ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------------------
ĐINH VĂN THƢƠNG
Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH MẮC BỆNH VIÊM TỬ CUNG Ở LỢN
NÁI NGOẠI VÀ THỬ NGHIỆM MỘT SỐ PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Chuyên ngành: Thú y
Khoa: Chăn nuôi Thú y
Khoá học: 2011 - 2016
Thái Nguyên, 2015
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------
ĐINH VĂN THƢƠNG
Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH MẮC BỆNH VIÊM TỬ CUNG Ở LỢN
NÁI NGOẠI VÀ THỬ NGHIỆM MỘT SỐ PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Chuyên ngành: Thú y
Khoa: Chăn nuôi Thú y
Khoá học: 2011 - 2016
Giảng viên hƣớng dẫn: TS. Trần Văn Thăng
Khoa Chăn nuôi Thú y – Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên
Thái Nguyên, 2015
i
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian nghiên cứu, để hoàn thành khóa luận của mình, tôi đã
nhận được sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn, sự giúp đỡ của các thầy cô
giáo Khoa Chăn nuôi Thú y, và Trại lợn nái ngoại xã Đoàn Kết, huyện Yên Thủy,
tỉnh Hòa Bình. Tôi cũng nhận được sự cộng tác nhiệt tình của các bạn đồng nghiệp,
sự giúp đỡ, cổ vũ động viên của người thân trong gia đình.
Nhân dịp này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. Trần
Văn Thăng đã rất tận tình và trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện thành công khóa
luận này.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm đã tạo điều kiện
thuận lợi và cho phép tôi thực hiện khóa luận này.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới lãnh đạo Trại lợn nái ngoại xã
Đoàn Kết, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình, chủ trang trại, cùng toàn thể anh chị em
công nhân trong trang trại về sự hợp tác giúp đỡ bố trí thí nghiệm , theo dõi các chỉ
tiêu và thu thập số liệu làm cơ sở cho khóa luận này.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, người thân cùng bạn bè
đồng nghiệp đã giúp đỡ động viên tôi trong suốt thời gian hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả!
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 11 năm 2015
Sinh viên
Đinh Văn Thƣơng
ii
LỜI NÓI ĐẦU
Để hoàn thành chương trình đào tạo trong nhà trường, thực hiện phương
châm “Học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực tiễn sản xuất”, thực tập tốt
nghiệp là giai đoạn cuối cùng trong toàn bộ chương trình học tập của tất cả các
trường Đại học nói chung và trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nói riêng.
Giai đoạn thực tập chiếm một vị trí hết sức quan trọng đối với mỗi sinh viên
trước khi ra trường. Đây là khoảng thời gian để sinh viên củng cố và hệ thống hóa
toàn bộ kiến thức đã học, đồng thời giúp sinh viên làm quen với thực tiễn sản xuất,
từ đó nâng cao trình độ chuyên môn, nắm được phương thức tổ chức và tiến hành
công việc nghiên cứu, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản
xuất, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển đất nước ngày càng đi lên.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân và được sự đồng ý của Ban chủ
nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, được sự
phân công của thầy giáo hướng dẫn và sự tiếp nhận của lãnh đạo Trại lợn nái ngoại
xã Đoàn Kết, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình, tôi đã về thực tập tốt nghiệp tại trại lợn
nái ngoại xã Đoàn Kết, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình và thực hiện đề tài: “ Đánh
giá tình hình mắc bệnh viêm tử cung ở lợn nái ngoại và thử nghiệm một số phác
đồ điều trị”.
Do bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, kiến thức chuyên
môn chưa sâu, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều và thời gian thực tập còn ngắn nên
trong bản khóa luận này của tôi không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi kính
mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy, cô giáo cùng các bạn
đồng nghiệp để bản khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Một số tiêu chí phân biệt các thể viêm tử cung ........................................29
Bảng 3.2: Sơ đồ thử nghiệm hai phác đồ điều trị ......................................................30
Bảng 4.1: Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái trong 2 năm .........................33
Bảng 4.2: Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung theo các lứa đẻ ..............................34
Bảng 4.3: Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung theo các tháng trong năm ..............36
Bảng 4.4: Kết quả điều trị bệnh viêm tử cung theo hai phác đồ điều trị ..................37
Bảng 4.5: Kết quả điều trị bệnh viêm tử cung và khả năng sinh sản của lợn nái sau
khi khỏi bệnh....................................................................................................38
Bảng 4.6: Ảnh hưởng của bệnh viêm tử cung đến khả năng thụ thai của lợn nái sau
khi khỏi bệnh....................................................................................................40
Bảng 4.7: Ảnh hưởng của bệnh viêm tử cung của lợn nái đến tỷ lệ lợn con mắc bệnh
phân trắng .........................................................................................................41
Bảng 4.8: Ảnh hưởng của lứa đẻ ở lợn nái mắc bệnh viêm tử cung đến tỷ lệ lợn con
mắc bệnh phân trắng ........................................................................................42
iv
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
L:
Landrace
Y:
Yorkshire
CP:
Charoen Pokphand
Cs:
Cộng sự
Nxb:
Nhà xuất bản
PGF2α :
Prostaglandin F2α.
ĐD:
Động dục
FSH:
Follicle stimulating hormone
LH:
Luteinizing hormone
MMA:
Hội chứng viêm tử cung - viêm vú - mất sữa
TT:
Thể trọng
P:
Độ tin cậy
v
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ i
LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC BẢNG ...................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT ..................................................... iv
MỤC LỤC ..................................................................................................................v
Phần 1: MỞ ĐẦU ......................................................................................................1
1.1. Đặt vấn đề ............................................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài ...........................................................................2
1.3. Ý nghĩa của đề tài .................................................................................................2
1.3.1. Ý nghĩa khoa học ..............................................................................................2
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn ...............................................................................................2
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...........................................................................3
2.1. Cơ sở khoa học .....................................................................................................3
2.1.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục của lợn nái................................................................3
2.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục lợn cái .....................................................................5
2.1.3. Những hiểu biết về bệnh viêm tử cung ở lợn nái ............................................13
2.1.3.1. Nguyên nhân gây bệnh viêm tử cung ...........................................................13
2.1.3.2. Quá trình viêm tử cung ................................................................................15
2.1.3.3. Phân loa ̣i viêm tử cung .................................................................................17
2.1.3.4. Các biện pháp phòng trị viêm tử cung .........................................................20
2.1.4. Thành phần hóa học và cơ chế tác dụng của thuốc sử dụng trong điều trị .....23
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ........................................................25
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ....................................................................25
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ...................................................................26
Phần 3: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......29
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................29
vi
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ......................................................................29
3.3. Nội dung nghiên cứu ..........................................................................................29
3.4. Phương pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi..............................................29
3.4.1. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................29
3.4.2. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp xác định các chỉ tiêu ...........................30
3.5. Phương pháp xử lý số liệu ..................................................................................31
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .......................................33
4.1. Tình hình mắc bệnh viêm tử cung của đàn lợn nái ngoại tại trại lợn nái ngoại xã
Đoàn Kết, huyện Yên Thủy .............................................................................33
4.1.1. Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung của đàn lợn nái qua 2 năm (2014 - 2015)........33
4.1.2. Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung theo lứa đẻ ...........................................34
4.1.3. Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung theo các tháng trong năm ....................36
4.2. So sánh hiệu lực điều trị bệnh viêm tử cung của hai phác đồ điều trị ...............37
4.2.1. Kết quả điều trị bệnh viêm tử cung theo hai phác đồ điều trị .........................37
4.2.2. Kết quả điều trị bệnh viêm tử cung và khả năng sinh sản của lợn nái sau khi
khỏi bệnh ..........................................................................................................38
4.2.3. Ảnh hưởng của bệnh viêm tử cung đến khả năng thụ thai của lợn nái sau khi
khỏi bệnh ..........................................................................................................39
4.3. Ảnh hưởng của bệnh viêm tử cung ở lợn nái đến tỷ lệ lợn con mắc bệnh phân
trắng .................................................................................................................40
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .......................................................................43
5.1. Kết luận ..............................................................................................................43
5.2. Đề nghị ...............................................................................................................43
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................44
PHỤ LỤC
1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Hiện nay, ở Việt Nam thịt lợn luôn chiếm tỷ lệ hàng đầu 70,4 - 76,8% khối
lượng thịt bán trên thị trường, thịt gia cầm chiếm 14,3 - 15,1%, còn thịt trâu bò chỉ
chiếm 8,2 - 12,1%. Vì vậy, chăn nuôi lợn cần được ưu tiên phát triển hơn nữa để
theo kịp với nhịp độ chung của đất nước. Chăn nuôi lợn không những chỉ đáp ứng
yêu cầu cung cấp thịt trong nước mà còn phải tham gia xuất khẩu. Ngoài ra, chăn
nuôi lợn còn tận dụng được sức lao động nhàn rỗi, tận dụng phế phụ phẩm dư thừa
của nông nghiệp, góp phần làm tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Chăn nuôi lợn ngoại đang được đẩy mạnh trong chăn nuôi nông hộ cũng như
ở các gia trại, trang trại quy mô công nghiệp. Bởi vì, chăn nuôi lợn ngoại có năng
xuất cao, tăng trọng nhanh, phẩm chất thịt tốt (tỷ lệ nạc cao, độ dày mỡ lưng thấp)
đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng đang đòi hỏi, nhất là khu thành phố và
khu công nghiệp. Cho đến nay, lợn Landrace và Yorkshire là hai giống lợn đóng vai
trò chủ yếu trong khâu sản xuất lợn giống và lợn lai nuôi thịt, trong tương lai nó sẽ
góp phần quan trọng vào các chương trình “nạc hóa” đàn lợn ở nước ta.
Thực hiện chương trình “nạc hóa” đàn lợn của tỉnh Hòa Bình, trại lợn nái xã
Đoàn Kết thuộc Tổng Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam được đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất có trên 1.200 lợn nái sinh sản, trong đó giống Landrace và
Yorkshire chiếm tỷ lệ chính. Đàn lợn nái ngoại này đang được phát triển tốt, cho
năng suất và chất lượng đàn con tốt. Tuy nhiên, để thu được hiệu quả kinh tế cao
trong chăn nuôi lợn nái sinh sản ngoài phụ thuộc vào sức sản xuất của lợn nái còn
phụ thuộc vào tình hình quản lý dịch bệnh của trang trại. Tình hình dịch bệnh có
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế, đặc biệt là chất lượng sản phẩm. Bệnh viêm
tử cung ở lợn nái là một trong những tổn thương đường sinh dục của lợn nái sau khi
sinh, ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh sản, làm mất sữa, lợn con không có sữa
sẽ còi cọc, suy dinh dưỡng, lợn con chậm phát triển. Lợn nái chậm động dục trở lại,
2
không thụ thai, có thể dẫn đến vô sinh, mất khả năng sinh sản. Xuất phát từ thực
tiễn nêu trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá tình hình mắc bệnh viêm tử
cung ở lợn nái ngoại và thử nghiệm một số phác đồ điều trị”.
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá tình hình mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại nuôi tại trại
lợn xã Đoàn Kết, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình.
- Thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh viêm tử cung.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả đạt được của đề tài là những thông tin khoa học có giá trị bổ sung
thêm những hiểu biết về bệnh viêm tử cung ở lợn và là cơ sở khoa học để đề ra
những biện pháp phòng trị bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái có hiệu quả.
- Kết quả thu được là cơ sở khoa học để đưa ra các giải pháp kỹ thuật nhằm
nâng cao khả năng sản xuất của đàn lợn nái ngoại nuôi tại trại lợn xã Đoàn Kết,
huyên Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Xác định được hiệu quả điều trị bệnh của một số phác đồ trong phòng và
điều trị bệnh viêm tử cung ở lợn.
- Những khuyến cáo từ kết quả của đề tài giúp người chăn nuôi hạn chế
được những thiệt hại do bệnh gây ra.
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục của lợn nái
Quá trình hoạt động sinh lý của cơ quan sinh dục là rất quan trọng và cơ bản,
giúp gia súc trong hoạt động sinh sản nhằm duy trì nòi giống. Cấu tạo gồm bộ phận
sinh dục bên ngoài và bộ phận sinh dục bên trong.
Bộ phận sinh dục bên ngoài là bộ phận sinh dục có thể nhìn thấy, sờ thấy và
quan sát được. Bao gồm: âm môn, âm vật và tiền đình. Bộ phận sinh dục bên
trong không nhìn thấy được nhưng bằng phương pháp gián tiếp người ta có thể
quan sát, hoặc sờ thấy bao gồm: âm đạo, tử cung, ống dẫn trứng, buồng trứng.
Mỗi bộ phận này đều đảm nhiệm một chức năng khác nhau và giữ một vai trò
quan trọng khác nhau.
* Âm môn (vulva)
Âm môn hay còn gọi là âm hộ, nằm dưới hậu môn. Bên ngoài có hai môi,
bờ trên của hai môi có sắc tố, nhiều tuyến tiết chất nhờn màu trắng và tuyến tiết
mồ hôi.
* Âm vật (clitoris)
Âm vật của con cái được cấu tạo giống như dương vật của con đực được
thu nhỏ lại, bên trong có các thể hổng. Trên âm vật có các nếp da tạo ra mũ âm,
ở giữa âm vật gấp xuống dưới là chỗ tập trung các đầu mút các dây thần kinh.
* Tiền đình (vetstibulum vaginae simusinogenitalism)
Tiền đình là giới hạn giữa âm môn và âm đạo. Trong tiền đình có màng trinh,
phía trước là âm đạo. Màng trinh là các sợi cơ đàn hồi do hai lớp niêm mạc gấp lại
tạo thành một nếp. Tiền đình có một số tuyến xếp theo hàng chéo, hướng quay về
âm vật.
* Âm đạo (vagina)
Âm đạo là một ống tròn, trước là cổ tử cung, phía sau là tiền đình có màng
trinh. Âm đạo được cấu tạo bởi ba lớp:
Lớp liên kết bên ngoài.
4
Lớp cơ trơn: bên ngoài là cơ dọc, bên trong là cơ vòng, chúng liên kết với
các cơ tử cung.
Lớp niêm mạc: trên bề mặt có nhiều tế bào thượng bì gấp nếp dọc.
Ngoài ra âm đạo còn là bộ phận thải thai ra bên ngoài khi sinh đẻ và là ống
thải các chất dịch từ trong tử cung.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002)[6], âm đạo của lợn dài 10 - 12 cm.
* Tử cung (uterus)
Tử cung của lợn có hai sừng, một thân và một cổ tử cung.
Cổ tử cung: là phần ngoài của tử cung, cổ tử cung của lợn dài và tròn, không
gấp nếp hoa nở mà là những cột thịt dài xen kẽ cài răng lược với nhau do đó dễ
dàng cho việc thụ tinh nhân tạo đồng thời cũng dễ gây sảy thai (Đặng Quang Nam,
Phạm Đức Chương, 2002)[15].
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002)[6], thì cổ tử cung lợn dài 10 - 18 cm.
Thân tử cung: thân tử cung lợn ngắn, độ dài khoảng 3 - 5 cm nối giữa sừng
tử cung và cổ tử cung. Niêm mạc thân và sừng tử cung là những nếp gấp nhăn nheo
theo chiều dọc.
Sừng tử cung: sừng tử cung của lợn ngoằn ngoèo như ruột non dài 0,5 - 1 m.
Ở lợn thai làm tổ đều hai sừng tử cung.
* Ống dẫn trứng
Ống dẫn trứng (vòi fallop) nằm ở màng treo buồng trứng. Chức năng của ống
dẫn trứng là vận chuyển trứng và tinh trùng theo chiều ngược nhau. Cấu tạo ống dẫn
trứng cũng phù hợp với chức năng này, một đầu ống dẫn trứng thông với xoang
bụng, gần sát buồng trứng có loa kèn là một màng mỏng tạo thành một tán rộng lô
nhô không đều ôm lấy trứng. Trứng được vận chuyển qua lớp nhầy đi đến lòng ống
dẫn trứng, nơi xảy ra quá trình thụ tinh và phân chia của phôi. Thời gian tế bào
trứng di chuyển trong ống dẫn trứng từ 3 - 10 ngày. Trên đường di hành, tế bào
trứng có thể ở lại các đoạn khác nhau do những chỗ hẹp của ống dẫn trứng.
Có thể chia ống dẫn trứng thành bốn đoạn chức năng: đoạn tua điểm, đoạn
phễu, phồng của ống dẫn trứng và đoạn co của ống dẫn trứng.
* Buồng trứng
5
Buồng trứng lợn dài 1,5 - 2,5 cm, khối lượng khoảng 3 – 5 g (Đặng Quang
Nam, Phạm Đức Chương, 2002)[15].
Cấu tạo: phía ngoài được bao bọc bởi một lớp màng bằng tổ chức liên kết
sợi, bên trong buồng trứng chia làm hai miền. Miền vỏ và miền tủy đều được cấu
tạo bằng tổ chức liên kết sợi xốp và tạo cho buồng trứng một lớp đệm
(Stromaovaris). Ở miền tủy có tác dụng về sinh dục vì ở đó xảy ra quá trình trứng
chín và rụng trứng. Trên buồng trứng của một lợn cái 10 ngày tuổi đã có khoảng
60.000 trứng non. Theo thời gian, buồng trứng này phát triển qua các giai đoạn khác
nhau. Tầng ngoài là những noãn bào sơ cấp phân bố tương đối đều, tầng trong là
những noãn bào thứ cấp đang sinh trưởng, khi noãn bào chín sẽ nổi lên bề mặt
buồng trứng.
Noãn bào sơ cấp có trứng ở giữa, xung quanh là noãn bào, noãn bào lúc đầu
có hình dẹt sau có hình trụ. Noãn bào thứ cấp do noãn bào tăng sinh và hình thành
xoang noãn bào ép trứng về một phía, khi noãn bào chín là quá trình sinh trưởng đã
hình thành. Noãn bào nổi lên trên bề mặt buồng trứng, đến một giai đoạn nhất định
sẽ vỡ ra, tế bào trứng theo dịch noãn bào vào loa kèn rồi đi vào ống trứng, nơi noãn
bào vỡ sẽ hình thành thể vàng.
Thể vàng tiết ra progesteron, khối lượng thể vàng và hàm lượng progesteron
tăng nhanh từ ngày thứ 8 và tương đối ổn định cho đến ngày thứ 15, sự thoái hóa
thể vàng bắt đầu từ ngày thứ 17 - 18 và sẽ chuyển thành thể bạch nếu trứng không
được thụ tinh.
2.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục lợn cái
* Sự thành thục về tính
Thành thục về tính là tuổi con vật có phản xạ sinh dục và có khả năng sinh
sản. So với thành thục thể vóc, sự hình thành về tính ở gia súc nói chung và lợn nói
riêng thường sớm hơn, nên người ta thường bỏ qua chu kỳ động dục đầu tiên, mà
phối cho lợn ở chu kỳ sau, khi đó lợn đã phát triển toàn diện về thể vóc và sẵn sàng
đảm nhiệm vai trò làm mẹ.
6
Sự thành thục về tính được nhận biết bằng sự biến đổi bộ phận ngoài của cơ
quan sinh dục và sự biến đổi của thần kinh. Đầu tiên hai mép âm môn sưng đỏ và có
dịch chảy ra, sau chuyển sang đỏ thẫm và keo dính. Tương ứng là sự biến đổi về
thần kinh lúc đầu hưng phấn sau chuyển sang giai đoạn mê ì. Cùng với sự biểu hiện
sinh dục bên ngoài, ở bên trong buồng trứng cũng có sự biến đổi, các noãn bào nổi
trên bề mặt trứng và chín, niêm mạc tử cung tăng sinh, cổ tử cung mở dần kèm theo
tiết dịch.
* Chu kỳ tính
Khi gia súc thành thục về tính, những biểu hiện tính dục được biểu hiện ra
liên tục có tính chu kỳ, nó chấm dứt hoàn toàn khi cơ thể già yếu.
Đây là một quá trình sinh lý phức tạp, sau khi cơ thể phát triển hoàn toàn, cơ
quan sinh dục không có bào thai và không có hiện tượng bệnh lý thì bên trong
buồng trứng các noãn bào phát triển, chín và nổi cộm lên bề mặt buồng trứng. Khi
noãn bào vỡ, trứng rụng gọi là sự rụng trứng, mỗi lần rụng trứng con vật có những
biểu hiện tính dục ra bên ngoài gọi là động dục. Do trứng rụng có tính chu kỳ nên
động dục cũng mang tính chu kỳ.
Sở dĩ trứng rụng có tính chu kì: dưới sự điều khiển của thần kinh trung ương,
tuyến yên tiết ra FSH tác động lên buồng trứng làm các noãn bao phát triển, trong
khi đó LH làm trứng chín, khi đạt đến tỷ lệ LH/ FSH là 3 : 1 thì khi đó rụng trứng,
hình thành thể vàng. Thể vàng tồn tại cho đến khi gần đẻ nếu gia súc được thụ thai,
nó chỉ tồn tại từ 3 - 15 ngày nếu trứng không được thụ tinh, sau đó nó teo đi dưới
tác dụng của PGF2α làm co mạch máu ngoại vi nuôi thể vàng, lúc này thể vàng rơi
vào tình trạng không được cung cấp chất dinh dưỡng và bị tiêu hủy trong vòng 24
giờ, kết quả làm hàm lượng progesteron giảm, lúc này FSH và LH được giải phóng
làm trứng phát triển và chín, xuất hiện chu kỳ động dục tiếp theo.
Một chu kỳ động dục được tính từ lần thải trứng trước đến lần thải trứng sau.
Các loài gia súc khác nhau thì thời gian hình thành chu kỳ là khác nhau. Ở lợn thời
gian hình thành một chu kỳ trung bình là 21 ngày biến động trong phạm vi từ 18 25 ngày. Khi tiến hành phối giống lợn có chửa thì lợn không động dục lại. Thời
gian có chửa của lợn là 114 ngày, thời gian động dục trở lại là 7 ngày sau cai sữa,
dao động từ 5 - 12 ngày.
7
* Khoảng cách giữa các lứa đẻ
Khoảng cách giữa các lứa đẻ là chỉ tiêu quan trọng đánh giá khả năng sinh
sản của gia súc cái. Đây là tính trạng bao gồm nhiều tính trạng tạo nên bao gồm thời
gian có chửa, thời gian nuôi con, thời gian cai sữa đến thụ thai lứa sau, do vậy
khoảng cách lứa đẻ ảnh hưởng đến số con cai sữa/ nái/ năm. Nhiều công trình
nghiên cứu cho thấy thời gian mang thai của lợn nái dao động không đáng kể, từ
113 - 115 ngày, đây là yếu tố ít biến đổi.
Để rút ngắn khoảng cách các lứa đẻ ta chỉ có thể tác động rút ngắn thời gian
bú sữa của lợn con bằng cách cai sữa sớm ở lợn con. Nhiều công trình nghiên cứu
cho thấy rằng: để rút ngắn thời gian sau đẻ đến phối giống lại có kết quả cao thì
phải chăm sóc nuôi dưỡng tốt và đặc biệt phải cai sữa sớm cho lợn con, điều đó
tăng số con cai sữa/ nái/ năm. Để rút ngắn thời gian cai sữa, phải tập cho lợn con ăn
sớm từ 7 ngày tuổi đến khi lợn con có thể sống bằng thức ăn được cung cấp, không
cần sữa mẹ.
Hiện nay các cơ sở chăn nuôi tập trung, thời gian cai sữa ở lợn con là 21 ngày,
sau cai sữa 5 - 6 ngày lợn mẹ được phối giống lại. Như vậy khoảng cách các lứa đẻ
trung bình là 140 ngày, một năm nái có thể sản xuất được 2,5 lứa.
* Sinh lý quá trình mang thai và đẻ
a. Sinh lý mang thai
Có thai là một hiện tượng sinh lý đặc biệt của cơ thể cái, nó bắt đầu từ khi
trứng được thụ tinh đến khi đẻ xong. Trong thực tế, sự có thai của gia súc được tính
ngay từ ngày phối giống lần cuối. Thời gian có thai phụ thuộc vào điều kiện và các
yếu tố khác nhau. Nó dài hay ngắn tùy theo loài, giống gia súc, tuổi gia súc mẹ, lứa
sinh sản, trạng thái dinh dưỡng, sức khỏe . . .
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002)[6], ở lợn thời gian mang thai xê dịch
trung bình là 110 – 118 ngày, thời gian có thai trung bình là 114 ngày
+ Quá trình phát triển của phôi thai
Quá trình phát triển của bào thai có thể chia làm ba thời kỳ:
- Thời kỳ thứ nhất – thời kỳ trứng: Thời kỳ này bắt đầu từ khi tế bào trứng
được thụ tinh đến khi hình thành nang phôi – túi phôi.
8
- Thời kỳ thứ hai – Thời kỳ phôi thai: Là thời kỳ hình thành nhau thai,
hình thành các tế bào và các cơ quan hệ thống của cơ thể. Ở gia súc lớn từ ngày
thứ 11 – 40.
- Thời kỳ thứ ba – Thời kỳ bào thai: Là thời kỳ cuối phôi thai cho đến khi
sinh đẻ. Là giai đoạn phân hóa những kết cấu cực tiểu của tế bào và cơ quan, là thời
kỳ bào thai phát triển nhanh.
+ Sự điều hòa thần kinh – thể dịch ở thời kỳ mang thai
Điều hòa sự phát triển của bào thai đảm bảo sự thống nhất của các hoạt động
chức năng giữa cơ thể mẹ và bào thai là một quá trình phức tạp do sự điều tiết thần
kinh – thể dịch.
Điều tiết thần kinh: Bắt đầu từ lúc thụ thai thì trong vỏ não xuất hiện vùng
hưng phấn trội để tiếp nhận những biến đổi hóa học và cơ học từ các điểm thụ cảm
ở tử cung, do đó đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sự phát triển của phôi
thai như: Niêm mạc tử cung phát triển, mạch máu đến nhiều, tiết dịch tăng. Hưng
phấn tăng cường mạnh nhất ở tháng thứ hai, là một trong các yếu tố dễ gây sảy thai
ở thời điểm này.
Điều tiết thể dịch: Có sự tham gia tích cực của hệ nội tiết. Progesteron là
hormone an thai, duy trì quá trình mang thai, được sản sinh ở thể vàng và nhau thai.
Ở lợn progesteron chủ yếu do thể vàng cung cấp, vai trò của nhau thai là chủ yếu (
Trần Tiến Dũng, 2004)[7].
+ Những biến đổi sinh lý chủ yếu khi có thai
- Sự biến đổi toàn thân của cơ thể mẹ khi có thai:
Khi gia súc có thai, kích tố của hoàng thể và nhau thai làm thay đổi cơ năng
hoạt động một số tuyến nội tiết khác. Vì vậy hiện tượng ăn uống, trạng thái dinh
dưỡng, quá trình trao đổi chất. . . của con mẹ được nâng cao cho nên thời kỳ đầu
gia súc có thai thường béo hơn khi chưa có thai. Trong thời kỳ có chửa, lợn nái
tăng 15 – 25 kg (không kể các sản phẩm thai, trong đó khoảng 3 – 4 kg là
protein). Nói chung trong thời gian có chửa, lợn mẹ tăng từ 1,2 – 1,3 lần so với
trước khi phối giống.
9
Trần Tiến Dũng và cs (2002)[6], trường hợp thiếu canxi và photpho nghiêm
trọng thì gia súc mẹ bị bại liệt trước khi đẻ, khung xoang chậu bị lệch hay biến
dạng, dẫn đến hiện tượng đẻ khó. Canxi và photpho là 2 nguyên tố không thể thiếu
được với gia súc có thai. Nhu cầu canxi là 0,6%, photpho là 0,5% so với khối lượng
vật chất khô khẩu phần.
Bào thai ngày càng phát triển, áp lực xoang chậu và xoang bụng thay đổi nên
ảnh hưởng đến sự hoạt động của hệ tuần hoàn và hô hấp. Nhu cầu cung cấp ôxy của
bào thai dần nâng cao ở thời gian có thai kỳ cuối nên tần số hô hấp của mẹ tăng lên
và có khi có biểu hiện trạng thái thở dốc. Dưới tác dụng chèn ép cơ học của bào thai
kỳ cuối làm thay đổi tuần hoàn vùng xoang chậu nên gây hiện tượng phù thũng hai
chân sau. Mặt khác số lần đại tiểu tiện của gia súc mẹ tăng lên nhưng số lượng mỗi
lần ít.
- Sự thay đổi ở cơ quan sinh dục
Buồng trứng: Khi gia súc có thai, hai buồng trứng to nhỏ không đều nhau.
Buồng trứng phía sừng tử cung có thai thường lớn hơn buồng trứng bên kia. Trên
mặt ngoài buồng trứng xuất hiện thể vàng.
Tử cung: Khi gia súc có thai, toàn bộ tử cung xuất hiện những thay đổi về
cấu tạo, tính chất, vị trí, khối lượng, thể tích . . . dây chằng tử cung dài ra nên đầu
mút sừng tử cung và buồng trứng được đưa về phía trước và phía dưới, xa vị trí cũ.
Các tuyến tử cung cũng được phát triển mạnh và tăng cường tiết niêm dịch. Niêm
mạc tử cung hình thành nhau mẹ.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002)[6], ở lợn mức độ phát triển và tăng sinh
của tử cung phụ thuộc vào số lượng bào thai và thường là phát triển ở cả hai sừng.
Cuối thời kỳ có thai, khối lượng tử cung ( không kể thai ) nặng tới 2,5 – 6 kg, còn tử
cung bình thường không có thai nặng 0,2 – 0,5 kg.
- Những thay đổi hormone sinh dục
Bào thai được phát triển bình thường dưới tác dụng điều hòa của các hocmon
buồng trứng, nhau thai và tuyến yên.
10
Nửa thời kỳ đầu có thai: Nhau thai được hình thành và phát triển, tiết ra
Prolan B chất này có tính giống như LH của thùy trước tuyến yên. Nó kích thích thể
vàng phát triển tăng tiết Progesteron, làm cho niêm mạc tử cung phát triển và dày
thêm. Nhau thai ngoài việc tiết Prolan B, còn tiết ra Progesteron và Folliculin.
Nửa kỳ sau có thai: Hàm lượng Progesteron giảm dần trong máu. Ngược lại
Folliculin tăng dần đến mức tối đa.
Cuối thời kỳ có thai: Progesteron giảm rất thấp trong máu. Progesteron có tác
dụng ức chế tử cung co bóp và Folliculin kích thích co thắt tử cung, thuận lợi cho
quá trình sinh đẻ. Trong thời kỳ có thai, nhau thai đã dần thay thế chức năng nội tiết
của thùy trước tuyến yên, tiết ra Prolan A và Prolan B. Mặt khác, nó còn thay thế
buồng trứng tiết ra Progesteron trong nửa kỳ đầu và Folliculin được tiết liên tục về
sau càng nhiều.
b. Sinh lý quá trình đẻ
Gia súc cái mang thai trong một thời gian nhất định, khi bào thai đã phát
triển đầy đủ, gia súc mẹ đẩy thai ra ngoài cùng với màng nhau, dịch thai. Quá trình
đó gọi là đẻ. Thời gian đẻ của gia súc được tính từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn đến
khi thai ra khỏi cơ thể mẹ và số lượng bào thai ra hết ở những loài gia súc đa thai.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002)[6], ở lợn thời gian đẻ là từ 2 – 6 giờ.
+ Những biểu hiện của cơ thể mẹ trong thời gian gần sinh đẻ
Quá trình sinh đẻ của gia súc là quá trình sinh lý bình thường. Cho nên cuối
thời kỳ mang thai gia súc có những biểu hiện của quá trình sinh đẻ, chủ yếu là
đường sinh dục và bầu vú.
- Triệu chứng ở thời kỳ sắp đẻ
Trước thời gian đẻ 1 – 2 tuần, chất niêm dịch ở cổ tử cung, đường sinh dục
lỏng, sánh, dính và chảy ra ngoài. Còn 1 – 2 ngày trước khi gia súc đẻ thì cơ quan
sinh dục bên ngoài có những thay đổi: âm môn to phù, nhão ra và xung huyết nhẹ ,
đầu núm vú to, bầu vú căng to, tĩnh mạch vú nổi rõ. Nhiệt độ cơ thể thay đổi, trước
đẻ thì nhiệt độ tăng lên cao hơn bình thường. Bên ngoài gia súc cái có hiện tượng
sụt mông.
11
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002)[6], lợn trước khi đẻ 10 – 15 ngày bầu vú
căng. Giữa bầu vú và thành bụng đã phân chia ranh giới rõ ràng.
- Triệu chứng rặn đẻ
Khi đẻ gia súc mẹ phải dùng sức đẩy thai cùng với các khí quan trọng trong
đường sinh dục để đưa thai ra ngoài. Sức rặn căn bản là do sự co bóp của tử cung,
sự co bóp này bắt đầu từ sừng tử cung đến thân tử cung, đến cổ tử cung, kết quả làm
mở rộng cổ tử cung. Nhưng phải nhờ vào sự co bóp của cơ ở bụng, hoành cách mô
và toàn thân để đẩy thai ra ngoài.
+ Quá trình sinh đẻ
Quá trình sinh đẻ được chia làm 3 thời kỳ:
- Thời kỳ mở cổ tử cung
Thời kỳ này bắt đầu từ khi tử cung có cơn co bóp đầu tiên đến khi cổ tử cung
mở hoàn toàn. Tùy từng giống mà biểu hiện bên ngoài không giống nhau. Ở lợn
thường hay đứng nằm không yên, đi đi lại lại trong chuồng và có triệu chứng cắn ổ.
Con vật xuất hiện cơn rặn đầu tiên trong kỳ 1 nhưng nói chung cơn rặn này
yếu về cường độ, thời gian cơn rặn ngắn, thời gian nghỉ giữa hai cơn rặn lại dài từ
10 – 15 phút, mỗi cơn rặn thường từ 2 – 3 phút. Nếu con mẹ rặn liên tục thì mạch
máu của bào thai chèn ép, tuần hoàn đình trệ, dưỡng khí cung cấp cho thai yếu, thai
ra chậm có thể bị ngạt.
Cường độ co bóp chuyển từ sừng tử cung xuống thân tử cung, đến cổ tử cung
ra ngoài âm đạo. Nước ở trong tử cung và màng thai dồn ép ra ngoài, cổ tử cung lúc
này đã mở, màng thai một phần đã lọt ra ngoài. Cùng với sức co bóp của tử cung
tăng lên, màng thai tiếp tục chui ra, ép vào cổ tử cung làm cho cổ tử cung càng mở
rộng. Khi cổ tử cung đã mở rộng thì một phần của thai chui ra, lúc này giữa cổ tử
cung và âm đạo không còn ranh giới nữa. Cùng lúc thai ra ngoài có hiện tượng vỡ
ối, màng ối và màng niệu vỡ ra. Thứ tự màng niệu vỡ trước, màng ối vỡ sau, nước
ối và nước niệu đều ra cùng với màng ối, màng niệu cũng góp phần cho cổ tử cung
mở rộng hoàn toàn đồng thời làm trơn đường sinh dục, cho thai đi ra ngoài dễ dàng.
12
- Thời kỳ đẻ hay còn gọi là sổ thai
Thời kỳ này bắt đầu từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn và kết thúc khi thai lọt
ra ngoài. Ở thời kỳ này thai qua cổ tử cung và đi vào âm đạo. Nếu đẻ bình thường,
bộ phận ra trước nhất là chân và đầu. Lúc này gia súc cái bồn chồn, đứng nằm
không yên, có con chân sau đá vào bụng, lưng cong lên mà rặn.
Khi đầu của thai đã đi vào hố chậu, gia súc cái lại nằm xuống. Đặc điểm là
sức co bóp của tử cung trong thời kỳ này mạnh vì thân của thai tiếp xúc niêm mạc
âm đạo, gây ra một ma sát lớn. Trong lúc này gia súc thường kêu do bị đau vì dịch
ối, dịch niệu chảy ra hết, thân thai tiếp giáp vào niêm mạc âm đạo.
Trần Tiến Dũng và cs (2002)[6], lợn rặn đẻ khác với gia súc khác, tử cung co bóp
đẩy thai theo chiều dọc và co bóp theo từng đoạn. Sự co bóp bắt đầu từ gốc sừng tử cung,
lan đến đầu nhọn của sừng tử cung. Hai sừng tử cung thay nhau co bóp. Trong cơn rặn
đẻ lợn thường nằm nghiêng, cũng có khi đứng lên nhưng lại nằm xuống ngay, màng thai
của lợn không lòi ra ngoài âm hộ, nước ối ít, thai lợn ra từng con một, sau mỗi lần rặn
thường thai lợn ra dễ dàng.
- Thời kỳ sổ nhau ( hay gọi là bong nhau )
Sau khi thai lọt ra khỏi đường sinh dục của gia súc mẹ một thời gian, con mẹ
trở nên yên tĩnh, nhưng tử cung vẫn co bóp và tiếp tục những cơn rặn, mỗi lần co
bóp từ 1,2 – 2 phút, thời gian giữa hai lần co bóp là 2 phút, nhưng cường độ lúc này
yếu hơn.
Sau khi sổ thai khoảng 2 – 3 giờ thì tử cung nhỏ lại, thành tử cung dày, trên
bề mặt có nhiều nếp nhăn, bên trong tử cung có nhiều núm nhau. Cơn rặn lúc này
của gia súc cái chủ yếu là đưa nhau thai ra ngoài.
Trong thời gian này tuần hoàn của núm nhau mẹ và nhau con đã giảm nên
thai có thể tách ra được. Các nhung mao teo lại, tách núm nhau mẹ ra khỏi nhau
thai. Trong thời gian này tử cung tiếp tục co bóp và thu nhỏ lại dần thể tích, nhưng
màng niệu và màng nhung mao thì không co lại được nên tử cung đẩy ra ngoài.
Trong quá trình đẩy màng nhau thai ra ngoài, do đặc tính của tử cung co bóp
từ mút sừng tử cung tới thân tử cung, nên màng nhau thai bong ra sẽ được lộn trái,
phần ở mút sừng tử cung ra trước, sau đó bong dần xuống sừng tử cung, thân tử
cung và ra ngoài.
13
Thời gian bong nhau thai của các gia súc khác nhau do đặc điểm cấu tạo của
núm nhau con và núm nhau mẹ trên niêm mạc tử cung.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002)[6], lợn sau khi thai ra hết toàn bộ, khoảng 10
– 50 phút nhau thai mới ra. Nhau thai của lợn ra chia thành hai đống, mỗi đống gồm
nhau thai của tất cả các thai chứa trong một sừng tử cung.
Trong sừng tử cung lợn có ít thai thì nhau thai không dính lại như vậy, mà ra
từng cái một, thai sau có thể đẩy nhau thai của thai trước ra. Nếu trong sừng tử cung
lợn có xen kẽ nhiều thai bình thường và thai bị chết khô thì nhau thai cũng ra thành
nhiều đống. Thường những thai chết khô trong sừng tử cung sẽ ra cùng với nhau thai.
2.1.3. Những hiểu biết về bệnh viêm tử cung ở lợn nái
2.1.3.1. Nguyên nhân gây bệnh viêm tử cung
Lợn nái sinh sản đều mang khuẩn trong âm đạo nhưng không gây bệnh,
chỉ khi cổ tử cung mở, chất tiết dịch tụ lại tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triể n.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002)[6], viêm tử cung là một quá trình bệnh lý
thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ
chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh
hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.
Theo các tác giả Đào Trọng Đạt và cs (1995)[9], bệnh viêm tử cung ở lợn nái
thường do các nguyên nhân sau:
- Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương
pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được
vô trùng khi phối giống có thể đưa vi khuẩn từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm.
- Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc
mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền
sang cho lợn khoẻ.
- Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử
cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát.
- Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung.
14
- Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: sẩy thai truyền nhiễm, phó
thương hàn, bệnh lao,… gây viêm.
- Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ
không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm
nhập vào gây viêm.
Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004)[13], trong quá trình
có thai, lợn nái ăn uống nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị nhiễm một
số bệnh truyền nhiễm như: bệnh xoắn khuẩn, sảy thai truyền nhiễm và một số
bệnh nhiễm khuẩn khác làm cho cơ thể lợn nái yếu dẫn đến sảy thai, thai chết
lưu và viêm tử cung.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân sau:
* Thiếu sót về dinh dưỡng và quản lý
Khẩu phần ăn thừa hay thiếu protein trước, trong thời kỳ mang thai có ảnh
hưởng đến viêm tử cung.
Nái mẹ sử dụng quá nhiều tinh bột, gây khó đẻ, gây viêm tử cung do xây xát.
Ngược lại thiếu chất dinh dưỡng nái mẹ sẽ bị ốm yếu, sức đề kháng giảm
không chống lại mầm bệnh xâm nhập gây viêm tử cung.
Khoáng chất, vitamin ảnh hưởng đến viêm tử cung. Thiếu vitamin A gây
sưng niêm mạc, sót nhau.
* Chăm sóc quản lý vệ sinh
Vệ sinh chuồng trại kém, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước khi đẻ
không tốt, khu vực chuồng trại có mầm bệnh. Do quá trình can thiệp khi lợn đẻ, thủ
thuật đỡ đẻ, thao tác và dụng cụ không đúng kỹ thuật làm tổn thương niêm mạc. Do
tinh dịch bị nhiễm khuẩn và dụng cụ thụ tinh không vô trùng đã đưa vi khuẩn gây
viêm nhiễm vào bộ phận sinh dục của lợn cái. Do lợn đực bị viêm niệu quản và
dương vật khi nhảy trực tiếp sẽ truyền sang lợn cái.
Chăm sóc, quản lý, vệ sinh là khâu rất quan trọng. Vệ sinh trang trại, cơ sở
chăn nuôi, vệ sinh cơ thể lợn nái đồng thời quản lý tốt,… sẽ làm giảm tỷ lệ viêm.
15
* Tiểu khí hậu chuồng nuôi
Thời tiết khí hậu quá nóng hoặc quá lạnh trong thời gian đẻ dễ làm cho lợn
nái bị viêm tử cung. Vì vậy chúng ta phải tạo tiểu khí hậu phù hợp đối với lợn nái
khi sinh để làm hạn chế viêm tử cung.
* Tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe
Nái đẻ những lứa đầu và nái đẻ nhiều lứa thường hay ít bị viêm tử cung hơn.
Nái già do sức khỏe kém, hay kế phát một số bệnh, sức rặn đẻ yếu, thời gian đẻ kéo
dài, đẻ khó dễ dẫn đến viêm tử cung.
* Đường xâm nhiễm của mầm bệnh
Mầm bệnh có mặt trong ruột, truyền qua niêm mạc đi vào máu, xâm nhập
vào tử cung, nguyên nhân chính của sự xâm nhập này là do nhu động của ruột kém.
Xâm nhập có thể từ ngoài vào do vi khuẩn hiện diện trong phân, nước tiểu.
Bệnh nhiễm trùng mãn tính của thận, bàng quang và đường niệu đạo cũng là
nguyên nhân gây bệnh.
Hầu hết các trường hợp viêm tử cung đều có sự hiện diện của vi sinh vật
thường xuyên có mặt trong chuồng lợn. Lợi dụng lúc sinh sản, tử cung, âm đạo tổn
thương chứa nhiều sản dịch, vi trùng xâm nhập gây viêm tử cung.
2.1.3.2. Quá trình viêm tử cung
Viêm là phản ứng toàn thân chống lại các tác nhân gây bệnh, thường biểu
hiện ở cục bộ, quá trình viêm xảy ra nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn có
những biểu hiện khác nhau. Tại ổ viêm thường xảy ra các biểu hiện sưng, nóng, đỏ,
đau. Xét trên mặt tích cực, viêm là phản ứng nhằm ổn định các hằng số nội môi
trong cơ thể, giúp cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh.
Sau khi quan sát hiện tượng di động và nuốt các dị vật của bạch cầu đa nhân
trung tính cho rằng, trung tâm của phản ứng viêm là sự hoạt động của những tế bào
thoát mạch và chống lại các vật kích thích viêm gọi là hiện tượng thực bào
(phagocytosis). Viêm gây tổn thương các mạch quản, tổ chức liên kết và hệ thần
kinh đối với tính phản ứng của cơ thể.
16
Theo Vũ Triệu An và cs (1990)[1], thì viêm là một phản ứng của cơ thể mà
nền tảng của nó là phản ứng của tế bào. Phản ứng này hình thành và phát triển trong
quá trình tiến hóa của sinh vật.
Ngày nay người ta cho rằng viêm là phản ứng toàn thân chống lại mọi kích
thích có hại cho cơ thể, thể hiện ở cục bộ mô bào (Nguyễn Hữu Nam, 2005)[16].
* Hậu quả của phản ứng tuần hoàn và tế bào trong viêm
Phản ứng tuần hoàn và phản ứng tế bào trong viêm đã gây ra các rối loạn chủ
yếu sau:
+ Rối loạn chuyển hóa
Tại ổ viêm quá trình ôxy hóa tăng mạnh, nhu cầu ôxy tăng nhưng vì có rối
loạn tuần hoàn nên khả năng cung cấp ôxy không đủ, gây rối loạn chuyển hóa
gluxit, lipit và protein làm thay đổi pH, gây tăng độ axit, xeton, lipit, polypeptit, và
các axit amin tại ổ viêm.
+ Tổn thương ở mô bào
Các tế bào bị thương tại ổ viêm giải phóng các enzym càng làm trầm trọng
thêm quá trình hủy hoại mô bào và phân hủy các chất tại ổ viêm, chúng tạo ra các
chất trung gian có hoạt tính sinh học cao và hạ thấp pH tại ổ viêm.
+ Dịch rỉ viêm
Dịch rỉ viêm được hình thành do tăng áp lực thủy tĩnh trong các mạch
quản tại ổ viêm, tăng áp lực thẩm thấu, tăng tính thấm thành mạch là các yếu tố
quan trọng nhất và các protein bị thoát ra ngoài làm tăng lượng nước ngoại vi
gây phù thũng.
+ Tăng sinh ở mô bào
Là hiện tượng tăng lên về số lượng, các tế bào này có thể từ máu tới hoặc
các tế bào tại chỗ sinh sản và phát triển ra. Trong quá trình viêm giai đoạn đầu
chủ yếu tăng sinh bạch cầu đa nhân trung tính. Sự tăng sinh và phát triển của các
loại tế bào phụ thuộc vào mức độ tổn thương của ổ viêm cũng như tình trạng
phản ứng của cơ thể (Phạm Khắc Hiếu, Lê Thị Ngọc Diệp, 1997)[10].
+ Các tế bào viêm
17
Các tế bào tăng sinh trong ổ viêm được gọi chung là các tế bào viêm, bao
gồm bạch cầu đa nhân trung tính, bạch cầu ái toan, bạch cầu ái kiềm, bạch cầu
đơn nhân lớn.
2.1.3.3. Phân loại viêm tử cung
* Viêm cổ tử cung (Cervitis)
Cổ tử cung lợn có những u thịt xen kẽ khép lại với nhau theo lối cài răng
lược (Phạm Xuân Vân, 1982)[28].
Trần Tiến Dũng và cs (2002)[6], cổ tử cung lợn dài 10 - 18 cm, tròn,
không có nếp gấp nên dễ thụ tinh nhân tạo hơn trâu bò.
Cổ tử cung luôn đóng, chỉ hé mở khi động dục và mở hoàn toàn khi sinh đẻ.
Bệnh viêm cổ tử cung ở gia súc thường là hậu quả của những sai sót về kỹ
thuật thụ tinh nhân tạo, do thao tác đỡ đẻ nhất là các trường hợp đẻ khó phải can
thiệp bằng tay hay dụng cụ không đúng làm niêm mạc cổ tử cung bị xây sát.
Ngoài ra, viêm cổ tử cung còn do kế phát từ viêm âm đạo, viêm tử cung (Trần
Tiến Dũng và cs, 2002)[6].
Hậu quả của viêm cổ tử cung làm cổ tử cung bị tắc, khi gia súc động dục
niêm dịch không thoát ra ngoài được. Khi ta dùng mỏ vịt và đèn soi khám qua
âm đạo thấy cổ tử cung mở đường kính từ 1 - 2 cm thấy niêm mạc xung huyết
hoặc phù rõ, cá biệt có vết loét dính mủ (Nguyễn Văn Thanh, 2007)[22].
* Viêm tử cung
Tử cung là bộ phận quan trọng của cơ quan sinh dục, nơi thai làm tổ được
đảm bảo mọi điều kiện để thai phát triển. Mọi quá trình bệnh lý ở tử cung đều ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản (Nguyễn Văn Thanh, 2007)[22].
Chính vì vậy, bệnh viêm tử cung đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Theo
Trần Tiến Dũng và cs (2002)[6], thì viêm tử cung chia làm 3 thể: viêm nội mạc tử
cung, viêm cơ tử cung và viêm tương mạc tử cung.
a. Viêm nội mạc tử cung (Endomestritis)
Theo Madec F và Neva C (1995)[30], viêm nội mạc tử cung là viêm lớp
niêm mạc tử cung. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm suy giảm khả
năng sinh sản của gia súc cái.Viêm nội mạc tử cung phổ biến và chiếm tỷ lệ cao
nhất trong các thể viêm tử cung.