Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

BÀI số 2 EM yêu LỊCH sử xứ THANH VUA xứ THANH THẦN xứ NGHỆ, THANH hóa PHẢI TRỞ THÀNH một TỈNH KIỂU mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.62 KB, 18 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG
----------

BÀI DỰ THI

“EM YÊU LỊCH SỬ XỨ THANH”

Họ và tên:
Lớp:
Trường:
Địa chỉ:

Năm học: 2016 – 2017

1


Câu 1: Cội nguồn “Vua xứ Thanh, Thần xứ Nghệ”
Xuất phát từ câu nói của sứ giả Nguyễn Thư Hiên chép ở sách Dư
địa chí do Nguyễn Trãi biên soạn có lời của Nguyễn Thiên Túng liên quan đến
4 xứ: “Nguyễn Như Hiên nói” Thế xứ Thanh, thần xứ Nghệ, nước Hưng Thái,
ma Cao Lạng đều rất đáng sợ”. Câu nói có liên quan đến hai xứ Thanh và
Nghệ, là mảnh đất sản sinh ra những con người, vua chúa, quan thần của đất
nước. Xứ Thanh xưa mà nay là Thanh Hóa là nơi kinh đơ của đất nước, nơi có
nhiều vua, chúa nhất nước.
Là con người xứ Thanh chúng em rất hãnh diện và tự hào về cội nguồn
dân tộc của mình. Vị vua mà em thích và tìm hiểu nhiều nhất là vua Lê Lợi

Năm 1428 Lê Lợi lập ra nhà Hậu Lê. Ơng là người Thanh Hóa.


2


Lê Lợi sinh ngày 6 tháng Tám năm Ất Sửu - 10/9/1385, là con trai thứ 3
của ơng Lê Khống và bà Trịnh Thị Thương, người ở hương Lam Sơn, huyện
Lương Giang, trấn Thanh Hố. Ngay từ khi cịn trẻ, Lê Lợi đã tỏ ra là người
thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng
rộng, mũi cao, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như chng, bậc thức
giả biết ngay là người phi thường.
Lớn lên, ông làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, ông chăm chỉ dùi mài đọc
sách và binh pháp, nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu
tập dân lưu tán, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn.
Mùa xuân năm Mậu Tuất - 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng
chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi
Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v... phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình
Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu nước.
Suốt 10 năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc
kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.
Sau hội thề Đông Quan, ngày 29/12/1427, bại binh của giặc bắt đầu
được phép rút quân về nước an tồn, đến ngày 3/1/1428, bóng dáng qn Minh
cuối cùng đã bị quét sạch khỏi bờ cõi.
Ngày 15 tháng Tư năm Mậu Thân - 1428, Lê Lợi chính thức lên ngơi
Vua tại điện Kính Thiên xưng là "Thuận Thiên thừa vận, Duệ Văn Anh Vũ Đại
Vương" đặt tên nước là Đại Việt, đóng đơ ở Đơng Đơ (Hà Nội) đại xá thiên hạ,
ban bố "Bình Ngơ đại cáo" - đây chính là "Tuyên ngôn độc lập" lần thứ 2 của tổ
quốc ta. Bình Ngơ đại cáo mở đầu ghi:
"... Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Xét như nước Đại Việt ta,
Thực là một nước văn hiến

Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác..."

3


"Bình Ngơ đại cáo" do Nguyễn Trãi thảo là một thiên anh hùng ca tuyệt
vời, bất hủ, nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, truyền thống quật cường, bất khuất
của dân tộc ta.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lời bàn: "Lê Thái Tổ từ khi lên
ngơi đến khi mất, thi hành chính sự, thực rất khả quan, như ấn định luật lệnh,
chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ
huyện, thu thập sách vở, mở mang trường học... cũng có thể gọi là có mưu kế xa
rộng, mở mang cơ nghiệp..."
Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng Tám năm Quý Sửu - 1433, hưởng thọ
49 tuổi, táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn, Thanh Hố, trị vì được 5 năm.

4


5


Câu 2: Di tích văn hố thế giới
27/6/2011 - Di tích Thành nhà Hồ được cơng nhận là Di sản Văn hóa thế
giới

Như vậy, sau 6 năm (2006 - 2011) xây dựng hồ sơ và đệ trình UNESCO,
Thành nhà Hồ đã chính thức được UNESCO cơng nhận là di sản văn hố của
nhân loại.

Thành nhà Hồ được đặt móng xây dựng vào năm 1397. Đây là cơng trình
kiến trúc đồ sộ được xây dựng bằng đá độc nhất vô nhị ở Việt Nam. Trong lịng
đất của Khu di tích cịn lưu giữ các dấu tích Cung điện, đền đài, đường xá và
nghệ thuật trang trí, các làng cổ cùng tồn bộ cảnh quan đồi núi, sông hồ mang
đậm chất phong thủy điển hình. Di sản thành nhà Hồ thể hiện sự giao thoa văn
hóa giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Niềm vui, những giọt nước mắt hạnh phúc đã vỡ ồ!
Di sản Văn hố Thành Nhà Hồ bao gồm vùng đề cử 155,5ha nằm trong một
vùng đệm (5078,5ha) với giá trị cảnh quan tuyệt đẹp của một vùng kinh đô cổ,

6


được UNESCO cơng nhận là di sản văn hố thế giới với những giá trị nổi bật và
tiêu chí sau
Khu di sản Thành Nhà Hồ là trung tâm kinh thành của Việt Nam vào cuối
thể kỷ 14 - đầu thế kỷ 15, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của khu vực Bắc
Trung Bộ Việt Nam từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18. Các thuộc tính chứng minh cho
nét đặc sắc mang tầm vóc giá trị nổi bật tồn cầu của nó bao gồm tịa thành đá
được xây dựng bằng kỹ thuật đá lớn, La thành, Nam Giao, các tầng văn hóa nối
tiếp nhau trong lịng đất lưu giữ các dấu tích Cung điện, đền đài, đường xá và
nghệ thuật trang trí, các làng cổ cùng tồn bộ cảnh quan đồi núi, sông hồ mang
đậm chất phong thủy điển hình cịn lưu giữ được tương đối ngun vẹn phản
ánh rõ nét về một thời kỳ lịch sử văn hóa, văn minh Việt Nam với các đặc trưng
mang tầm vóc khu vực và quốc tế.
Tiêu chí II
Khu di sản Thành Nhà Hồ là biểu hiện rõ rệt những sự giao thoa trao đổi
quan trọng các giá trị nhân văn giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Đông
Á, Đông Nam Á liên quan đến sự phát triển của kiến trúc, quy hoạch…và cảnh
quan khu vực vào cuối thế kỷ 14 - đầu thế kỷ 15. Đó là việc tiếp thu các tư

tưởng hướng tích cực của Nho Giáo thực hành (Trung Quốc) kết hợp với các đặc
điểm của văn hóa Việt Nam và khu vực được vận dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam nhằm đưa đất nước đạt tới các thành tựu mới văn
minh hơn, tích cực hơn, đem lại nhiều lợi ích hơn cho người dân, đáp ứng các
yêu cầu đổi mới cấp bách của Việt Nam và góp phần thúc đẩy các trào lưu tư
tưởng nhân văn tích cực ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Tất cả được thể
hiện nổi trội và duy nhất thấy ở Thành Nhà Hồ trên các phương tiện thiết kế
cảnh quan đô thị, kiến trúc Thành đá, kỹ thuật xây dựng đá lớn và các ảnh
hưởng tác động lẫn nhau nhiều chiều của khu di sản tới kỹ thuật xây dựng thành
quách sau đó ở khu vực Đơng Á và Đơng Nam Á.
Tiêu chí IV

7


Khu di sản cũng là ví dụ nổi bật về một loại cơng trình kiến trúc được xây
dựng bằng đá lớn vừa là một kiểu kiến trúc Hoàng thành biểu tượng cho quyền
lực Hoàng gia tiêu biểu dưới tác động của giao thoa các giá trị nhân văn ở
phương Đông, vừa là một pháo đài quân sự bề thế, chắc chắn, uy nghiêm. Kỹ
thuật xây dựng đá lớn độc đáo, duy nhất của Việt Nam được thấy ở đây đã được
kết hợp một cách sáng tạo, tài tình với truyền thống kỹ thuật và nghệ thuật xây
dựng ở Việt Nam, Đông Á và Đông Nam Á với một hệ thống thao tác kỹ thuật
thủ cơng liên hồn như khai thác đá, gia công đá, vận chuyển các khối đá nặng
từ 10 tấn đến 26 tấn, xử lý móng nền đá, nâng các khối đá lớn lên độ cao trên
10m vừa đảm bảo được công năng kiến trúc vừa đáp ứng yêu cầu mỹ thuật cần
thiết của một đô thành. Kỹ thuật xây dựng thành công các bức tường thành bằng
đá lớn đã phát huy ảnh hưởng của nó tới kỹ thuật xây dựng nhiều tịa thành sau
đó ở khu vực, nhưng kỳ vĩ nhất, đặc sắc nhất chỉ có Thành Nhà Hồ vốn được
xem như một hiện tượng đột khởi “vơ tiền khống hậu” trong lịch sử xây dựng
kiến trúc thành quách Việt Nam và khu vực.

Khu di sản đáp ứng các u cầu về tính tồn vẹn, tính xác thực được nêu
trong hướng dẫn hoạt động thực hiện Công ước Di sản Thế giới.
Khu di sản với vùng lõi và vùng đệm tổng cộng 5.234 hécta bao gồm toàn
bộ tịa Thành đá, La thành, hào thành, các di tích khảo cổ dưới lịng đất, các làng
cổ, các di tích chùa đền, hang động liên quan đến Thành Nhà Hồ, tồn bộ cảnh
quan núi non, sơng nước liên quan đến địa hình phong thủy thể hiện sự giao lưu
văn hóa về nét đặc sắc của tòa thành được bảo tồn toàn vẹn một cách tốt nhất
theo Luật pháp của Nhà nước Việt Nam và các quy định của UBND tỉnh Thanh
Hóa. Đó cũng là những bằng chứng xác thực nhất minh chứng về sự tồn tại của
một thời kỳ văn minh Việt Nam dưới ảnh hưởng tác động của các tư tưởng nhân
văn tích cực phương Đơng nhằm đổi mới đất nước Việt Nam cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15.
Toàn bộ khu di sản được bảo tồn toàn vẹn theo quy định của UBND tỉnh
Thanh Hóa và Luật pháp của Nhà nước Việt Nam.

8


Câu 3:Truyền thống anh hùng bất khuất chống giặc ngoại xâm của con
người xứ Thanh.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh Hóa là tỉnh
đất rộng, người đông, cùng với 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hợp thành hậu
phương Thanh – Nghệ - Tĩnh, trong đó Thanh Hóa là tỉnh địa đầu của miền
Trung, là hậu phương trực tiếp của chiến trường Liên khu III, Bắc Bộ và Tây
Bắc.

Mùa hè năm 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang năm thứ 8.
Cục diện chiến trường Việt Nam đã có những biến đổi quan trọng. Tại chiến
trường Bắc Bộ, Tây Bắc, quân và dân ta mở nhiều chiến dịch lớn. Mọi nhu cầu
bảo đảm cho cuộc kháng chiến đòi hỏi rất lớn ở hậu phương.
Những tháng cuối năm 1953, hậu phương Thanh Hóa vừa phải ra sức đẩy

mạnh mọi mặt công tác xây dựng và bảo vệ hậu phương, vừa tích cực động viên
sức người, sức của cho tiền tuyến đánh thắng. Chiến dịch nối tiếp chiến dịch, từ
năm 1951-1953, quân và dân Thanh Hóa liên tiếp bổ sung lực lượng, phục vụ 5
chiến dịch lớn: Trung Du, Quang Trung, Hịa Bình, Tây Bắc và Thượng Lào.
Đặc biệt chiến dịch Thượng Lào tháng 5-1953, Thanh Hóa bảo đảm tới 76% nhu
cầu của cả chiến dịch.
Thực hiện nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953 - 1954, ngày 6-12-1953, Bộ
Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
thị: “Chiến dịch này là chiến dịch rất quan trọng không những về qn sự mà cả
về chính trị, khơng những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân phải tập trung hoàn thành cho kỳ được” (Chỉ thị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho đồng chí Võ Nguyên Giáp tháng 12 -1953).
Quyết tâm chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu diệt toàn bộ
quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã trở thành ý chí, hành động cụ
thể của quân và dân ta.
9


Thực hiện kế hoạch của Bộ Chính trị, các binh đoàn chủ lực của ta lần lượt
rời hậu phương Thanh Hóa để dồn sức cho chiến dịch. Các Đại đồn 304, 320,
316 và một số trung đoàn của bộ đang đứng chân tác chiến bảo vệ Thanh Hóa và
vùng tự do Liên khu III lần lượt hành quân lên Tây Bắc, sang Lào chuẩn bị cho
chiến dịch Điện Biên Phủ. Bảo vệ Thanh Hóa lúc này do lực lượng vũ trang
trong tỉnh đảm nhiệm.
Từ trung tuần năm 1953 đến đầu năm 1954, khi biết quân và dân ta đang
chuẩn bị mở các chiến dịch lớn tại Lai Châu, Tây Bắc, Thượng Lào và đang ráo
riết tập trung cho chiến dịch Điện Biên Phủ, thực dân Pháp vừa tăng cường đối
phó với ta ở chiến trường Tây Bắc, vừa cho máy bay, tàu chiến bắn phá, càn
quét dữ dội vào Thanh Hóa nhằm buộc ta chi phối lực lượng và chia cắt hậu
phương Thanh – Nghệ - Tĩnh với chiến trường chính Tây Bắc và Lào. Ngày 15

và 16-10-1953, Na-va mở cuộc hành binh Hải Âu đánh ra Tây Nam Ninh Bình
và cuộc hành binh “con bồ nơng” đánh vào vùng biển Thanh Hóa. 6 tháng cuối
năm 1953 và những tháng đầu năm 1954, thực dân Pháp cho quân đổ bộ, càn
quét hơn 10 lần vào các huyện Nga Sơn, Hà Trung, Hoằng Hóa, Quảng Xương
và Tĩnh Gia. Trận càn ít nhất là 100 tên, nhiều nhất là hơn 3.000 tên.
Để phân tán lực lượng của địch hỗ trợ cho chiến dịch Điện Biên Phủ, thực
hiện chia lửa với chiến trường Bắc Bộ, Tây Bắc, quân, dân Thanh Hóa tổ chức
những trận tập kích vào các đồn bốt ở Chính Đại, Mai An Tiêm, Vân Hải thuộc
các xã phía bắc huyện Nga Sơn để kìm chân địch khơng để chúng ra ứng cứu
cho chiến trường Bắc Bộ và Tây Bắc. Tại các huyện Hà Trung, Quảng Xương,
Tĩnh Gia, các đại đội bộ đội địa phương đã cùng dân quân du kích tổ chức lực
lượng chống càn quét bảo vệ địa phương.
Đầu tháng 12-1953, công cuộc chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ
được tiến hành ráo riết. Lực lượng vũ trang Thanh Hóa một mặt phải tổ chức
chiến đấu bảo vệ địa phương, mặt khác phải tích cực chi viện cho chiến trường
thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Công tác
tuyển quân không chỉ một năm 1 đợt, 2 đợt mà có năm lên tới 3, 4 đợt, lúc nào
tiền tuyến cần, lúc đó có hậu phương chi viện. Năm 1953 và 6 tháng đầu năm
10


1954, Thanh Hóa có 18.890 thanh niên nhập ngũ, bằng quân số nhập ngũ 7 năm
về trước (1946-1953).
Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng thơng qua quyết tâm mở
chiến dịch Điện Biên Phủ và cũng bắt đầu huy động lực lượng dồn sức cho Điện
Biên Phủ. Đáp ứng cho chiến dịch, Thanh Hóa đã nhanh chóng củng cố nâng
cao chất lượng lực lượng vũ trang, nhất là lực lượng bộ đội địa phương để kịp
thời chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ. Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa
đã bổ sung nhiều đơn vị ra chiến trường như Tiểu đoàn 275 bộ đội địa phương
tỉnh cho Trung đoàn 53, các Đại đội 150, 160 cho Tiểu đoàn 541 phịng khơng, 2

trung đội trinh sát cho Đại đồn 304. Ngồi ra Thanh Hóa cịn điều động hàng
ngàn cán bộ, chiến sĩ của Đại đội 128 bộ đội huyện Bá Thước, 112 bộ đội huyện
Tĩnh Gia, các đơn vị của Hoằng Hóa, Hà Trung, Quảng Xương, Thạch Thành
cho các đơn vị tham gia chiến đấu tại Điện Biên Phủ.
Ngày 13-3-1954, bộ đội ta bắt đầu nổ súng tiêu diệt cứ điểm Him Lam và
Độc Lập, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
Phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ, tại Nga Sơn, quân và dân
Thanh Hóa ra sức đẩy mạnh tiến cơng qn sự để kìm chân địch, tiêu diệt nhiều
sinh lực địch. Mặt khác các tổ dân vận, địch vận vẫn tăng cường tuyên truyền
hoạt động khuyếch trương chiến thắng của ta trên chiến trường Điện Biên, làm
lung lay tinh thần và làm tan rã hàng ngũ địch.
Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, tin chiến thắng nhanh chóng đến với
quân và dân Thanh Hóa, lực lượng vũ trang tỉnh tích cực khuyếch trương chiến
thắng, các tổ dân vận, địch vận đẩy mạnh công tác tuyên truyền đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta nói rõ âm mưu thủ đoạn của địch, kêu
gọi binh lính địch đóng tại các đồn Điền Hộ, Mai An Tiêm hạ vũ khí đầu hàng.
Đồng thời, các đại đội bộ đội địa phương tổ chức các đợt tấn công truy quét,
buộc địch phải đầu hàng.
Thất bại trên chiến trường chính Điện Biên Phủ, buộc địch phải rút khỏi
Nga Sơn, bị tiêu diệt nặng trong các trận càn quét vào bờ biển phía nam Thanh
Hóa, âm mưu phá hậu phương Thanh Hóa bị thất bại hồn tồn. Ngày 7-8-1954,
11


thực dân Pháp phải rút khỏi đảo Hòn Mê, chấm dứt sự có mặt của quân Pháp ở
Thanh Hóa.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng, chiến dịch Điện Biên Phủ tồn
thắng, qn và dân ta đã loại khỏi vịng chiến đấu một số lượng lớn sinh lực địch
và phương tiện chiến tranh, giải phóng vùng đất đai có ý nghĩa chiến lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược

của thực dân Pháp, xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi
cho đấu tranh ngoại giao của ta đi tới kết thúc cuộc kháng chiến thần thánh của
nhân dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chiến thắng Điện Biên Phủ
đã trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc
của nhân dân thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là nguồn cổ vũ, động viên quân và dân Thanh
Hóa chiến đấu bảo vệ địa phương, dồn sức chi viện cho chiến trường. Trong
chiến dịch, Thanh Hóa đã thể hiện rõ vai trị hậu phương chiến lược quan trọng
của Điện Biên Phủ. Lực lượng vũ trang Thanh Hóa đã bổ sung 1 tiểu đoàn, 2 đại
đội, 2 trung đội và hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu. Tinh
thần xả thân chiến đấu ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang
Thanh Hóa trên mặt trận là biểu tượng tốt đẹp rực sáng chủ nghĩa anh hùng cách
mạng. Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh Hóa có
5 đồng chí được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân đó là: Anh hùng liệt sĩ Trần Đức, xã Hải Yến, huyện Tĩnh
Gia; anh hùng liệt sĩ Lê Cơng Khai, xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa; anh hùng
liệt sĩ Trương Công Man, xã Cẩm Phong, huyện Cẩm Thủy; anh hùng Lò Văn
Bường, xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân; tiêu biểu là anh hùng liệt sĩ Tô Vĩnh
Diện, Tiểu đội trưởng Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đồn pháo cao xạ 367,
q xã Nơng Trường, huyện Nơng Cống đã lấy thân mình cứu pháo khơng để rơi
xuống vực thẳm. Âm vang Điện Biên Phủ đã lan tỏa trên các mạch sống của
nhân dân Thanh Hóa nói chung và lực lượng vũ trang Thanh Hóa nói riêng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ tạo nên nguồn lực tiếp sức cho lực lượng vũ trang

12


Thanh Hóa cùng quân và dân cả nước tiếp tục chiến thắng đế quốc Mỹ xâm
lược, vững bước đi lên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Quân và dân Thanh Hóa mãi mãi xứng đáng với lời biểu dương khen ngợi

của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi Người về thăm năm 1957: “Bây giờ tiếng Việt
Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng
bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó”.

13


Câu 4: Đảng bộ tỉnh Thanh Hố
Tại Thanh Hóa, từ năm 1858 đến trước năm 1930, có rất nhiều cuộc khởi
nghĩa chống Pháp dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời
theo nhiều khuynh hướng khác nhau, tiêu biểu là các phong trào: Cần Vương,
Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, khởi nghĩa nông dân của Hồng Hoa Thám,
khởi nghĩa Ba Đình... Các phong trào đấu tranh vô cùng anh dũng nhưng đều
không thành công và bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo. Nguyên nhân cơ bản dẫn
tới thất bại của các phong trào đấu tranh đó là những người u nước đương thời
chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn.
Giữa lúc cách mạng cả nước nói chung, Thanh Hóa nói riêng đang chìm
trong khủng hoảng về đường lối thì lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Người con ưu tú
của dân tộc Việt Nam đã tìm ra con đường cứu nước mới đó là con đường cách
mạng vô sản, Người đã dày công chuẩn bị tư tưởng, tổ chức để thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Trong đêm trường nô lệ, nhiều thanh niên yêu nước Thanh Hóa đã ra tỉnh
ngồi, nước ngồi tìm đường giải phóng quê hương, đất nước, tiêu biểu là Lê
Hữu Lập, Lê Mạnh Trinh, Đinh Chương Dương... Lê Hữu Lập sang Trung Quốc
tham gia lớp lý luận cách mạng đầu tiên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giảng dạy
và được kết nạp vào tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội (Việt
Nam cách mạng thanh niên), được phân công về nước tuyên truyền tổ chức cách
mạng. Lê Hữu Lập về Thanh Hóa tháng 5-1926, tổ chức Hội đọc sách báo cách
mạng ở TP Thanh Hóa sau đó phát triển ra các huyện trong tỉnh. Trên cơ sở đó,
tháng 4-1927, thành lập tổ chức “Việt Nam cách mạng thanh niên” tỉnh Thanh

Hóa. Đồng chí Lê Hữu Lập làm Bí thư.
Ảnh hưởng đường lối chính trị của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng
chí Hội, phái trẻ trong Đảng “Phục Việt” tách ra thành lập Đảng “Tân Việt” và
hoạt động theo khuynh hướng cộng sản, do Nguyễn Xuân Thúy làm Bí thư.

14


Hoạt động của tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội và
Đảng Tân Việt (hai tổ chức tiền thân của Đảng) đặt nền tảng về tư tưởng và tổ
chức cho Đảng bộ Thanh Hóa ra đời.
Ngày 29-7-1930, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí Nguyễn
Dỗn Chấp đã tổ chức hội nghị đảng viên của ba chi bộ cộng sản đầu tiên (chi
bộ Hàm Hạ, chi bộ Thiệu Hóa, chi bộ Thọ Xuân) tuyên bố thành lập Đảng bộ
tỉnh Thanh Hóa (đảng viên là quần chúng ưu tú lựa chọn trong tổ chức Thanh
Niên). Hội nghị định ra phương hướng nhiệm vụ trước mắt và bầu Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh gồm 3 đồng chí do đồng chí Lê Thế Long làm Bí thư. Sau khi
ra đời Đảng bộ tổ chức cơ quan ấn loát tài liệu, in ấn phát hành tờ báo “Tiến
lên”, truyền đơn cộng sản phát triển cơ sở đảng và các tổ chức Nông hội đỏ,
Công hội đỏ, tổ chức phong trào đấu tranh chống thuế ở một số địa phương
trong tỉnh.

15


Câu 5:Thành tựu nổi bật của tỉnh Thanh Hoá
Suốt 65 năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Thanh Hóa ln
canh cánh trong lịng lời dạy và cũng là mong muốn của Bác là xây dựng Thanh
Hóa thành tỉnh kiểu mẫu. Tuy chưa được như mong muốn, song nhờ quyết tâm
phấn đấu để đền đáp công ơn trời biển của Bác, Thanh Hóa đã có những bước

phát triển vượt bậc trên mọi lĩnh vực.
Dấu ấn những mơ hình kiểu mẫu theo lời Bác

Sinh thời, Bác Hồ đã nhiều lần về thăm Thanh Hóa, Bác cũng dành nhiều
tình cảm động viên kịp thời Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa qua những lần ký
sắc lệnh tặng các phần thưởng cao quý, gửi thư khen, gửi tặng huy hiệu của
Người, hay qua những bài báo viết về những điển hình ở Thanh Hóa... Đáp lại
tình cảm sâu đậm của Bác, cả trong kháng chiến và xây dựng đất nước, từng địa
phương, từng đơn vị trên địa bàn tỉnh đã luôn nỗ lực thi đua theo lời Bác dạy.
Trong những năm tháng chiến tranh, nức tiếng khơng chỉ ở Thanh Hóa mà còn
được cả nước biết đến và học tập như: Nhân dân xã Đông Anh, Đông Sơn giúp
bộ đội địa phương nhiều nhất; huyện Vĩnh Lộc xóa xong nạn mù chữ trước thời
hạn quy định và sớm nhất trong các huyện miền Bắc; kinh nghiệm chăn nuôi,
cải tiến nông cụ của các xã Đại Phong, Xuân Lai, Quảng Hải; Hợp tác xã Đông
Phương Hồng xây dựng tốt hợp tác xã, đạt năng suất lúa cả năm trên 6,5 tấn/ha,
16


Hợp tác xã cơ khí Thành Cơng… Rồi tấm gương các cụ lão dân quân xã Hoằng
Trường (huyện Hoằng Hóa) mặc dù tuổi cao nhưng vẫn kiên cường bắn rơi máy
bay địch bằng súng bộ binh; Chị em trong đội dân quân gái các xã ven biển
huyện Hậu Lộc anh dũng bám trận địa bắn rơi nhiều máy bay địch; Quân dân
Nam Ngạn - Hàm Rồng đã không tiếc máu xương ngày đêm đảm bảo huyết
mạch giao thơng để góp phần làm nên thắng lợi vẻ vang của cả dân tộc…
Bước vào thời kỳ đổi mới, mảnh đất Thanh lại có thêm những điểm sáng,
những lá cờ đầu, những đơn vị, những huyện kiểu mẫu trên mặt trận phát triển
kinh tế - xã hội. Tiêu biểu như Yên Định - huyện anh hùng đầu tiên trong thời kỳ
đổi mới, là địa phương đã mạnh dạn đi đầu với những mô hình thiết thực, hiệu
quả đã đem lại cuộc sống ấm no cho nơng dân. Nhiều mơ hình ở n Định đã và
đang được nhân rộng như: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng mùa vụ nâng cao giá trị

sản xuất, cơ giới hóa nơng nghiệp, dồn điền đổi thửa, huy động nguồn lực từ
nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu… Hiện nay, Yên Định đang là địa
phương dẫn đầu tồn tỉnh trong xây dựng nơng thơn mới với 26/27 xã đều đạt từ
9 tiêu chí trở lên, trong đó có 4 xã đạt 13 tiêu chí… Hay như Cơng ty cổ phần
Mía đường Lam Sơn - một doanh nghiệp hàng đầu của ngành mía đường Việt
Nam, mơ hình liên kết giữa nơng dân - doanh nghiệp đạt nhiều hiệu quả và bền
vững. Nơi đây đang tạo công ăn việc làm ổn định cho trên 30.000 lao động. Với
tinh thần đồn kết vượt qua mọi khó khăn, từ một tỉnh nghèo, hiện nay Thanh
Hóa trở thành tỉnh có nền kinh tế phát triển ổn định, cơ sở hạ tầng bước đầu đã
đáp ứng được nhu cầu hiện đại hóa. Tỉnh đã gia nhập câu lạc bộ các tỉnh đạt 1,5
triệu tấn lương thực trở lên và thu ngân sách hàng ngàn tỷ đồng. Đời sống của
người dân ngày càng được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm. An ninh
quốc phịng, trật tự an tồn xã hội được giữ vững. Đặc biệt, nền cơng nghiệp của
Thanh Hóa đang trên đà phát triển mạnh, xếp thứ 13 trong cả nước, đây là bước
đệm vững chắc để Thanh Hóa cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm
2020...
Quyết tâm xây dựng Thanh Hóa trở thành tỉnh kiểu mẫu

17


Khắc ghi lời dạy của Bác, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thanh Hóa đang thực
hiện nhiều nhiệm vụ, giải pháp để sớm xây dựng Thanh Hóa trở thành tỉnh kiểu
mẫu. Ông Mai Văn Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí Thư Tỉnh ủy Thanh
Hóa cho biết: "Thanh Hóa xác định việc xây dựng thành tỉnh kiểu mẫu là việc
làm liên tục, lâu dài được kế thừa và phát triển, đòi hỏi phải thực hiện kiên
quyết, bền bỉ.
Nhưng trước hết, tỉnh tập trung thực hiện tốt và có hiệu quả các mục tiêu,
nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI đã đề ra, bởi đây là những yếu tố quyết định sớm đưa

Thanh Hóa trở thành một trong những tỉnh tiên tiến của cả nước, làm tiền đề để
xây dựng Thanh Hóa trở thành tỉnh kiểu mẫu. Bên cạnh đó, tỉnh tiếp tục thực
hiện có hiệu quả việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
triển khai nhanh Nghị quyết TW 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay. Xuyên suốt trong công tác lãnh chỉ đạo của tỉnh ủy là phải
xây dựng cho được con người kiểu mẫu, nhất là những cán bộ, đảng viên, những
người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý ở các cấp. Chính họ là hạt nhân để xây
dựng phong trào, đưa tập thể phát triển và sớm thành những mô hình kiểu mẫu.
Tỉnh cũng sẽ ban hành những chính sách phù hợp nhằm phát huy dân chủ, huy
động mọi nguồn lực trong nhân dân để phát triển về mọi mặt...".

18



×