Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đánh giá chế định xác định cha, mẹ, con theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.78 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

A-

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay, việc quan tâm, chăm sóc và bảo vệ trẻ em được coi là nhiệm vụ
trọng tâm trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Trẻ em sẽ được
phát triển một cách tốt nhất cả về mặt vật chất và tinh thần trong một môi trường
gia đình tốt, có đầy đủ cha, mẹ. Quyền làm cha, làm mẹ và quyền làm con là những
quyền thiêng liêng, vì vậy mà việc xác định cha, mẹ, con nhằm xác định thân phận
và quan hệ huyết thống giữa các chủ thể là việc làm hết sức quan trọng, góp phần
ổn định các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội. Tuy nhiên, trong đời sống
xã hội hiện nay, do sự hội nhập kinh tế và văn hóa toàn cầu, nên đã nảy sinh nhiều
mặt trái của xã hội, trong đó có hiện tượng nam nữ quan hệ tình dục trước hôn
nhân, nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng hay “sống thử” , dẫn đến các
trường hợp trẻ em được sinh ra nhưng không biết cha, mẹ đẻ là ai, hoặc bị chính
cha, mẹ đẻ chối bỏ, không công nhận. Do vậy nhóm em xin được chọn đề tài
“Đánh giá chế định xác định cha, mẹ, con theo Luật hôn nhân và gia đình năm
2014” cho bài tập nhóm.
B-

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Khái quát về chế định xác định cha, mẹ, con
Dưới góc độ sinh học – xã hội: Xác định cha, mẹ cho con là việc nghiên cứu,
tìm kiếm, nhận diện mối quan hệ huyết thống giữa hai thế hệ kế tiếp nhau thông
qua sự kiện sinh đẻ.
I-

1




Dưới góc độ pháp lý: Xác định cha, mẹ, con là một chế định pháp lý bao
gồm các quy phạm pháp luật, quy định về căn cứ pháp lý, thủ tục pháp lý xác định
cha, mẹ, con, cơ sở để hình thành ở các chủ thể quyền và nghĩa vụ theo luật định.
+ Con trong giá thú: Là con mà cha mẹ chúng có quan hệ hôn nhân hợp
pháp.
+ Con ngoài giá thú: Là đứa trẻ có thể có cả cha, mẹ nhưng quan hệ giữa
cha, mẹ chúng không được pháp luật thừa nhận. Hay nói cách khác đây là đứa con
sinh ra ngoài hôn nhân do nhà nước công nhận.
+ Con chung: Là con chung của vợ chồng, cặp vợ chồng đó có thể có quan
hệ vợ chồng hợp pháp hoặc quan hệ vowcj chồng đó không được pháp luật thừa
nhận.
IIĐánh giá chế định xác định cha, mẹ, con theo Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014
1. Căn cứ xác định
Quan hệ giữa cha, mẹ, con là một mối liên hệ huyết thống tự nhiên theo quy
luật sinh học. Nó không phụ thuộc vào hôn nhân của cha, mẹ có là hợp pháp hay
không. Cũng như bất kì một quan hệ xã hội nào khác, quan hệ giữa cha, mẹ, con
cũng được phát sinh dựa trên những căn cứ nhất định. Mối quan hệ này phát sinh
dựa trên hai căn cứ , đó là : sự kiện sinh đẻ (huyết thống) và sự kiện nhận nuôi con
nuôi. Trong đó, sự kiện sinh đẻ làm phát sinh mối quan hệ này lại chính là căn cứ
để xác định cha, mẹ, con trong chế định xác định cha, mẹ, con theo Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014. Dựa vào sự kiện sinh đẻ, việc xác định cha, mẹ, con được
phân thành từng trường hợp cụ thể :
Thứ nhất, xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên. Bao gồm:
việc xác định cha, mẹ cho con khi cha mẹ là vợ chồng và xác định cha, mẹ cho con
khi cha, mẹ không phải là vợ chồng.
Thứ hai, xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con ra bằng phương pháp
hỗ trợ sinh sản.

1.1.
Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên
Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên : con được sinh ra trong
trường hợp này có thể là sinh ra do cha, mẹ là vợ chồng hợp pháp, cũng có thể
không.
a. Xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp cha mẹ là vợ chồng (con
trong giá thú)
Việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp cha, mẹ là vợ chồng là dựa theo
nguyên tắc suy đoán pháp lý được quy định ở Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014. Cũng giống như Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, các nhà làm luật
đã quy định nội dung nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 khác với pháp luật dưới chế độ cũ. Các nhà
làm luật dưới chế độ cũ đã quy định về « thời kỳ thụ thai pháp định » là cơ sở cho
2


việc suy đoán quan hệ cha-con, mẹ-con, với nội dung cụ thể : « Đứa trẻ thành thai
trong thời kỳ giá thú có cha là chồng người mẹ. Được coi là thụ thai trong thời kỳ
giá thú trẻ nào sinh quá 180 ngày kể từ khi kết hôn hoặc không quá 300 ngày sau
khi hôn thú đoạn tiêu ». Còn Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, trên cơ sở kế
thừa quy định tại Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và có sự sửa đổi,
bổ sung thêm. Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014quy định :
« 1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn
nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân
được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng kí kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung
của vợ chồng .
2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải
được Tòa án xác định. »

Theo đó, khác với Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật mới này đã dự
liệu được về nội dung của nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con trong
giá thú cũng như con ngoài giá thú. Như vậy, việc xác định cha, mẹ, con khi cha
mẹ là vợ chồng có thể đặt ra các trường hợp :
Thứ nhất, con do người vợ sinh ra trước ngày đăng kí kết hôn và được cha
mẹ thừa nhận.
Thứ hai, con do người vợ có thai trước thời kỳ hôn nhân và sinh ra trong
thời kì hôn nhân.
Thứ ba, con do người vợ thụ thai và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân.
Thứ tư, con do người vợ thụ thai trong thời kỳ hôn nhân và sinh ra trong thời
hạn 300 ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt .
Thứ năm, con do người vợ thụ thai trước thời kỳ hôn nhân và sinh ra trong thời hạn
300 ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt.
Trước hết, xuất phát từ thực tiễn khách quan, ngày nay nam nữ được tự do
yêu đương, tìm hiểu nhau trước khi kết hôn. Có nhiều trường hợp chưa đăng ký kết
hôn nhưng hai bên nam nữ đã có quan hệ sinh lý với nhau, người phụ nữ đã thụ
thai và đứa trẻ được sinh ra trước khi hai người là vợ chồng. Dù sinh ra trước thời
điểm đăng kí kết hôn nhưng đứa trẻ được cha mẹ thừa nhận thì vẫn được suy đoán
là con chung của vợ chồng. Đây là một quy định mở, công nhận người con sinh ra
trong trường hợp này là con chung của hai vợ chồng với điều kiện là cha mẹ tự
nguyện thừa nhận đứa trẻ là con chung, nhằm đảm bảo quyền lợi của đứa trẻ và
người mẹ trong gia đình.
Thêm đó, khi hai bên nam nữ kết hôn với nhau, bắt đầu thời kỳ hôn nhân của
vợ chồng_là khoảng thời gian tính từ thời điểm hai bên nam nữ kết hôn cho đến
khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật (do người chồng chết hoặc vợ chồng ly
hôn, tính từ khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật), hay khoảng
3


thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại. Đứa trẻ mà được sinh ra trong thời kỳ này có

thể là do người vợ đã có thai từ trước thời kì hôn nhân, cũng có thể là khoảng thời
gian người vợ có thai và sinh con đều trong khoảng thời gian của thời kỳ hôn nhân.
Về nguyên tắc, đứa trẻ sinh ra trong thời kỳ này sẽ được xác định là con
chung của vợ chồng : « Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân … là con chung của vợ
chồng », dù cho đứa trẻ do người vợ đã có quan hệ với người chồng mà có thai
hoặc do người vợ có quan hệ với người đàn ông khác mà có thai và sinh ra. Đồng
nghĩa rằng, với đứa trẻ sinh ra trong thời kỳ này thì người chồng của mẹ đứa trẻ sẽ
được xác định là cha của đứa trẻ đó. Quy định này kế thừa quy định của Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000. Nhiều ý kiến cho rằng, việc quy định như vậy với
những trường hợp người vợ do có quan hệ ngoại tình với người khác rồi có thai và
đứa trẻ được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân, đứa trẻ được suy đoán là con của
người chồng của mẹ đứa trẻ thì mặc nhiên đã phủ định quyền làm cha đứa trẻ của
người đàn ông mà người mẹ đã có quan hệ sinh lý nhưng không phải chồng người
mẹ. Ngược lại, người chồng hợp pháp của người mẹ lại phải gánh những nghĩa vụ
pháp lý với người mà thực tế không phải là con ruột của mình, mà đáng nhẽ ra,
nghĩa vụ đó phải thuộc về người đàn ông đã có quan hệ thông gian, ngoại tình với
người vợ của người chồng đó.
Trên thực tế còn có những trường hợp người vợ sau khi đã chấm dứt hôn
nhân với người chồng rồi mới sinh con. Do đó, trên cơ sở Điều 63 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có sự sửa đổi, bổ sung
thêm quy định : « Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm
dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân ».
Theo đó, đứa trẻ được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm hôn
nhân chấm dứt cũng được xác định là con chung của hai vợ chồng, người chồng
của mẹ đứa trẻ đã chết, hoặc đã ly hôn được suy đoán là cha của đứa trẻ đó. Con
sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là
con chung trong giá thú của hai vợ chồng. Quy định này đảm bảo ổn định quan hệ
cha mẹ và con, đồng thời giúp cho người phụ nữa yên tâm thực hiện thiên chức
làm mẹ của mình.
Tuy nhiên, có những trường hợp quan hệ hôn nhân chấm dứt trước pháp

luật, người vợ không đợi sau hạn 300 ngày đã kết hôn với người khác, với những
trường hợp này, nếu sau này người vợ sinh con thì đứa con đó sẽ được xác định là
« con chung của vợ chồng », tức là con của người chồng lấy sau theo đúng nguyên
tắc suy đoán pháp lý « con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ
chồng », chứ người chồng đã chết hoặc đã ly hôn trước đó không được suy đoán là
cha của đứa trẻ. Cũng theo nguyên tắc này, pháp luật coi sự có mặt của người
chồng khi đăng kí khai sinh cho đứa trẻ do vợ mình sinh ra, tại cơ quan hộ tịch là
sự mặc nhiên công nhận đứa trẻ đó là con chung của hai vợ chồng.
4


Ngoài ra, thực tế còn có những trường hợp người chồng nghi ngờ người vợ
không chung thủy, đã có hành vi thông gian, ngoại tình với người khác , sau khi
người vợ sinh con, người chồng đã không thừa nhận đứa trẻ đó là con của mình.
Với trường hợp này, Luật quy định :
« Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải
được Tòa án xác định. » (Khoản 2 Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).
Thực tiễn đời sống, sau khi người vợ sinh con, hai vợ chồng làm giấy khai
sinh cho đứa trẻ, đứa trẻ được đặt tên theo họ tên của cha hoặc mẹ. Thậm chí, đứa
trẻ đó về mặt sinh học không phải là con của người chồng nhưng về nguyên tắc,
trước hết người chồng vẫn được xác định là cha của đứa trẻ, sự im lặng của người
chồng được coi là sự mặc nhiên thừa nhận mối quan hệ cha, con. Pháp luật không
can thiệp sâu vào mối quan hệ này. Miễn rằng đứa trẻ được sống trong bầu không
khí gia đình yêu thương, có cha, có mẹ…
Còn với trường hợp, người chồng nghi ngờ người vợ, không thừa nhận đứa
trẻ là con mình đã yêu cầu xác định lại quan hệ cha, mẹ, con. Trong trường hợp
này, người chồng phải chứng minh được đứa trẻ do vợ mình sinh ra không phải là
con của mình. Người chồng có quyền đưa ra bất kỳ chứng cứ nào chứng tỏ đứa trẻ
đó không phải là con mình. Người chồng có thể chứng minh thông qua sự thừa
nhận của người vợ là người đã có thai với người khác từ trước khi kết hôn, cũng có

thể người chồng chứng minh mình đã đi công tác xa trong khoảng thời gian người
vợ có khả năng thụ thai đứa con đó, hoặc có trường hợp người chồng mặc bệnh vô
sinh, bị bất lực về sinh lý, cũng có thể trưng cầu giám định về gen…….. nếu người
chồng có đầy đủ bằng chứng để chứng minh đứa trẻ do người vợ sinh ra không
phải con mình thì có quyền không thừa nhận đứa trẻ đó là con. Cũng có trường hợp
người mẹ không thừa nhận đứa trẻ là con mình vì nghi ngờ đứa trẻ đã bị tráo đổi,
thì người vợ cũng phải đưa ra được những chứng cứ xác thực để chứng minh điều
đó. Ngược lại, nếu chỉ vì nghi ngờ, người chồng hoặc người vợ không chứng minh
được thì Tòa án vẫn buộc họ phải thừa nhận đứa trẻ mà người vợ đã sinh ra là con
chung của hai vợ chồng. Và Tòa án phải hết sức thận trọng trong việc điều tra,
đánh giá chính xác trước khi có kết luận để giải quyết các trường hợp này.
Với quy định tại Khoản 2 này đã lí giải cho sự thắc mắc của một số ý kiến
khi nói đến quyền và nghĩa vụ của người chồng được xác định là cha của đứa trẻ
do người vợ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân.
Ngoài ra, với người con, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có những quy định
đảm bảo quyền lợi cho họ trong việc được nhận cha, mẹ của mình. Điều 90 quy
định :
«1. Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết.
2.Con đã thành niên nhận cha không cần phải có sự đồng ý của mẹ ; nhận mẹ,
không cần phải có sự đồng ý của cha . »
5


b. Xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp cha, mẹ không phải là vợ chồng
(con ngoài giá thú)
Con ngoài giá thú là con mà cha, mẹ không phải là vợ chồng hợp pháp, hoặc
tuy cha, mẹ ăn ở, chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không được pháp luật
thừa nhận là vợ chồng. Bao gồm các trường hợp sau:
+ Người mẹ không có chồng mà sinh con ;
+ Người mẹ có chồng nhưng ngoại tình có con với người khác ;

+ Hai bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng, trong thời gian chung sống,
giừa hai người có con chung với nhau nhưng cha mẹ không có đăng kí kết hôn(kể
cả trường hợp hai vợ chồng đã li hôn, phán quyết li hôn của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật, sau đó họ lại tái hợp cùng sống với nhua nhưng không đăng kí kết hôn
lại. Nếu người mẹ sinh con trong thời kì kết hôn lại trong thời kì này thì con đó là
con chung ngoài giá thú).
Vấn đề xác định cha, mẹ cho con ngoài giá thú trong thực tế rất phức tạp khi
có yêu cầu. Vì giữa cha, mẹ của người con không có hôn nhân hợp pháp, tức
không có thời kì hôn nhân. Việc xác định con ngoài giá thú phải dựa vào mối quan
hệ thực tế, không thể suy đoán theo nguyên tắc Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình
được.
Trường hợp người mẹ sinh con ngoài giá thú mà người đàn ông có quan hệ sinh lý
hoặc sống chung với người mẹ đó không nhận con, khi có yêu cầu(theo quy định
tại điều 89, 90, 91) thì Toà án nhân dân phải căn cứ vào những chứng cứ là người
mẹ đó đã có thai với ai để xác định cha cho con ngoài giá thú. Lưu ý: có thể nảy
sinh trường hợp người mẹ sau khi sinh con ngoài giá thú, vì lý do nào đó đã bỏ
con, người khác đã nhận nuôi đứa trẻ đó, sau này người mẹ sinh con ngoài giá thú
mới xin nhận lại con thì có nghĩa vụ phải chứng minh chính mình đã sinh ra đứa
trẻ đó; cũng có thể có trường hợp người con ngoài giá thú đã thành niên có yêu cầu
Toà án xác định cha, mẹ của mình hoặc theo Luật định, một người có yêu cầu Toà
án xác định một người đã chết là cha, mẹ, con của mình.
Đối với trường hợp yêu cầu Toà án xác định cha cho con ngoài giá thú,
trước đây theo Thông tư số 15/DS ngày 27/9/1974 của toà án nhân dân tối cao
hướng dẫn, có thể dựa vào những căn cứ sau:
+ Trong thời gian có thể thụ thai đứa con, người đàn ông được khai là cha của đứa
trẻ và người mẹ đứa trẻ đã công nhiên chung sống với nhau như vợ chồng;
+ Hai người đã yêu thương nhau hứa hẹn kết hôn với nhau và trong thời gian có
thể thụ thai đứa con đã ăn nằm với nhau như vợ chồng, rồi sau khi có con, bỏ
không cưới hỏi gì nữa;
+ Người mẹ đã bị người này hiếp dâm, cưỡng dâm trong thời gian có thể thụ thai

đứa con;
+ Sau khi sinh đứa con, người này đã thăm nom, chăm sóc đứa con như là con của
mình;
6


+ Có những thư từ mà người này viết xác nhận đứa con do người phụ nữ đó sinh ra
là con của họ.
Với các chứng cứ nêu trên cho thấy, hiện nay luật chủ yếu chỉ căn cứ vào thời
gian người phụ nữ có thể thụ thai, người phụ nữ đó có quan hệ với người đàn ông
bị nghi vấn là cha của đứa trẻ hay không. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
chưa có điều luật nào quy định cụ thể việc xác định cha mẹ cho con khi cha mẹ
đứa trẻ không phải vợ chồng. Vì vậy, có thể quy định thêm các biện pháp y học cần
thiết, điều này sẽ làm tăng độ chính xác trong việc xác định quan hệ cha mẹ và con
nói chung, đặc biệt là xác định quan hệ cha con đối với con ngoài giá thú. Thực tế
giải quyết các tranh chấp về xác định cha, mẹ và con ngoài giá thú rất phức tạp,
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Người thẩm phán giải quyết vụ việc đòi hỏi phải
là người có trình độ pháp luật, vốn sống, kinh nghiệm thực tế, am hiểu và nắm
được các đặc tính về tâm lý của đương sự. Đồng thời trong quá trình điều tra, thu
thập chứng cứ, cần kết hợp với các biện pháp khác như giám định y học: thử máu,
khả năng sinh lý và đặc biệt là giám định về gen khi có yêu cầu…
1.2.
Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai bằng kĩ thuật hỗ trợ
sinh sản
Các cặp vợ chồng hiếm muộn ngày nay, thay vì xin con nuôi, có xu hướng nhờ
y học hỗ trợ sinh con. Điều này phát sinh những vấn đề pháp lý gây tranh cãi, như
việc xác định cha mẹ cho con, giải quyết tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp
đồng mang thai hộ. Xuất phát từ thực tế và kế thừa Luật hôn nhân và gia đình năm
2000, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có những thay đổi và tiến bộ khi đã
thừa nhận cũng như quy định cụ thể về việc xác định cha mẹ cho con trong trường

hợp sinh sản bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản.
Theo quy định tại Điều 93 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì:
“1. Trong trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác
định cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này.
2. Trong trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra.
3. Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha,
mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh
ra.
4. Việc xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
được áp dụng theo quy định tại Điều 94 của Luật này.”
Cũng theo quy định tại Điều 3 Nghị định Số: 10/2015/NĐ-CP Quy định về
sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ mục
đích nhân đạo thì:
“1. Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh
có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
7


2. Vợ chồng nhờ mang thai hộ, người mang thai hộ, trẻ sinh ra nhờ mang thai hộ
được bảo đảm an toàn về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và
được pháp luật tôn trọng, bảo vệ.
3. Việc thụ tinh trong ống nghiệm, cho và nhận noãn, cho và nhận tinh trùng, cho
và nhận phôi, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được thực hiện trên nguyên tắc
tự nguyện.
4. Việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc
vô danh giữa người cho và người nhận; tinh trùng, phôi của người cho phải được
mã hóa để bảo đảm bí mật nhưng vẫn phải ghi rõ đặc điểm của người cho, đặc
biệt là yếu tố chủng tộc.

5. Việc thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm phải tuân theo quy trình kỹ
thuật; quy định tiêu chuẩn sức khỏe của người được thực hiện kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm, mang thai và sinh con do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.”
Như vậy, theo Nghị định số 10/2015/NĐ-CP thì đã quy định rõ điều kiện để
áp dụng các biện pháp sinh sản bằng kĩ thuật sinh sản. Việc sinh con bằng phương
pháp hỗ trợ sinh sản sẽ phát sinh một số vấn đề sau:
Đối với trường hợp vợ chồng sử dụng noãn và tinh trùng của hai người để
thực hiện việc sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, thì đứa trẻ sinh ra sẽ chính là
con của họ.
Đối với trường hợp, vợ chồng thực hiện việc sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ
sinh sản mà phải sử dụng noãn hoặc tinh trùng hoặc phôi của người khác, thì việc
xác định cha mẹ của đứa trẻ như sau: Trẻ ra đời do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản phải được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ
sống độc thân. Người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc
thân sinh ra đứa trẻ do thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản được xác định là mẹ của
đứa con được sinh ra.
Như vậy, trường hợp hai vợ chồng (nhận tinh trùng, hoặc nhận noãn) để
thực hiện sinh con bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản, thì đứa trẻ phải được sinh
được xác định là con của họ (pháp luật không công nhận người cho tinh trùng,
hoặc cho noãn là cha, mẹ của đứa trẻ).
Khác với trường hợp sinh con trong trường hợp sinh đẻ tự nhiên thì đứa con
sinh ra trong trường hợp sinh con bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản có thể không
cùng huyết thống với cha mẹ nó. Việc sinh con theo phương pháp khoa học không
chỉ áp dụng trong nội bộ cặp vợ chồng vô sinh mà còn liên quan đến người thứ ba.
Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định cha, mẹ, con. Việc thực hiện các
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có sự tham gia của các yếu tố sinh học bên ngoài chỉ được
thực hiện khi không thực hiện sinh sản được bằng các hỗ trợ thông thường, do vậy
đứa con sinh ra có thể mang mã gen của bố hoặc mẹ hoặc của cả hai người. Đây là
một vấn đề hất sức phức tạp vì vậy thủ tục phải thật rõ ràng.
8



Đối với các bệnh nhân tự nguyện yêu cầu thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm với trứng người cho thì phải thực hiện đầy đủ các cam kết, đó là hợp
đồng giữa hai vợ chồng người xin, hợp đồng cam kết giữa hai vợ chồng người cho,
hợp đồng giữa người nhận, người cho và đơn xin bệnh viện thực hiện kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm với trứng của hai vợ chồng người xin trứng. Phương pháp
này phải dựa trên nguyên tắc bí mật nhằm đảm bảo sự ổn định trong quan hệ giữa
cha mẹ và con cái sau này, không ảnh hưởng tới những người cho trứng, cho phôi
và noãn. Mặt khác dễ dàng trong việc xác định người cho và người mẹ nhận tinh
trùng, noãn và phôi chắc chắn là cha mẹ của đứa trẻ trong tương lai.
Có thể nhận thấy một điều mới của việc sinh con theo phương pháp khoa học
là pháp luật cho phép người phụ nữ độc thân được áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh
sản. Đây là một quyền lợi chính đáng của người phụ nữ khi họ muốn hoặc không
muốn có cơ hội kết hôn mà vẫn thực hiện được thiên chức của mình. Nếu như
trước đây khi chưa có cơ sở pháp lý về vấn đè này thì gười phụ nữ độc thân vẫn có
thể thực hiện thiên chức của mình nhưng điều đó ảnh hưởng đến hạnh phúc của
một gia đình khác thì hiện nay nếu áp dụng hỗ trợ sinh sản thì họ vẫn có thể thực
hiện thiên chức mà không ảnh hưởng đến người khác. Tuy nhiên trong trường hợp
này chỉ có mẹ con duy nhất người con không biết cha mình là ai thì đây là khó
khăn mà người mẹ phải nuôi con một mình, mặt khác đây là sự đảm bảo sự tự
nguyện của người phụ nữ độc thân vì họ muốn có đứa con cho riêng mình.
1.3.
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Một số nước đã quy định cho phép việc mang thai hộ với những điều kiện ít
hoặc nhiều khó khăn khác nhau như Nam Phi, Anh, Argentina, Úc (phần lớn lãnh
thổ), Brazil, Canada, Mỹ (10 bang), Georgia, Hy Lạp, Israel, Romania, Nga,
Ukraine. Hai nước Pháp và Đức cấm triệt để mang thai hộ trong khi có nhiều nước
không cấm như Bỉ, Đan Mạch, Hungary, Ba Lan, Ireland, Ấn Độ, Luxembourg, Hà
Lan. Lần đầu tiên thông qua những quy định cụ thể, Luật Hôn nhân và gia đình

năm 2014 của nước ta đã bổ sung về vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
đã góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ,
ấm no hạnh phúc ở Việt Nam, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân,
đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Như
vậy, Luật Hôn nhân và gia đình đã chính thức thừa nhận và cho phép mang thai
hộ với mục đích nhân đạo (cụ thể từ Điều 93 đến Điều 98), song phải được thực
hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
Luật được thông qua dựa trên nguyên tắc “người mang thai hộ phải là người
thân thích cùng hàng để ngăn ngừa tình trạng thương mại hóa việc mang thai
hộ”. Theo Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì người được nhờ
mang thai hộ phải có đủ điều kiện sau:
“1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự
nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
9


2. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
b) Vợ chồng đang không có con chung;
c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
3. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;
b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng
mang thai hộ;
d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng
văn bản của người chồng;
đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
4. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp

luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”
Song, trong thực tế có nhiều vấn đề cần phải bàn luận đối với người được
nhờ mang thai hộ nhằm bảo đảm cho việc nhờ mang thai hộ có tính khả thi và đi
vào cuộc sống thì cần phân tích đối với điều kiện của người được nhờ mang thai hộ
theo quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình: “a) Là
người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ”.
Theo đó, được hướng dẫn tại Khoản 7 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP
ngày 28/01/2015 của Chính phủ: Quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo: “Người thân thích
cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: Anh, chị, em
cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác,
con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha
mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ”. Như vậy, người nhờ mang
thai hộ với người được nhờ mang thai hộ có thể là những người cùng dòng máu về
trực hệ, những người có họ trong phạm vi ba đời và những người có quan hệ thân
thích khác của bên người vợ hay bên người chồng nhờ mang thai hộ. Con sinh ra
trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng
nhờ mang thai hộ. Có rất nhiều câu hỏi đã và sẽ được đặt ra trước quy định này:
Nếu không có người thân thích cùng hàng thì sao? Nếu người thân thích cùng hàng
không thể, không muốn mang thai hộ thì sao?… Đó là những điều luật chưa dự
liệu và gây thiệt thòi cho nhiều cặp vợ chồng.
Một trong những mục đích của việc chỉ cho người thân thích mang thai hộ là
để ngăn ngừa nguy cơ thương mại hóa việc này. Nhưng có lẽ, rào cản “thân thích”
cũng chưa chắc đã mang lại hiệu quả quản lý và hạn chế được tình trạng khi mà
10


nhu cầu là quá lớn. Hơn nữa, vấn đề thương mại không chỉ tồn tại đối với những
người không cận huyết thống.

Để hạn chế những tranh chấp có thể phát sinh trong việc mang thai hộ, dự
luật cũng quy định về quyền và nghĩa vụ của người mang thai hộ, trong đó đáng
chú ý là các quy định như không có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ hỗ trợ tài
sản hoặc thu nhập cho việc mang thai, kể cả hỗ trợ cho việc chăm sóc thai; phải
thực hiện đúng cam kết về việc giao con cho bên nhờ mang thai hộ; có nghĩa vụ
tôn trọng bí mật đời tư, các quyền riêng tư khác, danh dự, nhân phẩm, uy tín của
bên nhờ mang thai hộ...Luật cũng quy định rõ về Quyền, nghĩa vụ của bên mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo và Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo tại Điều 97 và Điều 98 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi cũng có các điều khoản để giải
quyết những rắc rối phát sinh. Đáng chú ý là việc sinh con do mang thai hộ không
tính vào số con (của người mang thai hộ) theo chính sách dân số kế hoạch hóa gia
đình. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con, thì bên mang thai
hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con. Trong trường
hợp bên mang thai hộ từ chối giao con, thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu
Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ
chết, thì con được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang
thai hộ…
Giải quyết tranh chấp liên quan đến việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản,
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo: Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ. Trong
trường hợp bên nhờ mang thai hộ không còn mà bên mang thai hộ không nhận
nuôi đứa trẻ, thì Tòa án chỉ định người giám hộ cho đứa trẻ theo quy định của Bộ
luật dân sự. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ không nhận con và bên mang
thai hộ không tự nguyện chăm sóc, nuôi dưỡng đứa trẻ, thì Tòa án chỉ định người
giám hộ cho đứa trẻ, bên nhờ mang thai hộ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng cho con.
Việc bổ sung quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thể hiện tính nhân
văn sâu sắc, đáp ứng nhu cầu làm cha mẹ chính đáng của các cặp vợ chồng mà
người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh

sản. Mặc dù vẫn còn khá dè dặt trong việc tiếp cận, điều chỉnh và đôi khi là vẫn
“chậm chân” hơn so với thực tiễn, nhưng dù sao, việc “mở cửa” cho mang thai hộ
cũng là một tín hiệu đáng mừng cho các cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh. Những
vấn đề còn tồn tại chúng ta có quyền hy vọng vào sự vận dụng linh hoạt trong các
văn bản hướng dẫn thi hành hoặc các lần sửa đổi bổ sung sau này.
2. Thủ tục xác định cha, mẹ, con

11


Việc xác định cha, mẹ, con là một vấn đề rất tế nhị và cũng hết sức phức tạp.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thẩm quyền xác định cha, mẹ, con có thể
tiến hành theo 2 thủ tục:
*Thứ nhất: Theo thủ tục hành chính
Trong trường hợp có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân
và được tiến hành theo thủ tục tố tụng dân sự. Trong trường hợp không có tranh
chấp thì thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân và được tiến hành theo thủ tục
hành chính. Việc xác định cha, mẹ cho con theo thủ tục hành chính thường do
người cha, người mẹ hoặc cả hai người đều tự nguyện nhận con; dù quan hệ hôn
nhân của cha mẹ là hợp pháp hay không hợp pháp, thông qua thủ tục đăng ký khai
sinh cho con tại cơ quan hộ tịch để xác định thực về mặt pháp lý quan hệ cha mẹ
và con đó. Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha, mẹ có trách nhiệm đi
khai sinh cho con; nếu cha, mẹ không thể đi khai sinh thì ông, bà hoặc những
người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em (Điều 14 Nghị định số 158/2005/NĐCP của chính phủ ngày 27/12/2005). Người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ con
được quy định tại Điều 102 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định việc xác định quan hệ cha,
mẹ, con tại Điều 30 và Điều 33) có thể thực hiện thông qua hai thủ tục: theo thủ tục
tố tụng dân sự do Tòa án tiến hành trong trường hợp có tranh chấp hoặc theo thủ
tục hành chính do UBND cấp xã tiến hành trong trường hợp đăng ký nhận con
ngoài giá thú (Nghị định 183/1998/NĐ – CP về đăng ký hộ tịch). Theo Luật hôn

nhân và gia đình năm 2000 việc xác định quan hệ cha, mẹ, con do Tòa án tiến
hành. Theo thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân theo thủ tục đăng ký về hộ
tịch khi không có tranh chấp về việc xác định cha, mẹ, con: “Uỷ ban nhân dân cấp
xã, nơi cư trú của người nhận hoặc người được nhận là cha, mẹ, con thực hiện
việc đăng ký việc nhận cha, mẹ, con nếu bên nhận, bên được nhận là cha, mẹ, con
còn sống vào thời điểm đăng ký nhận cha, mẹ, con và việc nhận cha, mẹ, con là tự
nguyện và không có tranh chấp” (Điều 32, 33 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày
27/12/2005 của Chính Phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch). Và theo Điều 8 Nghị
định Số: 06/2012/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ
tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực: “Điều 32. Điều kiện đăng ký việc nhận
cha, mẹ, con
1. Việc nhận cha, mẹ, con theo quy định tại Mục này được thực hiện, nếu bên
nhận, bên được nhận là cha, mẹ, con còn sống vào thời điểm đăng ký nhận cha,
mẹ, con và việc nhận cha, mẹ, con là tự nguyện và không có tranh chấp giữa
những người có quyền và lợi ích liên quan đến việc nhận cha, mẹ, con.
2. Người con đã thành niên hoặc người giám hộ của người con chưa thành niên
hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự cũng được làm thủ tục
nhận cha, mẹ theo quy định tại Mục này, trong trường hợp cha, mẹ đã chết; nếu
12


việc nhận cha, mẹ là tự nguyện và không có tranh chấp giữa những người có
quyền và lợi ích liên quan đến việc nhận cha, mẹ.”
Thủ tục đăng kí việc nhận cha, mẹ con được quy định tại Điều 34 Nghị định
158/2005/NĐ-CP:
“1. Người nhận cha, mẹ, con phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định). Trong trường
hợp cha hoặc mẹ nhận con chưa thành niên, thì phải có sự đồng ý của người hiện
đang là mẹ hoặc cha, trừ trường hợp người đó đã chết, mất tích, mất năng lực
hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Kèm theo Tờ khai phải xuất trình các giấy tờ sau đây:

a) Giấy khai sinh (bản chính hoặc bản sao) của người con;
b) Các giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha, mẹ,
con (nếu có).
2. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc
nhận cha, mẹ, con là đúng sự thật và không có tranh chấp, thì Ủy ban nhân dân
cấp xã đăng ký việc nhận cha, mẹ, con.
Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá
5 ngày.
3. Khi đăng ký việc nhận cha, mẹ, con, các bên cha, mẹ, con phải có mặt, trừ
trường hợp người được nhận là cha hoặc mẹ đã chết. Cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi
vào Sổ đăng ký việc nhận cha, mẹ, con và Quyết định công nhận việc nhận cha,
mẹ, con. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chính
Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Bản sao Quyết định được cấp theo
yêu cầu của các bên.”
*Thứ hai: Theo thủ tục tư pháp.
Nếu có tranh chấp về việc xác định cha, mẹ, con thì các đương sự có quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án tiến hành thụ lý và xét xử theo thủ tục tố tụng
thông thường, theo Khoản 2 Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “2.
Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được
Tòa án xác định.” và Khoản 4 Điều 27 BLTTDS: “Những tranh chấp về hôn nhân
và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
5. Tranh chấp về cấp dưỡng.
6. Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.”
Thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con cũng được quy định rõ tại
Điều 101 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
“1. Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định

của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
13


2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có
tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường
hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng
ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ
xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự.”
Như vậy, dựa trên tính chất của quan hệ xác định cha, mẹ, con có tranh chấp
hay không có tranh chấp là cơ sở để xác định cơ quan có thẩm quyền xác định cha,
mẹ, con. Tuy nhiên, việc xác định thẩm quyền giải quyết loại việc này từ góc độ
thực tiễn đã và đang phản ánh những bất cập và khó khăn liên quan đến cách hiểu
và vận dụng điều luật cũng như những quy định còn “bỏ ngỏ” trong Luật dẫn đến
những lúng túng nhất định trong việc xác định thẩm quyền, thủ tục tố tụng và
nghĩa vụ chứng minh…
3. Hậu quả pháp lí của việc xác định cha, mẹ, con
Việc xác định cha, mẹ, con là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm song lại rất cần
thiết, việc xác định đó không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân từng chủ thể mà còn
mang ý nghĩa pháp luật và xã hội sâu sắc. Quyền làm cha, làm mẹ và quyền làm
con là vô cùng thiêng liêng và quan trọng, vì vậy việc xác định cha, mẹ, con nhằm
xác định thân phận của các chủ thể, góp phần ổn định các mối quan hệ trong gia
đình nói riêng và các mối quan hệ ngoài xã hội nói chung. Việc xác định cha, mẹ,
con sẽ đảm bảo cho trẻ em một mái ấm gia đình thực sự, được chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục một cách tốt nhất, được đảm bảo cả về mặt vật chất lẫn tinh
thần giúp trẻ phát triển toàn diện cả về thể lực và trí lực.
Việc xác định cha, mẹ, con một cách chính xác cũng là cơ sở cho việc tuân thủ
Hiến góp phần xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu, xóa bỏ sự kì thị, phân biệt đối với

những trẻ em được sinh ra ngoài cuộc hôn nhân, đảm bảo cho mọi đứa trẻ sinh ra
đều bình đẳng với nhau dù đứa trẻ đó ra đời từ cuộc hôn nhân hợp pháp hay không
hợp pháp. Về mặt pháp lý: Việc xác định cha, mẹ cho con được quy định trong hệ
thống pháp luật Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là phù hợp với Công
ước quốc tế về quyền trẻ em : “Gia đình với tư cách là nhóm xã hội cơ bản và môi
trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mọi thành viên, nhất là trẻ
em…” . Mặt khác, chế định xác định cha, mẹ, con còn nhằm cụ thể hóa những
nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 . Xác định cha, mẹ,
con là một chế định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, phù hợp với quy
định trong Hiến pháp và BLDS, điều này thể hiện sự thống nhất đồng bộ trong việc
xây dựng pháp luật, đặc biệt đã thể hiện được tầm quan trọng của chế định xác
định cha, mẹ, con cả về mặt lý luận và thực tiễn. Khi xác định một người là cha,
mẹ, con của nhau thì ngoài tình cảm máu mủ, ruột thịt thì giữa họ cũng sẽ hình
thành một quan hệ cha, mẹ, con trước pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa giữa họ đã
14


có những quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật. Do đó, chế
định xác định cha, mẹ, con còn là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ này như: xác định dân tộc,
chia tài sản thừa kế, cấp dưỡng… Mặt khác, việc xác định cha, mẹ, con không chỉ
liên quan đến mối quan hệ giữa cha, mẹ và con mà còn liên quan đến các mối quan
hệ của những thành viên khác trong gia đình như ông, bà với cháu; anh, chị, em
với nhau… chính vì vậy, cũng là cơ sở để giải quyết các tranh chấp giữa các chủ
thể trong các mối quan hệ đó như tranh chấp trong việc nuôi dưỡng, cấp dưỡng…
Từ những ý nghĩa trên mà chế định xác định cha, mẹ, con từ khi ra đời đã ngày
càng được hoàn thiện, đáp ứng được những nhu cầu khách quan của cuộc sống.
C-

KẾT THÚC VẤN ĐỀ


Bên trên là toàn bộ đánh giá của nhóm em về chê định xác nhận cha mẹ con theo
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bài làm không tránh khỏi những thiếu xót
nhất định, mong thầy cô bổ sung và giúp đỡ nhóm em.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, NXB Lao động
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, NXB Lao động
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình , NXB
Công an nhân dân, năm 2009.
Nghị định của Chính phủ số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng kí
và quản lí hộ tịch;
15


-

Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Nghị định Số: 06/2012/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị
định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực
/> /> />co_id=28340784&cn_id=694825
/>
16



×