Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tác động của kinh tế thị trường đối với nền quốc phòng ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.74 KB, 26 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

SUVĂNTHOONG THIÊNGTHẾPVÔNGSA

T¸c ®éng cña kinh tÕ thÞ tr-êng
®èi víi nÒn quèc phßng
ë céng hoµ d©n chñ nh©n d©n lµo

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số

: 62 31 01 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2015


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Cộng hoà dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào, vấn đề phát triển kinh
tế hàng hoá (KTHH), kinh tế thị trường (KTTT) đã được Đảng đặt ra nghiên
cứu, từng bước nâng cao nhận thức để chỉ đạo thực hiện quá trình đổi mới về
kinh tế - xã hội (KT-XH) nhằm đạt được mục tiêu tạo cho đất nước giàu
mạnh và phồn vinh, nhân dân có cuộc sống bình yên, hạnh phúc, xã hội có an
ninh, văn minh và công bằng.
Kinh tế thị trường về bản chất là KTHH phát triển ở trình độ cao, khi lực
lượng sản xuất (LLSX) phát triển mạnh đạt trình độ xã hội hoá cao, các thành tựu
của khoa học - công nghệ (KH-CN) được ứng dụng vào sản xuất - kinh doanh
mạnh mẽ, các quan hệ kinh tế được thực hiện thông qua quan hệ hàng hoá - tiền


tệ. Đối với nước Lào, phát triển KTTT là sự tiếp thu có chọn lọc những giá trị
tinh hoa của nhân loại để xây dựng nền kinh tế đất nước vững mạnh. Đây là vấn
đề hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử của nước Lào. Do đó, quá trình vận động và
xây dựng đó đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn cần được
nghiên cứu và giải quyết. Ở nước Lào, sau 25 năm hình thành và phát triển
KTTT đã có những tác động sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống KT-XH, quốc
phòng, an ninh... với cả những tác động theo hướng tích cực và cả những tác
động tiêu cực. Những năm qua, nền quốc phòng của Lào được xây dựng trên cơ
sở tư duy quân sự mới và tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, đặt trong mối quan hệ
tác động qua lại giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế với
quốc phòng. Trong điều kiện nền kinh tế đất nước phát triển dưới tác động của
các quy luật kinh tế của KTTT, nền quốc phòng nước Lào tất yếu chịu tác động
không nhỏ của KTTT. Song sự tác động của KTTT như thế nào đối với nền quốc
phòng là những vấn đề cần được nghiên cứu giải quyết. Bởi vậy, việc nghiên cứu
sự phát triển KTTT và làm rõ sự tác động của nó đối với nền quốc phòng là đòi
hỏi khách quan bức xúc cả về mặt lý luận và thực tiễn. Từ những vấn đề lý luận
và thực tiễn đặt ra trên đây tác giả chọn đề tài "Tác động của kinh tế thị trường
đối với nền quốc phòng ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào" để nghiên cứu
làm luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ giữa KTTT
với nền quốc phòng của đất nước để phân tích thực trạng tác động của KTTT
đối với nền quốc phòng, dự báo tác động của KTTT đối với nền quốc phòng
những năm tới ở nước Lào. Từ đó đề xuất những quan điểm cơ bản và các
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế những tác
động tiêu cực, khắc phục các hạn chế của KTTT đối với việc củng cố và tăng
cường nền quốc phòng ở nước Lào.



2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trình bày một số vấn đề lý luận cơ bản của KTTT và mối quan hệ
giữa kinh tế với quốc phòng - cơ sở khách quan về sự tác động của KTTT đối
với nền quốc phòng.
- Phân tích thực trạng tác động của KTTT đối với nền quốc phòng trên cả
hai mặt tích cực và tiêu cực. Nêu ra một số dự báo về xu hướng phát triển và tác
động của KTTT đối với nền quốc phòng trong thời gian tới.
- Đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
những tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của KTTT đối với nền
quốc phòng ở CHDCND Lào.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án lấy sự tác động của KTTT đối với nền quốc phòng ở
CHDCND Lào làm đối tượng nghiên cứu. Vấn đề bản chất kinh tế thị trường
được bàn luận đến ở mức độ tìm cơ sở để phân tích rõ đối tượng nghiên cứu
của đề tài.
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu tác động của kinh tế thị trường đối
với nền quốc phòng ở CHDCND Lào trong giai đoạn 2000 - 2013, dự báo
cho thời gian đến năm 2020
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết về chiến tranh
và quân đội, lý luận kinh tế quân sự, đường lối chính sách của Đảng Nhân dân
cách mạng (NDCM) Lào, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và
chỉ thị của Bộ Quốc phòng CHDCND Lào. Đồng thời kế thừa và phát triển các
công trình khoa học đã công bố của các nhà khoa học. Luận án sử dụng phương
pháp cơ bản của kinh tế chính trị học: Phương pháp trừu tượng hoá khoa học.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Phân tích và chỉ ra những tác động của KTTT đối với nền quốc phòng
ở nước Lào hiện nay và trong thời gian tới.

- Đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của KTTT đối
với sự tăng cường nền quốc phòng ở nước Lào.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả đạt được của luận án sẽ góp thêm cơ sở khoa học vào việc
hoạch định quá trình phát triển KTTT và tác động của nó đối với nền quốc
phòng ở CHDCND Lào. Luận án còn là tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy môn kinh tế chính trị và kinh tế quân sự ở các nhà trường
trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được chia làm 4 chương, 10 tiết.


3
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. CÁC NGHIÊN CỨU CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ HỌC TƯ SẢN CỔ
ĐIỂN, CÁC NHÀ KINH ĐIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, CÁC NHÀ
KINH TẾ HỌC HIỆN ĐẠI VÀ CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU VIỆT NAM

1.1.1. Các nhà kinh tế học tư sản cổ điển
Học thuyết kinh tế của Adam Smith.
Lý thuyết "Bàn tay vô hình" của Adam Smith thực chất là lý thuyết
về CCTT tự điều tiết.
Lý thuyết "Bàn tay vô hình" của Adam Smith đã đề cao vai trò của
quy luật kinh tế khách quan trong điều tiết nền KTTT, đề cao tính độc lập,
tự chủ, sáng tạo và tinh thần tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh của các
chủ kinh tế. Coi thị trường tự do là lực lượng, sức mạnh điều tiết sản xuất

và tiêu dùng của xã hội.
Một bài học được rút ra qua việc nghiên cứu lý thuyết này là: cần có
cách nhìn khách quan, khoa học về CCTT. Không nên tuyệt đối hoá vai trò
của thị trường trong điều tiết nền kinh tế. Sự điều tiết của nhà nước đối với
nền kinh tế là cần thiết để ngăn ngừa, khắc phục những thất bại của thị
trường, để thị trường hoạt động có hiệu quả.
1.1.2. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
C.Mác đã hệ thống và kế thừa các nhân tố khoa học trong lý luận
giá trị của các bậc tiền bối mà trực tiếp là từ David Ricardo. Ông đã khảo
sát và phân tích hàng hoá với tư cách là tế bào kinh tế của phương thức sản
xuất TBCN, trong đó chứa đựng mối quan hệ cơ bản của phương thức này
trên các mặt bản chất, đại lượng, hình thái biểu hiện và quy luật tác động
để hình thành học thuyết giá từ của mình.
NEP của V.I. Lênin có ý nghĩa kinh tế quan trọng đối với sự khôi
phục và phát triển kinh tế, văn hoá trong nước, cũng như có ý nghĩa quốc
tế to lớn đối với các nước phát triển theo định hướng XHCN, đặc biệt là
đối với nước CHDCND Lào có nền kinh tế chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã không chỉ dừng lại ở
nghiên cứu các vấn đề kinh tế mà còn đề cập đến mối quan hệ giữa kinh tế
với quốc phòng và chiến tranh.
Những tư tưởng của các ông bàn về vấn đề này được trình bày ở
nhiều tác phẩm, nhưng tập trung nhất ở tác phẩm "Chống Đuy Rinh" của
Ph.Ăngghen (1878), phần lý luận về bạo lực. Xung quanh mối quan hệ về


4
kinh tế với bạo lực (quân sự, chiến tranh, quốc phòng), Ph.Ăngghen
(1820-1895) cho rằng: "Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, những điều kiện
kinh tế và tài nguyên kinh tế đều là những cái giúp cho "bạo lực" chiến

thắng, nếu không có những điều kiện và tài nguyên đó thì bạo lực không
còn là bạo lực nữa".
Trong tác phẩm "Hải cảng Lữ Thuận thất thủ" (1905), V.I. Lênin
cũng đã đề cập sự phụ thuộc của quốc phòng, chiến tranh vào kinh tế thông
qua việc phân tích nước Nhật đổ tiền của, công sức, trí tuệ để chế tạo các
chiến hạm. V.I.Lênin khẳng định rằng: "Một đội quân giỏi nhất, những
người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị kẻ
thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện
đầy đủ".
Như vậy, xét một cách tổng quát nhất về mặt lý luận cũng như lướt
qua về lịch sử, có thể thấy, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề
cập không ít đến sự phát triển của sản xuất có vai trò to lớn đối với sự phát
triển KT-XH. Đồng thời các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đề
cập khá nhiều mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với
kinh tế, là hai lĩnh vực có tác động, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển.
1.1.3. Các nhà kinh tế học hiện đại
Lý thuyết KTTT xã hội ở Cộng hoà Liên bang Đức
Tư tưởng cơ bản là đảm bảo tự do thị trường, tự do cạnh tranh,
không có sự khống chế của độc quyền, bảo vệ bất khả xâm phạm của sở
hữu tư nhân, bảo vệ hệ thống kinh tế TBCN, nhà nước can thiệp vào nền
kinh tế ở mức độ nhất định nhằm thực hiện công bằng xã hội. Yếu tố xã
hội là một nội dung chủ yếu của KTTT xã hội.
Lý thuyết về "nền kinh tế hỗn hợp" của Paul A.Samuelson
Paul A.Samuelson là nhà kinh tế học người Mỹ, tác giả của cuốn
Kinh tế học nổi tiếng và là người đứng đầu trường phái chính hiện đại.
Học thuyết của Paul A.Samuelson đã đề cập một cách đầy đủ các vấn đề
của kinh tế học hiện đại bao gồm kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô,
trong đó lý thuyết về nền "kinh tế hỗn hợp" là nội dung chủ yếu.
Học thuyết của trường phái chính hiện đại mà người đứng đầu là Paul
A.Samuelson (từ những năm 60 của thế kỷ XX lại đây) đã khẳng định điều

tiết một nền kinh tế hiện đại nếu không có thị trường hoặc Chính phủ thì
không khác gì định vỗ tay bằng một bàn tay. Cả thị trường và Chính phủ đều
thiết yếu để một nền kinh tế phát triển lành mạnh. Tư tưởng này được thể
hiện trong lý thuyết "nền kinh tế hỗn hợp" của Paul A.Samuelson.


5
1.1.4. Các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Việt Nam
Việt Nam là một nước có nền kinh tế chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền KTTT định hướng XHCN. Nền kinh tế Cộng
hoà XHCN Việt Nam có nhiều đặc điểm tương đồng với CHDCND Lào,
do đó các công trình nghiên cứu, các quan điểm lý luận của Việt Nam về
vai trò, vị trí và con đường phát triển của KTTT Việt Nam trong quá trình
phát triển nền kinh tế đất nước, cũng như những tác động của quá trình đó
đối với lĩnh vực khác của đời sống xã hội, rất gần gũi và có thể vận dụng
thuận lợi đối với CHDCND Lào.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và Lào (sách tham khảo), Nxb Chính trị
- Hành chính, Hà Nội, 2010, do GS.TS Lê Hữu Nghĩa, GS.TS Chu Văn
Cấp, GS.TS Hoàng Chí Bảo, PGS.TS Lưu Đạt Thuyết (đồng chủ biên).
Cuốn sách gồm 4 chương, 302 trang. Cuốn sách này ra đời dựa trên kết quả
nghiên cứu của đề tài khoa học thực hiện "Nhiệm vụ hợp tác quốc tế về
khoa học và công nghệ theo nghị định thư" giữa hai nước Việt Nam và Lào.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Sách tham khảo), Nxb Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội, 2006, do TS. Đinh Văn Ân-TS. Lê Xuân Bá (đồng chủ biên).
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
(Sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, do PGS.TS Hà
Huy Thành (chủ biên) nghiên cứu.
Phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Sách tham khảo), Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội, 2006, do GS.TS Nguyễn Đình Hương (chủ biên).
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, do
GS.TS Hoàng Ngọc Hoà (chủ biên).
Kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ
kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị XHCN, mã số 5.02.01, Hà Nội,
1998, do Trần Trung Tín.
Cuốn sách Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong điều kiện Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại
Thế giới (2009), Nxb Chính trị quốc gia của TS. Nguyễn Văn Hậu TS.
Nguyễn Thị Như Hà (đồng chủ biên).
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, luận án
PTS Khoa học kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị XHCN, mã số:
5.02.01, Hà Nội, 1995, do Trần Công Sách thực hiện.


6
Tóm lại, những cuốn sách, luận án, luận văn trên đã nghiên cứu một
cách có hệ thống về KTTT hoặc về KTTT đối với quốc phòng. Mặc dù các
công trình trên không nghiên cứu trực tiếp về tác động của KTTT đối với
nền quốc phòng - là phạm vi nghiên cứu rộng hơn, nhưng Việt Nam và
Lào có nhiều đặc điểm tương đồng, bởi vậy các công trình nghiên cứu trên
có ý nghĩa rất lớn để tác giả được tiếp cận, tham khảo, rút kinh nghiệm để
viết luận án của mình.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA CÁC NHÀ NGHIÊN
CỨU NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

Thoong Xết Phim Ma Vông (2001), Luận án tiến sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh với đề tài: Mối quan hệ giữa kinh tế

với quốc phòng trong thời kỳ mới ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
Tác động của kinh tế tri thức đến quốc phòng toàn dân ở Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính
trị, mã số: 62 31 01 01, Hà Nội, 2007, do Khăm Phải Xà Phăng Nửa.
Sự phát triển nông nghiệp và tác động của nó đối với củng cố quốc
phòng ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế,
chuyên ngành kinh tế chính trị, mã số 62 31 01 01, Hà Nội, 2008, do Vi
lay Phết My Xay thực hiện.
Ngoài những luận án trên, còn có kỷ yếu hội thảo khoa học với đề
tài: Lý luận và thực tiễn trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Lào và Việt Nam. Đây là hội thảo khoa học quốc tế đã
diễn ra tại Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 2006.
Tóm lại, việc nghiên cứu quan điểm của các nhà kinh tế học tư sản
cổ điển, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, các nhà kinh tế học
liên quan đến đề tài, nó là những vấn đề cơ sở quan trọng cho tác giả có
một cách nhìn khái quát tập trung nghiên cứu mới của đề tài ở các chương
tiếp theo.
1.3. NHỮNG KHOẢNG TRỐNG LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình trong và
ngoài nước, Luận án tiếp tục nghiên cứu và làm rõ các nội dung sau:
- Luận án sẽ khái quát một số lý luận cơ bản về KTTT, và phân tích
mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng.
- Phân tích tác động của KTTT đối với nền quốc phòng ở CHDCND Lào.
- Trên cơ sở lý luận và thực trạng tác động của KTTT đối với nền
quốc phòng, Luận án đã đề xuất quan điểm và giải pháp để phát huy tác
động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của KTTT đối với nền quốc
phòng ở CHDCND Lào.



7
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI NỀN QUỐC PHÒNG
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG

2.1.1. Quan niệm về kinh tế thị trường, lịch sử hình thành và
phát triển kinh tế thị trường
2.1.1.1. Quan niệm về kinh tế thị trường
Từ điển Kinh tế học hiện đại đã định nghĩa KTTT là "một kiểu tổ
chức kinh tế trong đó các quyết định về việc phân bổ các nguồn lực sản xuất
và phân phối sản phẩm được đưa ra trên cơ sở thoả thuận tình nguyện về
giá cả giữa nhà sản xuất và khách hàng, người lao động và người sử dụng
lao động".
Sự thực của KTTT và KTHH chính là hai mặt của cùng một sự vật,
KTHH phát triển đến trình độ nào thì KTTT cũng sẽ phát triển đến trình
độ đó. Mặc dù KTTT ra đời cùng với KTHH song KTHH là sự khái quát
của sản xuất tiến hành vì mục đích trao đổi. Sự liên kết kinh tế của việc
mua - bán giữa hai bên trong hoạt động SXHH và trao đổi hàng hoá tất
nhiên sẽ hình thành thị trường.
Như vậy, sau khi hình thái KTHH đã phát triển đạt trình độ rất cao
trong tương lai, nó sẽ tạo tiền đề sản sinh ra những nhân tố làm xuất hiện
và hình thành một hình thái kinh tế mới ở chính ngay trong lòng nó, hình
thái kinh tế này sẽ dần lớn lên thành mặt đối lập quay lại phủ định hình
thái KTHH cũng giống như hình thái KTHH đã phủ định hình thái kinh tế
tự nhiên, tự cấp, tự túc.
Rõ ràng, không thể đồng nhất KTHH với KTTT, bởi KTHH là một
phạm trù chỉ một hình thái kinh tế nó là một khái niệm tập hợp "mẹ" (khái
niệm lớn nhất của một tập hợp gọi là phạm trù), còn KTTT chỉ là một giai

đoạn phát triển của hình thái KTHH nên nó là khái niệm thuộc tập hợp
"con" nằm trong tập hợp "mẹ".
2.1.1.2. Sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường một hình thức phát triển cao của KTHH.
Lần theo chiều dài của lịch sử cho thấy sự hình thành và phát triển
của KTTT trải qua ba bước chuyển biến:
Bước chuyển biến thứ nhất: Từ mô hình kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự
túc lên mô hình KTHH ở nấc thang thấp nhất là KTHH giản đơn.


8
Bước chuyển biến thứ hai: Từ mô hình KTHH giản đơn lên mô
hình KTTT tự do. Đó là kinh tế mà thị trường tự do phát triển, điều tiết
nền kinh tế. Mọi vấn đề của nền kinh tế đặt ra đều do thị trường điều
chỉnh và quyết định.
Bước chuyển biến thứ ba: Từ mô hình KTTT tự do lên mô hình
KTTT hỗn hợp. Đó là nền kinh tế được điều chỉnh bởi cả hai lực lượng
chính phủ và thị trường.
2.1.2. Các nhân tố cấu thành kinh tế thị trường
2.1.2.1. Các chủ thể tham gia kinh tế thị trường
Trong số các chủ thể tham gia "trò chơi kinh tế thị trường", bên cạnh
các doanh nghiệp và Nhà nước, thì người dân với tư cách là người sản xuất
tư nhân hay người tiêu dùng cũng giữ vai trò là những chủ thể tích cực của
nền KTTT.
+ Nhà nước: Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế - chủ thể quan
trọng của KTTT. Thực tế phát triển của nền KTTT cho thấy, so với kinh tế
tập trung, vai trò của Nhà nước trong nền KTTT không những không giảm
đi, mà còn ngày càng chứng tỏ như một nhân tố quan trọng không thể thiếu,
đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân.
+ Doanh nghiệp: Doanh nghiệp là chủ thể trong hệ thống KTTT.

Bởi là nơi trực tiếp sản xuất ra mọi loại hàng hoá và dịch vụ được trao đổi
trên thị trường, doanh nghiệp (thuộc mọi loại hình và mọi thành phần)
chính là "các viên gạch" tạo ra nền tảng của KTTT.
+ Người tiêu dùng: Nền KTTT là nền kinh tế sản xuất ra nhằm mục
tiêu để bán, tức là người sản xuất là người bán những hàng hoá sản xuất ra
để đáp ứng nhu cầu của người mua - người mua chính là người tiêu dùng.
2.1.2.2. Hệ thống các loại thị trường
Hệ thống thị trường trong nền KTTT bao gồm các thị trường cơ bản
như: (i) thị trường hàng hoá và dịch vụ, (ii) thị trường lao động, (iii) thị
trường bất động sản, (iv) thị trường tài chính và (v) thị trường khoa học và
công nghệ.
2.1.2.3. Cơ chế vận hành của nền kinh tế: nền kinh tế thị trường
vận hành theo cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự
tác động của các quy luật vốn có của nó. Nói một cách cụ thể hơn, cơ chế
thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn
nhau của các yếu tố giá cả cung - cầu, cạnh tranh… trực tiếp phát huy tác
dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường.


9
2.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VỚI QUỐC PHÒNG - CƠ SỞ
KHÁCH QUAN VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI
NỀN QUỐC PHÒNG

2.2.1. Những vấn đề cơ bản về mặt lý luận của mối quan hệ giữa
kinh tế với quốc phòng
2.2.1.1. Về phạm trù "quốc phòng" và "kinh tế", mối quan hệ
giữa chúng
"Quốc phòng" là công cuộc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng

thể các hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn
hoá, khoa học… của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên
sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng nhằm
giữ được hoà bình, đẩy lùi và ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ
thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh dưới các hình thức và quy mô.
Quốc phòng là hoạt của cả nước, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt.
"Kinh tế" với tư cách là hệ thống tổ chức nhằm sản xuất, phân
phối, tiêu dùng của cải của xã hội luôn là nền tảng của sự tồn tại của loài
người. Khi xã hội chưa có giai cấp, chưa có Nhà nước, chưa có vấn đề
cạnh tranh kinh tế và vấn đề đối lập lợi ích kinh tế giữa nhóm người này
với nhóm người khác, quốc gia này với quốc gia khác. Do vậy, chưa có
hành vi chiếm đoạt, nên chưa cần có hoạt động bảo vệ các thành quả kinh
tế. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của LLSX, sự xuất hiện của giai cấp và
Nhà nước, chiến tranh đã trở thành một hiện tượng khá thường xuyên. Thực
tế này đã khiến các nhà tư tưởng, các nhà kinh tế, các nhà quân sự phải
quan tâm tới mỗi quan hệ giữa chiến tranh với kinh tế, giữa sức mạnh quân
sự và sức mạnh kinh tế.
Mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng về thực chất đó chính là
mối quan hệ hai quá trình vận động: quá trình vận động kinh tế với quá
trình xây dựng nền quốc phòng của đất nước.
2.2.1.2. Sự phụ thuộc của quốc phòng đối với kinh tế
Thứ nhất, nguồn gốc và cơ sở của quốc phòng do kinh tế quy định.
Thứ hai, chế độ kinh tế, tính chất của quan hệ sản xuất quy định tính
chất và sức mạnh của nền quốc phòng đất nước. Quốc phòng phụ thuộc
vào kinh tế không chỉ ở mặt kinh tế - kỹ thuật của sản xuất (LLSX) mà còn
ở mặt KT-XH (quan hệ sản xuất) của nền kinh tế.
Thứ ba, kinh tế là nguồn gốc cung cấp cho quốc phòng về vũ khí
trang bị kỹ thuật quân sự, để tiến hành chiến tranh và hoàn thành các
nhiệm vụ quốc phòng.
Thứ tư, nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu quốc phòng do kinh tế

cung cấp - nguồn nhân lực do nền KTTT cung cấp cho quốc phòng là


10
nguồn nhân có chất lượng ngày càng cao
Thứ năm, kinh tế đối với quốc phòng còn thể hiện ở sự hình thành
khu vực kinh tế quân sự của đất nước.
2.2.1.3. Sự tác động trở lại của quốc phòng đối với kinh tế
Trong mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng không
chỉ chịu sự chi phối của kinh tế như đã phân tích ở trên, mà còn có vai trò
tích cực nhất định đối với kinh tế:
Thứ nhất, một nền quốc phòng vững mạnh được xây dựng từ trong
thời bình sẽ tạo ra khả năng răn đe, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu
phá hoại, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, ngăn ngừa nguy cơ xảy ra
chiến tranh, tạo môi trường chính trị - xã hội ổn định để phát triển kinh tế.
Thứ hai, nền quốc phòng phát triển cao sẽ là thị trường tiêu dùng
rộng lớn và luôn đặt ra đòi hỏi cao đối với nền kinh tế, có tác dụng thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
Thứ ba, các hoạt động quốc phòng tham gia trực tiếp vào sự phát
triển kinh tế đất nước
Tóm lại, mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng nhìn về lâu dài
thì phát triển kinh tế xã hội có vị trí quyết định, tạo tiền đề và làm cơ sở
cho sự nghiệp củng cố an ninh - quốc phòng. Do vậy, phải biết dựa vào sự
phát triển của KT-XH, tận dụng mọi thành quả của hoạt động KT-XH để
tăng cường quốc phòng - an ninh và thực hiện các nhiệm vụ quốc phòngan ninh. Đồng thời, phải coi trọng công tác quốc phòng, coi đấy là điều
kiện để đảm bảo môi trường thuận lợi cho phát triển KT-XH và bảo đảm
vững chắc các thành quả mà quá trình này đưa lại.
2.2.2. Nội dung sự tác động của kinh tế thị trường đối với nền
quốc phòng
Thứ nhất, KTTT đã tác động đến quy mô, tốc độ phát triển của khu

vực kinh tế quân sự.
Thứ hai, tác động vào việc tạo ra vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự
ngày càng hiện đại.
Thứ ba, góp phần nâng cao trình độ nguồn nhân lực trong lĩnh vực
quốc phòng.
Thứ tư, KTTT tác động sâu sắc đến phương thức tiến hành hành
chiến chiến tranh, đường lối quốc phòng, đến chiến lược quân sự, nghệ thuật
quân sự.
Thứ năm, KTTT đòi hỏi xây dựng một nền quốc phòng rộng khắp,
giáo dục kiến thức quốc phòng đã trở thành phổ biến hiện nay


11
Chương 3
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỐI VỚI NỀN QUỐC PHÒNG Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN 2000 - 2013
3.1. TÌNH HÌNH NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở LÀO GIAI ĐOẠN
2000 - 2013

3.1.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giải
phóng sức sản xuất xã hội và tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu
ngành theo hướng tích cực
Trước đổi mới, mọi nguồn lực của nền kinh tế nước CHDCND Lào
không được khơi dậy, bởi sự hạn chế của cơ chế cũ - cơ chế kế hoạch hoá
tập trung, bao cấp. Với đường lối đổi mới kinh tế, KTTT định hướng
XHCN đã ra đời, phát triển, mọi nguồn lực xã hội được giải phóng và góp
phần to lớn vào việc phát triển kinh tế, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng.
Với tư tưởng chỉ đạo của đường lối và chính sách kinh tế, nền kinh tế nước
CHDCND Lào từng bước được hình thành theo mô hình KTTT định hướng

XHCN. Mô hình kinh tế mới vừa phù hợp với điều kiện nước CHDNCD
Lào, vừa phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế các nước trên thế
giới, đồng thời nó còn phản ánh sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Hiện nay, KTTT
định hướng XHCN đã dẫn nền kinh tế nước CHDCND Lào phát triển với
tốc độ khá nhanh, đánh thức mọi tiềm năng, khơi dậy mọi nguồn lực, tạo
động lực mới để phát triển nền kinh tế.
Qua tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH đất nước 5 năm
lần thứ VI (2006 - 2010), tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,9%/ năm
(GDP bình quân đầu người là 1.069USD).
Qua tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm lần thứ
VII (2011-2015), trong năm tài khoá 2011-2012, GDP của Lào tăng 8,3%
so với cùng kỳ, đạt khoảng 7,74 tỷ USD và GDP bình quân đầu người vào
khoảng 9,64 triệu Kíp (1.203USD).
3.1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã phát
huy nội lực nền kinh tế tạo cơ hội tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài
Mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế và khuyến khích sự đầu tư của bên
ngoài là chủ trương chính sách của Đảng nhằm tranh thủ ngoại lực kết hợp
với nội lực để xây dựng đất nước tiến lên và làm giàu cho nền kinh tế của


12
nước ta từng bước hội nhập kinh tế quốc tế. Theo chủ trương chính sách
đó, cần phải mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế bằng cách đa phương hoá, đa
dạng hoá bảo đảm có hiệu quả và các bên cùng có lợi.
3.1.3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra
nguồn dự trữ cho nền kinh tế
Quá trình xây dựng, phát triển nền KTTT định hướng XHCN chúng
ta đã có tích luỹ góp phần đáng kể vào dự trữ cho nền kinh tế: dự trữ về
lương thực, thực phẩm, vật tư nguyên nhiên liệu chiến lược, vàng và ngoại

tệ. Với nguồn dự trữ ấy cho phép có thể huy động cho việc đầu tư phát
triển những ngành kinh tế mũi nhọn, những lĩnh vực then chốt như: nhà
máy thuỷ điện, sân bay, ngân hàng, nông - công nghiệp và dịch vụ. Đặc
biệt có thể huy động trong việc bình ổn giá cả một số loại hàng hoá nào đó
khi cần thiết. Đồng thời có thể huy động để giải quyết những biến cố bất
ngờ như chiến tranh, thiên tai, những sự cố chính trị ở các vùng làm mất
trật tự an ninh xã hội.
3.2. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỐI
VỚI NỀN QUỐC PHÒNG Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO GIAI
ĐOẠN 2000 - 2013

3.2.1. Những tác động tích cực của kinh tế thị trường đối với
nền quốc phòng
3.2.1.1. Kinh tế thị trường tạo cơ sở bảo đảm kinh tế cho bảo vệ
an ninh biên giới
Thứ nhất, sự phát triển của KTTT làm cho vấn đề bảo vệ an ninh
biên giới có sự thay đổi về chất cả trong nhận thức lẫn thực tiễn.
Thứ hai, sự phát triển của KTTT tạo cơ sở vật chất phục vụ cho bảo
vệ an ninh biên giới. Với những cơ chế thích hợp, KTTT đảm bảo được lợi
ích của các chủ thể sản xuất, kinh doanh, quan hệ trao đổi và lưu thông
hàng hoá kích thích LLSX phát triển tạo ra những yếu tố KT-XH và kinh
tế - kỹ thuật để bảo vệ an ninh biên giới.
Thứ ba, KTTT tạo ra các biện pháp bảo vệ an ninh biên giới. Xét
trên tổng thể trong mối liên hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
thì sự phát triển của KTTT là sự củng cố, hoàn thiện kiến trúc thượng tầng,
tạo ra cơ sở vững chắc về kinh tế, chính trị cho nhiệm vụ bảo vệ an ninh
biên giới.


13

3.2.1.2. Kinh tế thị trường thúc đẩy khoa học - công nghệ của đất
nước phát triển tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho tăng cường sức mạnh
quốc phòng
Thứ nhất, thúc đẩy sự phát triển của nguồn nhân lực chất lượng
cao. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là chìa khoá trọng yếu quyết định
thành công của sự phát triển. Với chiến lược phát huy nguồn lực con
người, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách trong gần 30 năm qua,
CHDCND Lào đã có một đội ngũ cán bộ khoa học khá dồi dào tốt nghiệp
đại học, có trình độ sau đại học như: giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ
được đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài nước.
Thứ hai, KH-CN thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững. KHCN đã góp phần to lớn vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
trong các ngành sản xuất, kinh doanh. "Khoa học - công nghệ là yếu tố cơ
bản trong phát triển LLSX và nâng cao năng suất lao động xã hội ngày
càng cao, không có thành công nào tránh khỏi sự ứng dụng những thành
tựu của khoa học - công nghệ".
Thứ ba, KH-CN phát triển góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt
động lãnh đạo và quản lý KT-XH của Đảng và Nhà nước. Cùng với khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn cũng đã phát triển, nhiều vấn đề
lý luận ngày càng được làm sáng tỏ hơn đã góp phần đáng kể vào xây
dựng luận cứ khoa học cho các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật... của Đảng và Nhà nước. Khoa học xã hội nhân văn trong những năm
qua đã được sử dụng có kết quả trong quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội,
quốc phòng, an ninh.
3.2.1.3. Kinh tế thị trường tạo điều kiện nâng cao đời sống nhân
dân, xây dựng môi trường chính trị, xã hội lành mạnh có lợi cho tăng
cường sức mạnh quốc phòng
Với kết quả trên, sau gần 30 năm đổi mới, KTTT định XHCN đã
phát triển và góp phần giải quyết nhiều vấn đề về đời sống KT-XH của
nhân dân, thu nhập của người lao động trong cả nước ở hầu hết các vùng
đều tăng, do đó góp phần vào việc ổn định xã hội, xây dựng môi trường

chính trị, văn hoá lành mạnh. Sự củng cố niềm tin vào Đảng, Nhà nước và
chế độ góp phần xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần, tăng cường SMQP.
Dưới sự tác động của KTTT định hướng XHCN, người lao động no đủ
hơn, giải quyết công ăn việc làm, đời sống vật chất tinh thần được nâng lên


14
rõ rệt. Nhờ đó, ý Đảng lòng dân ngày càng gắn bó hơn, tin tưởng hơn vào
sự nghiệp đổi mới của Đảng. Vấn đề chủ nghĩa yêu nước gắn với CNXH
đã được kiểm nghiệm trên thực tế, đây là cơ sở chính trị xã hội hết sức
quan trọng để xây dựng sức mạnh của nền QPTD trong quá trình phát triển
theo đường lối đổi mới của Đảng.
3.2.1.4. Kinh tế thị trường góp phần thực hiện đường lối quốc
phòng toàn dân của Đảng
Trong những năm qua xuất phát từ tình hình thế giới và trong nước,
Đảng và Nhà nước ta đã có sự đổi mới về tư duy quân sự và nhiệm vụ
bảo vệ, xây dựng đất nước. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo đảm ổn định và an ninh vững mạnh là
nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta, đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi tất
yếu đối với sự phát triển KT-XH và làm ăn của nhân dân". Đảng và Nhà
nước đã chủ trương chuyển hướng chiến lược phòng thủ đất nước từ Đại
hội đại biểu, toàn quốc lần thứ IV (1986), đề ra chủ trương mới trong xây
dựng nền quốc phòng - an ninh toàn dân, toàn diện (hoặc nền QPTD).
Xây dựng nền QPTD gắn bó với nhiệm vụ xây dựng nền an ninh nhân
dân, đặt quốc phòng - an ninh trong cùng chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện bước chuyển hướng quan trọng về tư duy quân sự, đó là xây
dựng nền quốc phòng thời bình đủ sức ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh, tranh thủ điều kiện hoà bình, tạo môi trường thuận lợi để bảo
vệ và xây dựng đất nước.
3.2.2. Những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với nền

quốc phòng
3.2.2.1. Mặt trái của kinh tế thị trường tác động đến mặt chính trị
tinh thần của quân đội, ảnh hưởng không thuận lợi đến quá trình đảm
bảo kinh tế cho quốc phòng
Thứ nhất, mặt trái của KTTT đã và đang làm cho sự chênh lệch về
KT-XH càng xa giữa các tỉnh, các vùng, các ngành kinh tế, ảnh hưởng
không thuận lợi đến quá trình đảm bảo kinh tế cho quốc phòng.
Các tỉnh, vùng, ngành kinh tế có đặc điểm, điều kiện kinh tế, tài
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý khác nhau. Vì vậy, quá trình đảm bảo kinh
tế cho quốc phòng có những thuận lợi và khó khăn khác nhau.
Những tỉnh, vùng, ngành kinh tế có đặc điểm, điều kiện, vị trí địa lý
thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên dồi dào là những tỉnh, vùng, ngành kinh


15
tế có tốc độ phát triển kinh tế nhanh. Dưới sự tác động của CCTT, những
tỉnh, vùng, ngành kinh tế này ngày càng có quy mô và tốc độ phát triển to
lớn và nhanh hơn. Ngược lại, các tỉnh miền núi, nhất là miền Bắc, kết cấu
hạ tầng kém phát triển, trình độ dân trí thấp, nguồn vốn đầu tư trong và
ngoài nước vào các tỉnh này rất thấp so với các tỉnh có điều kiện thuận lợi
như miền Trung, miền Nam, do đó, nền kinh tế ở đây vốn đã nghèo nàn lạc
hậu, nay so với các tỉnh trọng điểm kinh tế, khoảng cách này càng xa.
Thứ hai, mối quan tâm của xã hội đối với nhiệm vụ củng cố quốc
phòng có phần giảm sút, khi công tác chính trị, tư tưởng chưa tiến hành có
hiệu quả.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp với các thể chế
vận hành của nó đã kiềm chế con người theo đuổi lợi ích kinh tế, vì vậy,
chính trị trở thành một trong những tiêu điểm chú ý của mọi người, vai trò
của chính trị được đề cao, các thành viên trong xã hội tận tâm, tận lực đối
với việc củng cố quốc phòng. Từ khi chúng ta chuyển sang KTTT, sự kiềm

chế con người về mặt kinh tế có điều kiện bung ra, lôi cuốn các tầng lớp xã
hội, dân cư vào quá trình "săn đuổi" lợi ích kinh tế, vấn đề chính trị có xu
hướng mờ nhạt. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi dụng sự
chuyển đổi này tăng cường tấn công lôi kéo xây dựng cơ sở, cài cắm người
vào nội bộ với mục đích để từng bước chuyển hoá vai trò của tổ chức bộ
máy tiến tới xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta.
3.2.2.2. Mở cửa với nền kinh tế thị trường thế giới gây những khó
khăn trong xây dựng khu vực phòng thủ đất nước
Mở cửa với nền KTTT thế giới và sự phát triển của các thành phần
kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh những tác động tích
cực nhiều mặt về kinh tế, chính trị là hết sức rõ ràng. Tuy nhiên, bên cạnh
những tác động tích cực cũng tồn tại một thực tế đó là những khó khăn
nhất định trong một số mặt thuộc lĩnh vực quốc phòng, nhất là trong xây
dựng khu vực phòng thủ. Điều này được phản ánh qua quá trình hình
thành và xây dựng thế trận quốc phòng, khu vực phòng thủ trong những
năm qua.
3.2.2.3. Tác động của kinh tế thị trường gây khó khăn về đảm bảo
nguồn nhân lực có chất lượng cao cho quốc phòng
Nguồn nhân lực tham gia các hoạt động quốc phòng bao gồm nhiều
lực lượng, trong đó hoạt động của các LLVT là đặc trưng nhất. Ở đây chỉ


16
đề cập đến nguồn nhân lực đảm bảo cho các loại hình cơ cấu của quân đội,
dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên.
Thứ nhất, chất lượng chính trị nguồn nhân lực bổ sung cho lực
lượng thường trực của quân đội. Ngày nay trong điều kiện đất nước có
hoà bình, chúng ta tập trung phát triển kinh tế theo hướng phát triển KTTT
định hướng XHCN. Phát triển KTTT, bên cạnh mặt thuận lợi cũng đã làm
xuất hiện những khó khăn trong đảm bảo nguồn nhân lực cho quốc phòng.

Trước hết, biểu hiện ở ý thức của một bộ phận dân cư đối với nhiệm vụ
quốc phòng có sự biến đổi, theo chiều hướng ít quan tâm đến nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền QPTD.
Thứ hai, khó khăn về nguồn nhân lực tham gia dân quân tự vệ và
lực lượng dự bị động viên. Dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên là
lực lượng có vai trò rất lớn trong quá trình xây dựng nền QPTD, thế trận
quốc phòng cũng như xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), trong
chuyển hướng chiến lược phòng thủ đất nước. Nhưng dưới tác động của
KTTT, việc huy động nguồn nhân lực cho hai lực lượng này đang có
những khó khăn trở ngại nhất định đó là: những người tham gia thường và
chủ yếu là lực lượng đang trực tiếp lao động ở nông thôn, cơ quan, xí
nghiệp và họ lại là lực lượng lao động chủ yếu, nên việc huy động cho
những nhu cầu quốc phòng thường ảnh hưởng đến thu nhập của họ trong
thời gian tham gia hoạt động quân sự.
3.2.2.4. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường gây khó khăn
trong phát triển công nghiệp quốc phòng, xây dựng lực lượng dự trữ
quốc gia
Ngày nay vai trò của ngành CNQP rất to lớn. CNQP là bộ phận
quan trọng, chủ yếu để hình thành tiềm lực kinh tế quân sự. Một quốc gia
với vị trí địa kinh tế, địa chính trị như CHDCND Lào, xây dựng tiềm lực
kinh tế quân sự càng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với bảo vệ Tổ quốc
trong điều kiện quốc tế hiện nay. Xây dựng nền CNQP ở CHDCND Lào
trong những năm qua đã gặp những khó khăn nhất định dưới tác động của
KTTT.


17
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY
NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU

CỰC CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI NỀN QUỐC PHÒNG
Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ĐẾN NĂM 2020
4.1. MỘT SỐ DỰ BÁO XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI NỀN QUỐC PHÒNG Ở CỘNG HOÀ DÂN
CHỦ NHÂN DÂN LÀO TRONG THỜI GIAN ĐẾN NĂM 2020

4.1.1. Xu hướng phát triển của kinh tế thị trường ở Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào
Thứ nhất, thông qua CNH, HĐH nền KTTT sẽ phát triển ngày càng
hiện đại hơn.
Thứ hai, quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng
hướng theo chiều sâu trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Thứ ba, CCTT và các yếu tố của KTTT ngày càng được tạo lập và
vận hành đồng bộ.
Thứ tư, vai trò quản lý vĩ mô về kinh tế, quốc phòng của Nhà nước
ngày càng có hiệu quả hơn.
4.1.2. Những dự báo về xu hướng tác động của kinh tế thị
trường đối với nền quốc phòng ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
Xu hướng thứ nhất: Sự phát triển của kinh tế nước ta trong những
năm tới sẽ tác động ngày càng mạnh cả về quy mô, trình độ đối với nền
quốc phòng. Cụ thể sự tác động ấy được biểu hiện.
- Kinh tế thị trường đảm bảo kinh tế cho quốc phòng ngày càng tốt
hơn, đáp ứng đầy đủ hơn các nhu cầu của quốc phòng.
- Kinh tế thị trường sẽ tác động theo hướng thúc đẩy sự phát triển
ngày càng mạnh hơn KH-CN đất nước, cũng như KH-CN quân sự, do đó
SMQP sẽ được nâng lên.
Xu hướng thứ hai: Trong khi khẳng định xu hướng vận động chủ
yếu của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta tác động tích cực đến
SMQP cần chỉ rõ rằng do tác động mạnh mẽ của cách mạng KH-CN và
quá trình toàn cầu hoá kinh tế, nền kinh tế nước ta sẽ hội nhập ngày càng

sâu hơn vào kinh tế thế giới và khu vực. Những ảnh hưởng, chấn động của
nền kinh tế thế giới và khu vực, cộng với sự tấn công của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch sẽ làm cho nền KTTT định hướng XHCN ở
nước ta chịu những tác động sâu sắc. Mặt khác, những nguy cơ mà Đảng
ta đã cảnh báo nếu không được chúng ta đẩy lùi thì những tác động tiêu
cực từ mặt trái của KTTT đối với SMQP của đất nước sẽ tiếp tục gia tăng.


18
4.2. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỐI VỚI NỀN QUỐC PHÒNG Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN
LÀO ĐẾN 2020

4.2.1. Tăng cường sức mạnh quốc phòng trên cơ sở phát triển
nhanh, bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kiên định định hướng XHCN, còn tạo nên cơ sở kinh tế, xã hội để
thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ, cũng như bảo đảm lợi ích chính đáng của
người lao động bằng pháp luật XHCN. Mất định hướng XHCN, mất bản
chất giai cấp của chế độ kinh tế, sẽ dẫn đến mất bản chất, mục đích của
nền QPTD. Do đó không thế thực hiện được mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
4.2.2. Phát triển nội lực của nền kinh tế nhiều thành phần, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể hợp
thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân là cơ sở kinh tế cho nền quốc
phòng của đất nước
Sự phát triển ngày càng mạnh của KTNN và kinh tế hợp tác xã có ý
nghĩa cực kỳ to lớn, là nền tảng kinh tế quyết định giữ vững định hướng
XHCN nền kinh tế và có vai trò quyết định đến cùng cố và tăng cường
SMQP ở nước ta.

4.2.3. Lấy hiệu quả chính trị - xã hội - kinh tế làm thước đo việc
xây dựng và thực hiện các phương án kết hợp kinh tế với quốc phòng
và quốc phòng với kinh tế
Thứ nhất, giáo dục sâu rộng đường lối QPTD của Đảng đến mọi
cấp, mọi ngành, mọi thành phần kinh tế.
Thứ hai, việc xây dựng và thực hiện các dự án KT-XH, các dự án về
quốc phòng - an ninh, cần giải quyết thoả đáng mối quan hệ lợi ích kinh tế
với lợi ích quốc phòng.
Thứ ba, chủ động hội nhập kinh tế, tận dụng mọi cơ hội thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, sử dụng một phần nguồn lực của quân đội tham gia xây
dựng kinh tế, lao động sản xuất thực hiện chủ trương kết hợp quốc phòng
với kinh tế và góp phần phát triển kinh tế đất nước và cải thiện đời sống
bộ đội.
Thứ năm, tổ chức sắp xếp lại hệ thống DNNN (kể cả doanh nghiệp
quốc phòng) theo hướng: phát triển kinh tế vùng, ngành, khu vực theo kế
hoạch kết hợp phát triển chiến lược kinh tế với chiến lược quốc phòng.


19
4.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỐI VỚI NỀN QUỐC PHÒNG Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN
DÂN LÀO

4.3.1. Nâng cao vai trò hiệu lực và hiệu quả các hoạt động quản
lý điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước
4.3.1.1. Nâng cao khả năng lựa chọn các quyết sách có tầm
chiến lược trong việc hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đồng thời ban hành các chính sách kinh tế đúng đắn
Nền KTHH nhiều thành phần vận hành theo KTTT có sự quản lý

của Nhà nước phát triển theo định hướng XHCN ở nước Lào gọi tắt là nền
KTTT định hướng XHCN - có đặc điểm vừa còn yếu tố sơ khai vừa có yếu
tố của nền KTTT hiện đại. Để giảm yếu tố sơ khai tăng yếu tố của KTTT
hiện đại và phát triển đúng định hướng XHCN, trước hết Nhà nước cần
"Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế ", "đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hoá, nâng cao chất lượng
công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội". Trước hết hoạch định đúng các chiến lược phát triển kinh tế cho
các thời kỳ, cùng hệ thống các chính sách kinh tế lớn (bao gồm cả hoạt
động kinh tế trong nước và kinh tế đối ngoại) để tìm ra những chiến lược
và chính sách phát triển trong từng thời kỳ.
4.3.1.2. Từng bước hoàn chỉnh hành lang pháp lý cho sự phát
triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việc ban hành pháp luật, nhất là luật kinh tế nhằm làm cho nền
KTTT vận hành trong môi trường pháp lý ổn định, lành mạnh, ngăn chặn
có hiệu quả những hoạt động kinh tế ngầm cũng như các khoản thu nhập
bất hợp pháp, có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó tạo ra sự bình đẳng, cạnh tranh
lành mạnh trong nền kinh tế.
Hệ thống luật pháp được ban hành đã thể hiện được vai trò tích cực,
góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế, tăng cường SMQP.
Tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh
tranh và hợp tác để phát triển, thông qua việc ban hành và thực hiện các
chiến lược về kinh tế và quốc phòng.


20
4.3.1.3. Nhà nước cần nâng cao chất lượng và hiệu quả điều
hành, kiểm soát vĩ mô đối với nền kinh tế
Một là, nắm vừng các nguồn lực của đất nước, thực hành phân phối
các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất theo các chiến lược phát triển

KT-XH và các kế hoạch, chương trình, dự án kinh tế đã được xác định cho
các thời kỳ phát triển.
Hai là, quản lý tốt các loại quỹ dự phòng, quỹ dự trữ quốc gia.
Ba là, từng bước hoàn thiện hệ thống công cụ điều hành, kiểm soát
vĩ mô KTTT định hướng XHCN.
Bồn là, Nhà nước phải kiểm soát để khắc phục có hiệu quả hoạt
động của hệ thống kinh tế ngầm.
Năm là, cải cách bộ máy hành chính, xây dựng Nhà nước pháp
quyền, đổi mới tố chức, phong cách làm việc của bộ máy công chức nhà
nước; chống tệ quan liêu, cửa quyền, ăn hối lộ.
Sáu là, có chính sách đãi ngộ thích hợp đối với cán bộ, công chức
nhằm động viên họ nỗ lực vươn lên tạo cơ sở cho việc sử dụng, tuyển
chọn, đào tạo cán bộ lâu dài.
4.3.1.4. Nhà nước tạo môi trường kinh tế, chính trị, xã hội
thuận lợi để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
4.3.2. Ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường an ninh,
quốc phòng ở vùng biên giới, miền núi, vùng cao và khuyến khích các
thành phần kinh tế tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng quốc
phòng
4.3.2.1. Ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường an
ninh, quốc phòng ở vùng biên giới, miền núi, vùng cao
Một, ưu tiên đầu tư đủ độ, tập trung dứt điểm từng địa bàn vùng
biên giới, vùng cao, vùng sâu sớm ổn định và phát triển làm đổi thay bộ
mặt KT-XH, an ninh quốc phòng vùng này.
Hai, kết hợp chặt chẽ quá trình phát triển kinh tế với giải quyết
những vấn đề bức xúc về xã hội.
Ba, phát huy tính chủ động và tinh thần trách nhiệm của địa phương
trong việc triển khai chủ trương của Đảng và Nhà nước về ổn định, phát
triển KT-XH.



21
4.3.2.2. Khuyến khích các thành phần kinh tế tích cực tham gia
vào sự nghiệp xây dựng quốc phòng
Sử dụng và phát huy các thành phần kinh tế là một chính sách mang
tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện quan điểm
quốc phòng là sự nghiệp của toàn dân, huy động sự tham gia của các thành
phần kinh tế vào việc tăng cường tiềm lực quốc phòng bằng sự đóng góp
tự nguyện hay đóng góp trực tiếp theo qui định của Nhà nước sẽ có một ý
nghĩa to lớn.
4.3.3. Tập trung sức làm chuyển biến khả năng quốc phòng của
đất nước theo hướng tăng cường sức mạnh quốc phòng trong quá
trình phát triển kinh tế trước những diễn biến phức tạp của tình hình
khu vực và quốc tế về chính trị và kinh tế
4.3.3.1. Tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nước về quốc phòng trong điều kiện lịch sử mới
Một là, bổ sung hoàn thiện chiến lược tổng thể về phát triển nền
QPTD của nước Lào trong điều kiện lịch sử mới phù hợp trình độ, xu
hướng vận động phát triển của nền kinh tế và những nhiệm vụ chính trị xã hội đặt ra cho những năm tiếp theo.
Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng hiện có đồng
thời xây dựng mới theo hướng đồng bộ phù hợp điều kiện quốc tế và trong
nước hiện nay và xu hướng tới, làm cho mọi người, mọi ngành, mọi cấp
đều thực hiện trên cơ sở luật pháp.
Ba là, xây dựng và đổi mới bộ máy quản lý nhà nước về quốc
phòng phù hợp với điều kiện KTTT, để luôn đủ sức giải quyết những vấn
đề về quốc phòng mọi nhiệm vụ chính trị đòi hỏi.
4.3.3.2. Đối với Bộ Quốc phòng cần tiếp tục đổi mới để có sự thích
hợp ngay từ phía các hoạt động quốc phòng trước những đòi hỏi của cơ
chế kinh tế mới

Thứ nhất, từng bước làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức về xây
dựng nền QPTD trong điều kiện KTTT. Tổ chức sắp xếp biên chế lại lực
lượng quân thường trực theo hướng tinh gọn nhưng không làm giảm
SMQP, sức chiến đấu của quân đội.


22
Thứ hai, làm tốt công tác tham mưu cho Đảng và Nhà nước, đồng
thời làm lực lượng nòng cốt trong chuẩn bị đất nước sẵn sàng chống chiến
tranh xâm lược.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả kết hợp kinh tế với quốc phòng và triệt
để thực hành tiết kiệm.
Thứ tư, từng bước tăng cường khả năng của nền CNQP theo hướng
tự lực tự cường với tinh thần "đầu tư thích đáng".
4.3.4. Thực hiện tốt công tác chính sách đối với lực lượng vũ
trang, chính sách hậu phương quân đội; chính sách đối với thương
binh, gia đình liệt sĩ, những người có công với nước
Chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội có tác động
quan trọng tới công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó nhằm phục vụ
nhiệm vụ chính trị - quân sự của quân đội và ổn định hậu phương quân đội.
Yêu cầu đặt ra đối với công tác chính sách quân đội, hậu phương
quân đội trong giai đoạn hiện nay là phải xây dựng được một hệ thống
chính sách hợp lý cho từng đối tượng trên cơ sở trình độ, khả năng của nền
kinh tế quốc dân. Việc giải quyết chính sách phải tập trung vào vấn đề trọng
điểm, thiết yếu, không tràn lan, dàn đều. Chính sách xét cho cùng là sự thể
hiện công bằng xã hội. Song, công bằng xã hội không có nghĩa là "bình
quân", cào bằng".


23

KẾT LUẬN
1. Cùng với quá trình đổi mới toàn diện của đất nước, nền kinh tế
Lào từ một nền kinh tế mang nặng những yếu tố của nền kinh tế tự cấp tự
túc chuyển dần sang nền KTHH nhiều thành phần vận động theo CCTT có
sự quản lý của Nhà nước, phát triển theo định hướng XHCN hay KTTT
định hướng XHCN. Nhờ đó nền kinh tế Lào đã đạt được những thành tựu
to lớn ra khỏi trạng thái khủng hoảng KT-XH, tạo thế và lực mới đưa đất
nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH.
2. Sự hình thành KTTT ở nước Lào bắt đầu từ công cuộc đổi mới.
Với chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, tạo cơ
sở hình thành nền kinh tế nhiều thành phần ở nước Lào - cơ sở hình thành
các điều kiện của sự tồn tại và phát triển nền KTTT mà cơ chế vận hành
của nó là CCTT có sự quản lý của Nhà nước theo mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3. Mối quan hệ giữa KTTT với SMQP bắt nguồn từ mối quan hệ biện
chứng giữa hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội: kinh tế với quốc
phòng. Sâu xa hơn, đó là sự bắt nguồn từ mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế
với kiến trúc thượng tầng mà sự tác động của KTTT đến nền quốc phòng
là biểu hiện cụ thể ở nước Lào.
4. Sự tác động của KTTT đối với nền quốc phòng ở nước Lào hiện
nay và những năm sắp tới một mặt phản ánh tính xu hướng về sự tác động
của KTTT đối với nền quốc phòng của các nước trên thế giới, đồng thời
mang những đặc điểm gắn liền điều kiện, trình độ nền kinh tế nước Lào.
Do đó, nó cũng bao gồm cả mặt tác động tích cực và cả mặt tiêu cực.
5. Xác định đúng đắn các quan điểm cơ bản làm cơ sở cho việc xác
lập các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn
chế mặt tiêu cực của KTTT đối với nền kinh tế quốc phòng của đất nước là
vấn đề có tầm quan trọng to lớn hiện nay ở nước Lào. Những quan điểm
cơ bản đặt ra là nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển KT-XH ở nước Lào
trong điều kiện mới đang phải đối mặt trước cơ hội và thách thức, phát



24
triển khu vực KTNN làm nền tảng cho tăng trường và phát triển làm cơ sở
cho tăng cường SMQP và giữ vững định hướng XHCN. Xây dựng nền
QPTD vững mạnh phù hợp với điều kiện KTTT và chủ động hội nhập kinh
tế với quốc tế và khu vực.
6. Để hiện hiện thực hoá các quan điểm nói trên, hệ thống các giải
pháp chủ yếu về kinh tế, chính trị, xã hội và giải pháp về quốc phòng đã
được đề xuất. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ phát huy những mặt
tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của KTTT đối với phát triển KT-XH và
tăng cường củng cố quốc phòng.
7. Sự tác động của KTTT đối với nền quốc phòng của nước Lào hiện
nay là vấn đề hết sức rộng lớn. Bản luận án này tuy đã có nhiều cố gắng
nhưng cũng chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản, chủ yếu có ý nghĩa
phương pháp luận chung. Do khuôn khổ của một luận án khoa học còn
một số vấn đề cụ thể chưa thể giải quyết hết. Chẳng hạn vấn đề phát triển
ngành công nghiệp quân sự trong điều kiện KTTT ở nước Lào hiện nay và
những năm tới; xu hướng phát triển khu vực kinh tế quân sự trong điều
kiện KTTT nói chung và đặc thù của quá trình đó ở nước Lào hiện nay nói
riêng... còn chưa có điều kiện đề cập hoặc đã đề cập mới ở những mức độ
nhất định, sau này nếu có điều kiện cho phép các vấn đề nêu trên sẽ được
nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu để mảng đề tài về mối quan hệ giữa
quá trình phát triển KTTT với nền quốc phòng của đất nước có sự hoàn
chỉnh và đồng bộ hơn.


×