Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Tham nhũng trong giáo dục cấp phổ thông ở việt nam hiện nay, thực trạng và những giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN HẢI ĐOÀN

THAM NHŨNG TRONG GIÁO DỤC CẤP PHỔ THÔNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY, THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học

HÀ NỘI, 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN HẢI ĐOÀN

THAM NHŨNG TRONG GIÁO DỤC CẤP PHỔ THÔNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY, THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 603102 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS Nguyễn Đăng Dung

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan bản Luận văn với đề tài“Tham nhũng trong giáo dục
cấp phổ thông ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và những giải pháp” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của GS. TS Nguyễn Đăng
Dung mà trước đó chưa có bất cứ tác giả nào công bố.
Những tư liệu và số liệu sử dụng trong bản luận văn là có tính xác
thực và nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả

Nguyễn Hải Đoàn

1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tác giả xin
bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo trong Khoa Khoa học Chính
trị, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội; Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Hà Nội… đã giúp đỡ, tạo điều
kiện trong quá trình tìm kiếm, thu thập tài liệu nghiên cứu. Đặc biệt, tác giả
gửi lời cảm ơn chân thành tới GS. TS Nguyễn Đăng Dung nhờ sự hướng
dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy, tác giả đã hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song giới hạn về mặt thời gian và nhận
thức nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Do vậy, tác giả
rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy, cô giáo và những đóng góp ý
kiến quý báu của toàn thể bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!

2



DANH MỤC VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17

VIẾT TẮT

TÊN ĐẦY ĐỦ

Transparency International- Tổ chức Minh bạch Thế
giới
WB
Ngân hàng Thế giới World Bank
United Nations Convention against Corruption- Công
UNCAC

ước Liên hiếp quốc về phòng chống tham nhũng
Asia Development of Bank - Ngân hàng Phát triển
ADB
Châu Á
HĐBT
Hội đồng Bộ trưởng
International Institute for Education Planning IIEP
Viện Quốc tế về Công tác Kế hoạch Hóa Giáo dục
WHO
Wourld Health Oganization- Tổ chức Y tế Thế giới
United Nations Children's Fund- Quỹ Nhi Đồng
UNICEF
Liên Hiệp Quốc
UN
United Nations - Liên Hiệp Quốc
PCTN
Phòng, chống tham nhũng
TTBGDĐT
Thông tư Bộ Giáo dục và Đào tạo
BGDĐT
Bộ Giáo dục và Đào tạo
THCS
Trung học Cơ sở
THPT
Trung học Phổ thông
UBND
Ủy bản Nhân dân
NXBGD
Nhà Xuất bản Giáo dục
British Vietnamese International School-Trường

BVIS
quốc tế Việt Anh
TI

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................................................7

1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 7
2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................... 10
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................ 11
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.................................................................. 12
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài ................................. 12
6. Ý nghĩa của đề tài ............................................................................................ 13
7. Bố cục của đề tài............................................................................................... 13
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ NHẬN THỨC VỀ THAM NHŨNG TRONG HỆ THỐNG
GIÁO DỤC BẬC PHỔ THÔNG ..................................................................................................14

1.1. Các khái niệm liên quan đế n tham nhũng trong hệ thống giáo dục phổ
thông ........................................................................................................................ 14
1.1.1. Khái niệm về tham nhũng ..................................................................... 14
1.1.1.1. Đặc trưng của tham nhũng..................................................................... 17
1.1.1.2. Bản chất của tham nhũng ....................................................................... 22
1.1.1.3. Mức độ phổ biến của tham nhũng .......................................................... 23
1.1.2. Khái niệm giáo dục phổ thông .............................................................. 24
1.2. Một số vấn đề liên quan đến tham nhũng trong hệ thống giáo dục bậc
phổ thông ................................................................................................................ 25
1.2.1. Quan niệm về tham nhũng trong hê thống giáo dục phổ thông ......... 25

1.2.2. Tính đặc thù của tham nhũng trong giáo dục ở bậc phổ thông ......... 28
1.2.3. Tính nghiêm trọng và phổ biến của tham nhũng trong hệ thống giáo
dục bậc phổ thông .............................................................................................. 30
1.2.3.1. Tính nghiêm trọng của tham nhũng ....................................................... 30
1.2.3.2. Tính phổ biến của tham nhũng ............................................................... 32
4


1.2.4. Cảm nhận của người dân về tham nhũng ở cập phổ thông ............... 33
1.2.4.1. Trải nghiệm của người dân về tham nhũng trong giáo dục phổ thông . 34
1.2.4.2. Ý thức của người dân tham gia chống tham nhũng trong giáo dục ............ 36
1.2.4.3. Lý do không dám tố cáo ......................................................................... 37
1.2.5. Các hình thức tham nhũng trong hệ thống giáo dục bậc phổ thông . 38
1.3. Hậu quả của việc tham nhũng ..................................................................... 40
1.3.1. Tham nhũng làm gia tăng chi phí và bất bình đẳng ........................... 40
1.3.2. Giảm chất lượng giáo dục ..................................................................... 41
1.3.3. Xói mòi tư tưởng đạo đức ..................................................................... 44
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1..................................................................................................................46
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THAM NHŨNG VÀ CHỐNG THAM NHŨNG TRONG
HỆ THỐNG GIÁO DỤC BẬC PHỔ THÔNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM ......................47

2.1. Tổng quan về thực thực trạng tham nhũng trong giáo dục cấp phổ thông
hiện nay ở Việt Nam .............................................................................................. 47
2.1.1. Một số vấn đề bất cập trong hệ thống giáo dục cấp phổ thông hiện nay ........ 47
2.1.2. Đánh giá thực trạng tham những ........................................................ 63
2.2.1. Những nguyên nhân liên quan đến cơ chế quản lý giáo dục ............. 66
2.2.2. Những nguyên nhân liên quan đến các nhóm đối tượng trong giáo
dục như nhà trường, giáo viên và phụ huynh học sinh ................................... 72
2.2.3. Những nguyên nhân liên quan đến tính chất xã hội .......................... 75
2.3. Tình hình công tác phòng, chống tham nhũng trong hệ thống giáo dục

cấp phổ thông của Đảng và Nhà nƣớc ta hiện nay ............................................ 77
2.4. Ý nghĩa và sự cần thiết của việc phòng, chống tham nhũng trong hệ
thống giáo dục bậc phổ thông hiện nay. ............................................................. 82
2.4.1. Sự cần thiết của việc chống tham nhũng trong hệ thống giáo dục cấp
phổ thông ............................................................................................................ 82

5


2.4.2. Ý nghĩa việc định hướng tư tưởng về việc chống tham nhũng trong
hệ thống giáo dục phổ thông ............................................................................. 84
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2..................................................................................................................86
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THAM NHŨNG
GIÁO DỤC CẤP THÔNG HIỆN NAY ......................................................................................87

3.1. Đối với cảm nhận của xã hội ......................................................................... 87
3.2. Đối với Nhà nƣớc ........................................................................................... 89
3.3. Đối với các cơ quan quản lý giáo dục - nhà trƣờng .................................. 94
3.4. Đối với phụ huynh học sinh.......................................................................... 98
3.5. Đối với học sinh .............................................................................................. 99
3.6. Đối với các cơ quan truyền thông............................................................. 100
KẾT LUẬN.................................................................................................................................... 103

6


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tham nhũng trong hệ thống giáo dục ở cấp phổ thông hiện nay ở Việt

Nam không phải là vấn đề mới, song nó vẫn là một trong nhũng vấn đề nóng
bỏng và tốn không ít giấy mực của các nhà nghiên cứu và cải cách giáo dục,
ẩn trong nó có nhiều những mối lo ngại cho sự phát triển chung của hệ thống
giáo dục nước ta. Tham nhũng trong hệ thống giáo dục đặc biệt là ở cấp phổ
thông ở nước ta không có dấu hiệu thuyên giảm mà ngày càng trở lên trầm
trọng hơn, tinh vi hơn và hình thành những hệ thống mạng lưới rộng lớn và
phức tạp. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này đó chính là sự yếu kém
trong khâu quản lý và sự đi xuống đạo đức cá nhân tham gia và trong hệ thống
giáo dục phổ thông.
Chúng ta đều biết rằng, giáo dục là một vấn đề rất quan trọng, đó là nơi
đào tạo ra các tài năng trẻ hiện đại, tạo ra một nên công nghiệp tri thức. Vì
vậy, nó có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Ngoài ra
giáo dục còn định hướng và phát triển tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho mỗi
cá nhân nói riêng và cả cộng đồng nói chung. Đặc biệt là hệ thống giáo dục
cấp phổ thông là cấp đào tạo và định hướng chủ yếu nhân cách cho thế hệ
tương lai của đất nước. Nhưng hiện nay những dấu hiệu tiêu cực ấy đã dần
làm phai nhạt đi vai trò quan trọng đó, dần mất đi sự tin tưởng của nhiều
người dân trong xã hội và sự lo sợ ở thâm sâu trong tư tưởng các em học sinh.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đang nỗ lực để cải thiện tình trạng tụt
hậu về giáo dục, giảm thiểu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển giáo dục,
và Việt Nam cũng đang trong quá trình hoàn thiện hệ thống giáo dục của mình

7


bằng con đường chung của thế giới để có thể xây dựng một nền giáo dục tiến
tiến mang đậm nét văn hóa dân tộc.
Mặc dù ngân sách hạn hẹp, song Chính phủ vẫn đầu tư một tỉ lệ ngân
sách đáng kể trong tổng ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo, hiện
chiếm khoảng 20% tổng ngân sách và là hạng mục chi tiêu ngân sách lớn nhất.

Vì vậy, vài năm gần đây về tổng quan tình hình giáo dục được cải thiện rõ rệt
với nhiều những bước đi được các nhà cải cách giáo dục đưa ra như chiến lược
phát triển nhân tài, tạo nguồn lực chất lượng cho đất nước...Song bên cạnh
những thành tựu đã đạt được vẫn còn nhiều những thách thức và khó khăn.
Thách thức này đã được đưa ra bàn luận rất nhiều như bất bình đẳng trong tiếp
cận giáo dục (trong đó người nghèo rất khó có thể vào học ở các trường hàng
đầu do không đủ khả năng chi trả các loại phí và không đáp ứng được các yêu
cầu nhập học); chất lượng không đồng đều giữa các trường (vấn đề trường
công và trường tư); mất cân đối giữa các vùng, miền (khoảng cách giữa đô thị
và nông thôn, quá tải về nhu cầu ở khu vực đô thị); và sự thay đổi cảm nhận
cũng như nhận thức về người thầy và giáo dục trong xã hội (với sự bùng nổ
của nền kinh tế thị trường và những thay đổi về hành vi của các đối tượng
khác nhau, nhiều người có xu hướng cho rằng “mọi thứ đều có thể mua được
bằng tiền” Những thách thức liên quan đến sự thiếu minh bạch và tham nhũng
như thất thoát ngân sách nhà nước phân bổ cho giáo dục, lãng phí trong xuất
bản và phát hành sách giáo khoa, đưa hối lộ để được nhập học vào các trường
theo nhu cầu và để được điểm cao, dạy các nội dung chính khóa ở lớp học
thêm và đảm bảo được điểm cao ở trường học, dạy thêm và học thêm, hầu hết
các trường hợp này được coi là tham nhũng. Tuy nhiên, ở xã hội Việt Nam
những hiện tượng này không phải lúc nào cũng được gọi thẳng tên là tham
nhũng mà thường được giảm nhẹ với cách gọi đại khái hơn là những “hiện
tượng tiêu cực” trong giáo dục, với tính chất phê bình ít hơn nhiều so với hành
8


vi tham nhũng. Nếu tình trang này cứ tiếp diễn và tăng lên thì chẳng bao lâu
nữa nền giáo dục nước nhà sẽ trở lên yếu kém lạc hậu, mất niềm tin ở người
dân, những người có con đang ngồi trên ghế nhà trường, thậm chí là hình ảnh
không đẹp đối với nước ngoài. Để cải thiện tình trạng này ta cần phải làm gì,
làm như thế nào để có được hiệu quả trong việc hạn chế tối đa vấn đề tham

nhũng trong hệ thống giáo dục, xây dựng một hệ thống giáo dục trong sạch
vững mạnh để sánh ngang với nhiều cường quốc giáo dục trên thế giới. Hiện
nay các cơ quan nhà nước và đặc biệt là Bộ Giáo dục – Đào tạo đã tích cực
đẩy mạnh công cuộc chống tiêu cực, lãng phí trong trường học và xây dựng
môi trường lành mạnh trong hệ thống giáo dục. Trong tháng 12/2015 vừa qua
Bộ Giáo dục – Đào tạo đã tổng kết 10 năm thực hiện luật phòng chống tham
nhũng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nghiêm túc quán triệt Luật phòng, chống
tham nhũng và các văn bản có liên quan đó là bổ sung, hoàn thiện hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là trên các
lĩnh vực dễ nảy sinh tham nhũng như: tổ chức cán bộ, tài chính, tài sản... Đồng
thời, thực hiện nhiều giải pháp phòng ngừa tham nhũng đạt hiệu quả như:
công khai hoạt động, minh bạch thu nhập, tài sản của cán bộ; xây dựng và áp
dụng định mức tiêu chuẩn; củng cố đội ngũ thanh tra...
Trong những năm tới đây sẽ có nhiều chuyển biến tích cực trong việc
phòng chống tham nhũng trong hệ thống giáo dục ở cấp học phổ thông, vì các
cơ quan có thẩm quyền hiện nay đã tích cực đẩy mạnh công cuộc chống tham
nhũng, ngoài ra còn có các tổ chức ngoài nhà nước và người dân tham ra. Do
vậy, chúng ta có quyền hy vọng vào một nền giáo dục tiến tiến, có vị thế trong
khu vực và thế giới trong tương lai không xa.
Từ những vấn đề trên, thông qua sự phân tích và các tài liệu tác giả thu
thập được nhằm để nhận diện đúng và lý giải vấn đề tham nhũng cấp phổ
thông, những nguyên nhân, thực trang những giải pháp cải thiện tình trạng đó.
9


Vì vậy đây là lý do tôi chọn đề tài “Tham nhũng trong giáo dục cấp phổ
thông ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và những giải pháp” là đề tài Luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, ở nước ta đã có tương đối nhiều những công

trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề phòng, chống tham nhũng và việc nâng
cao chất lượng giáo dục.Trong đó có nhiều tác giả đã đề cập đến những khía
cạnh mà đề tài này quan tâm. Tiêu biểu là một số công trình chuyển khảo như
sau:
GS.TS Nguyễn Xuân Sơn “Nhận diện tham nhũng và các biện pháp
tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”trong đề tài này tác giả đã nêu ra một cách
khái quát và đầy đủ những khái niệm cơ bản về tham nhũng nói chung, ngoài
ra tác giả cũng đưa ra những các tiếp cận mới mẻ về tham nhũng. Dựa trên
những khái niệm và bản chất của tham nhũng tác giả đã đưa ra những nguy cơ
của tham nhũng đến các lĩnh vực hiện nay, trong đó có lĩnh vực giáo dục, đưa
ra một số những giải pháp chung nhất để hạn chế vấn đề tham nhũng hiện nay.
GS.TS Nguyễn Đình Cử đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề giáo dục
hiện nay, đáng chú ý như: “Tham nhũng trong giáo dục phổ thông, nguyên
nhân và hậu quả” “Các hình thức tham nhũng trong hệ thống giáo dục phổ
thông” (Tạp chí Xã hội học 2008).Trong bài viết của mình ông đã đưa ra
những vấn đề nổi cộm trong vấn đề đào tạo cập phổ thông, ông đã chỉ sự nguy
hiểm của tham nhũng trong lĩnh vực này, Ngoài ra ông còn đưa ra những hình
thức, nguyên nhân dẫn tới vấn đề tham nhũng cộng thêm những dẫn chứng hết
sức cụ thể để cho chúng ta thấy một bức tranh đề cập về nạn tham nhũng trong
hệ thống giáo dục ở cấp phổ thông hiện nay.
TS Bùi Trân Phượng “Chống tham nhũng trong giáo dục-Muốn làm
thật không?” Đây là một bài viết đăng trên báo pháp luật Tp Hồ Chí Minh
10


2010, Bà cho rằng tham nhũng trong giáo dục hiện nay đang rất nghiêm trọng
và có mức độ phổ quát lớn, nó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính thiêng
liêng của ngành giáo dục. Ngoài ra bà Phượng cũng đưa chỉ ra những vấn đề
tâm lý của con người dẫn đến nhũng hành vi tham nhũng, nhũng vấn đề liên
quan đến trách nhiệm của những người đứng ra xử lý nó…

Ngoài những tác giả nghiên cứu được nêu trên còn có nhiều tác giả,
những nhà cải cách giáo dục, những tổ chức khác tham gia nghiên cứu về vấn
đề này. Trong đó phải kể đến Tổ chức World Bank và Tổ chức Minh Bạch
Thế giới, hai tổ chức này đã có nhiều những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề
liên quan đến tham nhũng trong hệ thống giáo dục bậc phổ thông hiện nay
như: “Giáo dục liêm chính cho Thanh thiếu niên Việt Nam;Vấn đề chạy
trường ở Việt Nam hiện nay; hình thức và hậu quả của tham nhũng trong
ngành giáo dục Việt Nam năm 2010; hay báo cáo thực địa “Tham nhũng
trong hệ thống giáo dục năm 2012”…
Tuy nhiên việc nhận diện một cách chính xác về tham nhũng trong hệ
thống giáo dục bậc phổ thông cần đi sâu phân tích một cách đa chiều và
khách quan. Tất các những công trình nghiên cứu cũng những những báo cáo
của các học giả cũng như các tổ chức nêu trên đã phần nào cũng cấp cho tác
giả thêm tư liệu và số liệu chính xác và cụ thể cũng như những cách suy luận
mới giúp cho việc tiếp cận và tìm hiểu vấn đề của tác giả được mạc lạc và
logic hơn trong đề tài luận văn này.
3.

Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
+ Khái quát tình hình tham nhũng trong hệ thống giáo dục cấp phổ

thông hiện nay ở Việt Nam, nhận diện được hình thức và bản chất của nó, đi
sâu vào thực trạng và những nguyên nhân gây ra vấn đề tham nhũng này, đồng
11


thời trên cơ sở phân tích có thể đưa ra những giải pháp hợp lý để có thể định
hướng phát triển hệ thống thống giáo dục cấp phổ thông góp phần vào công
cuộc phát triển nền giáo dục nước ta.

- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Phân tích và hê thống hóa các tài liệu có sẵn liên quan đến vấn đề
tham nhũng giáo dục cấp phổ thông.
+ Phân tích những nguyên nhân và hậu quả của tham nhũng giáo dục
phổ thông đối với sự phát triển hiện nay từ đó cách nhìn nhận đúng đắn
hơn về loại tham nhũng này.
+ Đưa ra một số giải pháp cụ thể đối với hệ thống giáo dục Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
+ Vấn đề tham nhũng trong hệ thống giáo dục ở cấp học phổ thông hiện
nay (Tiểu học, Trụng học cơ sở và Trung học phổ thông).
+ Những người có chức vụ, quyền hạn trong hệ thống giáo dục bậc phổ
thông hiện nay
-

Phạm vi nghiên cứu

Thời gian: Từ 2005 đến nay
Không gian: Đề tài tập chung nghiên cứu ở cấp phổ thông (từ cấp tiểu
học đến cấp Trung học phổ thông)
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
+ Cơ sở lý luận
Để thực hiện đề tài này, tác giả đã dựa và kế thừa:
- Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, Tư tưởng
Hồ Chí Minh về việc nhận diện, đấu tranh chống tệ nan tham nhũng .

12



- Các quan điểm của các tổ chức quốc tế về vấn đề tham nhũng trong hệ
thống giáo dục như World Bank, Transparency International (TI)…
- Các quan điểm, lý luận của một số tác giả về vấn đề tham nhũng trong
hệ thống giáo dục ở cấp phổ thông.
+ Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này của tôi chủ yêu sử dụng các phương pháp như
phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê xã hội, các phương pháp này được kết hợp với nhau để xem xét
và làm rõ tình trạng tham nhũng trong giáo dục cấp phổ thông hiện nay. Ngoài
ra tác giả còn sử dung thêm một số phương pháp liên ngành khác để làm rõ
hơn vấn đề.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn là mọt liều thử mới trong việc nghiên cứu về vấn đề tham
nhũng trong hệ thống giáo dục bậc phổ thông, bên cạnh đó Luận văn cũng đưa
ra nhiều vấn đề gai góc của xã hội hiện nay và một lần nữa khẳng định rằng
Tham nhũng là con mọt đục khoét xã hội, nó làm suy thoái đi nền đạo đức vốn
có của con người và những văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Luận văn còn có thể
là nguồn tài liệu tốt cho các sinh viên thuộc chuyên ngành khoa học chính trị,
xã hội học, luật học…v.v
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
đề tài luận văn gồm 3 chương và 8 tiết.

13


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ NHẬN THỨC VỀ THAM NHŨNG TRONG HỆ THỐNG
GIÁO DỤC BẬC PHỔ THÔNG
1.1.


Các khái niệm liên quan đến tham nhũng trong hệ thống giáo
dục phổ thông

1.1.1. Khái niệm về tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội mang tính tiêu cực của một số bộ
phận nắm chức quyền nó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển chung
của một hay nhiều quốc gia. Hiện nay vấn đề tham nhũng đang có nhiều chiều
hướng tăng mạnh cả về diện và lượng cũng như mức độ nghiêm trọng của nó.
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm được nhiều các học giả và các tổ chức đưa ra
để nhận dạng về tham nhũng.
Hiện nay khái niệm tham nhũng cho đến thời này vẫn chưa có một định
nghĩa hoàn chỉnh là chung nhất, do tính phức tạp và đa dạng về lĩnh vực liên
quan. Trong Công ước Liên hiếp quốc về phòng chống tham nhũng (United
Nations Convention Against Corruption- UNCAC) – văn kiện pháp lý quốc tế
căn bản nhất đề cập đến vấn đề tham nhũng cũng chưa đưa ra bất kì định
nghĩa nào, mà chỉ đưa ra những nhận định các hành vi xác định đó chính là
tham nhũng. Dưới đây tác giả xin nêu qua một số những quan điểm và cách
nhìn nhận của các học giả cũng như tổ chức về “tham nhũng”.
Trước hết “tham nhũng” dưới góc độ thuật ngữ thì nó bắt nguồn từ La –
tinh “Corruptus” có nghĩa là lạm dụng, phá hoại hay vi phạm. Do vậy, cội
nguồn của nó chính là sự vị phạm không đúng chuẩn mực của một hành vi.

14


Trong quan điểm của Ngân hàng Thế Giới (World Bank - WB), cho rằng
tham nhũng là sự "lạm dụng quyền lực công cộng nhằm lợi ích cá nhân", còn
theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International- TI) cho rằng,
tham nhũng là hành vi "của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý

làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân". [5, tr.32].
Hai tổ chức này đều có quan điểm đó là “Tham những là hành vi trái
pháp luật và lạm dụng quyền lực để phục vụ lợi ích riêng cho các cá nhân, và
chủ thể tham nhũng chính là người nắm quyền lực trong tay”, hai quan điểm
này có tính hấp dẫn và cô đọng, tuy nhiên theo Ngân hàng phát triển Châu Á
(Asia Development Bank - ADB) lại cho rằng nhược điểm của 2 định nghĩa
này là chưa tập chung vào mức độ tham nhũng ở những khu vực tư và tác
động của việc chống tham nhũng ở khu vực này với cuộc chiến tham nhũng ở
những khu vực công, hai định nghĩa này chưa đi sâu vào các vấn đề tư nhân
mà chủ yếu là vấn đề liên quan đến quyền lực công. Vì vậy, ADB đã đưa ra
định nghĩa về “tham nhũng”, và định nghĩa này bổ sung và kế thừa từ 2 định
nghĩa của WB và TI “ Tham nhũng là sự lạm dụng quyền lực công hoặc tư để
thu lợi cá nhân, là hành động lạm dụng chức vụ để làm giàu không chính
đáng hay bất hợp pháp cho bản thân và hay cho những người thân cận của
một bộ phận nhân viên ở khu vực công và khu vực tư hay để tạo cơ hội cho
những kẻ khác làm như vậy”[1, tr.9].
Như vậy trong định nghĩa của Ngân hàng phát triển châu á ADB đã nói
lên được tính chất, đối tượng và cả khu vực của tham nhũng. Trong quan điểm
này của ADB có ưu điểm đó chính là nêu ra khu vực tham nhũng không chỉ ở
lĩnh vực công mà còn cả tư nhân, thông thường khi nói tham nhũng ta thưởng
hiểu đó là những vấn đề của các cơ quan nhà nước hay khu vực công, nhưng
tính chất của nó không chỉ có vậy mà nó còn hiện hữu ở trong các cơ quan tư
nhân (các công ty tư nhân, các tổ chức hay thậm chí trong gia đình dòng họ…)
15


do vậy là tham nhũng có thể xuất hiện ở bất cứ nơi nào và thời điểm nào, chỉ
cần một cá nhân hay tập thể thiếu tính minh bạch hay thiếu đạo đức trong
công việc.
Đó là những quan điểm của các tổ chính quốc tế, bên cạnh đó thuật ngữ

Tham nhũng còn được thể hiện ở nhiều các văn bản luật của nhà nước Việt
Nam, trong đó ta cần nói đến đó là Quyết định số 20-HĐBT, ngày 26/6/1990
về đấu tranh chống tham nhũng của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị quyết của
Quốc hội ngày 30/12/1993 về thực hành tiết kiệm chống lãng phí, chống tham
nhũng, chống buôn lậu. Ngoài ra phải kể đến bộ luật phòng chống tham nhũng
năm 2005, trong đó tại khoản 2 Điều 1 Luật phòng, đưa ra khái niệm “tham
nhũng” “là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó vì vụ lợi” [18, tr.8].
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947) Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Tham nhũng là hành vi của những người đặt lợi ích của mình lên trên
lợi ích của Đảng, của dân tộc” do đó mà chỉ tự tư, tự lợi dùng côngviệc trên
dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình. Trong tác
phẩm này Bác nhìn nhận “tham nhũng là một trong những nạn nội xâm nguy
hiểm mà Đảng và nhà nước ta phải đối mặt, và nó là một trong bốn nguy cơ
lớn nhất mà Đảng ta đặt ra hiện nay, những hành vi tham nhũng này bắt nguồn
từ các cá nhân không trong sạch về đạo đức cách mạng, họ tư lợi, đặt lợi ích
cá nhân trên lợi ích của Đảng và Nhà nước, do đó những tội về tham nhũng
Bác cho đó là một trong những trọng tội (phản quốc) cần xử lý nghiêm khắc.
Tư tưởng này được Bác nêu rất rõ trong tác phẩm “Quốc lệnh” được viết ngày
26- 01-1946, Bác ghi “Thông với giặc, phản quốc - xử tử, trộm cắp của côngxử tử”[28].
Một số học giả Việt Nam lại cho rằng Tham nhũng là hành vi lạm dụng
chức quyền và hối lộ đút lót, tham nhũng nó bắt đầu xuất hiện khi xã hội bắt
16


đầu có giai cấp và việc sở hưu tư nhân, ngoài ra tham nhũng ở Việt Nam bắt
nguồn từ việc lợi dụng văn hóa “Đền ơn đáp nghĩa hay cơ chế xin cho”…
Trong đó có GS.TS Đỗ Ngọc Quang – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu
và Phát triển đưa ra quan điểm rằng: "Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu
cực có tính lịch sử xuất hiện và tồn tại trong xã hội được phân chia giai cấp

và hình thành nhà nước, được thể hiện bằng những hành vi của người có chức
vụ quyền hạn để trục lợi cho cá nhân hoặc cho người khác dưới bất kỳ hình
thức nào, gây thiệt hại tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân hoặc
đe doạ gây thiệt hại cho hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước, tổ chức
xã hội hoặc quyền, lợi ích hợp pháp của công dân" [13, tr.64].
Theo GS.TS Nguyễn Xuân Yêm và PGS.TS Bùi Bình Minh cho rằng:
“tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng”; hoặc
“Tham nhũng bao hàm trong nội dung của nó cả tệ nạn hối lộ,tệ chủ nghĩa sự
ban ơn, bao che trên cơ sở nhũng quan hệ cá nhân và sự chiếm đoạt bất hợp
pháp tài sản công cộng và biến tài sản đó thành của riêng cá nhân” [22,
tr.20].
Tất cả các nhận định trên về tham nhũng tuy rằng có nhiều cách tiếp cận
và nhìn nhận khác nhau về tính chất cũng như nhận dạng của nó, song tựu
chung lại Tham nhũng đều là hành vi vi phạm và lạm dụng chức quyền, trái
pháp luật với mục đích vụ lợi.
1.1.1.1. Đặc trưng của tham nhũng
Từ những định nghĩa, quan điểm về tham nhũng đã được nếu ở mục
trên, ta khẳng định rằng “Tham nhũng mang đặc điểm đó là nhũng hành vi phi
pháp của một chủ thể nhất định để chiếm đoạt của riêng cá nhân”. Tuy nhiên
cần phải nhận thức rõ rằng những hành vi tham nhũng có nhiều điểm khác so
với những hành vi vi phạm pháp luật thông thường, nó được thể hiện qua
những cách tiếp cận khác nhau như chính trị hay pháp luật…, dưới đây tác giả
17


xin nêu một số những đặc trưng của tham nhũng dưới góc độ chính trị như
sau:
Thứ nhất: Tham nhũng chủ yếu là ở người có quyền hạn, chức vụ. Theo
quy định tại Điều 1 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi 2007:
“Tham nhũng là hành vi… lợi dụng chức vụ, quyền hạn…”. Điều này cho

thấy: chủ thể của hành vi tham nhũng phải là những người có chức vụ, quyền
hạn. Bởi vì, chỉ khi “có chức vụ, quyền hạn” người ta mới có điều kiện để lợi
dụng quyền hạn đó để thu lợi bất chính cho riêng mình. Ở đây ta có thể hiểu
là chức vụ quyền hạn mà chủ thể của hành vi tham nhũng có được có thể do
được bầu cử, do được bổ nhiệm, do hợp đồng… khi quyết định bầu họ lên
lãnh đạo chắc chắc phải là những người có năng lực chuyên môn và kinh
nghiệm, do vậy những người nắm quyền hiểu rất rõ những công việc của
mình, từ đó rất dễ nảy sinh những tư tưởng tha hóa và lạm quyền. Cùng ở
khía cạnh đó, có thể thấy bản chất của tham nhũng đó gắn liền với lạm dụng
quyền lực là sự tha hóa quyền lực, theo góc độ nay, nhà tư tưởng Lord
Acton (1834-1902) đã cho rằng: “Quyền lực có xu hướng dẫn tới tha hóa,
quyền lực độc đoán có xu hướng dẫn đến quyền lực tuyệt đối” [6, tr.35].
Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi dụng
chức vụ quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm
trái với công vụ mà mình phải thực hiện và thực hiện đúng qui định của pháp
luật, gây thiệt hại chung cho lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân.
Đây cũng là một dấu hiệu đặc trưng mà ta cũng cần lưu tâm của hành vi
tham nhũng. Vì lý do đó là không phải trong trường hợp nào người có chức
vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật cũng do lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Người
có chức vụ, quyền hạn có thể có hành vi vi phạm pháp luật thông thường
nhưng không phải trên cơ sở lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thì hành
vi đó cũng không đủ yếu tố cần thiết để gọi là hành vi tham nhũng.Người có
18


hành vi tham nhũng sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như một phương
tiện để thực hiện hành vi trái pháp luật một cách có mục đích vụ lợi rõ ràng.
Ví dụ trong trường hợp cán bộ công chức trộm cắp tài sản công đó là hành vi
vụ lợi cá nhân nhưng đó không phải là hành vi lợi dụng chức quyền thể thu lợi
cá nhân, do vậy hành vi đó là vi phạm pháp luật, chưa phải là hành vi tham

nhũng. Từ cách diễn giải trên có thể nhận định rằng,nếu không có chức vụ,
quyền hạn đó họ sẽ không thể thực hiện được hoặc khó có thể thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật để đáp ứng nhu cầu hưởng lợi (trái pháp luật) của bản
thân. Ví dụ: nếu không phải là thủ kho của công ty A thì nhân vật X không thể
hoặc khó có thể lấy được tài sản trong kho làm tài sản riêng của mình. Việc lợi
dụng chức vụ, quyền hạn là thủ kho trong trường hợp này đã giúp “X” đạt
được mục đích hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, đó chính là hành vi tham
nhũng. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái pháp luật cũng là dấu hiệu
đặc trưng của hành vi tham nhũng. Mặt khác, không phải khi nào người có
chức vụ, quyền hạn làm trái pháp luật cũng có yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền
hạn. Người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng
không lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thì hành vi vi phạm đó không
phải là tham nhũng. Ví dụ, trường hợp một công chức có hành vi trộm cắp tài
sản của người khác hoặc của cơ quan, tổ chức khác. Hành vi trộm cắp tài sản
và chức vụ của người đó không có quan hệ gì với nhau trong các trường hợp
này. Hành vi trộm cắp tài sản có thể được thực hiện bởi bất kỳ người nào
không có chức vụ quyền hạn hoặc có chức vụ, quyền hạn nhưng chức vụ
quyền hạn đó không liên quan đến việc quản lý, bảo vệ tài sản. Theo cách tiếp
cận này thì Tham nhũng là một căn bệnh chung mang tính phổ biến của nhiều
quốc gia, bất kể thể chế chính trị nào, nó sẽ tồn tại cùng với nhà nước cho tơi
khi nào nhà nước mất đi. Như vậy ta phải chấp nhận một thực tế đó là sống
chung với căn bệnh này, cho du ta có chống một cách quyết liệt như thế nào
19


thì căn bệnh cố hữu này cũng sẽ không hoàn toàn mất đi. Theo khía cạnh này,
một nhà khoa học người Mỹ Laureate Gary Becker đã đưa ra quan điểm của
mình tại một diễn đàn kinh tế “Chúng ta chỉ có thể hoàn toàn triệt tiêu tham
nhũng khi xóa bỏ Nhà nước mà thôi” [6, tr.35].
Thứ ba, người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi với động cơ vụ

lợi bất chính cho bản thân mình, cho người khác hoặc một nhóm người mà
mình quan tâm. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng của hành vi tham
nhũng. Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà pháp
luật trao cho mình để chiếm đoạt và mang lại những lợi ích có tính chất cá
nhân. Tức là người có chức vụ, quyền hạn đã hành động hoàn toàn không phải
xuất phát từ yêu cầu của công việc hay trách nhiệm của mình mà vì những lợi
ích mang tính cá nhân của riêng mình, chẳng hạn như sẽ nhận được một số
tiền hoặc tài sản, thậm chí có thể một lợi ích phi vật chất nào đó nếu mở cửa
cho một số người làm việc tại cơ quan, hay cố gắng hối lộ để được bổ nhiệm
hay xếp đặt vào một vị trí công tác thuận lợi hơn.
Mục đích vụ lợi còn có thể được hiểu là có thể người có chức vụ, quyền
hạn đã dùng ảnh hưởng của mình để mang lại lợi ích cho vợ con hay người
thân thích của mình. Tóm lại một hành vi được coi là tham nhũng nhất thiết
phải có yếu tố lợi ích ở trong đó, có thể là lợi ích về vật chất hoặc tinh thần,
cho mình hoặc cho người thân thích của mình. Có thể nói, lợi ích mà hành vi
tham nhũng hướng đến rất đa dạng, nhưng lợi ích đó phải là mục đích, động
cơ trực tiếp thúc đẩy người được sử dụng quyền lực nhà nước thực hiện hành
vi tham nhũng.
Thứ tư: Tham nhũng được thực hiện với lỗi cố ý.
Đây cũng là một dấu hiệu đặc trưng cơ bản khác của của những hành vi
tham nhũng , nói một cách chính xác đó là những người có chức vụ hay quyền
hạn biết việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình là những hành vi vụ lợi cá
20


nhân gây ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hiệu quả công việc hay lợi ích
của những người khác mà xã hội hay pháp luật bảo vệ nhưng vẫn cố ý làm.
Những hành vi xâm phạm đến tính đúng đắn và hợp pháp của hoạt động công
vụ được biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau như cố tình làm hay không
làm những việc không đúng quy định của pháp luật gây ảnh hưởng đến hiệu

quả công việc. Ví dụ như hành vi tham ô, trong trường hợp này, người quản lý
hay người có trách nhiệm thừa hiểu rằng họ có trách nhiệm bảo vệ, sử dụng tài
sản một cách đúng đắn, tuy nhiên vì một lý do nào đó họ đã đi sai với nhưng
quy định của pháp luật mong để chiếm đoạt tài sản thành của riêng.
Trên đây là một số đặc điểm được nêu một cách chung nhất về đặc điểm
của tham nhũng, trên thực tế tham nhũng được thể hiện với muôn hình muôn
vẻ, mỗi một quốc gia lại có những đặc thù riêng.
Ở Việt Nam hiện nay, đặc điểm nhận dạng tham nhũng dựa trên những
yếu tố đó là: thứ nhất: “Văn hóa ứng xử dần trở nên biến tướng” tạo cơ hội
cho tham nhũng hình thành, nguyên do là người Việt Nam vẫn còn nặng chữ
“tình”, chuộng sự yên bình, nhàn nhã, “trong ấm ngoài êm” những tư tưởng
này cộng với mục đích vụ lợi cá nhân thành ra một thái độ thờ ơ, chạy trốn
khỏi những đấu tranh, xung đột. Thứ hai: Tham nhũng diễn ra trong hệ thống
công chức có lương rất thấp. Vấn đề lương bổng là nguyên nhân sâu xa dẫn
đến những hành vi vi phạm, hiện nay mức lương tối thiểu của nước ta (Nghị
định 122/2015/NĐ-CP về lương tối thiểu vùng 2016) ở “Vùng I: 3.500.000
đồng/tháng (tăng 400.000 đồng so với năm 2015),Vùng II: 3.100.000
đồng/tháng (tăng 350.000 đồng so với năm 2015), Vùng III: 2.700.000
đồng/tháng (tăng 300.000 đồng so với năm 2015)” [29]. Dẫu vậy, vẫn là quá
thấp so với như cầu sinh hoạt hằng ngày đối với một công chức nhà nước, nếu
không có những khoảng lương mềm thì thật khó có thể sống với đồng lương ít
ỏi đó. Do vậy đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hành vi tham
21


nhũng hiện nay của các cá nhân, nếu Đảng và Nhà nước ta trong những năm
tới có những cuộc cải cách hợp lý về vấn đề tiền lương thì sẽ là cơ sở tốt để có
thể nâng cao chát lượng công cuộc phòng, chống tham nhũng hiện nay.
1.1.1.2. Bản chất của tham nhũng
Xét về bản chất, tham nhũng đó là một hiện tượng tiêu cực của xã hội

phản ánh các yếu tố hiện thực của chính trị, kinh tế, văn hoá, truyền thống hay
tập quán của một dân tộc, một quốc gia. Tham nhũng bao gồm những hành vi
trái pháp luật của các cá nhân hay nhóm ngườicó mức độ nguy hiểm cao cho
xã hội, nhà nước và nhân dân, bản thân những hành vi đó dựa trên sự tha hóa
của quyền lực công.
+ Thứ nhất: Tham nhũng là sự tha hóa quyền lực
Trong tham nhũng, yếu tố quyền lực là quyết định, phải có quyền lực
thì mới có thể sử dụng nó để thu lợi, theo một học giả A. Toffler người Mỹ
cho rằng “Quyền lực là khả năng buộc người khác phải phục tùng theo ý của
mình”[15, tr.193] nhưng khi quyền lục đó bị lạm dụng hay sự dụng nó vào
mục đích chuộc lợi cá nhân thì đó là một hành vi phạm pháp, như vậy bản chất
của tham nhũng chính là sự “tha hóa” quyền lực để thực hiện lợi ích cá nhân
hoặc của một nhóm người làm phương hại đến lợi ích của cá nhân khác, của
tập thể và xã hội. Thực tiễn đã chứng minh, khi quyền lực càng cao, càng
tuyệt đối thì sự “tha hóa” càng gia tăng, nếu không có chế tài kiểm soát quyền
lực.
Quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước nhằm để điều hòa các lợi ích
khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau của các giai cấp, giai tầng trong xã hội
và duy trì sự ổn định của một chế độ xã hội nhất định. Quyền lực đó bao giờ
cũng được thực thi thông qua những con người cụ thể mà lợi ích được quy
định bởi chức vụ, địa vị xã hội của họ. Tham nhũng chỉ xảy ra khi việc thực

22


hiện lợi ích cá nhân phương hại đến lợi ích cá nhân khác, phương hại đến lợi
ích tập thể, lợi ích xã hội.
Khi tham nhũng trở thành phổ biến, quyền lực chính trị và quyền lực
nhà nước bị biến dạng không còn giữ được vai trò điều hòa các lợi ích xã hội,
từ đó mất đi sự ổn định, đe dọa sự tồn vong của chế độ mà quyền lực chính trị

và quyền lực nhà nước đang duy trì nó. Do vậy, ở bất cứ chế độ xã hội nào
cũng phải phòng, chống tham nhũng và hành vi tham nhũng cũng luôn bị lên
án, bị trừng trị.
+ Thứ hai: Tham nhũng là một hình thức ăn cắp
Công trình nghiên cứu của một số học giả trong nước đã phát hiện rằng
người dân thường định nghĩa tham nhũng như là một hình thức ăn cắp. Tham
nhũng được chia thành hai loại theo qui mô: tham nhũng nhỏ và tham nhũng
lớn. Tham nhũng nhỏ thường liên quan đến thường dân và thương gia cấp
nhỏ. Tham nhũng lớn thường xảy ra ở cấp Nhà nước và các “đại gia” trong
thương trường. Tham nhũng nhỏ bao gồm những hành động như đút lót cảnh
sát để tránh bị phạt, bôi trơn các quan chức Chính phủ để công việc được trôi
chảy. Trong môi trường kinh doanh, tham nhũng cũng bao gồm việc bòn rút
tiền công ty bằng cách làm hóa đơn với số tiền chi nhiều hơn số tiền chi trong
thực tế [30].
1.1.1.3. Mức độ phổ biến của tham nhũng
Tham nhũng nảy sinh ở hầu hết các lĩnh vực xã hội, thường gắn liền với
tiền tài và quyền lực (lĩnh vực: Chính trị- chính quyền, kinh tế (các doanh
nghiệp nhà nước hoặc tư nhân), Giáo dục, Quân sự… Đối tượng và chủ thể
tham gia cũng đa dạng tùy thuộc ở các lĩnh vực hay các cấp khác nhau, hành
vi tham nhũng cũng đa dạng, ngày càng trở nên tinh vi và hình thành nhiều hệ
thống dày đặc.

23


×