hành động thực tế thông thường có thể làm theo nhiều cách. Nhưng nghi lễ thì lại
là hành vi được quy định rất chặt chẽ. Nghi lễ không phải là phương tiện để đạt được
một mục tiêu trong tương lai, hình thức của nghi lễ là chính mục tiêu của nó. Nó sẽ là
đầy ý nghĩa nếu được làm một cách đúng đắn, sẽ chẳng có nghĩa gì nếu bị làm sai.
Trong bối cảnh Việt Nam thực hiện kinh tế thị trường, phân hoá giàu nghèo gia
tăng, bệnh tật các tệ nạn xã hội phát triển, thiên tai dồn dập…với cuộc sống đầy bất
trắc, rũi ro và một thế giới vật chất lạnh lùng…Thực tiễn này đòi hỏi phải tăng cường
giải quyết các vấn đề về an sinh xã hội, trong khi đó vai trò của nhà nước, trong giải
quyết vấn đề này là có giới hạn. Để bù lấp vào khoảng trống này tôn giáo có vai trò hết
sức quan trọng. Để chứng minh quan điểm này tác giả Đỗ Quang Hưng(2006) đã viết:
chúng ta phải đối mặt với nhiều khổ nạn: chẳng hạn vấn đề vĩnh cửu như sinh, lão,
bịnh, tử. Quan trọng hơn nữa, sự phân hóa giàu nghèo, cạnh tranh và xung đột, ô
nhiễm môi trường tạo ra “khổ nạn cho con người” một bộ mặt mới. Đối với bộ mặt
khổ nạn ấy, con người mới có những thành tựu trên phương diện kinh tế, chính trị, văn
hóa (những thành tố quan trọng) của xã hội. Trong khung cảnh ấy, rõ ràng, Phật giáo

tỏ ra có lợi thế nổi trội đặc biệt do những giá trị bản chất của đạo Phật trong việc “giải
thoát” con người, xét trên mọi cấp độ. Không còn nghi ngờ gì, trong xã hội hiện tại, do
những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, sự phát triển rất nhanh của kinh tế, sự nâng cao
trình độ chính trị, quản lý xã hội và văn minh, cuộc sống con người trên hàng loạt chỉ
số sống phát triển hơn mọi thời đại trong lịch sử.
Bàn về vai trò của tôn giáo trong thực hiện an sinh xã hội ở phương diện lý luận
tác giả Lương Phan Cường (2008) cho biết: Dưới góc độ quản lý xã hội, chính sách xã
hội và tôn giáo có những điểm tương đồng với nhau. Mọi chính sách xã hội đều nhằm
mang lại sự phát triển cho con người, cho các nhóm xã hội yếu thế có thể hòa nhập xã
hội. Các hoạt động này đã hình thành một quan điểm tương đối mới gọi là "Tôn giáo
xã hội". Biểu hiện của "tôn giáo xã hội" là "các hoạt động kinh tế, xã hội, văn hoá,

13


giáo dục của các tôn giáo". Nói cách khác, đó là "các hoạt động xã hội của tôn giáo.
Và tác giả khẳng định sự tham gia thực hiện an sinh xã hội của tôn giáo trong bối cảnh
hiện nay là có ý nghĩa hết sức quan trọng, bắt nguồn từ truyền thống tốt đệp lâu đời,
không chỉ đối với người dân mà còn đối với nhà nước: Việc tham gia của tôn giáo vào
trong các hoạt động xã hội và từ thiện thực ra hoàn toàn không phải là một xu thế mới
mà tồn tại như một truyền thống. Điều này là có lợi cho Nhà nước và xã hội vì các tôn
giáo đã tham gia chia sẻ một phần gánh nặng cho Nhà nước trong việc giải quyết các
vấn đề xã hội.
Chứng minh vai trò thực hiện an sinh xã hội của tôn giao thông qua các hoạt
động thực tiễn tác giả Thân Ngọc Anh(2007) đã viết: Phật giáo đã thay đổi, thích ứng
với người dân nơi đây Phật giáo ngày càng gắn bó chặt chẽ giữa đạo với đời, thể hiện
tinh thần nhập thế cao, đặc biệt trong các hoạt động xã hội và lao động sản xuất. Nhiều
chùa ở thành phố có đất ở ngoại thành dùng vào việc cấy lúa, trồng đậu, rau xanh để tự
túc lương thực. Các chùa còn nhận đóng sách, làm nhang... tạo thêm kinh phí để dành
một phần chi phí cho bảo dưỡng, tu sửa, duy trì hoạt động của chùa, phần còn lại dành

hết cho hoạt động từ thiện. Đất trong chùa ngày càng bị thu hẹp và bị lấn chiếm,
nhưng nhà chùa vẫn tận dụng số đất ít ỏi để trồng trọt, xây một số phòng dùng vào
việc chữa bệnh miễn phí và làm chỗ nghỉ cho khách lỡ đường. Với tư tưởng từ bi, cứu
khổ, chùa đã dang rộng vòng tay đón các bác xe ôm, xích lô các bà bán hàng rong, các
cháu bán báo, vé số, đánh giày, ăn xin... vào nghỉ trưa ở ghế đá, dưới bóng mát của các
tán cây và họ thường được mời ăn bữa cơm chay đạm bạc cùng với tăng ni trong chùa.
Hình ảnh đó đã trở thành quen thuộc với nếp sống thường ngày của nhiều ngôi chùa,
đặc biệt các ngôi chùa ở những nơi đông dân cư. Nhiều người coi chùa là ngôi nhà thử
hai của mình, những ngôi chùa ấy trở thành nơi nghỉ ngơi, nơi chia sẻ bớt những khó
khăn của họ lúc thiếu thốn, ốm đau, căng thẳng của cuộc sống đời thường. Những năm
gần đây, đời sống kinh tế của người dân nâng cao, tạo điều kiện cho nhiều người đi
chùa lễ Phật thường xuyên hơn. lấy Đức Phật làm gương sáng, ghi khắc những giới
răn ở trong lòng và thực hiện nó trong đời sống, giúp ích cho bản thân, gia đình và xã
hội.
Tiếp tục khẳng định vai trò thực hiện an sinh xã hội của tôn giáo, tác giả Trần
Hồng Liên (2004) phân tích: Phật giáo chủ trương khuyến thiện, tránh ác, giữ tâm
trong sạch, cổ xúy hành vi công ích cứu tế, giúp người neo đơn, cơ nhỡ, tàn tật,
trẻ mồ côi, cho thuốc chữa bệnh... với phương châm: Đạo Phật đã tạo được cảm tình,
niềm tin và sự tôn trọng của nhiều người dân. Các hoạt động cứu trợ đồng bào bị thiên
tai, xoá đói giảm nghèo, xây nhà tình nghĩa, trường học, trạm y tế diễn ra thường
xuyên trong những năm qua thật sự có ý nghĩa sâu sắc, xuất phát từ tư tưởng đại từ đại
đức, từ bi, cứu khổ, cứu nạn của đạo Phật. Các lễ hội ấy giúp cho các tín đồ Phật tử và

14


người dân nâng cao tình yêu thương đồng loại, nảy nở đức hy sinh, lòng vị tha, vun
đắp lòng hiếu kính với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thầy cô... mang ý nghĩa giáo dục rất
lớn.
Còn tác giả Nguyễn Hồi Loan và Nguyễn Hải Yến (2004) thông qua một công

trình nghiên cứu có thực nghiệm tại Cầu Giấy, Hà Nội đã khẳng định: Linh hồn của tổ
tiên có sức mạnh có thể giúp họ đạt được những mục đích nhất định (nhất là trong làm
ăn sẽ gặp may mắn, phù hộ) cũng như tạo cho họ vững tin và giải toả được những căng
thẳng trong cuộc sống mà họ gặp phải. Có gần 100% người dân có bàn thờ gia tiên và
thực hành các lễn ghi thờ cúng trong gia đình mình, những hành vi thờ cúng tổ tiên
như cầu khấn, cúng tế lễ vật... không chỉ thể hiện quan niệm của người dân về sự tồn
tại của tổ tiên mà còn thể hiện mối quan hệ giữa người sống với linh hồn người chết.
Người ta tin rằng, linh hồn tổ tiên có thể nghe được những lời cầu khấn và có thể đáp
ứng được nguyện vọng của họ được đưa ra qua các lời cầu kh ấn đó 31,5% người dân
tin rằng, linh hồn tổ tiên nghe thấy và thấu hiểu những lời giãi bày, tâm sự, nhu cầu,
nguyện vọng của họ khi được bộc lộ trước không gian thiêng (trước ban thờ, trước mồ
mả của tổ tiên).

5. Vai trò kiểm soát của tôn giáo trong đời sống xã hội
Tôn giáo có chức năng thực hiện kiểm soát xã hội, nhất là khi pháp luật và đạo
đức đi vào tha hóa. Ở Việt Nam, vấn đề này một số nhà nghiên cứu xã hội học tôn giáo
cũng đã bước đầu được nghiên cứu.
Theo tác giả Bùi Thế Cường, cái thiêng của tôn giáo chính là nội dung thực thi
vai trò kiểm soát xã hội của tôn giáo. Ông viết: không có một cơ sở nào trong thế giới
tự nhiên tạo điều kiện cho việc đó, mọi vật trong thế giới vật lý đều cùng ở một cấp
độ. Nhưng có một hiện thực mà nó có mọi đặc trưng mà con người gắn vào với cái
thiêng liêng: đó không phải là tự nhiên, cũng chẳng phải là cái siêu hình, đó chính là
bản thân xã hội. Xã hội là một động lực lớn hơn mọi cá thể. Nó ban cho ta sự sống,
nhưng cũng chính nó có thể khiến ta chết. Nó có quyền lực vô biên trên chúng ta. Mọi
người đều phụ thuộc vào nó theo vô số cách thức. Toàn bộ thế giới vật chất và biểu
trưng là do xã hội đem lại cho ta. Mọi thiết chế mà ta sống trong đó là của xã hội. Đây
chính là cái chân lý căn bản mà tôn giáo thể hiện.
Tác giả Vũ Quang Hà khẳng định: Động lực lợi ích cá nhân, dù xấu hay tốt,
được ủng hộ hay lên án về mặt xã hội, thường thúc đẩy người ta đến với tôn giáo. Đây
cũng chính là cơ sở, trung tâm tạo nên chất men trực tiếp của đời sống tôn giáo hàng

ngày, là một trong những động lực chính của không gian tôn giáo mới. Chức năng này
của tôn giáo dường như được biểu hiện một cách sôi động nhất trong sự phát triển của
tôn giáo(11. tr 28).

15


Tác giả Thích Tâm Thiện cho rằng tôn giáo có vai trò định chế của cá nhân
trong một tổ chức xã hội. Ông viết: Lý thuyết vai trò xã hội dưới ánh sáng duyên khởi
khẳng định “Các cá nhân tác động lẫn nhau trong xã hội như thế nào để tạo ra cách
nhìn chung về thế giới?” Ðây là vấn đề được nhà xã hội học Alfred Shutz nêu ra vào
năm 1979, và ông gọi đấy là tính liên chủ thể của vai trò xã hội. có thể tìm hiểu phát
biểu trên của ông qua lăng kính duyên khởi. Dưới cái nhìn của Phật giáo về vấn đề
kiểm soát xã hội tác giả cho rằng: thiện và ác vẫn là cái gì đó, mà trong trật tự của luân
lý, tác động mạnh nhất vào tâm thức của con người và đại diện cho một nền luân lý
của loài người. Nó, một mặt nào đó được xem như là lý do hiện hữu của cuộc sống
con người.
Tác giả Hồ Liên(2009) cho rằng: Sự sợ hãi nào cũng đòi hỏi con người phải tìm
giải pháp chế ngự, triệt tiêu hay né tránh, nghĩa là một thái độ chủ động chống trả trực
tiếp. Hệ quả tất yếu của giải pháp chế ngự là hành vi phù phép, dẫn đến những hủ tục
mê tín dị đoan. Cái thiêng tôn giáo trước hết là cái đáng sợ nhiều hơn cái đáng kính.
Sự giám sát chặt chẽ đến tàn nhẫn. Sự trừng phạt nghiêm khắc đến khủng khiếp.
Mọi điều đều có có không không, nhưng nhu cầu bảo đảm cho sự an toàn của cuộc
sống mỗi người thì luôn luôn có thật. Trong khi đó tác giả Lê Tuấn Đạt cho rằng vai
trò kiểm soát xã hội của tôn giáo nằm ngay trong nguyên nhân ra đời và chức năng của
các tôn giáo: Trong một thế giới đầy bất trắc, một thế giới vật chất lạnh lùng, một
thế giới "không thể chấp nhận được" là mảnh đất tốt cho các tôn giáo, nhất là hình
thức các tôn giáo mới, tôn giáo cực đoan phát triển. Tôn giáo, vì thế, vẫn luôn là nhu
cầu, là sự "bù đắp" cho những gì con người còn thiếu và khát vọng vươn tới. Tuy
nhiên, theo các góc độ biểu hiện này, tôn giáo không đơn giản chỉ xuất phát từ sự kém

hiểu biết của con người, từ mê tín hay phục tùng mù quáng của tín đồ trước sức mạnh
tự nhiên, đối tượng được thờ cúng và lực lượng đại diện cho nó (giới chức sắc, tôn
giáo, nhà tu hành). Tôn giáo không chỉ là liều thuốc giảm đau, là sự "đền bù hư ảo" mà
nó vừa là biểu hiện vừa là biện pháp khắc phục sự tha hóa của con người. Tôn giáo
còn được quan niệm "là sự quan tâm tột cùng, tuyệt đối, tôn giáo là cái gì đó tột cùng
và tuyệt đối, là những cái "tuyệt đối” mà chúng ta không thể nào "miêu tả" được.
Tác giả Lê Tuấn Đạt phân tích: ở Việt Nam, tôn giáo còn được gọi là "đạo"
(đường đi), nên không chỉ là con đường dẫn đến Niết Bàn, Thiên Đường hay thế giới
siêu nhiên giải thoát nào khác. Đạo trước hết và trên hết được xem là con đường sống
làm người có nhân cách, đạo đức. Do đó Đạo chính là lối sống, là thế ứng xử ở đời.
Còn tác giả Thân Ngọc Anh(2007) thì khẳng định vai trò kiểm soát xã hội của
tôn giáo như sau: Phật giáo đã tạo cho mình một phong cách riêng, dần dần chiếm vị
trí quan trọng trong đời sống xã hội, ảnh hưởng khá lớn đến quan niệm sống, chuẩn
mực đạo đức đến phong tục tập quán, lễ hội của người dân. Với quan niệm như vậy,

16


tôn giáo không chỉ là liều thuốc giảm đau, là sự "đền bù hư ảo" mà nó vừa là biểu hiện
vừa là biện pháp quan trọng góp phần khắc phục sự tha hóa của con người và xã hội.

6. Xã hội hoá cá nhân trong tôn giáo
Tôn giáo là một thiết chế có chức năng thực hiện xã hội hoá cá nhân. Những giá
trị, luân lý trong giáo lý, kinh kệ… luôn hướng con người ta tới cuộc sống nhân văn
nhân bản. Vì nhiều lý do khác nhau, chủ đề này mặc dù chưa được quan tâm nghiên
cứu ở nước ta. Tuy nhiên, tầm quan trọng của vấn đề dưới góc độ tiếp cận của xã hội
tôn giáo học khiến vấn đề không thể không đề cập. Có thể đưa ra đây một số tác giả đề
cập đến chức năng xã hội hoá của tôn giáo
Theo tác giả Vũ Quang Hà(2005) cho rằng: Chức năng bảo tồn các giá trị đạo
đức và ký ức tập thể: Phải chăng cái cơ chế của sự ràng buộc đạo đức này bắt nguồn

một phần từ tôn giáo? Nếu đúng là như vậy, thì tôn giáo của số đông phải chăng là tôn
giáo hướng về tu dưỡng bản thân và làm việc, bảo tồn các giá trị cơ bản của đời sống
xã hội(11. tr 25).
Cũng theo Vũ Quang Hà chính chức năng xã hội hoá cá nhân của tôn giáo là cơ
sở tạo ra chức năng của xã hội học tôn giáo. Ông viết: Phát triển tâm linh chính là
chức năng thứ 2 của xã hội học tôn giáo, là nghiên cứu sự hình thành phát triển và
hoàn thiện các phẩm chất tâm linh ở các cá thể, nhóm tín đồ tôn giáo. Chẳng hạn các
tín đồ đạo Phật cho rằng việc tu dưỡng bản thân là điều kiện cần thiết để duy trì các
chuẩn mực đạo đức trong xã hội. Nhưng ở đây chúng ta cần phân biệt một bên là
chuẩn mực được coi như là những ràng buộc từ bên ngoài, ảnh hưởng đến thế giới tinh
thần của con người trong cuộc đời đời và một bên là phẩm chất tâm linh được coi như
những đòi hỏi sâu sắc xuất phát từ bên trong thường có mục đích vị tha. Có một bộ
phận đáng kể tín đồ đi lễ với mục đích sâu xa như để phúc cho con cháu, đa số tín đồ
theo đạo Phật là do đòi hỏi bên trong của bản thân để làm việc thiện hoặc yêu thích
những điều tốt đẹp của tôn giáo này. Động cơ theo đạo do thấy cuộc sống là đau khổ
chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Sự tu dưỡng bản thân và phát triển phẩm chất tâm linh còn
thể hiện rộng rãi ở những đóng góp tích cực của các tôn giáo và đời sống, vì hạnh phúc
của nhân dân, vì sự phát triển tốt đẹp của xã hội thể hiện qua việc khơi dậy các truyền
thống văn hoá tâm linh tôn giáo trên tất cả các lĩnh vực của đời sống tinh thần (11. tr
28).
Theo tác giả Thích Tâm Thiện thì chức năng xã hội hoá cá nhân của tôn giáo
thể hiện ở chỗ tạo ra sức mạnh niềm tin cho con người. Ông cho biết: Niềm tin
ở khả năng đạt tới cảnh giới giác ngộ hoàn toàn, không gì không biết giúp con người
tôn giáo học tập không biết mỏi, không biết chán, điều này thể hiện rõ trong đạo Phật
là đạo của trí tuệ, quy mọi đau khổ do vô minh, nghĩa là ngu si. Đặc biệt, với chức
năng xã hội hoá cá nhân thông qua phương pháp xám hối thì đạo Phật có thể làm cho

17



những người phạm tội yên tâm, dũng cảm chịu sự trừng phạt, và dũng cảm làm lại
cuộc đời. Do vậy, thực tế cho thấy có rất ít người tôn giáo phải tự tử hoặc có những
cách nhìn tiêu cực về cuộc đời. Ông viết tiếp: Tôn giáo xuất hiện như nhu cầu của một
nền luân lý tự nhiên. Mối quan hệ giữa tôn giáo và đời sống tư duy, ý chí, tình cảm,
luân lý đạo đức, niềm tin và tâm thức của người có tôn giáo và người không có tôn
giáo ? ... Như thế, nhu cầu về kinh nghiệm tôn giáo, trong tương quan, nó là một giá trị
đánh đổi của cái thế giới biến động vô thường, bất an như chiếc lá đang đong đưa theo
gió. Và từ đó, kinh nghiệm tôn giáo trở thành một nhu cầu như mọi nhu cầu không thể
thiếu của cuộc sống.
Tác giả Thích Tâm Khanh lại khẳng định vấn đề thực hiện chức năng xã hội
hoá cá nhân của tôn giáo thể hiện ở chỗ: Hiện nay vai trò xã hội của con người càng
lúc càng trở nên đa dạng hơn. Lý do là trong xã hội hiện đại, mối quan hệ của con
người tăng lên tỉ lệ thuận theo tốc độ phát triển của văn minh xã hội. Do vậy, trong
Phật giáo dường như cũng hình thành hai cách nhìn khác nhau về vai trò của một tu sĩ
trong giai đoạn hiện tại. Trên cơ sở đó ông đi vào nghiên cứu vận dụng: Lý thuyết vai
trò xã hội dưới ánh sáng duyên khởi và vai trò truyền giáo của người tu sĩ trong hiện
tại. Từ đó khẳng định, người tu sĩ muốn hoàn thành công việc của mình cũng phải
đóng nhiều vai trò xã hội của một cá nhân xác định những gì cá nhân ấy phải làm ở
một không gian và thời gian nhất định theo những qui tắc chuẩn mực mà xã hội đã đặt
ra. Bằng những cảm quan chiêm nghiệm của cá nhân tác giả Thích Tâm Khanh tiếp
tục nhận định: Tôn giáo cũng có những nguyên lý đạo đức hướng dẫn cuộc sống hằng
ngày, hướng thiện và tránh ác của tín đồ. Nói chung, trong các cộng đồng tôn giáo,
những truyền thống đạo đức được giữ vững và tốt đẹp hơn là so với những cộng đồng
vô thần. Các cộng đồng tôn giáo biết bảo vệ đạo đức xã hội và cá nhân từ nội tâm bên
trong của mỗi người, từ thuở thơ ấu của mỗi người. Cách bảo vệ đạo đức của các tôn
giáo có hiệu lực hơn tòa án, công an, nhà tù v.v…
Bàn về lợi ích của xã hội hoá thông qua việc thờ cúng tổ tiên tác giả Đặng
Nghiêm Vạn viết: Theo điều tra xã hội học tôn giáo, gần như tất cả các gia đình bộ
phận không Công giáo đều lập bàn thờ tổ tiên trong nhà, thắp hương hàng ngày, hàng
tuần. Phổ biến nhất là ngày rằm, ngày mồng một, trong các dịp giỗ chạp hay khi trong

nhà có dịp vui như cưới xin, cỗ bàn. Mặc nhiên, nó giữ được một vị thế, một giá trị có
tính liên kết các tôn giáo cho dù có niềm tin vào các thần thánh khác nhau với các nghi
thức khác nhau. Dù theo tôn giáo nào, ta cũng có thể thấy được ở đạo thờ tổ tiên một
tiếng nói chung, một hành động chung, một niềm tin chung.
Thông qua nghiên cứu thực nghiệm tác giả Nguyễn Hồi Loan, Nguyễn Thị Hải
Yến đã phân tích vai trò xã hội hoá cá nhân của đạo thờ cúng tổ tiên cũng như sự ảnh
hưởng của nó đến lối sống của người Hà Nội trong thời kỳ hội nhập văn hoá. Các tác

18


giả viết: Không chỉ vậy, con cháu còn thể hiện ở sự nỗ lực học tập, lao động tốt để làm
rạng danh tiên tổ. Niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn tổ tiên và linh hồn tổ tiên có thể
thấu hiểu những điều thể hiện trong lời cầu khấn được bày tỏ trước vong linh tổ tiên.
Qua nghiên cứu thực tế ở Cầu Giấy các tác giả cho biết: có 75,3% người dân coi
thờ cúng tổ tiên là một phương tiện để giáo dục đạo đức, lòng hiếu thảo, lòng nhân ái
cho con cháu trong gia đình, họ tộc nhằm giữ gìn gia phongvà duy trì truyền thống của
dân tộc, nhờ đó mà các thành viên trong gia đình, dòng họ, cộng đồng gắn kết với
nhau.
Khảo sát của tác giả Thân Ngọc Anh(2007) tại thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục
chứng minh vai trò xã hội hoá cá nhân của đạo Phật. Tác giả khẳng định:Với vai trò,
chức năng và những giá trị nhân văn sâu sắc của mình, Phật giáo trở thành chỗ dựa
trong đời sống văn hóa, tinh thần của một bộ phận quần chúng. Các chuẩn mực của
đạo đức Phật giáo có tác dụng điều chỉnh hành vi, nhân cách con người, ảnh hưởng
tích cực đến quần chúng. Phật giáo đã ảnh hường tích cực tới đạo đức, lối sống của
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh . Tuy nhiên trước tác động của đời sống xã hội vấn
đề chức năng xã hội hoá của tôn giáo đang gặp những vấn đề bất cập. Tác giả cho biết:
Đa số cử chỉ nhã nhặn, ăn mặc trang nhã, thể hiện sự thành kính ở chốn thiêng liêng.
Nhưng vẫn có hiện tượng một số người trang phục hở hang không phù hợp với cảnh
chùa.Vì vậy để xóa bỏ các hiện tượng tiêu cực như đã nêu, khai thác những ảnh hưởng

tích cực của Phật giáo tới đạo đức, lối sống nhân dân, chính quyền và các cơ quan
chức năng cần có những biện pháp nhằm loại trừ các tệ nạn trên, ổn định trật tự an
toàn xã hội, giữ gìn sự tinh khiết của Phật giáo.

7. Niềm tin tôn giáo trong xã hội
Niềm tin tôn giáo là bản chất và chức năng của mọi tôn giáo, niềm tin nếu sâu
sắc, sẽ tạo cho con người một cảm giác an toàn rất đặc biệt, giúp cho con người cống
hiến hết mình cho đạo cũng như cho đời. Đặc biệt trong bối cảnh biến đổi xã hội diễn
ra nhanh chóng, các chuẩn mực xã hội có xu hướng rối loạn thì niềm tin của tôn giáo
đối với con người là hết sức quan trọng, không chỉ đối với người theo tôn giáo mà cả
đối với những người không theo tôn giáo. Theo triết lý của Phật giáo, niềm tin
ở khả năng đạt tới cảnh giới hạnh phúc an lạc tuyệt đối, giúp con người tôn giáo không
đắm say vào những lạc thú thế tục tầm thường, nhờ đó mà đỡ bị cám dỗ, đỡ phạm tội
ác, sống thiện và đạo đức. Chính sự quan trọng của niềm tin tôn giáo trong đời sống
tôn giáo đã thu hút sự quan tâm của các khoa học nghiên cứu về tôn giáo, trong đó có
xã hội học tôn giáo.
Tác giả Thích Tâm Thiện(2000) đã diễn giải đến niềm tin tôn giáo, trước hết, là
nói về một hiện hữu thiêng liêng, xuất hiện như một thánh linh với trọn vẹn mọi
khả tính siêu việt mà con người không thể lĩnh hội qua nhận thức thông thường,

19


như sự hiện hữu của tôn giáo. Ở đây, con người chỉ có thể tin hay không tin,
phục tùng hay không phục tùng mà thôi. Vì lẽ, giới tuyến của tôn giáo được bao
quanh bởi các nhận thức hoặc về nguồn gốc của con người, vũ trụ, cái thiện và
cái ác, hoặc về bên kia thế giới. Bấy giờ trước mắt của chúng chỉ là những ảnh
tượng của niềm hy vọng được cứu rỗi và nỗi sợ hãi bị đọa đầy; và con đường
cùng khả dĩ tránh xa hai ảnh tượng bất an này là chạy trốn chính mình trong sự
lãng quên bằng những phương tiện trần thế. Trên một bình diện cao hơn, cái

Thiêng liêng, qua ngôn ngữ, được diễn giải như vừa là cái bản thể nội tại, vốn có
trong mỗi con người, là phần thánh linh vĩnh hằng mà một ngày nào đó với niềm
tin con người có thể lĩnh hội; và vừa là cái siêu việt lên trên mọi giới hạn của trần
thế, là điểm nối kết giữa cái hiện thực và thiêng liêng.
Tác giả Bùi Thế Cường khẳng định: Niềm tin tôn giáo cơ bản là ở chỗ cho rằng
thế giới này chia thành hai mảng (phạm trù): cái thiêng và cái thông (trần) tục. Những
sự vật thiêng thì có thể là bất kỳ cái gì, tùy thuộc vào mỗi tôn giáo cụ thể: linh hồn,
đấng tối cao vô hình, những con thú hoặc cây cối, cây thập tự, cuốn sách thiêng... Đặc
trưng của những vật thể hiện cái thiêng là ở chỗ chúng là cực kỳ quan trọng, đáng sợ:
người ta phải tiếp cận với chúng một cách đầy nghiêm cẩn, kính sợ, có sự chuẩn bị.
Ngược lại, những vật trần tục tạo nên toàn bộ phần còn lại của thế giới. Như vậy, niềm
tin tôn giáo cơ bản là ở tính nhị nguyên của cái thiêng và cái trần tục.
Tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa nhấn mạnh:Dưới góc độ xã hội học tôn giáo, ta
thấy niềm tin thúc đẩy đối thoại và củng cố cho các chiều kích nhân loại của đối thoại.
Con người cần đối thoại, tôn trọng và thử thách để lớn lên. Sự chung sống đòi hỏi phải
có sự đối chiếu và hợp tác. Ðối thoại không thể nào tách rời khỏi chân lý, tự do và
công bình. Tác giả khẳng định yếu tính của tôn giáo chính là niềm tin tôn giáo: Do đó
yếu tính của tôn giáo vừa là cái gì đó trong vũ trụ bao la mênh mông, vừa là phần nội
quan sâu thẳm nằm ngay trong đời sống của tâm thức con người. Nó có khả năng giúp
con người vượt qua cái ác, xây dựng những phẩm tính thiện; và mục đích cuối cùng
của nó, theo như người ta quan niệm, là xây dựng một giá trị bất tử, vĩnh hằng ở một
nơi nào đó không có trên thế gian này.
Đi sâu vào so sánh giữa niềm tin khoa học và niềm tin tôn giáo, tác giả Đỗ Lan
Hiền( 2008) đã khẳng định: Về vần đề đức tin, thì cả khoa học và tôn giáo đều có.
Nhưng cái tạo ra sự tin cậy, niềm tin vào các lý thuyết do khoa học đem lại là do
chúng được kiểm tra bằng thực tiễn, thực nghiệm hoặc là kết quà suy luận tuân thủ
triệt để những quy tắc, quy luật của logic học. Nếu như các lý thuyết khoa học không
phù hợp với bản tính của các sự vật thì nó không thể chi phối, ảnh hưởng lâu dài đến
các sự vật trong hoạt động sản xuất vật chất và đời sống tinh thần của toàn xã hội. Còn


20


bản thân đức tin của tôn giáo, khi cắt nghĩa vì sao các tín đồ lại tin ở Chúa thì tôn giáo
đã phải giả định đức tin đó là một tồn tại đúng, thành thử nó là mâu thuẫn.
Bàn về vấn đề niềm tin của tôn giáo theo khuynh hướng tiếp cận xã hội học, tác
giả Đỗ Quang Hưng(2006) viết: vấn đề tâm linh, tâm lý và niềm tin tinh thần nội tại
của con người thì có lẽ chỉ những tôn giáo như đạo Phật mới có khả năng điều chỉnh
sự cân bằng, có thể giúp con người sống hài hòa trong thế giới này.
Theo tác giả Nguyễn Hồi Loan và Nguyễn Hải Yến đã khảo sát sự ảnh hưởng
của niềm tin tôn giáo(thờ cúng tổ tiên) đối với lối sống của người dân đô thị. Các tác
giả viết: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có ảnh hưởng tích cực tới đời sống của mỗi cá
nhân, cộng đồng và xã hội. Sự ảnh hưởng này được thể hiện thông qua hệ thống giá trị
của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được chuyển tải vào hoạt động giáo dục nhân cách con
người Việt cũng như trong việc thoả mãn nhu cầu tâm linh của mỗi cá nhân. Phần lớn
người dân Hà Nội đều có niềm tin vào linh hồn tổ tiên đã chết, vào thế giới bên kia,
niềm tin này được thể hiện ở nhận thức, xúc cảm - tình cảm và hành vi thực hành các
lễ nghi thờ cúng. Các tác giả khẳng định thêm: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã, đang
và sẽ còn là nhu cầu của người dân Hà Nội. Trước hết, thờ cúng tổ tiên giúp cho người
dân thoả mãn nhu cầu đạo đức và nhu cầu tâm linh của họ. Niềm tin vào tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên đã góp phần gắn kết các thành viên trong gia đình, tộc họ cùng chung
huyết thống. Đó là sợi dây vô hình nối liền quá khứ với hiện tại với tương lai cũng như
gắn kết giữa các cá nhân, các thế hệ trong gia đình, dòng tộc với nhau. Niềm tin vào
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân đã góp phần rèn luyện đạo đức cho con
người, trước hết là lòng hiếu thảo, biết ơn của con cháu với công lao sinh thành dưỡng
dục của cha mẹ, tổ tiên. Để tỏ lòng biết ơn, lòng hiếu thảo của con cháu với tổ tiên,
người ta phụng thờ linh hồn tổ tiên với lòng tôn kính như họ như khi họ còn sống. Do
vậy, niềm tin vào tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã giúp cho người dân giải toả những
căng thẳng tâm lý, xoa dịu được những nỗi đau tinh thần, làm tăng thêm nghị lực để
vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Tuy vậy, do tin vào thế giới linh hồn tổ tiên

ở thế giới bên kia cũng ăn ở, sinh hoạt như ở thế giới hiện thực nên đã có một bộ phận
người dân đã rất tốn kém trong việc mua sắm đồ tế lễ, vàng mã…gây nên lãng phí.
Đồng thời, do tin tưởng vào linh hồn tổ tiên có thể nói chuyện, tiếp xúc với con
cháu… nên các tệ nạn xã hội như lên đồng, xem bói, gọi hồn…
Trên cơ sở phân tích niềm tin tôn giáo và niềm tin khoa học, thì hiện nay cần
thiết phải xây dựng những cơ sở thực tiễn nhằm củng cố niềm tin đúng đắn, khoa học
và xây dựng thế giới quan khoa học cho nhân dân là một tất yếu khách quan để niềm
tin trở thành một động lục thúc đẩy sự phát triển xã hội.

c. Một số kết luận
21


Qua việc tìm hiểu, phân tích, trình bày ở trên, có thể bước đầu đưa ra một số kết
liên quan đến tình hình nghiên cứu xã hội học tôn giáo ở Việt Nam như sau:
Một số kết luận:
- Việc nghiên cứu về xã hôi học tôn giáo còn chưa được quan tâm nghiên cứu
nhiều ở nước ta hiện nay, tuy nhiên, bản thân đời sống tôn giáo, quá trình hoàn thiện
chính sách tôn giáo cũng như bối cảnh hội nhập đang đặt ra nhu cầu cần phải tăng
cường nghiên cứu tiếp cận tôn giáo một cách đa chiều, đa giá trị.
- Khuynh hướng nghiên cứu tôn giáo dưới lát cắt xã hội ở Vệt Nam hiện nay
bước đầu đã được sự quan tâm của các nhà làm chính sách, các nhà nghiên cứu,
chuyên sâu, liên ngành ở cả phương diện lý thuyết và thực nghiệm.
- Các khuynh hướng nghiên cứu liên ngành với triết học, tâm lý học, xã hội hội
học, nhân học, lịch sử, văn hóa học, đạo đức, quốc tế học… sẽ là những xu hướng tất
yếu trong bối cảnh hội nhâp, toàn cầu hóa hiện nay.
- Các nghiên cứu xã hội học tôn giáo chủ yếu được công bố dưới dạng bài tạp
chí, chuyên đề; các công trình dưới dạng sách giáo trình, chuyên khảo rất ít.
- Các công cụ phương pháp và lý thuyết xã hội học tôn giáo chưa thật
sự được ứng dụng nhiều và có hiệu quả trong nghiên cứu thực nghiệm.

- Trong không ít nghiên cứu còn bị ảnh hưởng nhiều bởi các luận đề, quan
điểm, kết luận của các nghiên cứu có tính chất kinh điển về xã hội học tôn giáo ở
phương Tây.
- Còn chưa có nhiều nghiên cứu đưa ra cách giải quyết vấn đề gắn liền với đời
sống tôn giáo, giải quyết những vấn đề thực tiễn của đời sống tôn giáo đang đặt ra ở
Việt Nam hiện nay. Một số nghiên cứu, kết luận còn mang nặng, thậm chí là sự lấn sân
của định hướng lăng kính chính trị vào lĩnh vực mang tính đặc thù và tương đối độc
lập của đời sống tôn giáo.
Tài liệu tham khảo

1. Mai Huy Bích, Tôn giáo trong nhãn quan xã hội học, Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, 2004

2. Nguyễn Xuân Nghĩa“Người giáo dân thành phố với vấn đề hôn nhân và gia
đình”, Công giáo và Dân tộc 1990, số 784.

3. Nguyễn Xuân Nghĩa(1996), Tôn giáo và quá trình thế tục hóa, Tạp chí Xã hội
học số 1

4. Nguyễn Xuân Nghĩa(2005), Phụ nữ, tôn giáo và vấn đề phát triển, Tạp chí
Nghiên cứu tôn giáo số 6

5. Nguyễn Xuân Nghĩa(2002), Định nghĩa về tôn giáo và những hệ luận trong
nghiên cứu quá trình thế tục hóa(nhìn từ góc độ xã hội học), Tạp chí Nghiên
cứu tôn giáo số 2

22


6. Nguyễn Xuân Nghĩa(2003), Tôn giáo trong thời hiện đại: thế tục hoá hay phi

thế tục hoá?” Tạp chí nghiên cứu tôn giáo số 2

7. Nguyễn Xuân Nghĩa(2005), Các chiều cạnh của tính tôn giáo, Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo số 1

8. Nguyễn Xuân Nghĩa(2007), Xã hội học tôn giáo của Max Weber và tính thời
sự của nó, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 2

9. Nguyễn Xuân Nghĩa(2008), Pierre Bourdieu và xã hội học tôn giáo, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo số 8

10. Nguyễn Xuân Nghĩa, Đề cương hướng dẫn môn học Xã hội học tôn giáo
11. Vũ Quang Hà(2004), Xã hội học tôn giáo, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
12. Nguyễn Đức Lữ(2007), Tính khoan dung của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam, Tạp chí Cộng sản số 17

13. Đỗ Quang Hưng( 2006)"Hệ tư tưởng Đức” trong sự tiến triển quan niệm của
Mác và Ănghen về tôn giáo, Tạp chí Triết học số.

14. Thân Ngọc Anh(2007), Ảnh hưởng của phật giáo tới đạo đức, lối sống ở thành
phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Khoa học xã hội số 3.

15. Đỗ Lan Hiền (2008), Về cái gọi là hai thế giới - một của tôn giáo và một của
triết học mácxit, Tạp chí Triết học số 10

16. Nguyễn Hồi Loan, Nguyễn Thị Hải Yến(2004), Niềm tin vào tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên và ảnh hưởng của nó đến lối sống của người Hà Nội trong thời kỳ
hội nhập văn hoá

17. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo tại Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Bùi Thế Cường(2007), Randall Collins: xã hội học về đấng tối cao Tạp chí
Khoa học xã hội số 7

19. Đặng Thế Đại(1997), Từ góc độ kinh tế thử lý giải một số hiện tượng tôn giáo
ở Việt Nam, Tạp chí Xã hội học số 3

20. Thích Tâm Khanh, Lý thuyết vai trò xã hội dưới ánh sáng của duyên khởi giáo,
tamlyhoc.net

21. Hồ Liên(2009), Đôi điều về cái thiêng và văn hóa - NXB Văn hóa Dân tộc
22. Lê Tuấn Đạt(2008), Một số vấn đề về tôn giáo và nhu cầu tôn giáo hiện nay,
Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số

23. Thích Tâm Thiện, Tôn giáo và tâm lý xã hôi, tài liệu cá nha,2000
24. Lương Phan Cường (2006), Chính sách xã hội và Phật giáo nhìn từ góc độ xây
dựng hệ thống pháp luật về quản lý xã hội

23


24


×