Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, VẬN DỤNG VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.19 KB, 17 trang )

Hànội - 2012

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
--------------------------

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC CHUẨN MỰC ĐẠO
ĐỨC CÁCH MẠNG, VẬN DỤNG VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
SINH VIÊN HIỆN NAY.

Giáo viên hướng dẫn:
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 11
Lớp học phần: 1221HCMI0111


Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
I, Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo đức.

II, Tư Tưởng Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng.
1. Trung với nước, hiếu với dân.
2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
3. Thương yêu con người, sống có tình nghĩa.
4. Tinh thần quốc tế trong sáng.
III,Vận dụng vào việc giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay.
1. Thực trạng vấn đề đạo đức trong giai đoạn hiện nay.
2. Nguyên nhân của thực trạng.
3. Biện pháp đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức cho sinh viện hiện nay.



3.1. Biện pháp.
3.2. Về phương châm giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
IV, Kết luận.


THÀNH VIÊN TRONG NHÓM

1. Lê Thị Thúy
2. Nguyễn Thị Thủy
3. Đào Thị Thùy
4.Ngô Xuân Trường
5. Bùi Đình Trường
6. Nguyễn Thu Trang
7. Trương Thị Thu Trang
8. Trần Thị Quỳnh Trang
9. Trần Thị Trang
10.Trần Thị Kiều Trinh


LỜI MỞ ĐẦU

Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng thế giới
đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh rất sâu sắc, phong phú, cả về lý luận và thực tiễn, đã trở thành một bộ phận
vô giá của văn hóa dân tộc và nhân loại, một sức mạnh to lớn làm nên mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là di sản tinh thần, giá
trị nhân văn to lớn của Đảng và dân tộc ta. Đặc biệt là đối với thanh thiếu niên, lớp

người sẽ kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của ông cha ta trong thời kỳ mới.
Sinh thời Người nói: “ Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh phần lớn do các
thanh niên.” Trước lúc đi xa, trong di chúc để lại, Người căn dặn toàn Đảng, toàn
dân: “Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành
những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Chính vì vây, việc bổ sung và tổ chức thực hiện chuẩn mực đạo đức theo tư
tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay mà Đảng chỉ đạo tổ chức thực hiện có ý nghĩa quan trọng nhằm thực hiện
tư tưởng của Người trong việc bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam.


I, Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo đức.
Trước hết, đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, là sự kết
tinh những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa đạo đức
văn hóa của nhân loại. Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và
chuyên, phẩm chất và năng lực thống nhất làm một. trong đó đức là gốc của tài,
hồng là gốc của chuyên, phẩm chất là gốc của năng lực. tài là thể hiện cụ thể của
đức trong hành động. Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống Người
khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển của con người, như gốc của
cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải
từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và
củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Đạo đức là nhân tố tạo nên sự hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. theo Hồ Chí
Minh, sự hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lí tưởng cao xa, ở mức độ
sóng vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết là ở những
giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú bằng tấm
gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lí tưởng trở thành hiện thực.
II, Tư tưởng Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng.
1. Trung với nước, hiếu với dân:
Trung với nước, hiếu với dân trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không phải

là những điều mới được đặt ra, mà đó là những phẩm chất đạo đức vốn có từ xa
xưa trong tư tưởng đạo đức truyền thống phương Đông nói chung và đạo đức
truyền thống Việt Nam nói riêng.
Theo Người, trung là trung với nước, là trung thành với lợi ích của quốc gia,
dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... Nước ở đây với ý nghĩa
"Dân là con nước, nước là mẹ chung", là nước của dân, của toàn dân tộc chứ không
phải của riêng ai và chính mỗi người dân là những "chủ nhân" của đất nước. Mối
quan hệ nước-dân, dân-nước mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với nhau
trong một thể thống nhất về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi công dân với cộng
đồng, quốc gia, dân tộc.


Về chữ hiếu, theo Hồ Chí Minh, là hiếu với dân. Hiếu với dân không phải chỉ
là hiếu với cha mẹ mình như người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân dân, với toàn
dân tộc, vì "nước lấy dân làm gốc", dân là "gốc" của nước. Bác Hồ từng chỉ rõ:
"Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân... Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ
vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân"; "Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau
có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy
càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu
bốn biển một nhà... đạo đức ngày nay cao rộng hơn: không phải chỉ có hiếu với bố
mẹ, mà phải trung với nước, hiếu với dân".
Trung với nước, hiếu với dân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể
hiện trong mọi công việc cách mạng của Đảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ
thể của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Vì vậy, trong suốt quá trình xây
dựng Đảng, lãnh đạo cách mạng, Bác thường xuyên quan tâm tới việc nâng cao
tinh thần trung, hiếu ở mỗi người dân Việt Nam yêu nước nói chung, cán bộ, đảng
viên nói riêng, và đòi hỏi họ phải luôn ghi sâu trong lòng những chữ "trung với
nước, hiếu với dân".
Khi Đảng ta được thành lập, Người luôn nhắc nhở : "Mỗi người đảng viên, mỗi

người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: mình vào Đảng để làm đày tớ
cho nhân dân”. Người nhấn mạnh: Làm đày tớ nhân dân chứ không phải là "quan"
nhân dân". Khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn dân vừa kháng
chiến vừa kiến quốc dù ở đâu dù làm gì, Người cũng chỉ tâm niệm một điều rằng:
"Đảng ta là Đảng cách mạng. Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích
gì khác", "Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời
sống của nhân dân"... Vì vậy, Người luôn chỉ rõ cho mọi người thấy và hiểu rõ
vấn đề cốt lõi của đạo đức cách mạng là: “Việc gì lợi cho dân phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân phải hết sức tránh.”
Sau Đại thắng Mùa Xuân 1975, nhân dân cả nước cùng chung sức xây dựng
đất nước. Hậu quả nặng nề sau chiến tranh và những biến động sâu sắc của tình
hình thế giới đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội kéo dài, đời sống
của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
nhiệm vụ của Đảng là lãnh đạo quần chúng chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây
dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, một lần nữa tinh thần "trung với
nước, hiếu với dân" của đội ngũ những người cách mạng được phát huy cao độ
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trung với nước, hiếu với dân trong giai đoạn hiện nay trước hết là trung thành
với con đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã chọn, là trung thành với sự
nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; là sự thể hiện lương tâm và trách nhiệm của mỗi người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc


Hồ Chí Minh luôn xác định ''bao nhiêu quyền hạn đều của dân'', ''bao nhiêu lợi
ích đều vì dân''. Đảng và Chính phủ là '' đầy tớ của nhân dân'', chứ không phải là
''quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân''. Như vậy, quan niệm về nước và dân
trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hoàn toàn khác so với trước. Điều này đã làm cho
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước.

Hồ Chí Minh mong muốn mỗi người Việt Nam phải trung với nước, hiếu với
dân còn đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng ''điều chủ chốt nhất'' của
đạo đức cách mạng là ''tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân'', là ''trung với
nước, hiếu với dân'', hơn nữa phải là ''tận trung, tận hiếu'' thì mới xứng đáng vừa là
người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Tư tưởng hiếu với dân
không còn dừng lại ở chỗ thương dân mà còn phải phục vụ hết lòng vì dân. Vì vậy
phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân
làm gốc.
2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người, là
đại cương đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày
xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân
dân tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm,
chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân là để đem lại hạnh phúc cho
dân. Với ý nghĩa như vậy cần, kiệm liêm, chính, chí công vô tư cũng là một biểu
hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
Cũng như khái niệm “trung, hiếu”, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
cũng là những khái niệm cũ trong truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ
những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu
của cách mạng.
Cần là siêng năng chăm chỉ, lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất
cao với tinh thần tự lực cánh sinh.
Kiệm là “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”. Cần với
Kiệm đi đối với nhau như hai chân của một người. Cần mà không Kiệm “thì làm
chừng nào xào chừng ấy”. Kiệm mà không Cần, thì không tăng thêm, không phát
triển được.
Liêm là luôn tôn trọng của công và của dân. Phải trong sạch, không tham lam
tiền của, địa vị, danh tiếng. Liêm phải đi đối với Kiệm, bởi có Kiệm mới Liêm
được. Tham lam là một điều rất xấu hổ. Những hành động bất Liêm đều phải dùng
pháp luật để trừng trị, dù đó là người nào, giữ cương vị gì, làm nghề gì. “Một dân

tộc biết Cần, Kiệm, biết Liêm, là dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một
dân tộc văn minh tiến bộ.
Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Người đưa ra một số yêu cầu: đối với mình
không được tự cao tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái hay, sửa


chữa cái dở của mình. Đối với người- không nịnh người trên, không khinh người
dưới, thật thà, không dối trá. Đối với việc - phải để việc công lên trên, lên trước,
việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh.
Theo Hồ Chí Minh, Cần, kiệm, liêm, chính là “tứ đức” không thể thiếu được
của con người. Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”.
Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để người cách
mạng vững vàng qua mọi thử thách : “Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không
thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.
Nếu bài học về đạo đức cách mạng đầu tiên trong cuốn Đường Kách Mệnh,
Người chỉ đề ra những nguyên lý chung thể hiện mối quan hệ giữa ba khía cạnh,
phản ánh mối quan hệ đạo đức mới, đạo đức cách mạng mà người cách mạng cần
quán triệt trước tiên, đồng thời nêu cao việc tu dưỡng đạo đức cách mạng; thì ngay
trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người
đã đề ra những nguyên tắc về hành vi đạo đức cách mạng đối với người có chức,
có quyền trong Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, Người đề nghị: “Mở một
chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, kiệm, liêm,
chính” để “làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu

lao động”.


Người coi cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức cơ bản
nhất của con người mới, đồng thời là chuẩn mực cơ bản của nền đạo đức mới của
dân tộc ta. Đây là phẩm chất được Người đề cập đến nhiều nhất, thường xuyên
nhất với một nội dung đạo đức mới rất cách mạng mà vẫn giữ được nền tảng của
các khái niệm đạo đức cũ rất quen thuộc với mọi người. Phẩm chất này gắn liền
với hoạt động hàng ngày của mỗi con người và có quan hệ mật thiết với tư tưởng
trung với nước, hiếu với dân. Người từng nói: “Người đảng viên, người cán bộ tốt
muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn
toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì
mình sẽ tiến đến chỗ chí công, vô tư. Mình đã chí công, vô tư thì khuyết điểm sẽ
càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm. Có thể thấy rằng từ các khái
niệm đạo đức cũ như: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, Người đã đưa vào đây nội dung
đạo đức mới bằng cách giải thích nó theo quan niệm mới, với một nội dung hoàn
toàn khác, rất cách mạng, phản ánh các mối quan hệ một cách rõ ràng, cụ thể và dễ
hiểu.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính sẽ dẫn đến Chí công vô tư; ngược lại, đã Chí công vô
tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được Cần, Kiệm,
Liêm, Chính và có được nhiều tính tốt khác. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người
vẫn còn căn dặn: "Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Thắng lợi của cách mạng Việt Nam
gần tám thập kỷ qua có vai trò to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay nước ta
đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
thì sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc học tập và làm



theo tấm gương đạo đức của Người lại càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn
bao giờ hết.

Vậy là khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đúng là gốc của con
người. Con người, trong đó đặc biệt là người cán bộ đảng viên có gốc ấy thì người
vững, nếu gốc ấy mục ruỗng tất yếu con người sẽ đổ. Bác Hồ đã dự báo một cách
khoa học, sáng suốt và thiên tài về tư tưởng đạo đức cần, kiệm, liêm, chính đối với
bất cứ Đảng cộng sản cầm quyền nào, vì: đạo đức này có tính định mệnh tới sự
thắng lợi, tồn vong, hưng thịnh, sự suy yếu thất bại của đảng cầm quyền; Đó là sức
mạnh của đảng - sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.
Để làm được đúng lời căn dặn của Bác “mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, thì lúc này phải thắng được “giặc nội
xâm”, “giặc quốc nạn” loại giặc vô ảnh, vô hình là tên giặc tham nhũng ở ngay
trong lòng mình, trong tổ chức mình. Vì loại giặc này đang rình rập phá hoại Đảng,
phá hoại chế độ và sẽ làm cho Đảng hỏng, nếu mỗi cán bộ đảng viên không thắng
được nó.
3, Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Yêu thương con người được xác định là một trong những phẩm chất đạo đức
cao đẹp nhất.
Với Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người là không biên giới. Trước hết,
Người lo cho dân tộc của Người và sau đó, Người lo cho tất cả những kiếp người
trên hành tinh còn bị đoạ đầy, đau khổ, bởi vì: "Họ là thân thích ruột già, công
nông thế giới đều là anh em".
Tư tưởng yêu thương con người được Hồ Chí Minh nêu lên và vận động mọi
người cùng thực hiện suốt cả cuộc đời. Cho tới trước lúc đi xa, trong lời Di chúc,
khi để lại: "muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội,


cho các cháu thanh niên và nhi đồng", và "gửi lời chào thân ái đến các đồng chí,
các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế". Người vẫn ân cần nhắc nhở

toàn Đảng phải tiếp tục chăm lo cho con người. Trước hết là những người đã hy
sinh một phần xương máu cho công cuộc kháng chiến, là cha mẹ vợ con thương
binh, liệt sĩ, là bà con nông dân, là thanh niên, phụ nữ... lo cho hiện tại, lo đào tạo
cho tương lai; Ngay cả "với những nạn nhân của chế độ cũ như: trộm cắp, gái
điếm, cờ bạc, buôn lậu... thì nhà nước phải vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải
tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện".
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ
truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân
loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ
giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
- Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số
nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo
khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức
mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
- Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm
khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với
những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
- Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn.
Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa
khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
- Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con
người.
Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin để thương yêu nhau hơn. Người viết: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là
phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có
tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được".
Yêu thương con người là một trong bốn chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh. Các
nhà đạo đức học, các nhà khoa học nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đồng
thuận như vậy. Trong 4 chuẩn mực ấy (Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương

con người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng)
không chuẩn mực nào có thể xem nhẹ, vì cả 4 chuẩn mực ấy là tiêu chí để đánh giá
con người mới, con người mang dấu ấn đạo đức Hồ Chí Minh.
3. Tinh thần quốc tế trong sáng:
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan
niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là


“người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới, anh hùng
giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể
hiện trong các điểm sau:
- Đoàn kết với nhân dân lao động các nước. Đó chính là tinh thần đoàn kết với
các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước trong cuộc đấu tranh giải
phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp
bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách
mạng của cả dân tộc.
- Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu
chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”. Ngay từ năm 1921, Người khẳng định
thực dân đế quốc là kẻ thù của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân
lao động chính quốc. Bởi vậy, để chống lại kẻ thù chung, đạt tới mục tiêu giải
phóng thân phận nô lệ và bị bóc lột, đòi hỏi sự đoàn kết liên minh chặt chẽ nhân
dân lao động ở thuộc địa và chính quốc. Điểm mới và sâu sắc trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là Người đã chứng minh được bọn đế quốc không chỉ áp bức bóc lột
nhân dân các nước thuộc địa, mà còn thống trị nhân dân lao động và giai cấp vô
sản chính quốc. Người đã ví chủ nghĩa đế quốc giống như “con đỉa hai vòi". Một
vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một vòi bám vào giai cấp vô sản ở thuộc
địa. Muốn giết con vật ấy, phải đồng thời cắt cả hai vòi, nếu chỉ cắt một vòi thì vòi
còn lại tiếp tục hút máu và vòi bị cắt tiếp tục mọc ra. Vì thế, nhiệm vụ chống chủ
nghĩa tư bản, đánh đổ chúng là nhiệm vụ của cả nhân dân lao động chính quốc và

thuộc địa. Nhiệm vụ đó đòi hỏi phải đoàn kết cả hai lực lượng nói trên.
- Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Hồ Chí
Minh luôn nhắc nhở nhân dân Việt Nam về những nhiệm vụ đối với cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước khác. Hồ Chí Minh tha thiết với độc
lập tự do của dân tộc mình, cho nên cũng rất trân trọng độc lập tự do của các dân
tộc khác. Bởi thế, Người hết sức căm giận trước bất cứ một hành động xâm lược
nào và cho rằng: giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do của họ cũng chính
là bảo vệ lợi ích của đất nước mình, "giúp bạn là tự giúp mình". Đây chính là một
bước phát triển mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Vì lẽ đó,
Người luôn động viên nhân dân Việt Nam vừa tiến hành sự nghiệp bảo vệ độc lập
tự do của dân tộc mình, vừa thực hiện sự giúp đỡ vô tư chí tình, chí nghĩa đối với
các dân tộc anh em.


Sự đoàn kết ấy là nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, các
dân tộc. Sự đoàn kết ấy dựa trên cơ sở bình đẳng và kết hợp giữa lợi ích quốc gia
với lợi ích quốc tế.
- Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân
chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ
nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc... Có thể nói tinh thần quốc tế trong
sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tình thương yêu đối với con người;
vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, mang lại tự do và bình đẳng thực sự cho con người.
III, Vận dụng vào việc giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay.
1. Thực trạng vấn đề đạo đức trong giai đoạn hiện nay.

Hiện nay trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, thì tư tưởng của Bác Hồ về đào tạo lớp thanh niên thể
hiện tầm nhìn chiến lược và phản ánh những quan điểm cơ bản của Người trong

quá trình hình thành thế hệ con người mới:
-

-

-

Đó là quan điểm giáo dục toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn
hóa, khoa học, kỹ thuật…. Trong đó coi giáo dục chính trị, tư tưởng là then chốt để
tạo dựng bản lĩnh cách mạng cho thế hệ trẻ.
Đó là quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa “hồng” và “chuyên”, trong đó
coi hồng là gốc bao gồm các phạm trù cơ bản là “Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm”.
Nhằm tạo tiền đề hình thành ý thức chính trị, đạo đức, lối sống, nếp sống trong
thanh thiếu niên.
Đó là quan điểm về “chuyên” với nội hàm “học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự
nhân dân, học để làm người, để làm việc” vừa chỉ rõ mục đích của việc học tập và
phương pháp học thế nào để trở thành những công dân, cán bộ tốt, nhất là làm việc
tốt, có năng suất và chất lượng cao, không phải học để khoe khoang, học vì bằng
cấp…
Bên cạnh đó, trong cơ chế thị trường đã có những tác động tiêu cực đến đời
sống xã hội, đến nền văn hoá đạo đức XHCN ở nước ta, mặt trái của cơ chế thị
trường đang làm băng hoại dần giá trị đạo đức của nhân dân ta, len lỏi và tìm cách
tác động vào cả thầy lẫn trò. Hậu quả lớn nhất đối với ngành giáo dục là sự sa sút


về đạo đức và thiếu lý tưởng của một bộ phận không nhỏ cả thầy và trò. Tinh thần
“Tất cả vì học sinh thân yêu của chúng ta” và truyền thống “Tôn sư trọng đạo” của
thầy và trò bị xói mòn. Đồng tiền có lúc, có nơi đã làm giảm phẩm giá nhân cách
của thầy giáo và cũng vì đồng tiền mà học sinh sinh viên đã thiếu kính trọng thầy
giáo. Chất lượng đạo đức còn có những mặt chưa tốt, biểu hiện: Có những sinh

viên xác định động cơ học tập chưa đúng, học tập thiếu chăm chỉ, chưa xây dựng
được niềm tin và ý chí trong học tập, còn vi phạm nội quy đạo đức …như vi phạm
nội quy thi cử, thiếu tôn trọng thầy cô giáo, chấp hành chưa tốt nội quy nhà
trường.... Về phía giáo viên vì ảnh hưởng của cơ chế thị trường mà một số giáo
viên không yên tâm công tác, chuyển ra công tác bên ngoài; một số giáo viên thiếu
nhiệt tình trong giảng dạy, một số còn so đo tịnh nạnh trong công tác; biện pháp
giáo dục về ý thức chấp hành giáo dục pháp luật chưa có hiệu quả....
2. Nguyên nhân của thực trạng:
- Trong quá trình giáo dục sinh viên, đội ngũ giáo viên có lúc chưa nhận thức
hết mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt đạo đức và văn hoá, cho nên có khuynh
hướng tập trung nâng cao văn hoá, không chú ý đến vai trò của mặt giáo dục đạo
đức.
- Công tác giáo dục đạo đức còn chung chung, thiếu tính toàn diện, xem nhẹ
việc thực hành rèn luyện hành vi thói quen đạo đức.
- Việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong giáo dục đạo đức sinh
viên có lúc chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ.
- Trong tình hình nền kinh tế thị trường hiện nay, môi trường xã hội chưa trong
sạch đã có tác động không thuận lợi đến quá trình giáo dục, làm hạn chế đến việc
rèn luyện đạo đức sinh viên. Đứng trước tình hình đó cần phải đẩy mạnh nghiên
cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác giáo dục đạo đức cho
sinh viên, phải coi trọng và quan tâm hàng đầu đến công tác giáo dục đạo đức cho
sinh viên theo tư tưởng HCM. Có như vậy mới góp phần giữ vững định hướng
chiến lược về công tác giáo dục trong thời kỳ CNH-HĐH và đồng thời có khả năng
đào tạo nguồn lực cho công cuộc xây dựng CNXH. Thực trạng cho thấy công tác
giáo dục đạo đức cách mạng trong những năm qua vẫn còn nhiều vấn đề bất cập,
chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới; Sự rèn luyện, tính mẫu mực trong một bộ phận cán bộ đảng
viên chưa phải là tốt. Chính vì vậy mà chúng ta cần quán triệt nguyên tắc chỉ đạo
xuyên suốt của quá trình giáo dục đạo đức là phải dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng. Luôn luôn kiên trì thực

hiện tốt các biện pháp nâng cao công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh


3. Biện pháp đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức cho sinh viện hiện nay.
3.1. Biện pháp.
- Bồi dưởng nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực cho đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý giáo dục:
+ Về phẩm chất chính trị đạo đức: Thường xuyên bồi dưỡng chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng nhân văn và những chuẩn mực đạo đức Hồ chí Minh. Yêu cầu đối
với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là phải thường xuyên rèn luyện để hoàn
thiện nhân cách, thật sự là tấm gương sáng cho sinh viên noi theo. Hưởng ứng tích
cực cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” bằng
những việc làm và hành động thiết thực.
+ Về năng lực: Bồi dưỡng và nâng cao năng lực chuyên môn, năng lực quản lý,
năng lực sư phạm, bởi vì người giáo viên giảng dạy tốt sẽ tạo ra mối quan hệ thuận
lợi giữa thầy và trò trong qúa trình giáo dục đạo đức. Đẩy mạnh hoạt động nghiên
cứu và triển khai các chuyên đề về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên
thật sự có hiệu quả, nêu gương cụ thể những tấm gương tiêu biểu.
- Thực hiện tốt các phương châm và nguyên tắc giáo dục đạo đức cho sinh viên
theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
+ Về nguyên tắc rèn luyện đạo đức: Rèn luyện bền bỉ hàng ngày: Hồ Chí Minh
đã căn dặn: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống. Nó do rèn luyện
bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố”. Do đó, khi giáo dục đạo đức cần phải xây
dựng ý thức thường xuyên rèn luyện đạo đức cho sinh viên, thường xuyên kiểm tra
việc rèn luyện đó trong các mối quan hệ ứng xử ở nhà trường, gia đình và xã hội.
Tự giác, nêu gương, thực hiện nói đi đôi với làm: Bản thân thầy cô giáo là tấm
gương sáng cho sinh viên noi theo.. Giáo dục sinh viên thực hành “Nói đi đôi với
làm” trong học tập, trong lao động, trong sinh hoạt tập thể…. Thực hiên xây đi đôi
với chống: Trong quá trình giáo dục đạo đức phải kết hợp xây đi đôi với chống,
cùng với việc rèn luyện đạo đức, xây dựng và phát triển đạo đức mới, giúp sinh

viên học tập cái đúng, cái tốt, và loại bỏ cái xấu, cái lạc hậu …
3.2. Về phương châm giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Thương yêu, tin tưởng, tôn trọng nhân cách của sinh viên.
- Phải thấu suốt nguyên tắc “Học đi đôi với hành” trong quá trình giáo dục đạo
đức. “ Giáo dục trong tập thể và bằng tập thể”.
- Nắm vững những đặc điểm cá biệt để tìm ra cách tác động thích hợp với từng
đối tượng sinh viên để kịp thời giáo dục uốn nắn. Phát huy mặt tốt, mặt tích cực
của sinh viên nhằm chuyển hoá dần mặt tiêu cực của sinh viên.
- Phối kết hợp giữa GV lên lớp, phòng chức năng cùng với gia đình để giáo
dục đạo đức cho sinh viên. Xây dựng tốt môi trường học tập của sinh viên. Thực
hiện khen thưởng và trách phạt kịp thời. Thường xuyên phát động các phong trào
hướng sinh viên vào rèn luyện đạo đức. Công tác giáo dục rèn luyện đạo đức theo


tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những hoạt động có vị trí quan trọng hàng đầu
trong nhà trường. Vì vậy khi tiến hành giáo dục đạo đức cho sinh viên phải biết
vận dụng tổng hợp nhiều biện pháp thì mới có khả năng làm cho quá trình rèn
luyện thói quen, kỹ năng và niềm tin cho sinh viên có hiệu quả thiết thực.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó thì vấn đề quan trọng và cấp thiết hơn bao
giờ hết đặt ra trong công tác thanh niên chính là tăng cường giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng thanh niên thành lớp người vừa “hồng” vừa “chuyên”.Nói cách khác chính
là tăng cường giáo dục một cách toàn diện về việc “rèn đức” và “luyện tài” để góp
phần hình thành đội ngũ đông đảo những người lao động trẻ, nguồn nhân lực có
chất lượng, đáp ứng yêu cầu công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN. “Rèn đức” chính là tự thân nâng cao lòng yêu nước nồng nàn, lòng trung
thành với Đảng, với nhân dân, nâng cao ý thức tự lực, tự cường, tinh thần dũng
cảm, vượt qua khó khăn, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh, tích cực đấu tranh chống các hiện tượng
tiêu cực, tệ nạn xã hội. “Luyện tài” là không ngừng học tập, nâng cao trình độ cả

về chính trị, học vấn, khoa học công nghệ, quản lý, ngoại ngữ, tin học, kỹ năng
sống… để cống hiến có hiệu quả, phát triển tài năng phục vụ đất nước.
Cần tiếp tục phát huy và đẩy mạnh có hiệu quả theo hướng cụ thể hóa các nội
dung và xây dựng thành các chương trình hành động, đề ra các giải pháp, hình
thức, cách làm phù hợp, sáng tạo, nhất là các giải pháp đổi mới về nội dung và
phương thức bồi dưỡng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, về lý tưởng
cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, đảm bảo thiết thực, hiệu quả, tránh
phô trương, hình thức.
Nói về mục đích của nền giáo dục, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Các thầy giáo có
nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần
nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân”. Cụ thể là nền giáo dục cách
mạng sẽ đào tạo con em những người lao động thành “những người công dân có
ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lục
sẵn só của các em”.
Trường học là nơi đào tạo những người chủ tương lai của đất nước. Người nói:
“Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục
đích đào tạo những công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước
nhà. Về mọi mặt, trường học của chúng ta phải hơn hẳn trường học của thực dân
và phong kiến.”


Giáo dục phải phù hợp với lứa tuổi.Với thanh niên phải giáo dục họ “luôn luôn
nâng cao tinh thần yêu tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách
mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự ngiệp cách mạng, triệt để tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và
nhân dân giao cho”. Bồi dưỡng giáo dục phải trên tất cả các mặt “đức, trí, thể,
mỹ”. Những nội dung này gắn bó chặt chẽ với nhau.
Giáo dục toàn diện, nhưng phải vận dụng phù hợp ở mỗi đối tượng. Sinh
viên thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa
học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp

ích cho công cuộc xây dựng nước nhà.

IV, Kết luận
“Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ
xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và
thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường
và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó”
Đảng ta xác định quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người mới
XHCN không thể thiếu được hoạt động giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo đức tạo
nên “Nền tảng” con người trong sự nghiệp xây dựng con người ở mỗi thời đại. Đặc
biệt trong công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng
nền đạo đức mới XHCN phù hợp với dân tộc và thời đại. Như vậy, việc nâng cao
công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ đạt được
chất lượng mới cho các mặt giáo dục toàn diện. Nó có ý nghĩa vừa cấp bách, vừa
lâu dài đối với việc xây dựng nền đạo đức mới XHCN của nước ta trong thời kỳ
CNH- HĐH trong thế kỷ XXI này. người đời tôn vinh.



×