Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Thái độ và hành vi tái sinh sản của người dân hà nội (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.82 KB, 28 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
OÀN KIM THẮ
ĐOÀN KIM THẮNG

THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI TÁI SINH SẢN
CỦA NGƢỜI DÂN HÀ NỘI
CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC
MÃ SỐ: 62 31 03 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. NGUYỄN HỮU MINH

HÀ NỘI - 2016


PGS.TS
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

VIỆN NGÔN NGỮ HỘC VIỆN KHOA HỌC XÁC HỘI V
IỆT NAM
Người hướng dẫn Khoa học: GS.TS Nguyễn Hữu Minh

Phản biện 1: GS.TS Trịnh Duy Luân
Phản biện 2: GS.TS Hoàng Bá Thịnh
Phản biện 3: TS. Phạm Tất Thắng



Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp
tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi .... giờ ... ngày .... tháng ..... năm 201...

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đoàn Kim Thắng, 2015. Vị thành niên và thanh niên Hà Nội: Về sức
khỏe sinh sản tiền hôn nhân. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. Số 9
(94) 2015.
2. Đoàn Kim Thắng, 2014. Nhận thức, thực hành khám sàng lọc trước
sinh và sàng lọc sơ sinh của phụ nữ có chồng độ tuổi sinh đẻ ở nông
thôn Hà Nội. Tạp chí Xã hội học số 3(127) năm 2014.
3. Đoàn Kim Thắng, 2012. Viêm nhiễm đường sinh sản phụ trong độ
tuổi sinh đẻ ở phía Tây Hà Nội: Thực trạng và giải pháp. Tạp chí
nghiên cứu Gia đình và Giới, số 4 năm 2012.

4. Đoàn Kim Thắng, 2012. Tình hình sử dụng thuốc tiêm tránh thai của
phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở Hà Nội: Thực trạng và giải pháp. Tạp
chí Xã hội học, số 3(119

năm 2012.

5. Đoàn Kim Thắng, 2011.Thực trạng và hiệu quả sử dụng Dụng cụ tử

cung trong KHHGĐ: Nghiên cứu tại các quận, huyện phía Tây Hà
Nội. Tạp chí nghiên cứu Gia đình và Giới, số 2 năm 2011.
6. Đoàn Kim Thắng, 2009. Hiểu biết về chăm sóc sức khỏe phụ nữ
quanh tuổi mãn kinh: Nghiên cứu trường hợp Hà Nội. Tạp chí nghiên
cứu Gia đình và Giới, số 5 năm 2009.



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang ở giai đoạn hạ thấp nhanh chóng mức sinh, với tổng tỷ
suất sinh năm 1989 là 2,33 con đã giảm xuống 2,05 con mỗi phụ nữ trong
vòng hơn 20 năm qua (1989 - 2012). Sự hạ thấp này chủ yếu là kết quả của
việc chính phủ Việt Nam đã dành ưu tiên cao cho công cuộc giảm mức sinh
và hãm đà gia tăng dân số kể từ khi đất nước hoàn toàn thống nhất vào năm
1975. Tỷ suất sinh thô đạt 16,9 trẻ sinh ra sống trên 1000 người dân. Tỷ số
giới tính của trẻ em là 112,3 bé trai/100 bé gái, tăng so với mức 111,9 bé
trai/100 bé gái của năm 2011. Tỷ suất chết thô năm 2012 là 7‰; tỷ suất chết
của trẻ em dưới 1 tuổi là 15,8‰; tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi là 23,8‰.
Mặc dù có những tiến bộ trong việc hạ thấp mức sinh, nhưng mức độ gia tăng
dân số vẫn còn nhanh. Dân số trung bình cả nước năm 2012 ước tính 88,78
triệu người, tăng 1,06% so với năm 2011 (TCTK,2011)
Mặc dù có những tiến bộ trong việc hạ thấp mức sinh, nhưng mức độ gia
tăng dân số vẫn còn nhanh, và người ta lo ngại về những hậu quả bất lợi có
thể xảy ra cho nền kinh tế Việt Nam. Theo cuộc điều tra dân số năm 1989,
Việt Nam có tỷ suất sinh thô là 30‰, tỷ suất tử là 8 ‰ và do đó tỷ lệ tăng
trưởng tự nhiên là 2,2%. Năm 2012, tỷ lệ sinh thô là 16,9 ‰ và tỷ suất tử là
7,0‰. Theo tỷ lệ này, số dân nước ta năm 2012 là hơn 88 triệu người.
Năm 2013 dân số Việt Nam đạt 90 triệu người là mốc đánh giá nước ta
đã thực hiện vượt mức chỉ tiêu về chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản giai

đoạn 2011 - 2020. Qui mô dân số không vượt qua 93 triệu người vào năm
2015 và 98 triệu người vào năm 2020.
Việt Nam đã bước vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” từ năm 2007 (2
người trong độ tuổi lao động “cõng” 1 người phụ thuộc chưa đến tuổi lao
động hoặc hết tuổi lao động). Theo dự báo giai đoạn “dân số vàng” ở nước ta
sẽ kết thúc vào năm 2041. Với đặc điểm này, độ tuổi lao động ở Việt Nam
tăng từ 61% đến 70%, cả nước có gần 50 triệu lao động chiếm khoảng trên
51% dân số. Việt Nam cần nắm bắt thời cơ này, một trong những việc cần làm
là đào tạo nghề có chất lượng cao để tạo sức cạnh tranh trên thị trường lao
động trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi động. Đây cũng
chính là lợi thế rất lớn về lực lượng lao động hiện nay đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Theo dự báo thời cơ thuận lợi này có thể
kéo dài từ 30 - 40 năm. Nhưng bên cạnh của cơ hội tăng dân số thì cũng đặt ra
cho chúng ta nhiều thách thức cần được quan tâm đúng mức. Đó là già hóa
dân số, vấn đề giảm sinh, vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh. Ở Việt Nam
ngay từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 1999 đã cho thấy “tỷ số giới tính
khi sinh của toàn quốc là 107, nhưng ở nhiều nơi tỷ số này lại rất cao. Đối với
Hà Nội, ở cả hai cuộc TĐTDS 1999 và TĐTDS 2009 số liệu đều cho thấy tỷ
số giới tính khi sinh nằm trong biên độ cao dao động từ 107 - 115 trẻ em
trai/100 gái (Nguyễn Đình Cử,2010). Tỷ số giới tính là một chỉ số nhân khẩu
học phản ánh cơ cấu giới tính của một quần thể dân số, trong đó tỷ số giới tính
khi sinh (SRB) thường được các nhà nhân khẩu học quan tâm nhất. SRB được
xác định bằng số trẻ em trai được sinh ra trên 100 trẻ em gái. Tỷ số này thông
1


thường là 103 đến 106/100. Duy trì chỉ số này trong giới hạn trên sẽ đảm bảo
sự cân bằng trong phát triển tự nhiên và xã hội của một quốc gia.
Trong những năm qua, Việt Nam cũng đã có nhiều thay đổi quan trọng
trong chính sách kinh tế của đất nước. Chính sách Đổi mới của chính phủ Việt

Nam đã góp phần tăng nhanh sản xuất nông nghiệp và thúc đẩy trao đổi kinh
tế với các nước khác, hứa hẹn sẽ đưa đến nhiều thay đổi tiếp theo trong tương
lai. Tuy nhiên, một mối lo ngại đang được đặt ra là liệu mức độ kiểm soát của
chính phủ đối với hoạt động kinh tế gia đình có chiều hướng giảm sút, gắn
liền với công cuộc đổi mới có thể vô tình góp phần làm yếu đi khả năng của
nước ta trong việc duy trì và tiếp tục những thành tựu của mình trong lĩnh vực
kế hoạch hóa gia đình nhằm hạ thấp tỷ lệ sinh đẻ.
Mặt khác, những năm gần đây tại khu vực đồng bằng sông Hồng, Hà Nội
đang chịu áp lực gia tăng dân số, nhất là trong khu vực nội thành nhưng chất
lượng lại thấp và không đồng đều giữa nội thành và ngoại thành, đây là những
thách thức đối với công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình của Thủ đô.
Số liệu thống kê cho thấy sau khi mở rộng địa giới hành chính, dân số
Thủ đô đạt trên 7,1 triệu người. Đặc biệt trong vòng 4 năm (2008-2011) dân
số Hà Nội đã tăng khoảng 43 vạn người, trong đó tăng dân số cơ học lên tới 5
vạn người/năm, chủ yếu thuộc các đối tượng trong độ tuổi lao động.
Hiện nay, trên địa bàn thành phố có trên 30 dân tộc cư trú; trình độ dân trí
và mức sống của mỗi dân tộc, mỗi vùng khác nhau. Nhận thức về công tác
dân số - kế hoạch hóa gia đình, mức thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản - kế hoạch hóa gia đình cũng có khoảng cách và khác biệt giữa các
khu vực.
Trên thực tế, tại các huyện ngoại thành, tỷ lệ chênh lệch giới tính khi sinh
và tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên thường rất cao. Theo Niên giám Thống
kê của Cục Thống kê thành phố Hà Nội năm 2013 thì những trọng điểm sinh
con thứ ba cao chủ yếu rơi vào các huyện ngoại thành mới như: Phúc Thọ
(16,11%); Hoài Đức (15,79%); Thạch Thất (15,59%); Quốc Oai (15,15%);
Ứng Hòa (14,17%); Mỹ Đức (13,12%); Phú Xuyên (12, 25%)...Huyện ngoại
thành cũ như Từ Liêm là 3,7%, còn các huyện ngoại thành khác tỷ lệ này dao
động trong khoảng từ 7,18% đến 9,48%. Các đơn vị tỷ lệ chênh lệch giới tính
khi sinh cao cũng thường ở những khu vực này như: Gia Lâm, Ứng Hòa, Mê
Linh…

Nâng cao chất lượng dân số - thu hẹp khoảng cách chênh lệch về chất
lượng dân số là vấn đề được chính quyền và các ban ngành Hà Nội đặc biệt
quan tâm. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu thái độ và hành vi tái sinh sản
của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có một ý nghĩa hết sức quan trọng.
Việc nghiên cứu này nhằm góp phần vào việc lập chính sách, phát triển
các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cho các cộng đồng dân cư, thúc đẩy sự
giảm mức sinh cao đang còn duy trì trong một số nhóm cư dân Hà Nội, để
nhằm ổn định mức sinh thay thế,cũng như nâng cao chất lượng dân số thủ đô.
Đây cũng là một trong những mục tiêu đang được đặc biệt chú trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thủ đô và của cả nước trong giai
đoạn phát triển mới.

2


1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu về Thái độ và hành vi tái sinh sản của người dân
Hà Nội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được các mục đích nghiên cứu đề ra và thực hiện được nhiệm
vụ nghiên cứu của luận án, luận án cần trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
 Các yếu tố nào có ảnh hưởng đến thái độ và hành vi tái sinh sản của
người dân Hà Nội?
 Mong muốn sinh con có quan hệ như thế nào với các yếu tố về nhân
khẩu của người dân (độ tuổi, quy mô gia đình, số con hiện có và số
con trai hiện có…)?
 Liệu thiên vị giới tính con cái có phải là nhân tố tác động dẫn tới duy
trì mức sinh cao trong các gia đình cư dân Hà Nội, đặc biệt là áp lực
đối với người phụ nữ?

 Số con hiện có, ý định sinh thêm con có mối liên quan chặt chẽ như
thế nào đến việc sử dụng biện pháp tránh thai của các cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ?
 Có sự khác biệt hay không giữa khu vực nông thôn và đô thị; giữa
thành phần dân tộc trong thái độ và hành vi sinh đẻ của các nhóm dân
cư?
2.3. Giả thuyết nghiên cứu
Trong phạm vi của luận án này các giả thuyết được đưa ra dựa trên các
câu hỏi nghiên cứu như sau:
Giả thuyết 1:
Các yếu tố về kinh tế - xã hội và văn hóa, đặc biệt là văn hóa truyền
thống có ảnh hưởng đến thái độ và hành vi tái sinh sản của người dân Hà Nội.
Giả thuyết 2:
Mong muốn sinh con có quan hệ với các yếu tố về nhân khẩu của
người dân (độ tuổi, quy mô gia đình, số con hiện có và số con trai hiện có…).
Giả thuyết 3:
Thiên vị giới tính con cái là nhân tố tác động dẫn tới duy trì mức sinh
cao trong các gia đình cư dân Hà Nội, đặc biệt là áp lực đối với người phụ nữ.
Giả thuyết 4:
Số con hiện có, ý định sinh thêm con có mối liên quan đến việc sử
dụng biện pháp tránh thai của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ.
Giả thuyết 5:
Có sự khác biệt giữa khu vực nông thôn và đô thị; giữa thành phần
dân tộc trong thái độ và hành vi sinh đẻ của các nhóm dân cư.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án nhằm tìm hiểu thái độ và hành vi tái
sinh sản của người dân Hà Nội.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể chính của nghiên cứu này là các cặp vợ chồng trong độ tuổi

sinh đẻ ở cả nông thôn và đô thị Hà Nội.

3


3.3. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung của luận án tập trung nghiên cứu chủ yếu về thái độ và hành vi
tái sinh sản của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ ở Hà Nội.
3.4. Thời gian tiến hành nghiên cứu
Toàn bộ số liệu của đề tài nghiên cứu được sử dụng từ nghiên cứu “Nhận
thức và thực hành về gia đình trên địa bàn thành phố Hà Nội” do Viện nghiên
cứu Gia đình và Giới, thuộc Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tiến
hành năm 2010 mà tác giả là người tham gia. Toàn bộ số liệu của cuộc nghiên
cứu này được sự đồng ý cho phép sử dụng của Viện nghiên cứu Gia đình và
Giới. Bên cạnh đó, tác giả tiến hành một nghiên cứu riêng trong năm 2013 và
2014. Các số liệu phỏng vấn khi sử dụng trong luận án đều chưa được công
bố.
3.5. Địa bàn và mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại nội và ngoại thành Hà Nội. Đối với cuộc
điều tra do Viện nghiên cứu Gia đình và Giới tiến hành năm 2010-2011. Cụ
thể, các cuộc khảo sát được tiến hành ở 24 xã/phường thuộc 12 quận/huyện
của 3 khu vực khác nhau (8 phường, 8 xã ven nội thành và 8 xã ngoại thành
xa trung tâm Hà Nội). Gồm các quận/huyện như: quận Ba Đình, Đống Đa,
Hoàng Mai, Cầu Giấy; huyện Từ Liêm, Đông Anh, Mê Linh, Hoài Đức,
Chương Mỹ, Ứng Hòa, Ba Vì và Quốc Oai. Tổng số có 1.219 người được hỏi
trong độ tuổi từ 18 tuổi trở lên, trong đó có 1.100 chưa bao giờ lập gia đình
được chọn ngẫu nhiên để phỏng vấn.
Đối với cuộc điều tra riêng năm 2013-2014 do tác giả tiến hành với số
mẫu phỏng vấn bảng hỏi là là 300 nam nữ có vợ/chồng trong độ tuổi sinh đẻ
(15-49 tuổi) và 30 phỏng vấn sâu, nghiên cứu trường hợp (case study) tại 3 xã

nông thôn và 3 phường đô thị Hà Nội. Các quận, huyện được tiến hành chọn
mẫu khảo sát: Quận Hoàn Kiếm, Tây Hồ, Thanh Xuân, huyện Từ Liêm, Ứng
Hòa, Sóc Sơn đại diện cho khu vực ngoại thành mới được sáp nhập về Hà
Nội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1 Phƣơng pháp thu thập thông tin
Luận án thu thập và phân tích những tài liệu chuyên ngành có sẵn để hệ
thống hóa cơ sở phương pháp luận, cách tiếp cận, phương pháp phân tích
nhằm hướng dẫn cho việc thiết kế nghiên cứu thực nghiệm, đặc biệt thiết kế
các công cụ nghiên cứu. Đồng thời luận án cũng sẽ sử dụng các tài liệu, số
liệu thống kê và các nghiên cứu định tính. Cụ thể như sau:
4.1.1. Phƣơng pháp tổng hợp và phân tích số liệu và tổng quan tài liệu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu bao gồm các giai đoạn như: phân tích,
tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa những lý thuyết cũng như những
công trình nghiên cứu thực tiễn của các tác giả trong và ngoài nước và cá
nhân tác giả đã nghiên cứu từ năm 1985 đến nay. Các tài liệu phân tích sẽ
được phân chia thành nhiều mảng khác nhau, để tiện cho việc tham khảo về
biến đổi của kinh tế - xã hội; sự chuyển đổi của yếu tố văn hóa từ truyền
thống sang hiện đại; các chính sách kinh tế - xã hội và dân số; vai trò và địa vị
phụ nữ; sự thay đổi các chuẩn mực xã hội, trong đó có chuẩn mực về sinh
sản...tới hành vi tái sinh sản của người dân.
4


4.1.2. Phƣơng pháp định lƣợng
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi tập trung vào việc thu thập các
thông tin chung về các khía cạnh nhân khẩu học - xã hội của các cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ, với các nội dung liên quan đến thái độ và hành vi tái
sinh sản của người dân. Các thông tin thập được xử lý trên phần mềm SPSS
15.0, các thông số và phép toán thống kê được sử dụng trong nghiên cứu này

là phân tích thống kê mô tả và phân tích thống kê suy luận.
Trong luận án này tác giả kết hợp sử dụng số liệu cả nghiên cứu định
lượng, định tính và nghiên cứu trường hợp (case study).
4.1.3. Phƣơng pháp định tính
Nhằm bổ sung cấc thông tin cho các kết quả nghiên cứu định lượng, tác
giả tiến hành song song với nghiên cứu định lượng là 30 phỏng vấn sâu bao
gồm 15 nam và 15 nữ trong độ tuổi sinh đẻ có vợ/chồng nhằm tìm hiểu sâu
hơn và để lý giải, giải thích, đồng thời khẳng định các vấn đề được nêu lên
qua điều tra bảng hỏi trên diện rộng. Thông tin từ các phỏng vấn sâu và
nghiên cứu trường hợp sẽ được xử lý bằng phần mềm phân tích định tính
NVIVO 8.0.
4.1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu trƣờng hợp (case study)
Thực hiện phương pháp này chủ yếu với các trường hợp điển hình được
lựa chọn ra trong quá trình phỏng vấn bằng bảng hỏi, nhằm tìm hiểu sâu hơn
những vấn đề luận án cần làm sáng tỏ về thái độ và hành vi tái sinh sản của
người dân đô thị cũng như nông thôn.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Những thông tin về thái độ và hành vi về tái sinh sản của các cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ là một trong nhiều nội dung mà một số cuộc điều tra
trước đó đã quan tâm. Tuy nhiên, những nghiên cứu trước đó chưa có được
đầy đủ những thông tin về các diễn biến của thái độ và hành vi về tái sinh sản,
mà chỉ có những thông tin về nhận thức và thái độ chung về các vấn đề chung
của gia đình trong đó có sinh đẻ. Với luận án này, nỗ lực của nghiên cứu sinh
là đưa ra được những câu trả lời/thông tin có khả năng luận giải tốt nhất về
đặc trưng của các biến số độc lập và mối quan hệ của nó đối với biến số phụ
thuộc trong việc đo lường thái độ và hành vi tái sinh sản của người dân, qua
đó có thể so sánh với số liệu của các cuộc điều tra trước đó. Mặt khác, trong
lĩnh vực tái sinh sản có nhiều khía cạnh của lĩnh vực này được coi là vô hại
hoặc không đáng để người được hỏi quá lo ngại khi được hỏi. Tuy nhiên, đối
với những khía cạnh này chúng ta có lý do để tin rằng các câu hỏi về thái độ

có thể giúp các nhà nghiên cứu dự báo tương lai của hành vi dân số. Đặc biệt,
đóng góp mới của luận án là đã tìm hiểu sâu hơn được các thông tin về mối
quan hệ giữa thái độ và hành vi tái sinh sản của người dân Hà Nội thể hiện
trong luận án này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu “Thái độ và hành vi tái sinh sản của cư dân Hà Nội” của tác
giả đóng góp vào tri thức luận chung của chuyên ngành Xã hội học trong việc
nghiên cứu vấn đề dân số - kế hoạch hóa gia đình. Có nhiều lý thuyết được áp
dụng khi đề cập đến vấn đề dân số, sinh đẻ và hành vi sinh sản như Học
thuyết ban đầu về dân số của Malthus (1766-1834), Học thuyết quá độ về dân
số (Caldwell 1976; Coale 1975; Teitelbaum 1975)... Luận án này, về mặt lý
luận góp phần hoàn thiện khái niệm “Hành vi tái sinh sản” trong trường hợp
5


Việt Nam và kiểm tra tính đúng đắn của các quan điểm lý thuyết và khả năng
vận dụng các quan điểm lý thuyết nghiên cứu về thái độ và hành vi tái sinh
sản trong thực tiễn của Hà Nội, Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án cung cấp những hiểu biết mới về thái độ và hành vi tái sinh sản
của người dân Hà Nội. Có nhiều yếu tố tác động đến mức sinh, tuy nhiên phân
tích mối tương quan giữa thái độ và hành vi tái sinh sản của người dân là vấn
đề có ý nghĩa để góp phần lý giải về việc duy trì mức sinh cao hay ổn định của
dân số, đóng góp này có ý nghĩa về mặt xã hội. Mặt khác, nghiên cứu của luận
án cũng cho thấy việc vận dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu định
tính và định lượng tỏ ra thích hợp trong nghiên cứu xã hội học dân số - gia
đình. Các bằng chứng từ thu thập bằng phương pháp định lượng (như số con
mong muốn, thái độ về số con, và giới tính con cái, thái độ về quy mô gia
đình 1 hoặc 2 con...) được gắn kết với các bằng chứng thu thập từ phương

pháp định tính góp phần giải mã cho thái độ và hành vi tái sinh sản của các vợ
chồng trong độ tuổi sinh đẻ tại địa bàn nghiên cứu.
7. Cơ cấu của luận án
Luận án dài 150 trang nội dung. Cơ cấu của luận án gồm: Phần mở đầu;
nội dung; kết luận; kiến nghị và danh mục tài liệu tham khảo.
Phần nội dung của luận án gồm 4 chương: Chương I: Tổng quan các
nghiên cứu về thái độ và hành vi tái sinh sản; Chương II: Cơ sở lý luận và
phương pháp nghiên cứu; Chương III: Thái độ tái sinh sản của người dân Hà
Nội; Chương IV: Hành vi tái sinh sản và các yếu tố tác động đến hành vi tái
sinh sản của người dân Hà Nội.
.
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA
LUẬN ÁN
I. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1. Nghiên cứu có liên quan đến thái độ và hành vi tái sinh sản trên thế
giới và Việt Nam
1.1. Thực trạng tình hình nghiên cứu
Các nhà dân số học đặc biệt quan tâm đến sự sinh sản và di dân bởi các
yếu tố này là các bộ phận cấu thành ảnh hưởng đến sự thay đổi dân số. Nghiên
cứu về khung lý thuyết để phân tích các yếu tố quyết định tới mức sinh là một
trong những hướng nghiên cứu cơ bản trên diễn đàn Dân số học thế giới.
Khung thứ nhất được xây dựng bởi Davis và Blake (1956) phân loại thành 11
biến trung gian có ảnh hưởng trực tiếp đến mức sinh. Các yếu tố kinh tế - xã
hội, sinh vật và các yếu tố khác chỉ có ảnh hưởng gián tiếp. Các tác giả cũng
chỉ ra sự khác biệt về mức sinh giữa vùng phát triển và kém phát triển do
những khác nhau trong cơ cấu xã hội. John Bogaarts (1990) đã đưa ra mô hình
thứ hai về các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh, ông phân tích một loạt các yếu
tố ảnh hưởng trực tiếp đến mức sinh, trong đó có bốn yếu tố quan trọng nhất
đó là: hôn nhân, khả năng sinh đẻ; tránh thai và nạo thai...(Li-Jiali,1988)
Bên cạnh đó còn có hướng nghiên cứu sự quá độ từ cấp độ sinh đẻ tự

nhiên cao, sang các cấp độ sinh đẻ thấp, có kiểm soát. Ronald Freedman
(1979,1982 ) đã tiến hành xem xét sự tích hợp của hàng loạt lý thuyết vốn đã
được sử dụng để giải thích sự suy giảm mức sinh ở các nước phát triển (Jan
Szcepanski, 1969). Trong khi đó, John Knodel và Etienne Van de Walle phân
6


tích các bài học suy giảm mức sinh ở châu Âu (W.Paker Maudin và Sheldon
J.Segal,1996)
Khuôn mẫu sinh đẻ hiện đại được bàn luận chủ yếu trong phần tổng
quan kinh điển của Kingsley Davis. Ông đã tiến hành phần tích về các thể chế
khuyến khích mức sinh cao. Ngoài ra, còn có nhiều nghiên cứu thực nghiệm
khác về mức sinh được thực hiện ở Trung Quốc và Đông Nam Á (John
Knodel, 1995)
Từ lâu, các nhà dân số học đã nhận thức rõ tầm quan trọng của các biến
trung gian và tính tương đối trong lý giải thích việc giảm sinh. Nghiên cứu tại
Hàn Quốc, cho thấy: Mục tiêu chính sách của chính phủ là giảm mức sinh
xuống đến mức thay thế và các giải pháp để đạt được mục tiêu này là cung
cấp các dịch vụ KHHGĐ trên diện rộng và khuyến khích mô hình gia đình
nhỏ đã không gặp sự phản kháng lớn từ công chúng.
Theo nghiên cứu của giáo sư Xã hội học Tai-Hwan Kwon, Khoa Xã hội
học, Đại học Quốc gia Seoul (Hàn Quốc) được thực hiện trong năm 1960, đã
chỉ ra rằng với hầu hết phụ nữ Hàn Quốc trong độ tuổi sinh đẻ, gia đình lý
tưởng hoặc mong muốn là gia đình có khoảng 5 con, bao gồm 3 trai và 2 gái.
Quy mô lý tưởng này được thu nhỏ dần trong suốt thời kỳ chuyển đổi mức
sinh. Quy mô hạ xuống còn 4 con vào giữa thập niên 60 và 3 con vào những
năm đầu của thập niên 70 và 2 con vào giữa thập niên 80. Những thay đổi này
chậm hơn quy mô gia đình lý tưởng do Chương trình KHHGĐ đề xướng.
Năm 1968, chương trình triển khai mô hình 3 con, mô hình 2 con vào năm
1971 và 1-2 con vào đầu thập niên 80.

Ngoài ra, mô hình lý tưởng của cuộc vận động thấp hơn rất nhiều so với
mô hình mong muốn của phụ nữ có chồng trong độ tuổi sinh đẻ và quy mô gia
đình lý tưởng ở Hàn Quốc luôn nhỏ hơn tổng tỷ suất sinh ghi nhận được trong
cùng năm. Tuy nhiên, khoảng cách giữa quy mô lý tưởng và mức sinh thực tế
đã được thu hẹp. Những biến đổi này chỉ ra rằng chiến dịch có thể đã tác động
dây chuyền tới mức sinh. Chiến dịch đã tạo ra biến đổi trong các giá trị của
quy mô gia đình, dẫn đến giảm tỷ lệ sinh. Tuy nhiên, rất khó có thể xác định
mức độ ảnh hưởng của những thông điệp của chiến dịch đối với những biến
động về quy mô gia đình mong muốn (Easterlin,1975) .
1.2. Xu hƣớng
Các yếu tố kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu về số con
của các cặp vợ chồng trong gia đình. Việc đánh giá về sự thay đổi trong nhận
thức về số con trong các gia đình là đặc biệt khó khăn trong một nền kinh tế
đang biến đổi nhanh chóng như ở Việt Nam. Một lập luận dễ được chấp thuận
là tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng tích cực đến việc chấp nhận quy mô gia
đình nhỏ, bởi lẽ tăng trưởng kinh tế thường gắn liền với nâng cao nhu cầu
cuộc sống vật chất và tinh thần của cá nhân, tăng trình độ văn hóa và hiểu biết
của các cá nhân. Bên cạnh đó, các yếu tố văn hóa và trình độ học vấn được
nâng cao cũng có tác dụng thúc đẩy giảm nhu cầu về số con của trong các gia
đình. Tuy nhiên có không ít nghiên cứu chỉ ra rằng trong giai đoạn đầu của sự
tăng trưởng kinh tế, sự phát triển chưa ổn định của thời kỳ này cũng như khả
năng mang lại thu nhập cao hơn cho kinh tế gia đình có thể sẽ tạo ra hệ quả
ngược lại, thúc đẩy yêu cầu có quy mô gia đình đông con hơn (Jarl Lindgren,
1984)
Các nghiên cứu gần đây về dân số cho thấy Việt Nam đang quá độ giảm
mức sinh nhanh chóng. Việc xác định hành vi tái sinh sản là một chỉ báo gián
7


tiếp để đánh giá triển vọng sự biến đổi mức sinh (Tống Văn Đường và cộng

sự, 2003). Sự lựa chọn có ý thức của các cặp vợ chồng về sinh đẻ là một trong
những tiền đề của giảm mức sinh trong số phụ nữ có chồng. Easterlin (1975)
nhấn mạnh ba phạm trù rộng lớn, mà thông qua chúng "những yếu tố quyết
định cơ bản" (những yếu tố quyết định mức sinh) phát huy tác dụng và đến
lượt mình những yếu tố này lại ảnh hưởng đến những yếu tố quyết định kế cận
của mức sinh (Tống Văn Đường và cộng sự, 2003 ). Ba phạm trù này là nhu
cầu có con; mức cung cấp con cái và các chi phí của việc điều chỉnh sự sinh
đẻ.
Nằm ở giữa các yếu tố quyết định cơ bản đối với mức sinh và hành vi tái
sinh sản được thực hiện là “những yếu tố quyết định kế cận” của mức sinh
bao gồm những nhân tố như: mức độ được phép giao hợp, khả năng thụ thai,
thời gian không thụ thai sau khi sinh, tình trạng vô sinh và việc sử dụng biện
pháp kiểm soát sinh đẻ một cách cố ý bao gồm tránh thai và phá thai (LiJiali,1988).
Việc xác định nhu cầu sinh đẻ là một chỉ báo gián tiếp để đánh giá triển
vọng sự biến đổi mức sinh (Easterlin 1975, Cleland và Wilson 1987). Theo
Coale (1973), sự lựa chọn có ý thức của các cặp vợ chồng về sinh đẻ là một
trong những tiền đề giảm mức sinh trong số phụ nữ có chồng. Các tác giả
Tương Lai (1992), Knodel và đồng tác giả (1987) cũng cho rằng nhận thức
của các cặp vợ chồng nhằm giảm mức sinh là yếu tố có tính quyết định đến sự
thành công của chương trình kế hoạch hóa gia đình. Công trình nghiên cứu
này cũng gợi ý rằng nguyện vọng về số con có thể là nhân tố chính ảnh hưởng
đến quyết định sinh đẻ của các cặp vợ chồng (Jan Szcepanski, 1969; Jan
Szcepanski, 1969). Thiếu điều đó, sự nâng cao thuần túy khả năng tiếp cận
các phương tiện tránh thai là không đủ để giảm mức sinh.
Phân tích về thái độ đối với việc sử dụng tránh thai theo các chiều cạnh
khác nhau của văn hóa, bằng cách sử dụng phương pháp nghiên cứu theo độ
dài thời gian trong công trình nghiên cứu về hai cộng đồng ở Venezuela và
Kenya, Khalifa (1988) đã chỉ ra có mối quan hệ giữa các biến số về đặc điểm
nhân khẩu, xã hội, nghề nghiệp. Nhân tố quan trọng mà tác giả phát hiện có
ảnh hưởng tới thái độ của người dân tới việc sử dụng các biện pháp tránh thai

là trình độ văn hóa, thu nhập và sự bình đẳng vợ chồng trong gia đình(LiJiali,1988).
Phân tích về sự phổ biến của việc sử dụng các biện pháp tránh thai đối với
các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ Mauldin và Segal (1988) nhận định
rằng có mối quan hệ mật thiết giữa mức độ sử dụng tránh thai và mức sinh
(Phạm Bích San,1997)
1.3. Các yếu tố tác động đến thái độ và hành vi sinh đẻ
Phần lớn các kết quả nghiên cứu ở Việt Nam cho đến nay đều chỉ ra
rằng số con mong muốn trong các gia đình đã giảm đi trong những năm gần
đây (Nguyễn Hữu Minh 1991, Vũ Tuấn Huy 1993, Nguyễn Thị Vân Anh
1993). Cùng với sự biến đổi của đời sống kinh tế xã hội, vai trò và địa vị
người phụ nữ đã được nâng cao trong các quyết định công việc gia đình [30].
Tuy nhiên, còn rất ít nghiên cứu đi sâu vào phân tích tác động của các nhân tố
kinh tế - xã hội đang biến đổi nhanh chóng đến nhận thức, thái độ và hành vi
của các gia đình về số con.
Một điều dễ nhận thấy là, sự thay đổi nhận thức của các gia đình nông
thôn Việt Nam về số con do tác động của những cải cách trong kinh tế nông
8


nghiệp thời gian sau Đổi mới (1986) gần đây là một chủ đề thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trong nghiên cứu của mình, tác giả Lê
Thi (1991) cho rằng sự phát triển kinh tế hộ gia đình trong nông nghiệp có thể
khuyến khích quy mô gia đình đông con, bởi vì sự phát triển đó dựa trên sức
lao động sống của các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, có thể lập luận
một cách khác rằng mặc dù sự tham gia lao động của con cái là yếu tố quan
trọng đối với việc phát triển kinh tế gia đình, trong điều kiện tỷ suất đất trên
đầu người ở nông thôn ngày càng hạn chế như những năm gần đây thì khó có
thể khẳng định các gia đình sẽ chọn giải pháp đẻ nhiều con để phát triển kinh
tế (Lê Thi,2006)
Một yếu tố khác có tác động rất lớn đến nhu cầu lao động trong gia đình

đó là Chính sách khoán hộ của nhà nước sau Đổi mới. Khoán hộ đã có tác
động thúc đẩy xu hướng mở rộng hợp tác lao động và liên kết vốn giữa các hộ
trong phát triển sản xuất kinh doanh. Cơ chế mới này từ khoán hộ có thể gợi
ra định hướng giải quyết vấn đề nhân lực không phải nhất thiết bằng cách đẻ
thêm con, mà bằng hợp tác lao động (Tương Lai,1992). Một nghiên cứu khác
lại cho rằng: “Trong điều kiện hiện nay, yếu tố kinh tế chưa đủ sức tạo ra
những chuyển đổi căn bản trong ý thức, nhưng đã mở ra những tiền đề cho
quá trình chuyển hóa này. Do vậy, mà tác động tích cực hay tiêu cực của nó lệ
thuộc vào nhiều mối quan hệ khác” (Tương Lai,1991). Nói cách khác, mặc dù
về lâu dài khoán hộ sẽ có tác động tích cực đến mong muốn của các gia đình
có số con ít hơn, tác động tích cực đó có thể chưa thể hiện rõ ràng trong các
gia đình nông thôn.
Không ít nghiên cứu lại chỉ ra rằng trong giai đoạn đầu của sự tăng trưởng
kinh tế, sự phát triển chưa ổn định của thời kỳ này cũng như khả năng mang
lại thu nhập cao hơn cho kinh tế gia đình có thể sẽ tạo ra hệ quả ngược lại,
thúc đẩy yêu cầu có quy mô gia đình đông hơn (Đoàn Kim Thắng, 1993).
Trong nghiên cứu dân số, mối quan hệ giữa sinh đẻ và địa vị kinh tế - xã
hội là một trong những quan tâm lớn. Có mối liên hệ nghịch, trong đó các cặp
vợ chồng có điều kiện kinh tế và vị thế xã hội cao hơn thường sinh đẻ ít hơn,
bên cạnh đó, trình độ học vấn cao cũng là một trong những nhân tố quan trọng
góp phần hạn chế nhu cầu có con ở nhiều cặp vợ chồng. Tuy nhiên, trong điều
kiện xã hội nông nghiệp truyền thống, thì sinh nhiều con lại là một thuận lợi
cho phát triển kinh tế gia đình (Đặng Nguyên Anh,2007).
Giáo dục thường được xem là một trong những yếu tố quan trọng tác
động tới thái độ về số con (Phạm Bích San,1990). Mối quan hệ thường được
thừa nhận là trình độ văn hóa của cặp vợ chồng tăng lên thì nhu cầu số con
giảm xuống (Nguyễn Hữu Minh,1991). Tuy nhiên vai trò tích cực của yếu tố
giáo dục đến nguyện vọng về số con của các cặp vợ chồng không phải luôn
luôn được khẳng định trong những nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam. Theo
phân tích của số liệu Điều tra Biến đổi gia đình và mức sinh (FFS, 1990) thì

yếu tố giáo dục không ảnh hưởng đáng kể tới nhu cầu có thêm con của các
cặp vợ chồng (Nguyễn Thị Vân Anh,1993). Thái độ thiên vị giới tính có ảnh
hưởng tới quyết định sinh thêm con của các cặp vợ chồng ở nông thôn, đặc
biệt là người phụ nữ (Đoàn Kim Thắng,1985; Hồng, 2010). Tác giả Li-Jiali
(1995) trong một nghiên cứu ở Trung Quốc cũng cho biết sự mong muốn con
trai thậm chí có ảnh hưởng lớn hơn đến quyết định sinh đứa con thứ hai hay
thứ ba so với ảnh hưởng của trình độ văn hóa, mức đô thị hóa hay chính sách
dân số của nhà nước (David Kingsley,1973). Đối với các xã hội truyền thống
9


như Việt Nam thì tâm lý muốn có con trai để nối dõi tông đường và tâm lý
muốn "có nếp, có tẻ" thường được nhìn nhận là yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến mức sinh thực tế và số con mong muốn. Mối quan hệ chặt chẽ giữa tâm lý
muốn có thêm con trai và số con mong muốn của phụ nữ đã được kiểm chứng
trong nhiều mô hình phân tích đa biến tuy với dung lượng mẫu còn tương đối
hạn chế (Nguyễn Thị Vân Anh,1993).
Nghiên cứu về thái độ đối với việc sử dụng biện pháp tránh thai bằng tính
vòng kinh ở Philipines bằng phương pháp nghiên cứu định tính, phát hiện
trong nghiên cứu này cho thấy yếu tố tôn giáo không có ảnh hưởng quan trọng
tới thái độ của người phụ nữ trong việc sử dụng biện pháp tránh thai, mặc dù
ở nước này chính phủ và các tổ chức tôn giáo có những cố gắng nhất định
trong việc can thiệp vào tình hình nạo thai của người phụ nữ (Baron, R.M,
1991).
Nghiên cứu khác về địa vị phụ nữ thông qua các hoạt động tăng thu nhập
và kế hoạch hóa gia đình cũng cho thấy những kết quả tương tự rằng khi
người phụ nữ xác lập được quyền bình đẳng trong gia đình thì họ cũng có
những vai trò nhất định trong việc xác lập các quyền quyết định trong sinh đẻ
(Lương Đức Thiệp,1961).
Một trong những phương pháp được áp dụng để phân tích mức sinh hiện

nay ở nước ta là so sánh mức sinh các vùng địa lý. Ở các nước, các vùng khác
nhau, trong các thời kỳ khác nhau, mức sinh đẻ khác nhau. Nhưng đối với bất
kỳ nước nào, trong bất kỳ thời kỳ nào, mức sinh đẻ ở nông thôn bao giờ cũng
cao hơn thành thị. Tuy nhiên, ở các nước đã phát triển, sự khác biệt này đang
có xu hướng thu hẹp lại (Tổng cục Thống kê,1991).
Trình độ văn hóa của từng người khác nhau sẽ làm cho mức sinh khác
nhau. Trình độ văn hóa của người vợ và người chồng có ảnh hưởng đến số
con mà họ sinh ra. Những nghiên cứu gần đây cho thấy sau khi đã đạt được
trình độ văn hóa đủ cao ở một mức độ nào đó, chênh lệch về số con sẽ hẹp
dần(Tổng cục Thống kê,1991)..
Phát triển dân số và đặc biệt là sự biến động của mức sinh chịu tác động
qua lại của nhiều yếu tố như: phong tục tập quán, tâm lý, xã hội, các yếu tố tự
nhiên sinh vật, mức sống dân cư. Trong đó mức sống của dân cư giữ vai trò
quyết định, là một yếu tố rất quan trọng đến mức sinh (TCTK,1998).
Bình đẳng giới được đánh giá là một chỉ tiêu ưu tiên trong phát triển xã
hội hiện nay. Nó là một trong mười Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs)
mà các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam cam kết thực hiện. Xuất
phát điểm từ một xã hội nông nghiệp mang bản chất văn hóa Á Đông truyền
thống, dưới ảnh hưởng mạnh của Nho giáo (tính gia trưởng và phụ quyền),
người phụ nữ trước kia luôn có địa vị thấp kém hơn người đàn ông trong gia
đình lẫn ngoài xã hội (Đỗ Thái Đồng, 1990). Tuy nhiên, một số nghiên cứu
gần đây đã kết luận Đổi Mới đã có những tác động mạnh mẽ đến vị thế của
người phụ nữ . Việc sinh ít con đã trở lên phổ biến trong các gia đình Việt
Nam ở cả nông thôn và thành thị. Cơ cấu dân số theo giới tính đã cân bằng,
song tình trạng mất cân bằng giới tính trẻ em khi sinh lại gia tăng (Lưu Bích
Ngọc,2012).
Tỷ số giới tính khi sinh tại Việt Nam thấp trong những năm 1970 (94,7
nam/100 nữ) và năm 1979 (94,2 nam/100 nữ. Những năm sau này tỷ số giới
tính của dân số Việt Nam bắt đầu tăng dần và liên tục tăng, ít nhất trong 10
năm qua (TCTK,1991). Vấn đề mất cân bằng giới tính trong dân số Việt Nam

10


hiện nay là chủ đề đang thu hút sự quan tâm của những nhà nghiên cứu về dân
số và những nhà lập chính sách phát triển. Mất cân bằng giới tính khi sinh là
biểu hiện của bất bình đẳng giới, phản ánh sự phân biệt đối xử đối với các bé
gái ngay cả khi chưa chào đời (Mai Quỳnh Nam,1994).
Phân tích tỷ số giới tính của các nhóm tuổi trong dân số Việt Nam tại
Tổng điều tra Dân số năm 1999 và TĐTDS 2009 cho thấy, tỷ số giới tính của
các nhóm 0-4 tuổi; 5-9 và 10-14 tuổi tăng cao từ TĐTDS 1999 và tiếp tục
tăng trong TĐTDS 2009. Điều này cho thấy rất có thể lựa chọn giới tính của
trẻ khi sinh con đã xuất hiện ngay từ những năm 90, khi bắt đầu có Chính
sách DS-KHHGĐ nhằm hạn chế quy mô gia đình chỉ với 1-2 con (Lưu Bích
Ngọc,2012).
Khi trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, những ảnh hưởng của
Nho giáo còn nặng nề và khoa học kỹ thuật tiến bộ cho phép con người chủ
động trong sinh sản kể cả lựa chọn giới tính cho thai nhi, thì việc đảm bảo cân
bằng giới tính theo quy luật sinh sản tự nhiên là cần thiết nhưng cũng vô cùng
nan giải (Nguyễn Đình Cử và cộng sự, 1992-1993).
2. Nghiên cứu liên quan đến hành vi dân số và kế hoạch hóa gia đình
đƣợc tiến hành tại Hà Nội
2.1. Thực trạng tình hình nghiên cứu
Đối với Hà Nội, vấn đề giảm sinh và duy trì mức sinh thay thế có thể tìm
thấy rải rác ở một vài nghiên cứu khác nhau. Mối quan hệ giữa mức chết trẻ
em và mức sinh được các nhà nghiên cứu phân tích và coi đó như một nhân tố
ảnh hưởng đến mức sinh (Lê Ngọc Văn,2011).
Những nguyên nhân dẫn đến việc sinh con thứ ba cũng là chủ đề được
quan tâm nghiên cứu. Dựa trên kết quả khảo sát thực tế, nhóm nghiên cứu của
Uỷ ban Dân số - KHHGĐ Hà Nội đã phân tích về lý thuyết mức sinh và các
yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh của thành phố Hà Nội trong đề tài: “Phân tích

các yếu tố ảnh hưởng trong trường hợp sinh con thứ ba trở lên ở các làng xã
ngoại thành Hà Nội, tìm giải pháp thích hợp”, đã đưa ra nhiều ý kiến bổ ích
cả về lý luận và thực tiễn. Các nhà nghiên cứu cho rằng cần có những giải
pháp đồng bộ để xây dựng gia đình văn hoá mới tương ứng với gia đình ít
con. Nghiên cứu cũng kết luận việc giảm tổng tỷ suất sinh, tiến tới đạt mức
sinh thay thế và giảm tỷ lệ sinh con thứ ba là có liên quan mật thiết với nhau.
2.2. Xu hƣớng
Kể từ hơn 10 năm trở lại đây, những nghiên cứu về dân số nói chung
trong đó có Hà Nội đã tập trung nghiên cứu: “Ảnh hưởng của mức sống đến
mức sinh”. Kết quả của nghiên cứu cho thấy trình độ văn hóa của người phụ
nữ nội thành có liên quan đến mức sinh, trình độ văn hóa càng cao thì số con
càng ít (Nguyễn Đình Cử,2012). Nghiên cứu về mối quan hệ giữa di cư và sức
khỏe do Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tài trợ cũng là hướng nghiên
cứu. Nghiên cứu này được tiến hành ở những nơi có mật độ nhập cư cao, đã
trở lên bức xúc và có liên quan đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, trong đó có thủ đô Hà Nội. Liên quan đến vấn đề dân số và
KHHGĐ, nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ người di cư sử dụng BPTT thấp hơn
đáng kể so với người không di cư: 65,8% và 71,7% (Nguyễn Đình Cử và cộng
sự, 2004).
Nhóm tác giả do Đoàn Kim Thắng chủ nhiệm đề tài, thực hiện nghiên
cứu năm 2004 cho thấy, trong nhiều năm qua Hà Nội đã triển khai có hiệu qủa
Chương trình Dân số - KHHGĐ và tại thời điểm nghiên cứu Hà Nội là một
11


trong những địa phương có tỷ lệ sinh thấp với tỷ sinh thô là 16,33%o, tỷ lệ
sinh con thứ 3 trở lên là 5,58% (UBDS Hà Nội, 2004). Các kết quả nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng, mức sinh là yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình biến
động tự nhiên dân số. Mức sinh không chỉ ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu, tốc
độ tăng dân số mà còn ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của

thủ đô.
Chủ đề về già hóa dân số, cũng là chủ đề được các nhà nghiên cứu dân
số quan tâm. Nghiên cứu “Xu hướng già hóa dân số trên thế giới và đặc trưng
người cao tuổi ở Việt Nam” chỉ ra rằng, 63,0% các cụ đã về hưu ở Hà Nội vẫn
còn hy vọng có nguồn trợ cấp từ con cái. Mong muốn nói trên đã hiện thực
hóa trong đời sống (Nguyễn Đình Cử, 2006).
Nghiên cứu về “Chính sách và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dân
số của Hà Nội theo hệ tiêu chuẩn mới” cũng đã được triển khai kể từ năm
2006. Nghiên cứu chỉ ra rằng cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập
bình quân đầu người của người dân Hà Nội trong những năm qua đã được
nâng cao và mức sống đã có những cải thiện…Tuy nhiên, công tác quản lý
dân số thủ đô, vì thế chưa có sự đầu tư tương xứng, đó là những thách thức
để giải quyết vấn đề ổn định và nâng cao chất lượng dân số thủ đô (Đoàn Kim
Thắng, 2006)
Nghiên cứu: “Mất cân bằng giới tính trong dân số Việt Nam hiện nay”
chỉ ra ở Việt Nam ngay từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 1999 cho thấy
tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam là 107 trẻ trai/100 trẻ gái (tỷ số theo tự
nhiên thường từ 104 đến 106 trẻ trai/100 trẻ gái được sinh ra), trong đó Hà
Nội được xếp vào nhóm các tỉnh, thành phố có tỷ số giới tính khi sinh cao
(Nguyễn Đình Cử,2010).
Nghiên cứu về các biện pháp tránh thai, trong đề tài: “Thực trạng và hiệu
quả sử dụng dụng cụ tử cung (DCTC) trong kế hoạch hóa gia đình” cho thấy
tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có chồng ở các xã thuộc các quận/huyện
phía Tây Hà Nội duy trì việc sử dụng DCTC khá ổn định, tỷ lệ này gia tăng
năm sau hơn năm trước ở một số địa phương của Hà Nội (Đoàn Kim Đoàn
Kim Thắng, 2011). Lựa chọn các BPTT hiện có cho người sử dụng thông qua
một chương trình về KHHGĐ là một yếu tố quyết định quan trọng cho sự
thành công của chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình. Kết quả nghiên
cứu đề tài: “Tình hình sử dụng thuốc tiêm tránh thai tại Hà Nội: Thực trạng và
giải pháp tăng cường chất lượng cung cấp dịch vụ” cho từ 73,8% trở lên các

phụ nữ có chồng trong độ tuổi sinh đẻ ở Hà Nội sử dụng thuốc tiêm tránh thai
và vai trò của truyền thông (Đoàn Kim Thắng, 2012)
Nghiên cứu về: “Nhận thức, thực hành khám sàng lọc trước sinh và sơ
sinh (SLSS) của phụ nữ có chồng trong độ tuổi sinh đẻ ở nông thôn Hà Nội”
cho biết, SLSS là một biện pháp dự phòng hiện đại, dung kỹ thuật y khoa
nhằm tìm kiếm để phát hiện ra các bệnh liên quan đến nội tiết, rối loạn di
truyền ngay khi đứa trẻ vừa ra đời. SLSS đã được nhiều phụ nữ ở Hà Nội có
con vừa sinh tham gia. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng vẫn còn
một số khó khăn trong quá trình thực hiện SLSS ở nông thôn bên cạnh những
vấn đề có liên quan đến yếu tố kỹ thuật y tế, nhận thức của phụ nữ nông thôn
còn có những hạn chế do ảnh hưởng của phong tục tập quán, quan niệm
truyền thống về chăm sóc sức khỏe phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh (Đoàn
Kim Thắng, 2014).
2.3. Các yếu tố tác động đến thái độ và hành vi sinh đẻ
12


Việc nghiên cứu tổng hợp những lý luận cơ bản về biến động dân số và
tăng trưởng kinh tế cũng như nghiên cứu mối quan hệ giữa chúng là việc làm
cần thiết đã được nhóm tác giả Khoa Kinh tế, Trường Đại học Thương Mại
Hà Nội tiến hành. Qua việc phân tích sự tác động của biến động dân số tới
tăng trưởng kinh tế của thành phố Hà Nội giai đoạn 1999-2009 đã đưa ra một
số dự báo về biến động dân số và tăng trưởng kinh tế đến năm 2022 và giải
pháp đẩy mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa biến động dân số và tăng trưởng
kinh tế. Các yếu tố ảnh hưởng đến biến động dân số và tăng trưởng kinh tế
được các tác giả đề cập trong đó phải kể đến là các yếu tố về sinh đẻ, chết và
di cư.
Nghiên cứu cũng cho thấy một bức tranh về tình hình phát triển dân số
trong vòng 10 năm qua (1999-2009) Hà Nội có tỷ lệ tăng dân số bình quân là
2% cao hơn 0,8% so với bình quân cả nước là 1,2%. Tỷ lệ tăng dân số tự

nhiên do sinh thêm con là 1,1%. Nghiên cứu cũng dẫn ra nguồn tư liệu từ
Tổng điều tra Dân số (1/4/2009) về tỷ lệ di cư thuần trong vòng 5 năm (20042009) của Hà Nội là +49,8 phần nghìn, trong đó tỷ suất nhập cư là 65,3 phần
nghìn và tỷ suất xuất cư là 15,5 phần nghìn. Như vậy, tính ra mỗi năm Hà Nội
có thêm xấp xỉ 40.000 dân do tăng dân số cơ học. Tỷ số giới tính khi sinh
trong dân số Hà Nội ngày càng chênh lệch. Từ năm 2001 đến 2009, tại Hà
Nội trung bình có hơn 100.000 trẻ em ra đời/năm. Hà Nội sau khi được mở
rộng trong 9 tháng đầu năm 2009, tỷ số giới tính khi sinh (120 trai/100 gái)
cao hơn cùng kỳ năm trước (117/100) và đây cũng là tỷ lệ cao hơn tỷ số giới
tính khi sinh của cả nước (112/100)…Tuy nhiên, nghiên cứu cũng còn những
hạn chế, hầu hết các quan điểm mới chỉ chú trọng về vấn đề quy mô và tăng
trưởng dân số ảnh hưởng đến kinh tế, ít quan tâm đến một biến số cơ bản đó
là cơ cấu tuổi của dân số, bởi dân số được phân bố theo các nhóm tuổi khác
nhau và cơ cấu tuổi biến động như thế nào khi dân số gia tăng, cũng như
những hành vi khác nhau của mỗi nhóm tuổi đến vấn đề sinh đẻ, ảnh hưởng
đến sự gia tăng dân số.
Tác giả Nguyễn Thị Phương Hoa (2005) trong nghiên cứu của mình về
“Thái độ của người dân Hà Nội về giới tính của con cái trong gia đình” cho
biết gần đây dân số nước ta gia tăng đột biến. Có rất nhiều nguyên nhân của
tình trạng này, trong đó có nguyên nhân tâm lý. Một trong số các nguyên nhân
về tâm lý là thái độ về giới tính của con cái trong gia đình. Thái độ về giới
tính con cái trong gia đình thể hiện ở việc mong muốn sinh con trai hay con
gái là chính, hay sinh cả con trai và con gái. Trong nghiên cứu, thái độ này đã
được tác giả phân ra thành 3 nhóm: (i) nhóm không phân biệt về giới tính của
con trong gia đình “con nào cũng được”. Nhóm này chiếm 17,8% tổng số
người được hỏi; (ii) nhóm trung lập, không bày tỏ thái độ về giới tính của con
chiếm 68,2%; (iii) nhóm có thái độ tiêu cực, nhóm này quá quan tâm đến giới
tính của con, mong muốn gia đình “phải có nếp, có tẻ”, có con trai để nối dõi
tông đường, chiếm13,2%. Nghiên cứu này cho thấy, tâm lý “muốn có nếp, có
tẻ”, có con trai nối dõi tong đường vẫn tồn tại ở một bộ phận không nhỏ người
dân Hà Nội, cho dù trình độ học vấn của những người được hỏi khá cao và

điều kiện tiếp xúc với các phương tiện thông tin đại chúng khá thuận lợi.
Trong công trình nghiên cứu về: “Nhận thức trách nhiệm xã hội của người
dân Hà Nội đối với công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình” tác giả Tô Thúy
Hạnh (2005), cho biết trong vài năm gần đây, tỷ lệ dân số nước ta có xu
hướng tăng trở lại, đặc biệt hiện tượng sinh con thứ ba xảy ra nhiều hơn. Có
13


nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó phải kể đến nhận thức của
người dân về trách nhiệm xã hội đối với công tác kế hoạch hóa gia đình còn
chưa thật đầy đủ. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy không có sự khác biệt ở
mức có ý nghĩa thống kê giữa những người có độ tuổi và nghề nghiệp khác
nhau, song lại có sự khác biệt giữa nam và nữ, giữa những người có trình độ
học vấn khác nhau và giữa những người có mức sinh khác nhau. Điều đáng
lưu ý là, trong bộ phận những người dân có nhận thức hạn chế về trách nhiệm
xã hội đối với công tác kế hoạch hóa gia đình, vẫn còn tồn tại một tỷ lệ không
nhỏ những người có trình độ học vấn cao (từ đại học trở lên). Điều này cũng
phản ánh rằng, công tác tuyên truyền, giáo dục về những chính sách, chủ
trương của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề kế hoạch hóa gia đình vẫn còn
phải tiếp tục tăng cường hơn nữa, kể cả trong khu vực cán bộ, công chức nhà
nước. Trong đó, đặc biệt chú ý nâng cao nhận thức của người dân về trách
nhiệm xã hội của họ đối với công tác kế hoạch hóa gia đình, nhằm giảm bớt tỷ
lệ sinh, nhất là sinh con thứ 3 trở lên, để góp phần thúc đẩy việc phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
Tóm lại, kết quả tổng quan từ các nghiên cứu liên quan đến chủ đề của
luận án là cơ sở thực tiễn trong việc xác định các yếu tố ảnh hưởng tới thái độ
và hành vi tái sinh sản của người dân Hà Nội từ các cấp độ khác nhau: cấp độ
xã hội, cấp độ cộng đồng và cấp độ cá nhân. Điều quan trọng là rất ít các
nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này trong mối quan hệ giữa thái độ và hành vi về
tái sinh sản của người dân Hà Nội, nhất là trong bối cảnh sự mất cân bằng giới

tính khi sinh ở đây đang khá cao. Việc tìm hiểu thái độ và hành vi tái sinh sản
của người dân thông qua việc đưa ra được các bằng chứng cả về định lượng
lẫn lý giải định tính là một điểm khá mới mẻ của luận án so với những nghiên
cứu trước đó. Vì vậy, với những định hướng nội dung và phương pháp nghiên
cứu, tác giả luận án hy vọng kết quả nghiên cứu tại Hà Nội sẽ phản ánh một
cách trung thực, khách quan và khoa học về thực trạng của vấn đề mà luận án
đề cập, làm cơ sở gợi ý cho những nhà hoạch đinh chính sách có những giải
pháp và định hướng cho công tác dân số và phát triển ở cấp quốc gia cũng như
Hà Nội phù hợp với tình hình thực tiễn đặt ra.
Chƣơng II. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
1. Các quan điểm lý thuyết
Có nhiều lý thuyết được áp dụng khi đề cập đến vấn đề dân số, sinh đẻ,
hành vi sinh sản như học thuyết ban đầu về dân số của Malthus (1766-1834),
học thuyết quá độ về dân số (Caldwell 1976; Coale 1975; Teitelbaum 1975)...
Luận án sẽ đi sâu vào phân tích các cơ sở lý thuyết nghiên cứu thái độ và hành
vi tái sinh sản như: Lý thuyết động lực sinh học; lý thuyết động lực xã hội; lý
thuyết động lực kinh tế: so sánh chi phí và lợi ích; thuyết ý tưởng về văn hóa.
2. Một số lý thuyết xã hội học áp dụng trong nghiên cứu của luận án
Trong luận án này, việc tiếp cận nghiên cứu được dựa trên những cơ sở lý
thuyết cơ cấu chức năng gắn liền với tên tuổi của các nhà Xã hội học như:
Auguste Comte, Herbert Spencer, Emile Durkheim, Vilfredo Pareto (18481932), Athur Radcliffe Brown (1881-1955), Bronislaw Malinowski (1884 1942), Talcott Parsons (1902-1979), Rober Mertol (sinh năm 1910), Peter
Blau (1918 -2002) và nhiều nhà xã hội học khác. Trong nghiên cứu về dân số
đó là sự phát triển hợp lý dân số, sự cân bằng giới tính con cái khi sinh theo
14


một chuẩn mức đã xác định, không gây ra sự phá vỡ sự cân bằng cần thiết này
bằng chính các hành vi mang tính chuẩn mực trong sinh đẻ. Bên cạnh đó, lý
thuyết hành vi cũng được áp dụng để nghiên cứu. Theo lý thuyết này, xã hội
học nghiên cứu về cá nhân và xã hội. Cá nhân được nghiên cứu trên hai khía

cạnh: hành vi và hành động. Vì vậy đã hình thành trên hai bước lý thuyết, đó
là các lý thuyết hành vi và các lý thuyết hành động. Đại diện cho lý thuyết
hành vi lựa chọn là George Homans. Lý thuyết này đã khái quát hóa cái
khuôn mẫu được tạo, ra bởi vì thực ra con người đôi khi hành động không
phải chỉ hành động vì cái lợi ích, mà đôi khi vẫn là tình cảm. Trong sinh đẻ,
nhu cầu về con nhiều khi được xem không chỉ là lợi ích về vật chất mà con cái
đem lại, mà nhiều khi quan trọng hơn lại là nhu cầu về sự thăng bằng tình cảm
mà con cái đem lại cho các cặp vợ chồng.
Lý thuyết hành động xã hội của M.Weber (1833-1911) và George Herbert
Mead (Hoa Kỳ, 1863-1929) cũng được đề cập trong luận án này. Hành động
xã hội là sự trao đổi trực tiếp giữa các cá nhân cũng như các khuôn mẫu quan
hệ được cấu trúc hóa bên trên các nhóm, tổ chức, thiết chế và xã hội.Để hiểu
được nền tảng của hành động con người, xã hội học đề xuất ba khái niệm cơ
bản: “ý nghĩa”, “chuẩn mực” và “giá trị”. Cùng với khái niệm hành động xã
hội, ba khái niệm trên đồng thời là những thành phần tiên nghiệm của xã hội
học và được áp dụng trong nghiên cứu sinh đẻ nói riêng.
Ngoài ra lý thuyết dân số và quá độ dân số của Malthus (1766-1834) được
áp dụng trong luận án. Malthus đã đề cập đến hai biện pháp kiểm soát dân số:
(i) Kiểm soát tích cực (Positive check) có liên quan đến các nguyên nhân tử
vong và tỷ suất chết tăng bao gồm sự nghèo đói, bệnh dịch và chiến tranh; (ii)
Kiểm soát phòng ngừa đối với tỷ suất sinh bao gồm cả cái mà ông gọi là
“nghệ thuật không hoàn hảo” như nạo phá thai và tránh thai.
3. Một số khái niệm đƣợc sử dụng trong luận án
Luận án sẽ thao tác hóa một số khái niệm có liên quan để làm rõ các vấn
đề cần phân tích, đó là các khái niệm: “Thái độ”; “Hành vi”; “Hành vi xã
hội”; “Hành vi con người ”; “Tái sinh sản”; “Hành vi tái sinh sản”; “Địa vị xã
hội và địa vị phụ nữ”.
4. Khung phân tích thái độ và hành vi tái sinh sản
XÃ HỘI VÀ CỘNG
ĐỒNG

- Đặc điểm khu vực
sống
(VH, phong tục tập
quán)
- Chính sách dân số
- Cung cấp dịch vụ
KHHGĐ
- Truyền thông

CÁ NHÂN
- Tuổi
- Học vấn
- Số con hiện có
- Số con trai hiện có
- Tôn giáo
- Nghề nghiệp
BIẾN TRUNG
GIAN
- Các biện pháp tránh
thai
THÁI ĐỘ VÀ
HÀNH VI TÁI SINH
SẢN

15

GIA ĐÌNH
- Cấu trúc hộ GĐ
(gia đình hạt nhân,
mở rộng)

- Dân tộc
- Đặc điểm cha mẹ
(HV, nghề nghiệp)
-Văn hóa gia đình


Đề cập đến vấn đề thái độ và hành vi về tái sinh sản của người dân Hà Nội,
tác giả của luận án sẽ xem xét mô hình liên quan giữa các biến số như sau:
Biến số phụ thuộc: là thái độ và hành vi tái sinh sản của các cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ, trong đó có người phụ nữ thể hiện qua số con mong
muốn, số con trai/gái mong muốn, số con muốn sinh thêm, khoảng cách các
lần sinh và ý định sử dụng biện pháp tránh thai.
Biến số độc lập: có nhiều biến số độc lập được xem xét (độ tuổi/địa bàn
sinh sống/dân tộc/tôn giáo/số con hiện có/nghề nghiệp/trình độ học vấn…)
Biến số trung gian: Trong nghiên cứu này biến số trung gian tác động tới
sinh đẻ của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ như: hôn nhân, sử dụng
các biện pháp tránh thai...cũng được xem xét.
Chƣơng III: THÁI ĐỘ VỀ SINH ĐẺ CỦA NGƢỜI DÂN HÀ NỘI
1. Giới thiệu khái quát về địa bàn nghiên cứu Hà Nội
Bao gồm các thông tin mô tả về địa giới hành chính và các đặc điểm dân
số của Hà Nội như: Quy mô dân số; cơ cấu dân số; cơ cấu dân số theo độ tuổi.
Số người dưới 15 tuổi của Hà Nội chiếm 23,0%; số người nhóm 15-59 tuổi
(66,0%) và từ 60 tuổi trở lên là 10,4% (Tổng điều tra dân số và nhà ở, 2010).
Như vậy có thể thấy dân số Hà Nội là dân số trẻ, Hà Nội có nguồn lao động
dồi dào. Tuy nhiên cơ cấu tuổi của dân số Hà Nội đang có xu hướng già hóa,
số trẻ em ít đi và số người già ngày càng tăng lên. Đây cũng có thể coi là một
lợi thế đối với việc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, nhưng mặt khác
cũng là một trở ngại lớn trong việc sắp xếp việc làm và nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân Hà Nội.
2. Thái độ về số con và sinh đẻ

2.1. Thái độ và nhu cầu về số con
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm về giá trị con cái như học vấn,
nơi ở là đô thị hay nông thôn…nhưng, những vấn đề nêu trên được phân tích
chủ yếu về sự khác biệt trong quan niệm về giá trị của con cái theo nhóm tuổi
của người trả lời. Đối với các cặp vợ chồng trong các nhóm tuổi, có con là
một giá trị và giá trị của con cái gắn liền với hôn nhân. 98% người trả lời cho
rằng lý do thực sự quan trọng của việc kết hôn là mong muốn có con.
Thái độ và nhu cầu về con không chỉ là của riêng cặp vợ chồng, mà còn
là sự quan tâm của gia đình, họ hàng và đặc biệt là bố mẹ hai bên chồng vợ.
Thái độ về việc có con nhằm để thỏa mãn một nhu cầu về đời sống tâm
linh và điều này cũng được củng cố qua những hoạt động thờ cúng trong các
dịp lễ, tết, giỗ chạp…64,2% ý kiến chung của những người được hỏi cho rằng
“con cái là yếu tố kéo dài cuộc sống của bố mẹ sau khi mất”. Không có sự
khác biệt nhiều trong quan niệm về vấn đề này giữa các nhóm tuổi.
Quan niệm về vai trò của con cái trong sự liên tục của gia đình còn gắn
liền với sự phân biệt giữa con trai và con gái. 57,8% số người được hỏi biết họ
“nhất thiết phải đẻ để có con trai”; 14,7% không bày tỏ ý kiến của bản thân
khi hỏi về vấn đề này.
Về nhu cầu số con, 70,4% người được hỏi chấp thuận gia đình có 2 con;
0,7% chấp thuận gia đình chỉ có 1 con và còn 28,9% chấp thuận gia đình có
từ 3 con trở lên. Trong khi đó, mong muốn 1 con trai là 69,1%; mong muốn 2
con trai là 30,9%.

16


Thái độ về con có mối liên quan chặt chẽ đến số con hiện có của người
được hỏi. 83,3% (đã có 1 con) muốn sinh 2 con và 81,1% (đã có 2 con) không
có nhu cầu sinh >2 con.
Quy mô gia đình nhỏ có 2 con (có cả trai, lẫn gái) được sự chấp thuận cao

trong các nhóm tuổi người được hỏi. Số con trai được coi là số con lý tưởng
khá ổn định khi xem xét ở cả hai cuộc khảo sát. 58,1% số người được hỏi
mong muốn gia đình sinh con trai, nếu gia đình chỉ được sinh 1 con (khảo sát
2010); 64,0% các cặp vợ chồng chấp nhận gia đình 2 con, nhưng 36,8% người
được hỏi cho rằng 2 con trai mới là lý tưởng, trong khi đó mong muốn có 1
con trai chiếm 63,2% (khảo sát 2014).
Người được hỏi theo các tôn giáo khác nhau có tỷ lệ cao và khá đồng đều
về mô hình gia đình 2 con. Có sự khác biệt trong nhu cầu về số con đối với
những người được hỏi theo các tôn giáo khác nhau, nhất là từ 3 con trở lên.
Tỷ lệ thấp nhất thuộc về người được hỏi theo đạo Phật (23,1%)
Phụ nữ có thái độ “băn khoăn, xấu hổ và lo ngại” khi chưa sinh được đủ
số con trai/gái như mong muốn có phần cao hơn nam giới cho thấy rằng,
chính phụ nữ là những người chịu sự dằn vặt hơn nam giới về sinh đẻ. Người
được hỏi ở đô thị có thái độ này cao hơn so với nông thôn (61,1% so với
33,1% nông thôn).
2.2.Mong muốn về sinh con và thiên vị giới tính
70,4% người được hỏi mong muốn gia đình có 2 con; chỉ có 0,7% mong
muốn gia đình có 1 con và còn 28,9% ý kiến gia đình có từ 3 con trở lên.
Trong khi đó, số con trai mà người được hỏi mong muốn 1 con trai là 69,1%;
mong muốn 2 con trai là 30,9%.
Nghề nghiệp,địa bàn sinh sống, số con hiện có của các cặp vợ chồng cũng
có những ảnh hưởng đáng kể đến mong muốn về số con và sự chấp nhận mô
hình gia đình có 1-2 con.
Nếu chỉ sinh 1 con, 56,0% muốn sinh con trai; chỉ 11,5% muốn sinh con
gái.
2.3. Mô hình hồi quy: Sở thích con trai dưới tác động đồng thời của các biến
số cá nhân (giới tính, tuổi, học vấn), hộ gia đình (mức sống, cơ cấu con trai và
con gái hiện có, số thế hệ trong hộ gia đình), và nơi ở đô thị hay nông thôn.
Tiểu kết chƣơng III
Thái độ và mong muốn về số con đã được phản ánh khá rõ nét qua nguồn

số liệu đã được phân tích từ hai cuộc điều tra năm 2010 và 2014 tại Hà Nội.
Trong số những yếu tố quyết định đến sinh đẻ như đặc điểm nhân khẩu
học: tuổi, giới tính, học vấn thu nhập và chu kỳ sống, những quan niệm
“truyền thống” hay “hiện đại” cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm
về giá trị của con cái và do đó ảnh hưởng đến thái độ và hành vi sinh sản của
các cặp vợ chồng. Hôn nhân là một thiết chế mà qua đó nhiều nhu cầu của cá
nhân được thực hiện một cách hợp pháp, trong đó có nhu cầu sinh con.
Mong muốn có con không chỉ là của riêng cặp vợ chồng, mà còn là sự
quan tâm của gia đình, họ hàng và đặc biệt là bố mẹ hai bên chồng vợ.
Thái độ và mong muốn về số con cũng có những khác biệt trong tương
quan với địa bàn sinh sống của người được hỏi. Có sự nhấn mạnh đến giá trị
con cái gắn liền với những nguyên nhân bên trong, vốn có mang tính mục
đích như: sự thỏa mãn nhu cầu tình cảm của cha mẹ, củng cố hôn nhân...Bên
cạnh đó cũng có sự chuyển đổi giá trị con cái gắn liền với những nguyên nhân
bên ngoài, xem con cái như là phương tiện, nguồn lao động để giúp đỡ gia
đình.
17


Xem xét thái độ của người được hỏi về sinh con trong tương quan với việc
có sống chung hay không sống chung với bố mẹ hai bên, cho thấy dường như
sức ép về tâm lý từ phía bố mẹ hai bên đến việc sinh đẻ của người được hỏi
không còn gay gắt như trước đây nữa.
Chƣơng IV: HÀNH VI TÁI SINH SẢN VÀ SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
TRÁNH THAI
Trong chương IV, các phân tích theo hướng tiếp cận lý thuyết hành vi. Sinh
đẻ là hành vi có ý thức của con người trong việc thực hiện chức năng tái sinh
sản. Nhu cầu sinh con vì thế được hình thành nên trong mối quan hệ trực tiếp
với các yếu tố tinh thần - văn hóa.
4.1. Hiểu biết và sử dụng các biện pháp tránh thai

Việc hiểu biết, tiếp nhận các biện pháp tránh thai (BPTT) để tự chủ trong
hành vi tái sinh sản nhằm hạn chế sinh đẻ, được xem là chỉ báo quan trọng ghi
nhận các giá trị mới từ đời sống của người dân trong quá trình thực hiện kế
hoạch hóa gia đình. Tỷ lệ sử dụng BPTT đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ
(15 - 49) đã kết hôn cả nước tại thời điểm 1/4/2012 là 66%, nhưng tỉ lệ sử
dụng BPTT bất kỳ và sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại ở nông thôn
Việt Nam lại cao hơn hẳn thành thị từ 3-5%. (Tổng cục Thống kê, 2013)
Kết quả khảo sát năm 2014 tại Hà Nội, cho biết người được hỏi áp dụng
các BPTT hiện đại nhiều hơn hẳn so với các biện pháp truyền thống.Trong
điều kiện hiện nay, khi việc tiếp cận sử dụng BPTT là thuận tiện, cũng như
các hiểu biết về BPTT ngày càng được nâng cao, các cặp vợ chồng nếu không
chịu một sức ép nào đó thì hoàn toàn có thể điều tiết được hành vi sinh đẻ của
mình, trong đó giãn cách giữa các lần sinh là tương đối dễ thực hiện.
4.2. Hành vi tái sinh sản
Hành vi tái sinh sản là thể hiện thái độ của cá nhân về số lần sinh, mang
thai và sinh đẻ. Với ý nghĩa đó, hành vi tái sinh sản ở luận án này sẽ được
xem xét từ góc độ sinh thêm con khi chưa đủ số con trai và con gái như mong
muốn của các cặp vợ chồng với trong tương quan với các biến số về: độ tuổi,
nghề nghiệp, trình độ học vấn và sống chung với bố mẹ chồng/vợ hai bên hay
sống riêng.
Kết quả khảo sát cho thấy, lý do “đẻ thêm con để tránh rủi ro” là một lý
do đáng được quan tâm về hành vi sinh đẻ của các cặp vợ chồng được khảo
sát tại Hà Nội. 8,0% nam giới được hỏi và 7,4% nữ đẻ thêm con để tránh rủi
ro. Tỷ lệ này khá tương đồng giữa những người được hỏi ở đô thị (7,9%) và
nông thôn (7,6%).
Mặc dù lý do mà các cặp vợ chồng được hỏi đưa ra có tỷ lệ không cao,
nhưng tỷ lệ này cũng đáng được quan tâm trong bối cảnh điều kiện kinh tế xã hội ở thủ đô đã có những thay đổi tiến bộ, các dịch vụ xã hội đã và đang
phát triển.
4.2.1. Hành vi sinh đẻ - áp lực từ phía các thành viên trong gia đình
Các kết quả nghiên cứu định tính, thông quan các phỏng vấn sâu và nghiên

cứu trường hợp (case study) cho thấy, cả nam và nữ giới được hỏi đều cho
biết rằng họ cảm thấy áp lực từ phía các thành viên gia đình trong việc phải có
cả con trai, con gái. Tuy nhiên, áp lực này thể hiện ở nhiều hình thức và mức
độ khác nhau, thường đặt nặng hơn lên vai người phụ nữ.

18


Đối với những người chỉ sinh con một bề (một bề gái hoặc trai), áp lực về
việc thỏa mãn về giới tính con cái khiến nhiều trường hợp đã phá vỡ những
chuẩn mực về quy mô gia đình nhỏ 1 hoặc 2 con để sinh thêm con.
Đối với người phụ nữ, phần lớn mỗi người đều nhận thức được rằng họ
không nên có nhiều con, nhưng thực tế họ thường sinh nhiều con hơn số con
lý tưởng của họ vì họ muốn có cả con trai lẫn con gái, đặc biệt là con trai.
68,4% sống chung và 55,6% không sống chung với bố mẹ nhất thiết phải đẻ
con trai; 21,8% sống chung và 7,7% không sống chung nhất quyết đẻ để có
con gái.
4.2.2. Hành vi sinh đẻ - áp lực từ phía cộng đồng
Hành vi phải sinh thêm con còn bị chi phối bởi áp lực từ phía cộng đồng
lên người phụ nữ và các cặp vợ chồng. Một số người được hỏi đã bày tỏ áp
lực từ phía cộng đồng thường được thể hiện dưới dạng châm chọc hay có
những nhận xét làm giảm giá trị, cũng như gây tổn thương sâu sắc cho những
gia đình không có con trai chẳng kém áp lực từ phía gia đình. Bởi áp lực cộng
đồng được thể hiện ở nơi công cộng, những người phải chịu áp lực này
thường cảm thấy bị xúc phạm và mất mặt trước người khác, trong khi áp lực
từ phía gia đình thường kín đáo và riêng tư hơn.
“Nếu không đẻ được con trai thì có áp lực cho cả phụ nữ và nam giới, nhưng
phụ nữ vất vả hơn. Vì nghĩ đi ra ngoài người ta có con trai, chồng mình đi ra
ngoài thì rón rén. Lúc đi chơi thì bạn bè cười, nhà bạn có con trai mình không
có con trai thì chả dám nói gì cả” (Nữ 34 tuổi, ngoại thành Hà Nội).

4.2.3. Giá trị đứa con - nhân tố tác động đến hành vi sinh đẻ
Theo kết quả của Tổng ĐTDS 1999, ở Việt Nam 77,0% người từ 60 tuổi
trở lên sống chung với con cháu; 10,7% người 65 tuổi trở lên sống một mình.
Ở Hà Nội, 63,0% các cụ già về hưu vẫn còn hy vọng có nguồn trợ cấp từ
con cái, chỉ có 36,0% tự túc được và 1,0% dựa vào các nguồn khác. Chỉ có
17,0% người cao tuổi sống trong gia đình 1 thế hệ (chỉ có người già), 83,0%
các người cao tuổi sống trong gia đình 2 hoặc 3 thế hệ trở lên. Trong một xã
hội nơi mà nguồn an sinh cho người già chủ yếu đến từ gia đình, thì sự trông
đợi của cha mẹ khi về già có thể “dựa” vào con cái là chỗ dựa không chỉ về
vật chất mà cả sự ổn đinh về tinh thần.
Kết quả nghiên cứu 2014 cho thấy, 81,1% ý kiến cho rằng “con cái là niềm
vui về tinh thần”; 38,8% cho rằng “con cái là chỗ dựa về kinh tế”; 23,8% cho
rằng “con cái mang lại niềm tự hào cho bố mẹ”; 14,3% cho rằng “có con cái
để nối nghiệp và thừa kế tài sản”…
Hành vi tái sinh sản của các cặp vợ chồng còn được xem xét khi lưu ý đến
nguyện vọng muốn có thêm con của họ. 80,6% người được hỏi ở đô thị và
70,2% ở nông thôn mong muốn con cái của mình sau lập gia đình sẽ sinh 2
con. Có 18,0% người được hỏi ở đô thị mong muốn con cái mình sau này khi
kết hôn sẽ sinh 3 con. Mong muốn sinh 3 con có phần cao hơn đối với những
người được hỏi ở nông thôn so với đô thị (23,4%).
4.3. Tác động của một số yếu tố kinh tế - xã hội đến thái độ và hành vi tái
sinh sản của ngƣời dân Hà Nội.
4.3.1. Tác động của yếu tố kinh tế
Kết quả nghiên cứu 2005 tại Hà Nội: 30% các đôi vợ chồng thừa nhận vai
trò của yếu tố kinh tế tác động đến sinh đẻ của các cặp vợ chồng. 16,5% số
19


người được hỏi “hoàn toàn đồng ý”; 14,2% cho biết “nhìn chung đồng ý” và
14,2% còn “lưỡng lự” không bày quan điểm; 23,3% chỉ “đồng ý một phần”;

31,5% “không đồng ý” khi điều kiện kinh tế cho phép sẽ đẻ hơn 2 con.
4.3.2. Tác động của các yếu tố văn hóa - xã hội
Trình độ văn hóa của từng người khác nhau có tác động đến hành vi sinh
đẻ khác nhau. Trình độ văn hóa, đặc biệt của phụ nữ là một chỉ tiêu của mức
độ hiện đại hóa và địa vị xã hội của người phụ nữ. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, nhóm tuổi đang tham gia mạnh vào quá trình sinh đẻ là nhóm (25-29
tuổi) số con trung bình của những người có trình độ học vấn phổ thông Trung
học là 1,33 con; trình độ Cao đẳng/Đại học là 1,0 con, thấp nhất so với những
người có trình độ học vấn khác. Đối với nhóm tuổi (30-34 tuổi), số con trung
bình của cả hai nhóm PTTH và CĐ/ĐH này là 1,66 con.
Có sự ảnh hưởng của thiết chế tôn giáo đến hành vi sinh sản như Hồi
giáo nhấn mạnh rất nhiều đến giá trị con trai và nam giới trong xã hội; đạo Tin
lành khuyến khích sinh đẻ ít, gia đình nhỏ; đạo Thiên chúa giáo không chủ
trương hạn chế sinh đẻ bằng sự can thiệp của các BPTT…
Áp lực xã hội cũng là một trong yếu tố tác động đến hành vi tái sinh sản
của người dân. 57,0% số người được hỏi tại một cuộc khảo sát tại Hà Nội
đồng ý rằng nếu như không chịu áp lực từ phía xã hội, thì học sẽ sinh nhiều
hơn 2 con. Đối với việc sinh nhiều hơn 2 con, áp lực từ phía xã hội tăng dần
theo độ tuổi.
4.3.3. Tác động của giá trị đứa con
Nguồn lực gia đình bao gồm thu nhập, tài sản, thời gian, lao động và sức
khỏe của các thành viên. Trong các xã hội nông nghiệp truyền thống, con cái
là nguồn lực đảm bảo cho sự tồn tại của gia đình trước những rủi ro về mùa
vụ, thiên tai, hạn hán. Giá trị con cái được nhấn mạnh với các lợi ích tiêu
dùng, lao động sản xuất và nguồn bảo hiểm lúc tuổi già.
Theo Caldwell (1976) trong các xã hội nông nghiệp truyền thống, dòng
chảy của cải từ con cái đến cha mẹ là động lực dẫn đến mức sinh cao và chỉ
đến khi giá trị kinh tế của đứa con không còn ý nghĩa, do ảnh hưởng của hiện
đại hóa, dòng chảy của cải đó sẽ quay theo chiều ngược lại, từ cha mẹ đến con
cái.

4.3.4. Tác động từ gia đình
Hơn 80% số người được hỏi cho rằng việc chăm sóc con cái tốt và các
thành viên khác của gia đình có điều kiện phát triển là quan trọng hơn việc gia
đình có mấy người con. Tuy nhiên, cũng vẫn còn một bộ phận không nhỏ số
người được hỏi cho rằng “nhà đông con là nhà có phúc” (Viện Tâm lý, 2005)
Các kết quả nghiên cứu định tính cho thấy, Tâm lý phải “có nếp, có tẻ” vẫn
còn ám ảnh các cặp vợ chồng chi phối hành vi sinh đẻ của họ.
4.3.5. Địa vị phụ nữ
Dưới chế độ mới, địa vị phụ nữ đã được cải thiện rõ rệt và đã có vai trò
đáng kể trong các hoạt động kinh tế, xã hội…Tuy nhiên, do ảnh hưởng còn
nặng nề của nhiều giá trị truyền thống, trong gia đình phụ nữ tiếp tục đóng vai
trò thứ yếu so với nam giới.
Mặc dù vị thế phụ nữ có liên quan mật thiết với địa vị kinh tế - xã hội nói
chung, song sự phân tích riêng các yếu tố như nghề nghiệp cho thấy ảnh
20


hưởng độc lập của nhân tố này. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy phụ
nữ đi làm luôn có mức sinh thấp hơn so với phụ nữ không gia nhập lực lượng
lao động (thất nghiệp, phụ thuộc không đi làm việc). Ngược lại quy mô gia
đình nhỏ tạo điều kiện cho người phụ nữ đi làm, tiết kiệm được nhiều thời
gian để làm những công việc khác thay vì phải sinh đẻ và nuôi dạy con cái.
Mối tương quan này vẫn tồn tại ngay cả khi ảnh hưởng của thu nhập, học vấn,
và địa vị kinh tế - xã hội nói chung được kiểm soát về mặt thống kê. Kết quả
trên phản ánh vị thế khác nhau của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã
hội.
Những nghiên cứu đánh giá gần đây cũng cho thấy mối tương quan thuận
chiều giữa tỷ lệ chấp thuận sử dụng các BPTT và mức độ bàn bạc, trao đổi vợ
chồng, có tác động đến thái độ và hành vi tái sinh sản của các cặp vợ chồng.
Tiểu kết chƣơng IV

Sinh đẻ là hành vi có ý thức của con người trong việc thực hiện chức năng
tái sinh sản. Nhu cầu sinh con vì thế được hình thành nên trong mối quan hệ
trực tiếp với các yếu tố tinh thần-văn hóa. Nhưng mặt khác ở trình độ phát
triển chưa đủ cao của các yếu tố tinh thần - văn hóa thì hành vi tái sinh sản
không chỉ là kết quả trực tiếp của nhu cầu về con cái, mà còn có thể chịu ảnh
hưởng của những điều kiện vật chất cho phép hoặc cản trở việc thực hiện nhu
cầu sinh con trong phạm vi không gian và thời gian nhất định.
Trong các biến số trung gian có tác động đến mức sinh ở Việt Nam có
hai yếu tố căn bản nhất có tác động lớn là sự giải thể gia đình do góa và
chương trình KHHGĐ, trong đó có việc sử dụng các biện pháp tránh thai. Kết
quả khảo sát năm 2014 tại Hà Nội, cũng cho thấy người được hỏi áp dụng các
biện pháp tránh thai hiện đại nhiều hơn hẳn so với các biện pháp truyền thống.
Do tầm quan trọng của đứa con trai để nối dõi tông đường, đã dẫn tới
một hệ lụy là ngay tại Hà Nội, nơi được xem là địa bàn có đời sống kinh tế văn hóa - xã hội khá cao so với cả nước, vẫn còn một số người được hỏi cho
rằng khi trong gia đình chưa có con trai nhất thiết phải đẻ để có được con trai.
Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc duy trì mô hình gia đình chỉ có 1
hoặc 2 con mà nhà nước đang đề ra. Ý nguyện, quyết tâm đẻ cho bằng được
đến khi có con trai của nữ giới cao hơn nam giới. Bên cạnh những lý do từ
khía cạnh văn hóa của việc sinh con và sự ưa thích sinh con trai, còn có rất
nhiều áp lực chi phối đến hành vi sinh đẻ của các cặp vợ chồng trong gia đình
như: áp lực từ phía gia đình, áp lực từ các chuẩn mực của cộng đồng...
Mặc dù đa thê đã bị coi là bất hợp pháp ở Việt Nam kể từ năm 1959,
nhưng trong thực tế tình trạng nam giới lấy vợ hai nếu vợ hợp pháp không
sinh được con trai vẫn xảy ra ở một số địa phương. Hành vi phải sinh thêm
con còn bị chi phối bởi áp lực từ phía cộng đồng lên người phụ nữ và các cặp
vợ chồng.
Một trong những giá trị truyền thống khuyến khích có nhiều con trong
gia đình là giá trị bảo hiểm lúc tuổi già. Hiện nay, có nhiều quan niệm cho
rằng trong thời kỳ chuyển sang cơ chế thị trường, các hệ thống phúc lợi xã hội
và hệ thống an sinh cho người già không còn được bao cấp như thời gian

trước, đặc biệt là đối với những người lao động nông nghiệp, nên đã dẫn tới
tình trạng gia tăng mức sinh ở nông thôn.
21


×