Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHUYÊN đề sự RA đời và các GIAI đoạn PHÁT TRIỂN của CHỦ NGHĨA xã hội dân CHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.05 KB, 23 trang )

Chuyên đề 3
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
CNXH DC là một trào lưu tư tưởng cải lương trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, xuất hiện vào những năm 70 của thế kỷ XIX. Cho đến nay,
CNXHDC vẫn tồn tại và một số đảng DCXH đang nắm chính quyền ở một số
nước TBCN. Sau sự kiện khủng hoảng sụp đổ của CNXH hiện thực ở Đông Âu Liên Xô, 1 số người cộng sản, một bộ phận công nhân, nhân dân lao động cũng
dao động con đường XHCN Mác xít muốn ngả sang CNXHDC, họ lớn tiếng địi
hỏi Đảng ta phải nhanh chóng hồn lương, từ bỏ con đường CNXHKH đi theo con
đường CN XHDC.
Để nhận diện: + Bản chất CNXH dân chủ là gì?
+ Đặc điểm của nó ra sao?
+ Thái độ của Đảng ta với CNXHDC như thế nào?
Hôm nay tôi cùng các đồng chí nghiên cứu : CNXH Dân chủ
2. Mục đích, yêu cầu:
- Nắm vững sự ra đời, các giai đoạn phát triển của CNXHDC
- Thấy rõ bản chất và đặc điểm của CNXHDC
- Phê phán những quan điểm, tư tưởng sai trái cuả CNXHDC
3. Nội dung:
I. Sự ra đời và các giai đoạn phát triển của CNXHDC
II. Bản chất và đặc điểm của CNXHDC
III. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam với CNXHDC
* Thời gian: 4 tiết
* Phương pháp: Thuyết trình, phân tích tổng hợp, lịch sử, lơ lúc, kết hợp
trình chiếu.
* Tài liệu Nghiên cứu:
- Giáo trình CNXHKH (Tập 2), Nxb QĐND, Hà Nội 2008.


- Hỏi đáp CNXHKH, Nxb QĐND, Hà Nội 2004.


- Trần Nhâm (chủ biên), Về trào lưu xã hội dân chủ hiện đại Nxb KHXH,
Hà Nội, 1991.
- Hồng Chí Bảo (chủ biên), “CNXH dân chủ: Huyền thoại và bi kịch”,
Nxb Sự Thật, Hà Nội 1991.
- CNXHDC và vấn đề đặt ra với những người cộng sản, PTS. TS.Nguyễn
Xuân Sơn T/C QPTD số 2 - 1996.Tr 43-44.
- Đề tài KX 01.02 “Về trào lưu xă hội dân chủ hiện đại” (1998) do TS Đào
Duy Quát làm chủ nhiệm.
- Thực chất của vấn đề “cầm quyền hiện đại” và “con đường thứ Ba” của tác
giả Trần Nhu, Tạp chí Thơng tin lý luận, số 10/2000.
- “Con đường thứ Ba” của phong trào dân chủ xã hội ở Anh của tác giả Lưu
Đạt Thuyết, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2002.
- Trào lưu xă hội dân chủ hiện nay và ảnh hưởng của nó đối với CNXH hiện
thực của tác giả Thái Văn Long, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12/2003.
- Nhận diện “con đường thứ Ba” mới của các đảng xã hội dân chủ trong
cuộc đấu tranh tư tưởng ở nước ta của tác giả Đặng Cơng Minh, Tạp chí Thơng tin
công tác Tư tưởng lý luận, số 9/2004.
- Đề tài “Những quan điểm lư luận về con đường thứ Ba của một số đảng xã
hội - dân chủ Tây Âu trong giai đoạn hiện nay” do TS Nguyễn Đức Thùy làm chủ
nhiệm, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
NỘI DUNG
I. SỰ RA ĐỜI VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA CNXHDC

1. Một số khái niệm
- “Dân chủ xã hội” là một khái niệm chính trị xuất hiện lần đầu tiên trong
phong trào cách mạng Đức vào những năm 1848 - 1849, nó thể hiện tư tưởng xây
dựng một xã hội dân chủ cho mọi cơng dân, trong đó dân chủ về chính trị và xã hội
gắn liền với cơng bằng xã hội và nghĩa vụ đóng góp của mỗi người dân, đối lập với
tư tưởng nhà nước dân tộc sô vanh và quân phiệt của Đức thời bấy giờ.



- “Trào lưu dân chủ xã hội” là một trào lưu tư tưởng và chính trị trong
phong trào cơng nhân, lúc đầu chịu ảnh hưởng tích cực của chủ nghĩa Mác, về sau
xa dần mục tiêu đấu tranh của phong trào cơng nhân, thực hiện những thoả hiệp
chính trị với giai cấp tư sản. Lịch sử tồn tại của nó là một quá tŕnh đầy mâu thuẫn
và thăng trầm, gắn liền với những cuộc đấu tranh trong nội bộ từng đảng cũng như
trong trào lưu nói chung, giữa hai trào lưu dân chủ xã hội và cộng sản trong phong
trào công nhân quốc tế.
- “Quốc tế XHCN” (Socialist International - SI): Là tổ chức quốc tế tập hợp
các đảng dân chủ xã hội, các đảng XHCN, và các đảng công nhân (hoặc công
đảng) đang hoạt động ở các quốc gia trên thế giới. SI được thành lập tại Đại hội
các đảng dân chủ xã hội lần thứ nhất ở Frankfurt (CHLB Đức) năm 1951. Đến nay,
Quốc tế XHCN đă tiến hành được 22 đại hội, Đại hội gần đây nhất là Đại hội XXII
được tiến hành ở Brazil (10/2003).
Theo điều lệ, SI họp đại hội 2 năm một lần (sau này là 3 năm). Tính đến Đại
hội XXI (1999), tổng số thành viên của SI là 140 đảng và tổ chức. SI không thừa
nhận nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt nội bộ; các đảng thành viên duy
trì sự độc lập hồn tồn của mình; các hội nghị của SI chỉ ghi nhận các chính sách
do các đảng đưa ra, khơng đề ra chính sách chung và cố gắng đạt tới sự nhất trí
(đồng thuận) cao nhất của các thành viên... Cơ cấu lãnh đạo của SI gồm: Một Hội
đồng gồm đại biểu các đảng thành viên; một Ban lãnh đạo (Bureau), sau này đổi
thành Đoàn Chủ tịch gồm 1 Chủ tịch, 12 Chủ tịch danh dù, 28 Phó Chủ tịch và một
Ban thư kư. Cơ quan ngơn luận chính thức của SI là Bản tin “Những vấn đề
XHCN” (Socialist Affairs) xuất bản bằng tiếng Anh.
- “Chủ nghĩa cải lương xã hội” là khái niệm do những người dân chủ xã
hội nêu ra từ giữa thế kỷ XIX. Đầu tiên là tư tưởng của Ferdinand Lassalle về việc
giai cấp vơ sản có thể lợi dụng quyền bầu cử, phổ thông đầu phiếu trong chế độ
TBCN để tranh cử và bằng con đường đấu tranh nghị viện để xây dựng xã hội
XHCN.
Sau đó, những tư tưởng này được Eduard Bernstein đề lên thành lý luận khi

khẳng định rằng “phong trào dân chủ xã hội được quyền mang tính chất cải


lương”. Xét về thực chất, “Chủ nghĩa cải lương xă hội” là một trào lưu cơ hội hữu
khuynh khi nó chủ trương phong trào công nhân chỉ cần tiến hành những thay đổi
có tính chất cải lương trong các quan hệ xã hội của CNTB là có thể tiến lên CNXH
mà không cần phải thông qua cách mạng xã hội xoá bỏ CNTB.
- “Chủ nghĩa dân chủ xã hội” là khái niệm được trào lưu dân chủ xã hội
dùng để thay cho khái niệm “chủ nghĩa cải lương xã hội”. Ngồi ý nghĩa khác
nhau về ngơn từ, khái niệm này có ý muốn đề cao vấn đề “dân chủ”, nhất là dân
chủ về xã hội. Các nhà lý luận của trào lưu dân chủ xã hội đã đưa ra lý luận về mối
quan hệ giữa dân chủ chính trị với dân chủ xã hội.
Họ cho rằng, sự thắng lợi của nhân dân, của dân chủ chính trị đã được thể
hiện đầy đủ trong nền dân chủ tư sản. Nói cách khác, họ đồng nhất nền dân chủ tư
sản với thắng lợi của dân chủ chính trị. Do đó, phong trào cơng nhân chỉ cần tận
dụng cơ sở dân chủ chính trị tư sản để tiếp tục phấn đấu có đầy đủ dân chủ xã hội
hơn, như vậy sẽ có CNXH. Dân chủ xă hội, theo quan điểm của họ có nghĩa là sự
bảo đảm việc làm, khơng thất nghiệp, có chỗ ở, đời sống cao, có bảo hiểm xă hội,
bình đẳng cho phụ nữ ...
- “CNXH dân chủ” là hệ thống các quan điểm tư tưởng của trào lưu xã hội
dân chủ quốc tế mang tính cải lương về CNTB, về mơ hình và con đường, biện
pháp xây dựng CNXH và giải quyết các vấn đề xã hội khác.
2. Sự ra đời của CNXHDC
a. Sự ra đời:
CNXH dân chủ không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Trái lại, nó là sản
phẩm nảy sinh từ cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của CNTB và cuộc đấu tranh giai
cấp trong xã hội tư bản.
Vào khoảng nửa sau thế kỷ XIX, khi CNTB từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chuyển
sang thời kỳ mới, phong trào công nhân phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, dẫn

đến sự ra đời của nhiều tổ chức cơng đồn và Đảng xã hội - dân chủ. Tổ chức tiền
thân của trào lưu dân chủ xã hội đó là Đảng xã hội - dân chủ Đức được thành lập
vào năm 1875 trên cơ sở sáp nhập 2 tổ chức là Đảng Aidơnach thành lập 1863 (do


Bê ben lãnh đạo) - theo quan điểm Mác xít, và “Tổng công hội Đức” (do F.Lát xan
thành lập 1869) theo lập trường cải lương. Sau đó là sự ra đời của hàng loạt các
Đảng dân chủ - xã hội ở các nước tư bản châu Âu.
Sự phát triển mạnh mẽ của PTCN, sự ra đời hàng loạt các Đảng xã hội - dân
chủ và do những nỗ lực to lớn của Ph.Ăngghen, Quốc tế II ở giai đoạn đầu, khi
Ph.Ăngghen còn sống là tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân, chủ yếu theo lập
trường tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, mặc dù trong các Đảng xã hội - dân
chủ một bộ phận vẫn chịu ảnh hưởng tư tưởng cơ hội, cải lương, ở giai đoạn sau từ
khi Ph.Ăngghen mất (1895), tổ chức này bị chủ nghĩa cơ hội, xét lại chi phối.
Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng cách mạng và cải lương trong Quốc
tế II đã đi đến kết cục là sự phá sản của Quốc tế II. Khi cuộc chiến tranh thế giới
thứ I (1914-1918) nổ ra, đã làm bộc lộ toàn diện sự phản bội của các phần tử cơ
hội, cải lương, xét lại trong Quốc tế II và các Đảng xã hội - dân chủ đối với lợi ích
cơ bản của giai cấp công nhân quốc tế và những nguyên lý cách mạng Mác xít.
Tháng 3-1919, Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản được thành lập ở Matxcơva.
Sau khi Quốc tế II tan rã, trong những năm 1919-1920, hai tổ chức quốc tế của các
Đảng xã hội dân chủ cánh hữu từ Quốc tế II ra đời, đó là Quốc tế Ln Đơn và
Quốc tế cộng đồng lao động các Đảng xã hội dân chủ (thường gọi là Quốc tế II
1/2). Tháng 5-1923, Quốc tế công nhân XHCN ra đời tại Hăm Buốc (Đức) trên cơ
sở hợp nhất Quốc tế Luân Đôn và Quốc tế II 1/2. Đây là tổ chức Quốc tế đầu tiên
của trào lưu xã hội dân chủ hiện đại. Tổ chức quốc tế này tồn tại cho đến chiến
tranh thế giới thứ II
Năm 1950, những người đứng đầu trào lưu dân chủ xã hội đã tổ chức Hội
nghị Hội nghị XHCN quốc tế (Committe of the International Socialist Confrence COMISCO) ở Đan Mạch. Tại Hội nghị này, lần đầu tiên đại diện của các đảng dân
chủ xã hội đã chính thức bàn đến khái niệm “CNXH dân chủ” cùng với những

nguyên tắc cơ bản của nó và việc xây dựng lại một tổ chức quốc tế của phong trào
dân chủ xã hội. Tháng 7/1951, tại thành phố Frankfurt (CHLB Đức) đã diễn ra Đại
hội thành lập tổ chức quốc tế mới của các đảng dân chủ xã hội, lấy tên là Quốc tế
XHCN (Socialist International - SI).


Tun ngơn Frankfurt đã trình bày một cách khá đầy đủ và hệ thống các
nguyên tắc của CNXH dân chủ, đánh dấu một giai đoạn hoàn toàn mới của CNXH
dân chủ, một trào lưu tư tưởng chính trị hiện đại với tham vọng đứng trên và thay
thế cả hệ thống TBCN và hệ thống XHCN, đối lập với cả chủ nghĩa tự do - bảo thủ
và CNCS.
Như vậy, từ những năm 70 của thế kỷ 19 những tư tưởng CNXHDC đã
được hình thành với tư cách là một học thuyết, một lý luận trong phong trồ cơng
nhân quốc tế. Tổ chức tiền thân là Đảng xã hội - dân chủ Đức (1875)
Những tư tưởng CNXHDC ra đời lấy mốc từ tác phẩm của A.Bécxtanh
“Những tiền đề của CNXH và nhiệm vụ của những người XH - DC” - 1868. Đây
là những tiền đề tư tưởng đầu tiên về CNXHDC.
- Tháng 5-1923, Quốc tế công nhân XHCN ra đời tại Hăm Buốc (Đức) trên
cơ sở hợp nhất Quốc tế Luân Đôn và Quốc tế II 1/2. Cương lĩnh GôTa của Quốc tế
cơng nhân XHCN đã bước đầu hình thành quan điểm, hệ thống lý luận của
CNXHDC.
- 1950, tại Hội nghị XHCN quốc tế lần đầu tiên đại diện của các đảng dân
chủ xã hội đã chính thức bàn đến khái niệm “CNXH dân chủ” cùng với những
nguyên tắc cơ bản của nó.
- 7/1951, Tun ngơn Frankfurt tại Đại hội Quốc tế XHCN của các đảng dân
chủ xã hội đã một cách khá đầy đủ và hệ thống các nguyên tắc của CNXH dân chủ,
đánh dấu sự ra đời của CNXHDC.
b. Nguồn gốc tư tưởng, nguồn gốc xã hội của CNXHDC
- Nguồn gốc tư tưởng:
Chính là ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng tiểu tư sản trong phong

trào công nhân được biểu hiện dưới nhiều màu sắc: CNXH không tưởng tư sản và
tiểu tư sản, chủ nghĩa công liên, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cơ hội hữu và tả,
chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa chống cộng và sự đan xen phức tạp của các khuynh
hướng tư tưởng đó. CNXH dân chủ - học thuyết của trào lưu xã hội dân chủ trở
thành một học thuyết chiết trung, hỗn tạp và mang tính cải lương, thực dụng, thoả
hiệp giai cấp.


- Nguồn gốc xã hội:
Cơ sở xã hội của CNXH dân chủ là tầng lớp giai cấp cơng nhân q tộc và
tầng lớp trí thức có lợi ích gắn liền với giai cấp tư sản, sự hình thành và tồn tại của
các tổ chức cơng đồn vàng trong phong trào cơng nhân và các nghiệp đồn tự do
trong xã hội tư bản, đặc biệt là các đảng xã hội dân chủ và các tổ chức chính trị xã
hội của nó. Ngồi ra cịn kể đến sự hình thành và phát triển của tầng lớp trung lưu
rộng lớn trong xã hội tư bản hiện đại và bộ phận công nhân chậm tiến, xu thời
trong xã hội tư bản.
3. Các giai đoạn phát triển của CNXHDC
Trào lưu dân chủ xă hội có nguồn gốc từ phong trào công nhân ở các nước
tư bản phát triển Tây Âu khoảng 150 năm trước. Đến nay nó đă trải qua nhiều giai
đoạn phát triển thăng trầm phức tạp. Để phân kỳ các giai đoạn của trào lưu dân chủ
xă hội, cần dùa trên hai căn cứ: Trước hết là dùa trên cơ sở kinh tế - xă hội, nói
cách khác là dùa trên những giai đoạn phát triển của CNTB từ giữa thế kỷ XIX đến
nay. Thứ hai là dùa trên những sự kiện lịch sử quan trọng của phong trào cơng
nhân nói chung, đặc biệt là những đại hội quan trọng của Quốc tế XHCN. Trên cơ
sở phương pháp luận như vậy, có thể chia sự phát triển của trào lưu dân chủ xă hội
thành 4 giai đoạn với những đặc điểm chủ yếu ở mỗi giai đoạn như sau:
a. Giai đoạn 1, từ những năm 60 - 70 của thế kỷ XIX đến chiến tranh thế
giới lần thứ I.
- Bối cảnh lịch sử:
Trong giai đoạn 1870 - 1900, CNTB ngày càng khẳng định ưu thế tuyệt đối

và bắt đầu chuyển dần từ tự do cạnh tranh sang lũng đoạn, đế quốc chủ nghĩa.
GCCN đã trở thành một lực lượng lớn mạnh, nắm giữ những khâu trọng yếu trong
nền kinh tế TBCN. Tuy vậy, do sự bóc lột nặng nề của giai cấp tư sản, điều kiện
sống và lao động của những người làm thuê trở nên tồi tệ hơn so với thời kỳ tư bản
tự do cạnh tranh. Mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp giữa lao động và tư bản
ngày càng sâu sắc, quyết liệt. Tiếp thu lý luận CNXH khoa học, GCCN ngày càng
trưởng thành và giác ngộ về sứ mệnh lịch sử cũng như sức mạnh của mình. Sự
trưởng thành đó được đánh dấu bằng việc ra đời và phát triển của các đảng dân chủ


xã hội có tính chất quần chúng và cách mạng cùng các tổ chức khác của GCCN
trong các nước TBCN, bằng sự ra đời và hoạt động của các tổ chức quốc tế của
GCCN (Quốc tế I và Quốc tế II).
- Về tổ chức:
Năm 1863, Ferdinand Lassalle (1825-1864) đã lập ra Tổng hội cơng nhân
Đức (ADAV), tổ chức chính trị đầu tiên của phong trào công nhân châu Âu lúc đó.
Tuy nhiên, chịu ảnh hưởng tư tưởng của Lassalle, nên hoạt động của ADAV mang
đậm tính chất cải lương. Bởi vậy, năm 1869, những người dân chủ xã hội chịu ảnh
hưởng của tư tưởng mác xít, tiêu biểu cho khuynh hướng cách mạng ở nước Đức
lúc đó là August Bebel (1840-1918) và Willhem Liebknecht (1828-1910) quyết
định thành lập Đảng Công nhân dân chủ xă hội Đức (SAPD) mang tính chất tiến
bộ hơn so với ADAV.
Sau Công xã Pari là thời kỳ phát triển nhanh chóng của các đảng dân chủ xã
hội, nhiều đảng dân chủ xã hội với những tên gọi khác nhau đã ra đời ở một loạt
nước châu Âu: Đảng Công nhân Pháp (1879), Đảng Dân chủ xã hội Bỉ (1879),
Đảng Dân chủ xã hội Hà Lan (1889), Đảng Cơng nhân dân chủ xă hội Thuỵ Điển
(1889)... Ngồi ra, ở các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Nauy, Thụy Sĩ, Đan
Mạch, Italia... đều ra đời các đảng cơng nhân ít nhiều mang tư tưởng dân chủ xã
hội, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác.
Sự trưởng thành và phát triển mạnh của phong trào công nhân, phong trào

cơng đồn và đặc biệt là sự ra đời của một loạt đảng dân chủ xă hội có tính chất
XHCN ngày càng đậm nét là những điều kiện khách quan trực tiếp đưa đến việc
thành lập tổ chức quốc tế mới của phong trào công nhân - Quốc tế II - vào năm
1889. Sự ra đời của Quốc tế II đánh dấu bước phát triển mới của phong trào công
nhân, phong trào dân chủ xã hội trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX. Sau khi
Ăngghen mất (1895), mặc dù đã xuất hiện trào lưu Bơnsêvích do Lênin đứng đầu
kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, nhưng chủ nghĩa cơ hội vẫn chiếm ưu
thế trong Quốc tế II, cuối cùng đã dẫn tổ chức này đến chỗ phá sản vào năm 1914.
Các lực lượng cách mạng, cánh tả trong các đảng dân chủ xã hội trung thành với tư
tưởng của CNXH khoa học đã tập hợp xung quanh Đảng Bơnsêvích Nga do Lênin


đứng đầu, thành lập Quốc tế cộng sản (Quốc tế III) vào năm 1919 và các đảng
cộng sản ở các nước. Sự phá sản của Quốc tế II, sự thành lập các đảng cộng sản và
Quốc tế cộng sản đánh dấu “cuộc chia tay lịch sử” giữa hai trào lưu cộng sản và
dân chủ xã hội trong phong trào công nhân quốc tế.
- Đặc điểm:
Khuynh hướng dân chủ xã hội cải lương xuất hiện và phát triển, đối lập với
khuynh hướng mác xít, đi ngược lại lợi ích cách mạng của giai cấp vô sản và
phong trào công nhân. Những đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng này trong
phong trào dân chủ xã hội ở nước Đức nói riêng và châu Âu nói chung là F.
Lassalle, E. Bernstein và K. Kaustky. Những quan điểm của các ông này đã trở
thành nền tảng tư tưởng, lý luận của CNXHDC. Có thể nói, hầu như khơng có một
quan điểm lý luận nào của CNXH dân chủ lại không dựa trên những quan điểm lý
luận đã được hình thành từ giai đoạn này, nhất là các quan điểm của E. Bernstein.
Tư tưởng CNXHDC:
- Đòi xét lại và phủ nhận một loạt các luận điểm quan trọng của chủ nghĩa
Mác về sự tiêu vong của CNTB, sự cần thiết của đấu tranh giai cấp, cách mạng vơ
sản và chun chính vơ sản.
- Đồng thời đề ra những nguyên tắc của quan niệm mới về con đường và

mục tiêu của CNXH. Đó là con đường cải cách dân chủ và CNXH dân chủ khác
biệt với con đường cách mạng vô sản, cách mạng XHCN của chủ nghĩa Mác.
- Đề cao các hình thức đấu tranh nghị trường, cơng khai về vai trị siêu giai
cấp của nhà nước dân chủ tư sản, bác bỏ con đường cách mạng bạo lực, đấu tranh
giai cấp và xoá bỏ nhà nước tư sản, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản để tiến
tới CNXH.
- Chỉ cần sử dụng nhà nước dân chủ để tiến hành các cuộc cải tạo hồ bình
CNTB là có thể tiến tới CNXH và mục tiêu giải phóng GCCN.
b. Giai đoạn 2, từ sau chiến tranh thế giới thứ I đến kết thúc chiến tranh
thế giới thứ II.
- Bối cảnh lịch sử:


Sau chiến tranh thế giới thứ I, CNTB đi vào khắc phục hậu quả chiến tranh,
khủng hoảng và tiếp tục phát triển theo khuynh hướng đế quốc chủ nghĩa. Sau
thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, nước Nga Xô viết - nhà nước XHCN đầu
tiên trên thế giới - ra đời và bắt tay vào xây dựng một xă hội mới - xă hội XHCN.
Dưới ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười, một cao trào cách mạng đă diễn ra ở
châu Âu trong những năm 1918 - 1923, nhưng đă bị giai cấp tư sản đàn áp và thất
bại. Tình hình đó đã tác động trực tiếp đến các đảng của phong trào cơng nhân, lúc
đó chủ yếu là các đảng dân chủ xã hội, làm cho trào lưu dân chủ xă hội lâm vào
tình trạng phân hố sâu sắc về tổ chức, lực lượng thành phái tả, phái hữu và phái
giữa. Phái tả bao gồm đại bộ phận là những người dân chủ xă hội cách mạng, mác
xít. Phái hữu và phái giữa gần nhau về khuynh hướng tư tưởng cơ hội và xét lại,
cải lương đối lập với chủ nghĩa Mác. Hai phái này không lớn hơn phái tả về lực
lượng, nhưng bao gồm một bộ phận đáng kể những lãnh tụ đương thời của các
đảng dân chủ xă hội.
- Về tổ chức:
Cuộc đấu tranh trong phong trào công nhân và cuộc đấu tranh giữa ba
khuynh hướng và lực lượng cấu thành phong trào dân chủ xã hội (phái tả, phái

hữu, phái giữa) ở những thập kỷ đầu của thế kỷ XX đã đưa đến sự đối lập ngày
càng tăng về tư tưởng giữa một bên là những người dân chủ xã hội cách mạng,
mác xít (phái tả), với bên kia là những người dân chủ xã hội thuộc phái hữu và
phái giữa theo khuynh hướng xét lại và cơ hội. Bộ phận những người dân chủ xã
hội cách mạng, mác xít thuộc phái tả đã tách ra thành lập các đảng cộng sản, từ đó
thành lập Quốc tế cộng sản vào năm 1919, tạo thành một trào lưu mới của phong
trào công nhân - phong trào cộng sản. Bộ phận theo phái hữu đă tập hợp lại lực
lượng nhằm khôi phục lại Quốc tế II vào năm 1919 ở Geneve (Thuỵ Sĩ). Tháng
2/1921, những người dân chủ xă hội thuộc phái giữa cũng đă họp Đại hội ở Viena
(Áo), có 20 đảng và tổ chức dân chủ xã hội tham gia, lập ra Quốc tế cộng đồng lao
động (còn được gọi là Quốc tế hai rưỡi). Tháng 5/1923, các đảng dân chủ xã hội
thuộc Quốc tế II và Quốc tế hai rưỡi đã liên kết với nhau, tổ chức Đại hội tại


Hamburg (Đức), lập ra Quốc tế công nhân XHCN, phục hồi và phát triển trào lưu
dân chủ xă hội. Tổ chức quốc tế này tồn tại cho đến chiến tranh thế giới thứ II.
- Đặc điểm:
Sau khi Quốc tế II bị phá sản, phong trào công nhân quốc tế bị phân liệt
thành hai tổ chức đối lập nhau và đấu tranh gay gắt với nhau. Trào lưu dân chủ xã
hội, phân hoá sâu sắc về tư tưởng và tổ chức. Phái hữu phản bội phong trào công
nhân, đi theo giai cấp tư sản và phái tả chủ trương bảo vệ Liên Xơ, chống nguy cơ
phát xít. Trong chiến tranh thế giới thứ II, trào lưu dân chủ xã hội bị khủng bố, đàn
áp của chủ nghĩa phát xít, bị tổn thất và suy yếu. Ở một số nước như Đức, Áo,
đảng dân chủ xã hội bị cấm hoạt động; ở một số nước Trung và Đông Âu nhiều
đảng dân chủ xã hội bị tan vỡ.
Các nhà lãnh đạo dân chủ xã hội thuộc phái hữu:
- Phê phán và bác bỏ các quan niệm của những người cộng sản Nga về nhà
nước chun chính vơ sản, về xã hội hố các tư liệu sản xuất, về nhà nước quản lý
tập trung nền kinh tế và các lĩnh vực xă hội khác...
- Họ cho rằng, các nước dân chủ tiên tiến ở châu Âu cần đi theo con đường

của CNXH dân chủ, thực hiện chế độ dân chủ chính trị, chế độ dân chủ trong kinh
tế và trong các lĩnh vực xă hội khác chứ không phải đi theo con đường của cách
mạng Nga.
Những người dân chủ xã hội phái tả:
- Chủ trương kế thừa di sản lý luận cách mạng của các đảng dân chủ xã hội
trong giai đoạn thứ nhất, dưới ảnh hưởng của Mác và Ăngghen.
- Thừa nhận ý nghĩa và giá trị lịch sử của Cách mạng tháng Mười, bảo vệ
Liên Xơ, chống CNTB, chủ nghĩa đế quốc.
Nhìn chung, các đảng XHDC trong giai đoạn này có sự phân hoá ngày càng
sâu sắc về tư tưởng, nhưng xu hướng thoả hiệp trong nội bộ cũng như với giai cấp
tư sản là nét đặc trưng nhất của trào lưu dân chủ xã hội. Về mặt tư tưởng, các đảng
dân chủ xã hội trong giai đoạn này đều chống cộng sản, chống Liên Xơ, gắn bó với
CNTB ở một mức độ nhất định.


c. Giai đoạn 3, từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến cuối những năm 70
thế kỷ XX.
- Bối cảnh lịch sử:
Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, một loạt nước ở châu Âu, châu Á dưới
sự lãnh đạo của đảng cộng sản đã đi theo con đường XHCN. Phong trào cộng sản
phát triển mạnh mẽ. Trong lúc đó, trào lưu dân chủ xã hội vẫn cịn ở tình trạng
khủng hoảng nặng nề và các đảng dân chủ xă hội phải mất 6 -7 năm mới phục hồi
lại được. Trong nửa cuối những năm 40, ở các nước Trung và Đông Âu, các đảng
dân chủ xã hội hoặc là hợp nhất với đảng cộng sản, hoặc là tồn tại với tư cách một
chính đảng nhưng chấp nhận vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, tham gia mặt trận
thống nhất, phấn đấu xây dựng CNXH. Ở nhiều nước Tây Âu và Bắc Âu, các đảng
dân chủ xã hội hoặc là được khôi phục, hoặc được thành lập lại và đã tham gia
chính quyền...
- Về tổ chức:
Các đảng dân chủ xă hội chủ trương thành lập một tổ chức quốc tế mới.

Ngay từ tháng 9/1944, dưới sự bảo trợ của Công đảng Anh, một số nhà dân chủ xă
hội lưu vong đă tổ chức một hội nghị nghiên cứu những vấn đề liên quan đến một
tổ chức quốc tế trong tương lai (sau chiến tranh) của các đảng dân chủ xã hội. Năm
1946, cũng tại nước Anh đă thành lập ra một Ủy ban tư vấn về vấn đề đó. Tháng
11/1947, Ủy ban Hội nghị XHCN quốc tế (Committe of the International Socialist
Confrence - COMISCO) được thành lập thay thế cho Ủy ban tư vấn, các đảng dân
chủ xã hội đều có đại diện tham gia trong đó.
Năm 1950, những người đứng đầu trào lưu dân chủ xã hội đă tổ chức Hội
nghị của COMISCO ở Đan Mạch. Tại Hội nghị này, lần đầu tiên đại diện của các
đảng dân chủ xă hội đă chính thức bàn đến khái niệm “CNXH dân chủ” cùng với
những nguyên tắc cơ bản của nó và việc xây dựng lại một tổ chức quốc tế của
phong trào dân chủ xă hội. Tháng 7/1951, tại thành phố Frankfurt (CHLB Đức) đã
diễn ra Đại hội thành lập tổ chức quốc tế mới của các đảng dân chủ xã hội, lấy tên
là Quốc tế XHCN (Socialist International - SI). Tun ngơn Frankfurt đã trình bày
một cách khá đầy đủ và hệ thống các nguyên tắc của CNXH dân chủ, đánh dấu


một giai đoạn hoàn toàn mới của trào lưu dân chủ xã hội, một trào lưu tư tưởng
chính trị hiện đại với tham vọng đứng trên và thay thế cả hệ thống TBCN và hệ
thống XHCN, đối lập với cả chủ nghĩa tự do - bảo thủ và CNCS.
- Đặc điểm:
Theo Tuyên ngôn Frankfurt, quan điểm của những người dân chủ xã hội,
dân chủ chính trị là tiêu đề quan trọng nhất của CNXH dân chủ. Nó khơng phải là
chun chính vơ sản, mà là sự cầm quyền của nhân dân, do nhân dân thực hiện và
bảo đảm cho nhân dân tất cả các quyền tự do chính trị.
Dân chủ kinh tế được quan niệm như một hệ thống kinh tế nằm dưới sự
kiểm sốt của tồn xã hội và phục vụ lợi ích của tồn xã hội thơng qua các cơng cụ
như vai trị điều tiết của nhà nước, cơ chế thị trường, chế độ sở hữu hỗn hợp và
quyền tham quyết của các tập thể lao động.
Dân chủ xã hội được coi là mục tiêu chủ yếu của CNXH dân chủ. Nó được

thực hiện thơng qua Nhà nước phúc lợi gồm thực hiện các quyền lao động; bảo
hiểm xã hội cho công dân, người về hưu, người thất nghiệp; bảo hiểm tàn tật, tai
nạn lao động; săn sóc trẻ em quyền học hành của thanh thiếu niên v.v...
Những luận điểm cơ bản của Tuyên ngôn Frankfurt là nền tảng tư tưởng
lý luận của trào lưu dân chủ xã hội trong suốt mấy thập niên sau chiến tranh thế
giới thứ II. Nó là kim chỉ nam cho các chính sách, chương tŕnh hành động của các
đảng dân chủ xă hội trong suốt các thập niên 50, 60, 70. Đây là thời kỳ hoàng kim
của trào lưu dân chủ xã hội với những đặc điểm sau:
- Nền dân chủ tự do đa nguyên; thể chế kinh tế hỗn hợp; chính sách điều tiết
kinh tế vĩ mô.
- Một nhà nước phúcc lợi bảo đảm, giúp đỡ những người rơi vào hoàn cảnh
khó khăn; các giá trị trọng tâm: Tự do, Bình đẳng, Đoàn kết...
Đây cũng là giai đoạn xuất hiện những lănh tụ, đồng thời là nhà tư tưởng có
uy tín lớn của trào lưu dân chủ xă hội hiện đại như Willy Brandt (Đức), Olof
Palme (Thuỵ Điển), B. Craisky (Áo), , M. Roca (Pháp)...
d. Giai đoạn 4, từ cuối những năm 70 đến nay.


Giai đoạn này được chia làm 2 thời kỳ: Thời kỳ thứ nhất từ cuối thập niên
70 đến giữa thập niên 90 và thời kỳ thứ hai từ giữa thập niên 90 đến nay
* Từ cuối thập niên 70 đến giữa thập niên 90
- Bối cảnh lịch sử:
Bước vào thập niên 70, tình hình thế giới có những thay đổi cơ bản: Mỹ sa
lầy trong cuộc chiến tranh Việt Nam, bị suy yếu, buộc phải chấp nhận “hồ dịu” và
chính sách cùng tồn tại hồ bình với Liên Xơ và các nước XHCN. Liên Xô giành
được thế cân bằng chiến lược với Mỹ.
Sau chiến thắng của Việt Nam (năm 1975), phong trào giải phóng dân tộc và
độc lập dân tộc có bước phát triển mới, hơn 20 nước độc lập dân tộcc ở châu Á,
châu Phi và Mỹ Latinh ra đời, nhiều nước đã lựa chọn con đường phát triển theo
định hướng XHCN.

Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại đã dẫn đến sự phát triển mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất trong các nước TBCN, đồng thời đẩy các nước này lâm
vào cuộc khủng hoảng cơ cấu trầm trọng. Khủng hoảng sản xuất thừa đi đơi với
tình trạng thiếu vốn, lạm phát và thất nghiệp trầm trọng đã làm cho mâu thuẫn về
kinh tế - xã hội của CNTB càng thêm gay gắt.
- Đặc điểm:
Cuộc khủng hoảng của CNTB là nguyên nhân sâu xa dẫn tới cuộc khủng
hoảng về lý luận, tư tưởng và tổ chức của trào lưu dân chủ xã hội. Do kinh tế
khủng hoảng, đời sống nhân dân, nhất là công nhân và người lao động làm thuê
gặp nhiều khó khăn, nạn thất nghiệp tăng lên. Các chính sách và biện pháp cải cách
xã hội của những người dân chủ xă hội tỏ ra bất lực và phạm vi hoạt động của
chúng bị thu hẹp.
Trong nội bộ các đảng dân chủ xã hội, xu hướng phân hoá ngày càng tăng.
Nhu cầu thực tiễn đ̣i hỏi trào lưu dân chủ xã hội phải có đổi mới về tư tưởng và lư
luận. Trước tình hình đó, nhằm cố gắng thích ứng với những thay đổi trong tương
quan so sánh giữa lực lượng dân chủ tiến bộ với lực lượng tư bản đế quốc, nhiều
đảng dân chủ xă hội (Đức, Áo, Thụy Điển...) đã đề ra đường lối “tư tưởng mới”
với hy vọng phác hoạ ra bộ mặt mới, hiện đại hơn cho CNXH dân chủ.


Với đường lối “tư tưởng mới”, những người dân chủ xã hội lại quay trở lại
với một số di sản tư tưởng của Mác nhằm tìm ra những biện pháp cải cách chế độ
tư bản đang khủng hoảng, làm cho nó thích nghi với tình hình đã thay đổi, góp
phần giữ ổn định chế độ TBCN. Do đó, khía cạnh nổi bật của đường lối “tư tưởng
mới” là thái độ phê phán đối với CNTB. Trong việc đánh giá CNTB, phái hữu ra
sức biện hộ cho CNTB, còn phái tả và phái trung gian cho rằng trong chế độ
TBCN, các mâu thuẫn và sự phân hoá xã hội ngày một sâu sắc thêm, CNTB vẫn là
một trở ngại lớn trên con đường tiến lên của nhân loại. Để khắc phục trở ngại đó,
những người dân chủ xã hội chủ trương tiến hành các biện pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục ủng hộ kinh tế thị trường, đồng thời tạo ra một cơ chế hạn

chế vai trò của các thế lực tư bản lũng đoạn, “đặt lợi ích xã hội lên trên lợi nhuận”.
Nền kinh tế thị trường theo “đường lối mới” này khác với những quan điểm trước
đây ở chỗ nó không chỉ dừng lại ở những biện pháp cải thiện tình cảnh người lao
động, mà muốn thơng qua chính sách kinh tế và xã hội của nhà nước tác động vào
thị trường nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Thứ hai, xây dựng một nhà nước đứng trên các giai cấp để thực hiện phân
phối lại lợi nhuận mà vẫn đẩy mạnh phát triển kinh tế. Các chính sách xã hội của
nhà nước vừa không đẩy được CNTB đến chỗ sự tồn tại của nó bị đe doạ nghiêm
trọng, mà ngược lại phải tạo môi trường tốt nhất cho sự phát triển kinh tế TBCN,
vừa giảm bớt sự căng thẳng của mâu thuẫn lợi ích giữa những người bị bóc lột và
kẻ bóc lột, tạo ra cái gọi là “Nhà nước phúc lợi chung”.
Thứ ba, về các vấn đề quốc tế, những người dân chủ xã hội đứng trước sự
thay đổi của tình hình thế giới đă thay đổi chính sách chống cộng sản, chống các
nước XHCN một cách cơng khai bằng chính sách hồ hỗn, mở quan hệ với các
nước XHCN và các đảng cộng sản.
Thứ tư, các đảng dân chủ xã hội tham gia tích cực vào các hoạt động chung của
cộng đồng quốc tế như chống vũ khí hạt nhân, đ̣i giải trừ quân bị. Tuy nhiên, họ cũng
đẩy mạnh những Hoạt động chống phá các nước XHCN thông qua các vấn đề gọi là
“nhân quyền” và “tự do”. Từ các vấn đề an ninh và hồ bình, các đảng dân chủ xã hội
đă có sự thay đổi thái độ đối với phong trào giải phóng dân tộc. Họ đă mở rộng phạm


vi hoạt động sang các nước thuộc châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh. Có thể nói,
CNXH dân chủ từ một trào lưu chính trị - xă hội của châu Âu, giới hạn vào các vấn đề
của châu Âu, nay đã được mở rộng ra khắp các châu lục.
* Từ giữa thập niên 90 đến nay
- Lợi dụng tan rã, sự sụp đổ CNXH hiện thực ở Liên Xơ và Đơng Âu, trào
lưu XHDC tích cực tun truyền về CNXHDC nhằm thu hút và tập hợp lực
lượng .Các Đảng XHDC phát triển mạnh mẽ ở các khu vực cả Châu Á, Phi, Mỹ
La Tinh và cả ở các nước XHCN...

- Đến giữa thập niên 90, Các đảng dân chủ xă hội ở hầu hết các nước Tây
Âu (13/15 nước thuộc EU, trước tiên là Anh, sau đó là Pháp, Thụy Điển, Italia,
CHLB Đức...) lại lần lượt thắng cử, trở lại cầm quyền với những quan điểm lý luận
và đường lối, chính sách mới. Các chính trị gia và các nhà nghiên cứu khoa học
chính trị phương Tây gọi lý luận đó là “con đường thứ Ba” (CNXHDC), ở CHLB
Đức, Thủ tướng Gerhard Schroeder gọi là “đường lối Trung dung mới”. Đến
những năm cuối thế kỷ XX, lý luận này được truyền bá rộng rãi trong hầu hết các
nước TBCN, cũng như các quốc gia đang phát triển theo định hướng TBCN. Lãnh
tụ các đảng dân chủ xă hội ở Anh, Đức, Pháp, Italia và thậm chí cả Tổng thống Mỹ
Bill Clinton, lãnh tụ Đảng Dân chủ đang cầm quyền ở Mỹ lúc đó, hàng năm (1998,
1999, 2000, 2002) đều tổ chức các cuộc gặp gỡ quốc tế để thảo luận các vấn đề lý
luận và thực tiễn của CĐTB (CNXHDC), coi đó là trào lưu tư tưởng lư luận chính
trị hiện đại, đáp ứng được các yêu cầu phát triển của nhân loại những năm đầu thế
kỷ XXI.
- Hiện nay, CNXHDC có ảnh hưởng mạnh mẽ và các đảng dân chủ xã hội
có một vai trị rất quan trọng trong đời sống chính trị ở châu Âu, đặc biệt là các
nước Tây Âu. Trong số các đảng dân chủ xă hội cầm quyền hoặc liên minh cầm
quyền, có Công đảng Anh và Đảng Dân chủ xã hội Đức (SPD) là hai đảng đạt
được những thành công nhất định. Hai đảng này trong thực tiễn cầm quyền đã áp
dụng tư tưởng của CĐTB vào việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất
nước và thu được những thành tựu khá nổi bật. Điều đó lại càng làm cho những
người ủng hộ CĐTB có thêm cơ sở thực tiễn để luận chứng cho tính ưu việt, phổ


biến của tư tưởng này. Mặc dù mấy năm trở lại đây, trước những biến động lớn của
tình hình thế giới và những khó khăn trong nội bộ các nước Tây Âu, nhiều vấn đề
mới đã xuất hiện và tác động vào CĐTB, tạo ra những cản trở đối với sự phát triển
của nó, nhưng điều đó - theo nhiều cơng tŕnh nghiên cứu - chỉ là tạm thời. Thậm
chí, khơng ít nhà khoa học đă dự đốn rằng, trào lưu tư tưởng CĐTB sẽ tiếp tục
“vần vũ” thế giới trong những thập niên tiếp theo của thế kỷ XXI.

II. Bản chất và đặc điểm của CNXHDC
1. Bản chất của CNXHDC
CNXH dân chủ là tên gọi thống nhất của hệ thống tư tưởng và mơ hình mục
tiêu của đảng dân chủ xã hội ở các nước. Bản chất của nó là trào lưu tư tưởng cải
lương nằm trong phong trào cộng sản và CNQT, lý luận mang tính chung chung,
cải lương, cơ hội để nguỵ biện cho những thay đổi về thực tiễn chính trị khi cần
thiết, thực chất là bảo vệ và duy trì chế độ TBCN.
- Là một trào lưu tư tưởng cải lương, phản động, phản khoa học nằm trong
phong trào cộng sản và CNQT.
+ Tính cải lương: muốn cải tiến, cải cách chủ nghĩa Mác - Lênin trong
khuôn khổ của chế độ TBCN để GCTS và nhà tư bản chấp nhận được. Thoả hiệp
với TS. Họ tun truyền về “hợp tác giai cấp”, “hồ bình xã hội”.
Các nhà dân chủ xă hội tuyên bố nguyên tắc chủ yếu trong những nguyên
tắc đó là “nền dân chủ đa nguyên”, chủ trương xây dựng CNXH bằng biện pháp
cải cách, sử dụng chế độ nghị viện tư sản, nhằm giành chính quyền chỉ thơng qua
bầu cử, khước từ những cuộc cải tạo XHCN, những thay đổi cơ bản về cơ cấu
chính trị và kinh tế của CNTB hiện đại.
+ Phản động: Phản bội chủ nghĩa Mác- Lê nin, phản bội lợi ích của GCCN,
phủ nhận qui luật tiến hóa của lịch sử, bác bỏ những luận điểm quan trọng nhất của
học thuyết Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của GCCN, về cách mạng XHCN và
chun chính vơ sản.
+ Phản khoa học: Chung chung, nguỵ biện, không tưởng, lúc tả, lúc hữu.
Không nhất quán về lập trường tư tưởng “Gió chiều nào, che chiều ấy”, từ bỏ đấu


tranh GC, cách mạng XH, CCVS, sứ mệnh lịch sử của GCCN. Muốn tìm con
đường thứ ba trong phát triển XH lồi người.
Thực chất là gì:
+ Phản bội lợi ích GCCN, chỉ vì lợi ích của 1 nhóm người
+ Duy trì vĩnh viễn chế độ tư hữu tư nhân về Ts => bảo vệ chế độ

TBCN.
- CNXHDC là sự hỗn tạp về tư tưởng, biểu hiện rất đa dạng.
Các đảng, các phái theo CNXH dân chủ đều có quan niệm riêng của họ về
CNXH, về các vấn đề cải tổ xă hội theo những cái gọi là nguyên tắc của CNXH
dân chủ. Ví dụ như: “CNXH dân chủ là một lý tưởng” (E. Bernstein), “CNXH dân
chủ là CNXH khơng có chun chính” (K.Kaustky), “CNXH dân chủ ở châu Âu
có cội nguồn tinh thần trong đạo Cơ đốc giáo, trong triết học nhân văn, trong triết
học cận đại, trong học thuyết xă hội và lịch sử của Mác, trong những kinh nghiệm
của phong trào công nhân” (Cương lĩnh của Đảng Dân chủ xă hội Đức)...
=> Bản chất vẫn là một đó là sự phản bội chủ nghĩa Mác- Lê nin, phản bội
lợi ích GCCN, bênh vực bảo vệ GCTS và CNTB.
( So sánh CNXHKH với CNXHDC trên một số vấn đề: Đấu tranh giai cấp –
cách mạng xã hội; Thái độ với CNTB; Hệ tư tưởng; Tổ chức Đảng); về dân chủ;
Về con đường phát triển)....
2. Đặc điểm của CNXHDC
- CNXH dân chủ đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa Mác- Lê nin, CNXH khoa
học. CNXH dân chủ không dựa trên một cơ sở lý luận nhất quán mà mang tính
chiết trung, hỗn tạp của nhiều khuynh hướng tư tưởng. CNXH dân chủ đánh giá
mơ hồ về bản chất của giai cấp tư sản, về xã hội tư bản, ảo tưởng rằng có thể xây
dựng CNXH trong lịng xã hội tư sản, không cần lật đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản; có thể thơng qua những cải cách xã hội để xây dựng CNXH trong khi vẫn duy
trì cơ sở kinh tế, chính trị, pháp luật của CNTB.
- CNXH dân chủ phủ nhận đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, phủ nhận
và xuyên tạc những lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê nin như nguyên lý về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý luận hình thái kinh tế- xã hội, lý luận về


chun chính vơ sản. CNXH dân chủ đưa ra những quan điểm tự do, bình đẳng,
dân chủ phi giai cấp, phi lịch sử và trừu tượng.
- Quan niệm về CNXH, CNXH dân chủ coi CNXH là một phạm trù đạo đức

chứ không phải là một chế độ xã hội- giai đoạn đầu của hình thái kinh tế- xã hội
CSCN và ra đời thông qua cuộc cách mạng xã hội lật đổ giai cấp tư sản; về mơ
hình xã hội XHCN, CNXH dân chủ chủ trương xây dựng nền kinh tế dựa trên chế
độ tư hữu TBCN, thừa nhận và bảo lưu sự bóc lột của giai cấp tư sản đối với người
lao động; về chính trị, thực hiện chế độ đa ngun chính trị, duy trì nền dân chủ tư
sản, pháp quyền tư sản; về lợi ích, điều hồ lợi ích giữa giai cấp tư sản và các giai
cấp, tầng lớp lao động khác.
=> Thực chất CNXH dân chủ là sự điều chỉnh thích nghi của CNTB hiện
đại. CNXH dân chủ đã đồng loã với chủ nghĩa chống cộng chống phá quyết liệt
chủ nghĩa Mác- Lênin, CNXH khoa học, các Đảng cộng sản và Nhà nước XHCN.
CNXH dân chủ là đồng minh với CNTB để chống phá PTCS-CNQT, CNXH hiện
thực. CNXH dân chủ là một kẻ thù tư tưởng của CNXH khoa học.
III. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam với CNXHDC
1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam với CNXHDC
a. Những biểu hiện của CNXHDC ở Việt nam
- Ở Việt nam chưa có CNXHDC nhưng có những biểu hiện ảnh hưởng của
CNXHDC
+ Trước khi Liên Xô - Đông âu sụp đổ, đang tiến hành cải tổ ở Việt nam cũng
có biểu hiện tư tưởng của CNXHDC nhưng còn lẻ tẻ và yếu ớt
- Muốn để miền nam phát triển TBCN 1 thời gian không thống nhất Bắc- nam như:
- Muốn quay lại chế độ DCND chưa đủ điều kiện lên CNXH
- Muốn chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập
- Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản với toàn XH
+ Sau sự sụp đổ của CNXH hiện thực
- Đòi xét lại những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
+ Chủ nghĩa Mác - Lê nin là tư tưởng Phương tây không phù hợp Phương
đông và Việt Nam


+ CN Mác - Lê nin chỉ là thứ triết học tư biện, các giải pháp khơng có tính khả

thi và bạo lực vơ nhân đạo.( Hồng Minh Chính)
Họ cho rằng:
+ Khái niệm GCCN chỉ lả 1 khái niêm trừu tượng chứ khơng có GC thực sự
địi xét lại sứ mệnh lịch sử của GCCN, cho đó là của trí thức "dắt tay nhau đi dưới
tấm biển chỉ đường của trí tuệ" của Hà Sĩ Phu
Có người cho rằng ở Việt nam khơng có mâu thuẫn GC (vì chưa có GC hồn
chỉnh). Chỉ có >< dân tộc, đấu tranh dân tộc là động lực chủ yếu phát triển của DT
Việt nam (Mục đích gây chia rẽ đấu tranh lẫn nhau giữa các dân tộc làm tan khối
đại đoàn kết toàn dân)
Họ phủ nhận cuộc chiến đấu chống ngoại xâm của DT lả sai lầm lịch sử
( Không cần thiết) không biết tận dụng thời cơ. . .
- Họ phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và đương lối của Đảng là
cực đoan, duy ý chí . . . đảng chỉ có 2 triệu, dân tộc gần 80 triệu người vậy mà cứ
bắt dân theo Đảng.
Dân tộc Việt nam có ý thức truyền thống dân tộc, trước kia hơng có đảng, CN
Mác, dân tộc vẫn đứng vững và phát triển. . . đánh thắng Ngun, Mơng... Vì vậy
họ cho lấy CN Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng là sự áp đặt là sự học đòi, bảo thủ
trong lúc chính Phương Tây, cái nơi sinh ra CN Mác họ đã từ bỏ lâu rồi . . . .
+ Trước sự khủng hoảng toàn diện kéo dài họ khẳng định chỉ có đi theo
CNXHDC mới cứu đất nước khỏi hoạn nạn
-> Thực tiễn trên 25 năm đổi mới của Đảng cộng sản đứng vững trên lập
trường CN Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã bác bỏ hoàn toàn những quan
điểm sai lầm của CNXHDC
b.Quan điểm của Đảng ta đối với CNXHDC
- Chúng ta không phủ nhận những tìm tịi, thành tâm của 1 số người với
sựmong muốn tháo gỡ khó khăn trên con đường phát triển của XH & của 1 số
Đảng XHDC tiến bộ.
Nhưng chúng ta kiên quyết không chấp nhận quan điểm tư tưởng, lý luận và
biện pháp cải lương của CNXHDC



- Không tuyên chiến với các Đảng XHDC mà chống ảnh hưởng tư tưởng của nó
với Đảng và quần chúng nhân dân lao động
- Tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác với các Đảng XHDC đang cầm quyền có xu
hướng tiến bộ như: Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Pháp, Nhật Bản. . .
- Tiếp thu chọn lọc những hạt nhân hợp lý của CNXHDC như chính sách XH,
bảo vệ mơi trường, sinh thái, bảo hiểm XH
- Kiên quyết đấu tranh chống áp đặt hoặc lợi dụng quan hệ thân thiện để can
thiệp vào công việc nội bộ hoặc phá hoại sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân
ta, lái con đường phát triển xã hội theo CNXHDC
- Làm rõ danh giới, khác biệt giữa CNXHKH với CNXHDC, để kiên định con
đường CNXHKH mà Mác - AG - L - Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
2. Những u cầu có tính nguyên tắc trong phê phán, khắc phục ảnh
hưởng của CNXHDC ở nước ta hiện nay
Để ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ ảnh hưởng tác hại của CNXH dân chủ ở
nước ta hiện nay, cần nắm vững một số yêu cầu có tính ngun tắc sau:
- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, ln lấy chủ
nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho mọi hành đồng của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
- Trung thành với lợi ích cơ bản của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao
động và cả dân tộc, giải quyết hài hồ lợi ích giai cấp- dân tộc- nhân loại.
- Xây dựng Đảng cộng sản, hệ thống chính trị thật sự trong sạch vững mạnh.
Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, tầm trí tuệ và sức
chiến đấu của Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ. Kiên quyết chống đa
nguyên chính trị, đi đôi với phát huy dân chủ XHCN, bảo vệ đường lối chính trị,
quan điểm của Đảng.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính chủ động trong cuộc đấu tranh lý luậntư tưởng, làm tốt cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ; kết hợp chặt chẽ công tác tư
tưởng với công tác tổ chức, công tác cán bộ, chủ động phịng chống diễn biến hồ
bình, chống tự diễn biến, sự suy thối về chính trị, về đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên. ..



- Giữ vững ổn định chính trị- xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, giữ vững sự ổn định và tăng cường phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện tốt các chính sách xã hội, công bằng xã hội; bảo vệ bản sắc văn hoá
dân tộc.
- Tăng cường hợp tác với các Đảng cộng sản và công nhân trong PTCSCNQT các nước XHCN, trao đổi, học tập kinh nghiệm, nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự đoàn kết trong
PTCS-CNQT, các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
KẾT LUẬN
CnXHDC là hệ thống lý luận của trào lưu XHDC - một trào lưu xã hội của
người lao động, ra đời trong phong trào cơng nhân, CNXHDC có lịch sử phát triển
lâu dài và tầm ảnh hưởng rộng lớn. Trước đây chúng ta chưa quan tâm nghiên cứu
và có thái độ thù địch, chủ yếu đánh giá những hạn chế của CNXHDC.
Nay nghiên cứu cầ nắm rõ bản chất của CNXHDC để có biện pháp phê
phán, ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực của CNXHDC, ngăn ngừa tư tưởng ngộ nhận
của một số cán bộ, đảng viên của chúng ta. Bên cạnh đó tăng cường hợp tác, trao
đổi với các đảng DCCH cầm quyền để vừa học hỏi một số thành tựu, mặt tích cực
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta, vừa hợp tác tuyên truyền CNXHKH, lôi
kéo các đảng DCXH về phía mình để cùng đấu tranh chống CNTB.
Những vấn đề nghiên cứu
1. CNXH dân chủ là gì ? Đặc điểm của CNXH dân chủ hiện đại ?
2. Nguồn gốc tư tưởng và xã hội của trào lưu xã hội dân chủ hiện đại là gì?
3. Những vấn đề nguyên tắc trong đấu tranh khắc phục ảnh hưởng của
CNXH dân chủ ở nước ta hiện nay ?





×