Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Cảnh huống ngôn ngữ ở huyện sìn hồ, tỉnh lai châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.18 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ TẠO ĐẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

NGUYỄN THÁI DŨNG

CẢNH HUỐNG NGÔN NGỮ
Ở HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60220102

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

GS.TS Trần Trí Dõi
TS Bùi Thanh Hoa

SƠN LA - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu kết quả nêu trong
Luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Thái Dũng


LỜI CẢM ƠN


Luận văn đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của GS.TS
Trần Trí Dõi ,TS. Bùi Thanh Hoa. Nhân đây tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới thầy giáo Trần Trí Dõi, cô giáo Bùi Thanh Hoa ngƣời đã tận tình giúp
đỡ để tác giả hoàn thành Luận văn này.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới BGĐ, các thầy cô giáo tổ
Văn - Sử Trung tâm GDTX Sìn Hồ và bạn bè đồng nghiệp đã tận tình quan
tâm, giúp đỡ, cung cấp nhiều thông tin và tƣ liệu quý giá cho Luận văn.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy, cô giáo
những ngƣời đã trực tiếp giúp tác giả nâng cao vốn kiến thức ngôn ngữ trong
thời gian theo học chƣơng trình thạc sĩ ngôn ngữ Việt Nam khoá 2013 – 2015
tại Trƣờng Đại học sƣ phạm Sơn La.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu bản thân tác giả đã có nhiều cố
gắng, song Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy,
cô giáo và bạn bè đồng nghiệp chỉ dẫn và góp ý.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thái Dũng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 9
6. Đóng góp mới ................................................................................................ 9
7. Bố cục luận văn ........................................................................................... 10
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ......................................... 11
1.1. Khái quát chung về cảnh huống ngôn ngữ .......................................... 11

1.1.1. Khái niệm “cảnh huống ngôn ngữ”................................................... 11
1.1.2. Các nhân tố hình thành cảnh huống ngôn ngữ.................................. 12
1.1.3. Sự phân loại cảnh huống ngôn ngữ................................................... 14
1.2. Khái quát chung về chính sách ngôn ngữ ............................................ 17
1.2.1. Khái niệm chính sách ngôn ngữ........................................................ 17
1.2.2. Các loại hình chính sách ngôn ngữ phổ biến và đặc điểm của chúng .... 19
2.1. Những đặc điểm về địa lí tự nhiên ........................................................ 20
2.2. Kinh tế văn hóa xã hội ............................................................................. 21
2.3. Một số đặc điểm về các dân tộc ở huyện Sìn Hồ .................................... 24
2.3.1. Văn hóa dân tộc Thái .......................................................................... 24
2.3.2. Văn hóa dân tộc Mông....................................................................... 26
2.3.3. Văn hóa dân tộc Dao .......................................................................... 28
2.3.4. Văn hóa dân tộc Mảng ........................................................................ 31
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 31


Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA CẢNH HUỐNG NGÔN NGỮ Ở
HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU XÉT THEO TIÊU CHÍ ĐỊNH
LƢỢNG VÀ ĐỊNH CHẤT ........................................................................... 33
2.1. Số lƣợng các ngôn ngữ ở huyện Sìn hồ tỉnh Lai Châu ....................... 33
2.1.1. Số lƣợng ngƣời nói mỗi thứ tiếng trong quan hệ với số lƣợng
chung của cƣ dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu ......................................... 38
2.1.2. Số lƣợng các phạm vi giao tiếp của mỗi ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ,
tỉnh Lai Châu trong quan hệ với số lƣợng chung các phạm vi giao tiếp ...... 42
2.1.3. Số lƣợng các ngôn ngữ nổi trội về mặt chức năng ở huyện Sìn Hồ,
tỉnh Lai Châu ............................................................................................... 45
2.2. Đặc điểm cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai
Châu xét theo tiêu chí định chất ............................................................... 52
2.2.1. Đặc điểm nguồn gốc của các ngôn ngữ ở huyện Sìn hồ, tỉnh Lai Châu . 52
2.2.2. Tƣơng quan về chức năng giữa các ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ,

tỉnh Lai Châu ............................................................................................... 53
2.2.3. Tổng kết một số đặc điểm cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn
Hồ, tỉnh Lai Châu theo tiêu chí định lƣợng và định chất ............................ 64
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 65
Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM CỦA CẢNH HUỐNG NGÔN NGỮ Ở
HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU XÉT THEO TIÊU CHÍ ĐỊNH
GIÁ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH NGÔN
NGỮ - XÃ HỘI Ở HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU. ......................... 67
3.1. Thái độ đối với tiếng mẹ đẻ của các dân tộc ở huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu......................................................................................................... 67
3.1.1. Trong đời sống hàng ngày................................................................. 67
3.1.2. Trong văn hóa ................................................................................... 69
3.1.3. Trong giáo dục .................................................................................. 72


3.2. Thái độ đối với tiếng phổ thông của các dân tộc ở huyện Sìn Hồ,
tỉnh Lai Châu. ................................................................................................ 74
3.2.1. Trong đời sống hàng ngày................................................................. 74
3.2.2. Trong văn hóa ................................................................................... 75
3.2.3. Trong giáo dục .................................................................................. 76
3.3. Ý kiến của đồng bào các dân tộc thiểu số ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai
Châu về việc sử dụng ngôn ngữ của họ ....................................................... 76
3.4. Một số kiến nghị về chính sách ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu ........................................................................................................ 78
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 81
KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 88


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


DTTS

: Dân tộc thiểu số

CSNN

: Chính sách ngôn ngữ

CHNN

: Cảnh huống ngôn ngữ

CSDT

: Chính sách dân tộc


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1:

Thành phần dân tộc ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu .............. 34

Bảng 2.2:

Phân tích các thành phần dân tộc ở xã Lùng Thàng ............... 35

Bảng 2.3:

Thành phần dân tộc xã Pa Tần ở huyện Sìn Hồ ..................... 36


Bảng 2.4:

Số lƣợng ngƣời Thái ở các xã, thị trấn huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu .............................................................................. 37

Bảng 2.5:

Số liệu về cƣ dân dân tộc thiểu số ở huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu ....................................................................... 39


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm qua, đƣợc sự quan tâm của Đảng, Nhà nƣớc, nhiều
chƣơng trình, dự án, chính sách đƣợc ban hành nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế,
xã hội vùng đồng bào dân tộc, đặc biệt các dân tộc ít ngƣời. Dƣới sự lãnh đạo,
chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể, sự nỗ lực vƣơn lên và đồng
tình ủng hộ của nhân dân các dân tộc trong huyện việc triển khai thực hiện
các chính sách đã đạt đƣợc nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong xoá đói
giảm nghèo. Kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc có bƣớc phát triển khá, đời
sống vật chất và tinh thần của ngƣời dân không ngừng đƣợc cải thiện, các dân
tộc thiểu số hoà nhập nhanh chóng vào sự phát triển chung của huyện.
Những thành tựu về tăng trƣởng, xoá đói giảm nghèo là sự gia tăng
khoảng cách giữa các nhóm dân tộc trong huyện, bên cạnh những nhóm dân
tộc có trình độ phát triển khá, tận dụng tốt sự hỗ trợ từ các chính sách nhà
nƣớc để vƣơn lên thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. Bên cạnh đó vẫn còn có
những nhóm dân tộc có trình độ phát triển thấp, tỷ lệ đói nghèo cao, trình độ
dân trí thấp, tập quán sinh hoạt, sản xuất lạc hậu, sống cuộc sống du canh - du
cƣ, phụ thuộc vào tự nhiên. Điển hình cho nhóm dân tộc này là các dân tộc:

Mảng, Nhắng....
Huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu là huyện có nhiều dân tộc sống xen kẽ
nhau, có những ảnh hƣởng lẫn nhau về mặt ngôn ngữ và chữ viết. Mỗi nhóm
ngôn ngữ đều có tính thống nhất, đƣợc phân bố trên những địa bàn nhất định
và có những chức năng xã hội khác nhau. Tiếng Việt từ lâu đã là ngôn ngữ
phổ thông của huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu dù việc sử dụng nó có thể không
đồng đều giữa các dân tộc, ở các lứa tuổi. Các dân tộc ở huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu sống xen kẽ nên hiện tƣợng một dân tộc sử dụng hai hoặc hơn hai
ngôn ngữ (song ngữ và đa ngữ) là tƣơng đối phổ biến. Trong tình trạng đan

1


xen các tộc ngƣời, thì bên cạnh việc sử dụng tiếng Kinh đƣợc coi là tiếng phổ
thông, một vài nhóm ngôn ngữ của các dân tộc khác ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai
Châu nhƣ nhóm ngôn ngữ Tày - Thái cũng đã đƣợc sử dụng song song trong
giao tiếp hàng ngày. Từ lâu tiếng Thái đã thực sự trở thành thứ tiếng nói
chung không chỉ trong các dân tộc Thái mà ngƣời Hoa, ngƣời Dao, ngƣời Lự,
ngƣời Mảng… và cả ngƣời Kinh miền núi cũng đều sử dụng nhóm ngôn ngữ,
Tày - Thái nhƣ ngôn ngữ phổ biến trong khu vực, và tiếng Thái đƣợc coi là
ngôn ngữ của vùng. Theo kết quả khảo sát tại 2 xã một thị trấn về điều tra
chuyên sâu về quá trình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng phổ thông của 2 dân tộc
ít ngƣời ở Huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, chúng tôi nhận thấy một tình trạng
khá rõ là địa bàn sử dụng tiếng mẹ đẻ đang có chiều hƣớng bị thu hẹp lại ngay
cả ở trên quê hƣơng của chính các dân tộc thiểu số này. Tiếng nói các dân tộc
thiểu số đang chịu ảnh hƣởng trực tiếp của quá trình tiếp biến văn hoá, nó đã
bị biến đổi, lai tiếng kinh vào trong quá trình sử dụng tiếng mẹ đẻ. Đa số
ngƣời dân đã sử dụng tiếng phổ thông trong sinh hoạt, giao tiếp nhất là đối
với lớp trẻ. Việc sử dụng tiếng mẹ đẻ trong đời sống phần lớn là tập trung ở
tầng lớp trung cao tuổi trong làng bản, bởi ở họ, nó đã đƣợc hình thành nhƣ

một thói quen lâu đời. Song rõ ràng là với tốc độ giao lƣu, biến đổi trong cuộc
sống nhƣ hiện nay, tiếng mẹ đẻ của một số dân tộc thiểu số không phải dân
tộc kinh ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đang đứng trƣớc nguy cơ bị mai một,
khi mà trong đời sống cộng đồng có không ít ngƣời đã bỏ mất thói quen sử
dụng, thậm chí không sử dụng đƣợc thành thạo tiếng mẹ đẻ của mình. Nói
cách khác, dù tiếng mẹ đẻ vẫn đang tồn tại trong một cộng đồng dân tộc với
vai trò là tiếng nói không thể thiếu của cộng đồng này và có vai trò nhƣ một
nhân tố vô cùng quan trọng để khu biệt dân tộc này với dân tộc khác, nhƣng
mức độ thể hiện, vai trò của tiếng mẹ đẻ trong đời sống cộng đồng các dân tộc
thiểu số ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã và đang bị phai mờ.

2


Thực tế cho thấy, ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, ngoài sự tiếp thu các
loại văn hoá khác thì việc tiếp thu ngôn ngữ phổ thông ngày càng diễn ra
mạnh mẽ. Các thế hệ trẻ hàng ngày đƣợc học tập văn hoá bằng tiếng Việt,
đƣợc nghe nhìn và thƣởng thức văn học nghệ thuật cũng đều bằng tiếng Việt.
Có thể nói, trong đời sống hàng ngày, tiếng phổ thông đã chiếm quá nửa với
tƣ cách là phƣơng tiện giao tiếp. Chính vì thế, trong giao tiếp với các thành
viên trong gia đình, ngƣời ta cũng dần chuyển sang nói tiếng Việt. Một số bộ
phận thanh thiếu niên, sau khi thoát li gia đình đi học tập hay đi công tác trở
về nhà đều không muốn nói bằng tiếng mẹ đẻ của mình nữa vì cảm thấy
ngƣợng nghịu do lâu ngày ít sử dụng nên khiến nó bị mai một. Bởi vậy để
diễn đạt đƣợc ý của mình dễ dàng và thuận tiện, phong phú hơn, ngƣời ta đã
thích sử dụng tiếng phổ thông hơn. Do việc giao lƣu thƣờng xuyên và sự phát
triển đời sống xã hội của các dân tộc cùng với các loại phƣơng tiện thông tin
đại chúng ngày càng phong phú, đa dạng thì một điều không thể tránh khỏi là
sự từ bỏ tiếng mẹ đẻ và làm biến đổi tiếng mẹ đẻ. Từng ngày, từng giờ, các
thứ tiếng khác nhau đƣợc tiếp xúc với nhau, dẫn đến có sự vay mƣợn từ ngữ

giữa các ngôn ngữ. Điều này đã dẫn đến sự tạo ra trong ngôn ngữ các dân tộc
thiểu số nói chung nhiều loại từ phiên âm, tiếng lóng hoặc các từ ngữ, cách
nói đƣợc vay mƣợn từ tiếng Việt, thậm chí cả các từ ngữ tiếng nƣớc ngoài.
Bản thân tác giả Luận văn này đƣợc công tác trên mảnh đất Sìn Hồ Lai Châu 13 năm, vùng đất hội tụ của trên 15 dân tộc anh em cùng sinh sống
và đƣợc coi là quê hƣơng cách mạng. Đây chính là điều kiện để tác giả Luận
văn đi sâu nghiên cứu, khảo sát tìm hiểu “Cảnh huống ngôn ngữ ở huyện
Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu” bằng tất cả niềm say mê, niềm tự hào với quê hƣơng.
Với đề tài “Cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu”. Luận
văn sẽ đi sâu vào tìm hiểu đặc điểm cảnh huống ngôn ngữ và đời sống kinh tế
- văn hoá - xã hội của các dân tộc sinh sống tại nơi đây để từ đó nêu kiến nghị

3


những giải pháp cụ thể nhằm bảo tồn và gìn giữ tiếng mẹ đẻ của các dân tộc
thiểu số, phục vụ cho chính sách phát triển văn hoá giáo dục của huyện Sìn
Hồ, tỉnh Lai Châu nói riêng, của đất nƣớc ta nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Cảnh huống ngôn ngữ của một quốc gia nói chung hay của một khu
vực nói riêng đƣợc hình thành trong suốt một thời gian dài chứ không chỉ
trong một vài năm. Cảnh huống ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng trong
việc đƣa ra các chính sách ngôn ngữ. Nhận thức đƣợc điều này, trong suốt
mấy chục năm gần đây, các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng nhƣ ở Việt
Nam đã hết sức quan tâm nghiên cứu vấn đề này nhằm đƣa ra đƣợc những cơ
sở lý thuyết chung phục vụ cho việc nghiên cứu ngôn ngữ nói chung và phát
triển xã hội nói riêng. Đề cập đến cảnh huống ngôn ngữ không thể không
nhắc tới các tác giả nƣớc ngoài nhƣ: V.YU.Mikhailchenko, A.E.Karlinskij,
Iu.A.Zhluktenko, V.C.Rubalkin, V.A.Tkachenko…Trong nƣớc có thể kể đến:
Trần Trí Dõi với các công trình:“Nghiên cứu các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam”, “Thực trạng giáo dục ở vùng dân tộc miền núi một số tỉnh của Việt

Nam”, Khổng Diễn với “Dân số và dân số tộc ngƣời ở Việt Nam”, “Vấn đề
chữ viết của các dân tộc thiểu số”; Tạ Văn Thông (chủ biên) - “Tìm hiểu ngôn
ngữ các dân tộc ở Việt Nam”; Nguyễn Đức Tồn với “Cảnh huống và chính
sách ngôn ngữ ở Liên bang Nga” (Tạp chí Ngôn ngữ, số 1&2 năm 2000),
Những cơ sở lí luận và thực tiễn khi xây dựng chính sách ngôn ngữ của Việt
Nam trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế (Tạp chí
Ngôn ngữ số 1 năm 2010), hay công trình cấp bộ "Nghiên cứu về tiếng Chăm
và chữ viết Chăm ở An Giang" do GS Nguyễn Văn Khang chủ nhiệm, mới
đƣợc nghiệm thu đánh giá xuất sắc năm 2009,...
Việt Nam là một quốc gia của 54 dân tộc cùng chung sống hòa thuận,
trong đó dân tộc Kinh chiếm 86% dân số; 53 dân tộc còn lại có số lƣợng dao

4


động trên dƣới một triệu ngƣời nhƣ Tày, Nùng, Thái, Mƣờng, Khmer cho đến
vài trăm ngƣời nhƣ các dân tộc Ơ Đu và Brâu. Dân tộc Kinh sống rải rác ở
trên khắp lãnh thổ, nhƣng tập trung nhiều nhất ở các đồng bằng và châu thổ
các con sông. Họ là chủ nhân của nền văn minh lúa nƣớc. Đa số các dân tộc
còn lại sinh sống ở miền núi và trung du, trải dài từ Bắc vào Nam; hầu hết
trong số họ sống xen kẽ nhau, điển hình là cộng đồng dân tộc thiểu số ở phía
Bắc và Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên... 54 dân tộc sinh sống trên đất nƣớc Việt
Nam có ngôn ngữ riêng và nền văn hóa truyền thống đặc sắc của mình. 24
dân tộc có chữ viết riêng nhƣ: Thái, Mông, Tày, Nùng, Khmer, Gia Rai, Êđê,
Hoa, Chăm… Một số chữ viết này đang đƣợc sử dụng trong các trƣờng học.
Trong quá trình phát triển, tiếng Việt đƣợc chọn là ngôn ngữ chung cho
các dân tộc. Trong hệ thống giáo dục từ mẫu giáo đến bậc đại học, tiếng Việt là
ngôn ngữ phổ thông, là công cụ để truyền thụ kiến thức; đồng thời cũng là công
cụ giao tiếp, quản lý Nhà nƣớc của các dân tộc trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Nhƣ chúng ta đều biết, ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng

nhất của ý thức giác ngộ dân tộc và cũng là phƣơng tiện thống nhất dân tộc. Ở
các quốc gia đa dân tộc, đa văn hoá và đa ngôn ngữ nhƣ Việt Nam, cùng với
vấn đề dân tộc và tôn giáo, ngôn ngữ càng trở nên có vai trò hết sức quan trọng.
Chính vì thế, cho dù ở bất kì quốc gia nào, nhà nƣớc cũng luôn quan
tâm đến chính sách ngôn ngữ, và chính sách ngôn ngữ luôn luôn không thể
thiếu cùng với chính sách dân tộc. Nói đến chính sách ngôn ngữ là nói đến hệ
thống các chủ trƣơng, biện pháp của nhà nƣớc nhằm tác động có định hƣớng
đến sự phát triển cũng nhƣ sự hành chức của các ngôn ngữ trong một quốc
gia. Và mỗi quốc gia luôn cần phải có một chính sách ngôn ngữ phù hợp với
từng giai đoạn lịch sử. GS Nguyễn Đức Tồn đã chỉ ra rằng có chính sách ngôn
ngữ đúng thì đất nƣớc mới ổn định, thống nhất và phát triển bền vững. Nếu
chính sách ngôn ngữ mắc sai lầm thì đất nƣớc sẽ bị rơi vào tình trạng rối loạn,

5


thậm chí có thể là nguyên nhân gây ra các cuộc xung đột sắc tộc đẫm máu
làm tan rã cộng đồng quốc gia nhƣ chúng ta đã từng chứng kiến xảy ra ở các
nƣớc nhƣ Liên Xô và Nam Tƣ...trƣớc đây [12].
Ngay từ khi thành lập, vấn đề về ngôn ngữ đã đƣợc Đảng Cộng sản
Việt Nam hết sức chú ý, chẳng hạn, trong đề cƣơng văn hoá năm 1943 của
Đảng. Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn chú trọng đến chính sách
ngôn ngữ, coi ngôn ngữ là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc củng cố
nền độc lập, khối đại đoàn kết dân tộc và thống nhất đất nƣớc. Điều này đã
đƣợc ghi rõ trong Hiến pháp, trong nhiều nghị quyết và các văn bản pháp quy
của Nhà nƣớc, đặc biệt trong Quyết định 53/CP (22/2/1980) của Hội đồng
Chính phủ.
Hiện nay, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc và hội
nhập quốc tế (giai đoạn 2015- 2020), vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp
giữa các dân tộc trong một lãnh thổ và giữa các dân tộc trên thế giới đã và

đang có những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc. Tình hình này đã có sự tác động
rất lớn đến cảnh huống ngôn ngữ của các nƣớc, trong đó có Việt Nam.
Nói đến cảnh huống ngôn ngữ, nhƣ các nhà ngôn ngữ học đã chỉ ra, là
nói đến toàn bộ các hình thái tồn tại của một ngôn ngữ, hay toàn bộ các ngôn
ngữ trong mối quan hệ tƣơng hỗ về lãnh thổ - xã hội và sự tƣơng tác về mặt
chức năng, trong giới hạn của một khu vực địa lí, hay một thực thể hành chính
– chính trị nhất định. Do cảnh huống ngôn ngôn ngữ của một quốc gia thay
đổi nên chính sách ngôn ngữ của quốc gia ấy cũng phải thay đổi theo cho phù
hợp. Bởi vậy việc nghiên cứu cảnh huống ngôn ngữ để phục vụ cho việc
hoạch định chính sách ngôn ngữ luôn luôn có tính thời sự.
Cho đến nay, ở Việt Nam nói chung, các công trình đã xuất bản trong
nƣớc chỉ nghiên cứu từng khía cạnh khác nhau của tình hình sử dụng một

6


ngôn ngữ nào đó hoặc một nhân tố nào đó tại một địa phƣơng nhất định trên
lãnh thổ Việt Nam.
Việc nghiên cứu toàn diện các vấn đề thuộc cảnh huống ngôn ngữ ở
một địa phƣơng có nhiều dân tộc cùng chung sống nhƣ huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu hầu nhƣ chƣa có.
Vì vậy chúng tôi chọn vấn đề “Cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ
tỉnh Lai Châu” để làm đề tài cho luận văn nhằm chỉ ra các đặc điểm và
những nhân tố ảnh hƣởng đến tình hình sử dụng ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ,
tỉnh Lai Châu. Từ đó, Luận văn cung cấp thêm các cứ liệu thực tế để góp
phần trong việc hoạch định chính sách ngôn ngữ phù hợp với địa phƣơng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các nhân tố cơ bản ảnh hƣởng đến việc
sử dụng ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu (trong đó tập trung vào

“nghiên cứu trƣờng hợp” tiếng Thái và tiếng Mông và tiếng dân tộc Mảng.
Tiếng Thái, tiếng Mông là ngôn ngữ của dân tộc có số dân chiếm tỷ lệ đông
nhất trong Huyện; Tiếng Thái, tiếng Mông là ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong
giao tiếp ở một số xã, với tƣ cách nhƣ ngôn ngữ vùng. Còn tiếng Mảng là
ngôn ngữ của ngƣời Mảng đại diện cho nhóm dân tộc đặc biệt ít ngƣời ở
huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu nhằm mục đích miêu tả các đặc điểm “Cảnh
huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu”. Trong quá trình nghiên
cứu, chúng tôi sẽ trực tiếp khảo sát 2 xã, 1 thị trấn của huyện Sìn Hồ, có các
dân tộc là đối tƣợng nghiên cứu trong luận văn để tìm hiểu kĩ hơn thực tế sử
dụng các ngôn ngữ nơi đây, cũng nhƣ ý kiến của các nhà quản lí và giáo
viên; thái độ, nguyện vọng của học sinh và đồng bào các dân tộc về vấn đề
dạy và học tiếng Việt và tiếng mẹ đẻ của mình nên nhƣ thế nào.

7


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số khía cạnh về “Cảnh huống
ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu”:
- Thực trạng sử dụng ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày của đồng bào
dân tộc thiểu số ở (bao gồm việc sử dụng tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ của dân
tộc khác trong các phạm vi giao tiếp khác nhau (trong phạm vi gia đình, làng
bản, ở trƣờng học, ở chợ, trong lễ hội…).
- Điều kiện và môi trƣờng văn hóa, giáo dục của đồng bào có quan hệ
trực tiếp tới thực tế sử dụng và bảo tồn ngôn ngữ.
- Thực trạng sử dụng ngôn ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân đối
với giáo viên và học sinh các cấp phổ thông trong huyện và thái độ ngôn ngữ
của giáo viên và học sinh nơi đây đối với việc sử dụng ngôn ngữ làm phƣơng
tiện truyền thụ kiến thức và vấn đề học tiếng mẹ đẻ.
Từ kết quả thu đƣợc trong các phạm vi nghiên cứu này chúng tôi thử đề

xuất một số giải pháp trong việc bảo tồn và phát triển tiếng mẹ đẻ của các dân
tộc thiểu số, vấn đề giáo dục và sử dụng tiếng Việt trong hoạt động giáo
dục và đời sống xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số ở huyện Sìn Hồ ,
tỉnh Lai Châu.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
.1. M c ích
Với đề tài “Cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu” mục
đích của luận văn là: Thứ nhất, nắm chắc tình hình thực tế của việc sử dụng
ngôn ngữ của dân tộc Thái và Mông, Mảng trong đời sống và các phạm vi
hoạt động khác nhau.
Thứ hai, để từ đó nêu kiến nghị những giải pháp cụ thể nhằm bảo tồn
và gìn giữ tiếng mẹ đẻ của các dân tộc thiểu số, phục vụ cho chính sách phát
triển văn hoá giáo dục của Lai Châu nói riêng, của đất nƣớc ta nói chung.
. . Nhiệm v nghiên cứu

8


- Tìm hiểu cơ sở lí thuyết có liên quan đến đề tài.
- Khảo sát và miêu tả tình hình sử dụng ngôn ngữ của ngƣời Thái và
Mông, Mảng ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Tìm hiểu thái độ và nguyện
vọng của họ đối với việc sử dụng ngôn ngữ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng những phƣơng pháp
nghiên cứu chủ yếu sau:
5.1. Phương pháp ngôn ngữ học iền dã
Phƣơng pháp này sử dụng các bảng hỏi, ghi âm, chụp ảnh, phỏng vấn...
để thu thập tƣ liệu về cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
5.2. Phương pháp thống kê
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để định lƣợng các yếu tố có liên quan

đến cảnh huống ngôn ngữ, từ đó có cơ sở để rút ra các nhận xét, kết luận về
hiện tƣợng đƣợc khảo sát.
5.3. Phương pháp miêu tả
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để miêu tả hoàn cảnh sử dụng ngôn
ngữ để thấy đƣợc sự chi phối của từng thông số cảnh huống ngôn ngữ đến
việc sử dụng ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu.
6. Đóng góp mới
6.1. Về lí luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần soi sáng những vấn đề lí
luận chung về cảnh huống ngôn ngữ vốn mới đƣợc nghiên cứu chủ yếu ở
nƣớc ngoài, từ đó góp phần xây dựng chuyên ngành ngôn ngữ học xã hội ở
nƣớc ta. Luận văn có thể mang lại những kinh nghiệm nghiên cứu quý cho
những ngƣời quan tâm trong lĩnh vực này. Luận văn góp phần thực hiện chính
sách ngôn ngữ dân tộc của Đảng và nhà nƣớc về giải quyết vấn đề ngôn ngữ
văn tự của các dân tộc thiểu số.

9


6.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể đƣợc coi là những luận cứ có
giá trị để Đảng và Nhà nƣớc ta nói chung, các nhà lãnh đạo ở huyện Sìn Hồ,
tỉnh Lai Châu nói riêng, hoạch định chính sách về ngôn ngữ - xã hội tại huyện
Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu trong mối quan hệ với các địa phƣơng khác trong cả
nƣớc khi xây dựng và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ
XI Đảng cộng sản Việt Nam, đặc biệt nói riêng là trong lĩnh vực văn hóa –
giáo dục huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Việc phát triển ngôn ngữ của các dân
tộc nói riêng và tạo nên sự thống nhất trong ngôn ngữ Việt Nam nói chung có
vai trò quan trọng nhằm hƣớng tới việc giáo dục và sử ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ

của các dân tộc thiểu số cũng nhƣ tiếng Việt.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận
văn gồm có các chƣơng sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết chung về cảnh huống ngôn ngữ. Những đặc
điểm về địa lí tự nhiên, kinh tế - văn hoá – xã hội và dân cƣ ở huyện Sìn Hồ,
tỉnh Lai Châu.
Chương : Đặc điểm của cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu xét theo các tiêu chí định lƣợng và định chất.
Chương 3: Đặc điểm của cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu xét theo tiêu chí định giá và những vấn đề đặt ra đối với chính sách
ngôn ngữ - xã hội ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.

10


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. Cơ sở lí thuyết về cảnh huống ngôn ngữ
1.1. Khái quát chung về cảnh huống ngôn ngữ
1.1.1. Khái niệm “cảnh huống ngôn ngữ”
Ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của con ngƣời; ngôn
ngữ cũng là phƣơng tiện tƣ duy. Đối với mỗi cá nhân, tiếng mẹ đẻ đƣợc hình
thành, phát triển từ tuổi ấu thơ, góp phần hình thành, phát triển nhân cách mỗi
ngƣời. Đối với mỗi dân tộc, ngôn ngữ đƣợc hình thành và phát triển trong lịch
sử hình thành, phát triển ngàn năm của mỗi dân tộc, góp phần thống hợp dân
tộc, là phƣơng tiện ghi lại kinh nghiệm lịch sử, tri thức, trí tuệ…làm nên văn
hóa của mỗi dân tộc. Ngôn ngữ là bộ phận chủ yếu của văn hóa. Ngôn ngữ
dân tộc là biểu hiện của bản sắc văn hóa dân tộc, mỗi dân tộc có một ngôn
ngữ riêng, đƣợc dùng trong hoạt đông giao tiếp. Do đó, mỗi ngôn ngữ là sự sở

thuộc thân thiết, là tài sản thiêng liêng của dân tộc. Bảo vệ ngôn ngữ các dân
tộc chính là bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Đối với loài ngƣời, các ngôn ngữ
đều có giá trị nhân văn nhƣ nhau; kho tàng các ngôn ngữ thế giới là tài sản
quý báu của nhân loại. Bảo vệ, duy trì các ngôn ngữ mang ý nghĩa nhân bản
sâu sắc.
Có rất nhiều các công trình nghiên cứu về chính sách ngôn ngữ nói
chung và cảnh huống ngôn ngữ nói riêng. Trong hầu hết các công trình này
các tác giả đều đƣa ra những quan niệm của mình về cảnh huống ngôn ngữ.
Có thể điểm một số công trình sau: V.YU. Mikhalchenco với Những vấn đề
dân tộc - ngôn ngữ ở Liên bang Nga: Cảnh huống ngôn ngữ và chính sách
ngôn ngữ // cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở các quốc gia đa dân tộc;
Nguyễn Đức Tồn với Cảnh huống và chính sách ở Liên bang Nga; Nguyễn

11


Văn Lợi với Một số vấn đề về chính sách ngôn ngữ ở các quốc gia đa dân
tộc… Mặc dù nhấn mạnh ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, nhƣng tựu
trung lại các tác giả đều cho rằng: Cảnh huống ngôn ngữ là sự phân bố những
hình thức tồn tại khác nhau của ngôn ngữ trên một lãnh thổ. Đặc biệt, trong
luận văn này, để có cơ sở làm việc, chúng tôi theo quan niệm của
V.Yu.Mikhalchenco đã đƣợc Nguyễn Đức Tồn dẫn trong bài nghiên cứu của
mình nhƣ sau: "Cảnh huống ngôn ngữ là sự phân bố được hình thành trong
suốt một thời gian dài trên một lãnh thổ nhất định những hình thức tồn tại
khác nhau (ngôn ngữ văn học, khẩu ngữ, các phương ngữ) và những hình
thức thể hiện khác nhau (nói và viết) của các ngôn ngữ đang hành chức trên
lãnh thổ này" [19,9].
Có thể nói: Cảnh huống ngôn ngữ là một khái niệm quan trọng trong
ngôn ngữ xã hội học và có liên quan trực tiếp đối với chính sách ngôn ngữ.
Nói cách khác, chính sách ngôn ngữ gắn bó chặt chẽ với cảnh huống ngôn

ngữ. Tuy nhiên để có cách nhìn nhận đúng về cảnh huống ngôn ngữ thì cần
phải xem xét nhiều khía cạnh khác, trong đó có các nhân tố hình thành nên
cảnh huống ngôn ngữ.
1.1. . Các nhân tố hình thành cảnh huống ngôn ngữ
Cảnh huống ngôn ngữ của một quốc gia hay khu vực nào đó đƣợc hình
thành nên trong suốt một thời gian lâu dài. Trong quá trình hình thành, cảnh
huống ngôn ngữ chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố khác nhau. Theo
V.Yu.Mikhalchenco thì có các nhân tố sau đây hình thành nên cảnh
huống ngôn ngữ.
Các nhân tố dân tộc - nhân khẩu: thành phần dân tộc của cƣ dân trong
một khu vực, cách cƣ trú của những ngƣời thuộc các dân tộc khác nhau, sự
phân hóa xã hội, trình độ học vấn của họ.

12


Các nhân tố ngôn ngữ học: Trạng thái cấu trúc và chức năng của một
ngôn ngữ: trong ngôn ngữ này lại có các phong cách chức năng, hệ thống
thuật ngữ, truyền thống chữ viết...
Các nhân tố vật chất: có các cuốn từ điển, sách hội thoại, tài liệu, giáo
viên, hệ thống lớp học ngôn ngữ...hay không.
Các nhân tố con ngƣời: Những định hƣớng có giá trị của ngƣời bản
ngữ, tri năng ngôn ngữ, sự sàng lọc ngôn ngữ mới của họ....Hay
T.B.Krjuchkova thì cho rằng: cảnh huống ngôn ngữ là một hiện tƣợng phức
tạp nhiều tầng bậc, gồm các thông số chủ quan và khách quan.
- Thông số chủ quan bao gồm:
+ Sự đánh giá của những đối tƣợng sử dụng ngôn ngữ về các ngôn ngữ
và các hình thức tồn tại các ngôn ngữ tham gia vào cảnh huống.
+ Sự đánh giá tập trung khả năng thích dụng trong giao tiếp, uy tín văn
hóa và thẩm mĩ của ngôn ngữ...

- Thông số khách quan bao gồm:
+ Số lƣợng các ngôn ngữ (phƣơng ngữ, biệt ngữ...) hành chức trên địa
bàn lãnh thổ hành chính.
+ Số ngƣời sử dụng các ngôn ngữ này, cách phân bố các đối tƣợng sử
dụng, số lƣợng phạm vi giao tiếp của từng ngôn ngữ, số lƣợng ngƣời có chức
năng ƣu thế và đặc tính ngôn ngữ của chúng (biến thể của một ngôn ngữ hay
các ngôn ngữ khác nhau).
Nhƣ vậy, có thể thấy cảnh huống ngôn ngữ đƣợc hình thành từ rất
nhiều nhân tố. Dựa vào các nhân tố trên, có thể phân loại cảnh huống ngôn
ngữ theo các tiêu chí: định lƣợng, định chất và định giá.
- Các tiêu chí định lƣợng gồm:
+ Số lƣợng các thứ tiếng (thổ ngữ/ phƣơng ngữ/ ngôn ngữ).
+ Số lƣợng ngƣời nói mỗi thứ tiếng trong quan hệ với số lƣợng chung
cƣ dân khu vực đó.

13


+ Số lƣợng các phạm vi giao tiếp của mỗi ngôn ngữ trong quan hệ với
số lƣợng chung các phạm vi giao tiếp.
+ Số lƣợng các ngôn ngữ nổi trội về chức năng.
- Các tiêu chí định chất gồm:
+ Đặc điểm của các thứ tiếng thuộc khu vực đó: chúng là các biến thể
của một ngôn ngữ, hay là các ngôn ngữ độc lập.
+ Quan hệ về cấu trúc và cội nguồn các ngôn ngữ: các tiếng giống nhau
hay khác nhau về loại hình; có quan hệ cội nguồn với nhau hay không; mức
độ quan hệ cội nguồn.
+ Tính chất cân bằng hay không cân bằng về chức năng của các ngôn ngữ.
- Tiêu chí định giá liên quan đến thái độ, quan điểm của ngƣời bản ngữ
hay ngƣời nói ngôn ngữ khác về tính hữu ích, giá trị văn hóa của một ngôn ngữ.

1.1.3. Sự phân loại cảnh huống ngôn ngữ
Trên cơ sở các nhân tố hình thành, cảnh huống ngôn ngữ đƣợc phân
loại nhƣ sau:
* Dựa theo số lượng ngôn ngữ
Theo số lƣợng các ngôn ngữ đƣợc sử dụng trên một khu vực có thể chia
cảnh huống ngôn ngữ thành: cảnh huống ngôn ngữ một thành tố và cảnh
huống ngôn ngữ đa thành tố.
* Dựa theo tiêu chí ịnh chất
- Theo tiêu chí định chất 1: Có thể phân chia thành: cảnh huống ngôn
ngữ đơn ngữ (chỉ có một ngôn ngữ với các biến thể của ngôn ngữ này) và
cảnh huống ngôn ngữ đa ngữ (từ hai ngôn ngữ trở lên).
- Theo tiêu chí định chất 2: Có thể xét theo 2 tiêu chí nhỏ:
+ Xét theo quan hệ cội nguồn, có thể chia thành: cảnh huống ngôn ngữ
đồng nguồn và cảnh huống ngôn ngữ phi đồng nguồn.
+ Xét theo loại hình, có thể chia thành: cảnh huống ngôn ngữ đồng hình
và cảnh huống ngôn ngữ phi đồng hình.

14


- Theo tiêu chí định chất 3 - tiêu chí năng lực giao tiếp của các ngôn
ngữ: có thể chia cảnh huống ngôn ngữ ra thành: cảnh huống ngôn ngữ cân
bằng (trong đó các ngôn ngữ có chức năng giao tiếp ngang bằng nhau) và
cảnh huống ngôn ngữ phi cân bằng (khi các ngôn ngữ có năng lực giao tiếp
không ngang bằng nhau).
Ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp quan trong nhất của con ngƣời (V.I.
Lê nin). Mỗi một cộng đồng xã hội hay dân tộc khác nhau có những hình thức
giao tiếp khác nhau. Có những dân tộc trong xã hội chỉ dùng một ngôn ngữ
duy nhất để giao tiếp với nhau. Trƣờng hợp ấy gọi là tình trạng đơn ngữ. Lại
có những dân tộc trong xã hội để giao tiếp với nhau ngƣời ta sử dụng nhiều

hơn 2 ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày. Trƣờng hợp này ngƣời ta gọi là
tình trạng song ngữ. Nói nhƣ Nguyễn Văn Khang trong "Ngôn ngữ học xã
hội" thì "Song ngữ, theo cách hiểu chung nhất, là hiện tượng sử dụng 2 hay
trên 2 ngôn ngữ của người song ngữ trong xã hội đa ngữ" [15,39]. Đồng thời
với việc làm rõ khái niệm này, chúng tôi cũng nêu ra một số khái niệm liên
quan đến song ngữ.
- Ngƣời song ngữ: là ngƣời biết 2 hoặc trên 2 ngôn ngữ hoàn toàn nhƣ
nhau, có khả năng sử dụng một cách thuần thục 2 ngôn ngữ đó. Tuy nhiên
trên thực tế thì việc sử dụng thuần thục 2 ngôn ngữ của một ngƣời song ngữ là
không hề đơn giản. Cho nên khả năng song ngữ của ngƣời song ngữ đƣợc
chia thành 2 loại lớn: song ngữ hoàn toàn và song ngữ bộ phận
+ Song ngữ hoàn toàn là khả năng nắm một cách chủ động, tự do nhƣ
nhau 2 ngôn ngữ đến mức có thể tƣ duy trực tiếp bằng từng ngôn ngữ mà
không cần dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác - song ngữ lí tƣởng.
+ Song ngữ bộ phận (song ngữ không hoàn toàn, song ngữ có điều
kiện) là trong một phạm vi cơ bản, ngƣời sử dụng có thể trình bày đƣợc ý
nghĩ của mình mà ngƣời khác hiểu đƣợc, thụ cảm đƣợc, đồng thời lại có thể

15


hiểu đƣợc điều ngƣời khác trình bày bằng ngôn ngữ đó. Đây là hiện
tƣợng song ngữ phổ biến.
- Song ngữ xã hội: Đây là khái niệm chƣa đƣợc quan tâm đúng mức bởi
khi nói đến song ngữ thì ngƣời ta thƣờng nghĩ đến song ngữ cá nhân nhƣng
trên thực tế thì điều quan trọng lại thuộc về song ngữ xã hội. Chỉ trong xã hội
thì cá nhân mới tiến hành giao tiếp song ngữ đƣợc. Tuy nhiên khi lí giải hiện
tƣợng song ngữ xã hội, cần phải xuất phát từ 3 phƣơng diện là: tính khu vực,
tính dân tộc, tính chức năng.
- Giao thoa (ngôn ngữ) là hiện tƣợng lệch khỏi chuẩn của một ngôn

ngữ nào đó trong lời nói của những ngƣời biết từ hai ngôn ngữ trở lên.
Trong nghiên cứu ngôn ngữ, thuật ngữ song ngữ đƣợc sử dụng thƣờng
xuyên và trở nên quen thuộc bởi ở giai đoạn đầu việc nghiên cứu ngôn ngữ chủ
yếu dựa vào 2 ngôn ngữ. Việc nghiên cứu chỉ dựa vào hai ngôn ngữ cũng bắt
nguồn từ thực tế số lƣợng ngƣời biết song ngữ phổ biến hơn so với đa ngữ.
Tuy nhiên trong tiến trình phát triển của lịch sử - xã hội với xu thế quốc
tế hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ thì số ngƣời biết nhiều ngôn ngữ (đa ngữ)
tăng lên đáng kể. Thuật ngữ đa ngữ cũng chính thức đƣợc sử dụng rộng rãi. Đề
cập đến vấn đề này, Nguyễn Văn Khang trong "Ngôn ngữ học xã hội" đƣa ra:
"Đa ngữ không chỉ là một hiện tượng ngôn ngữ học thuần túy mà nó có liên
quan đến cả vấn đề chính trị - xã hội mang tính nhà nước ở các quốc gia nói
chung và đặc biệt ở các quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ nói riêng" [15,62].
Nhƣ vậy có thể nói song ngữ, đa ngữ là hiện tƣợng phổ biến ở tất cả
các quốc gia trên thế giới. Mặc dù là hai khái niệm độc lập nhƣng hai cách gọi
song ngữ và đa ngữ có thể dễ dàng luân chuyển cho nhau trong khi sử dụng.
Nói cách khác thì khi dùng song ngữ cũng đã bao hàm đa ngữ và ngƣợc lại.
Khi nghiên cứu về hiện tƣợng song ngữ, các nhà nghiên cứu mà đại
diện là Gumperz còn bàn đến vấn đề song thể ngữ. Tác giả đã chỉ ra rằng hiện

16


tƣợng song thể ngữ không chỉ có trong xã hội đa ngữ mà cả trong xã hội sử
dụng 2 hoặc trên 2 phƣơng ngữ khác nhau. Nhƣ vậy, "các biến thể ngôn ngữ
được sử dụng trong môi trường song ngữ sẽ bao gồm cả các ngôn ngữ và các
phương ngữ cùng tồn tại lâu dài trong một cộng đồng xã hội và có sự phân bố
chức năng sử dụng chúng” [15,91 ].
Trong một cộng đồng đa ngữ dễ xảy ra hiện tƣợng pha tạp ngôn ngữ.
Có ngƣời cho rằng ngôn ngữ pha tạp rất nguy hiểm cho ngƣời sử dụng và có
thể làm hỏng ngôn ngữ đồng thời cũng làm rối ren cho cả công việc nghiên

cứu ngôn ngữ. Tuy nhiên có nhà nghiên cứu lại cho rằng ngôn ngữ pha tạp có
tầm quan trọng khá lớn trong đời sống giao tiếp cũng nhƣ trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học nhân văn nói chung và nghiên cứu ngôn ngữ nói riêng.
Việt Nam là quốc gia đa ngữ, trong đó chủ đạo là tiếng Việt hay còn
đƣợc gọi là tiếng phổ thông. Trong Chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, Tạ Văn Thông có nêu quan điểm về tiếng và
chữ phổ thông nhƣ sau: “Tiếng và chữ phổ thông là ngôn ngữ chung giữa các
địa phương và các dân tộc trong cả nước, giúp cho các địa phương và các
dân tối thiểu số có thể đồng đều về các mặt kinh tế, văn hóa, khoa học xã
hội..., tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện quyền lợi học tập
và sử dụng tiếng và chữ phổ thông”. Nói nhƣ vậy có nghĩa là tiếng và chữ
phổ thông đƣợc dùng đồng thời với tiếng và chữ ở các vùng dân tộc. Nhƣ vậy,
tiếng phổ thông thƣờng là ngôn ngữ của một cộng đồng ngƣời có số dân
đông, có trình độ khoa học phát triển...đƣợc chọn làm phƣơng tiện giao tiếp
chung của các dân tộc sống trong một cộng đồng. Ở nƣớc ta thì tiếng phổ
thông đồng nghĩa với ngôn ngữ quốc gia.
1.2. Khái quát chung về chính sách ngôn ngữ
1. .1. Khái niệm chính sách ngôn ngữ
Khi đề cập đến khái niệm chính sách ngôn ngữ (CSNN) có rất nhiều
quan niệm đƣợc đƣa ra. Có thể kể ra một số công trình nhƣ: Chính sách dân

17


×