Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

bài học KINH NGHIỆM độc lập, tự CHỦ, SÁNG tạo, tự lực, tự CƯỜNG, tìm RA CON ĐƯỜNG THÍCH hợp THỰC HIỆN mục TIÊU cụ THỂ PHÙ hợp với điều KIỆN VIỆT NAM ý NGHĨA CÔNG CUỘC đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.64 KB, 26 trang )

BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO, TỰ LỰC,
TỰ CƯỜNG TÌM RA CON ĐƯỜNG THÍCH HỢP THỰC HIỆN MỤC
TIÊU CỤ THỂ PHÙ HỢP VỚI ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆT NAM. Ý NGHĨA
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
“Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi
của cách mạng Việt Nam”[1, 5]. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
đã luôn biết phát huy nội lực, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, tiếp thu
kinh nghiệm cách mạng thế giới có chọn lọc nên đã tìm ra cho dân tộc Việt
Nam con đường đi đúng, với mục tiêu duy nhất là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
Trước khi Đảng chưa ra đời, dân tộc Việt Nam khủng hoảng đường lối
cứu nước sâu sắc, bởi các sĩ phu yêu nước chưa tìm ra con đường cách mạng
đúng đắn và chưa biết phát huy hết sức mạnh tiềm tàng của dân tộc. Chỉ đến
khi Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta lãnh đạo với đường lối đúng, đã đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong quá trình đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội (CNXH) đã có những ý kiến, quan điểm khác nhau, thậm chí
đối lập với quan điểm của Đảng; nhưng nhờ có bản lĩnh vững vàng của người
cộng sản, trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam nên Đảng ta đã tìm ra
đường lối lãnh đạo đúng đắn trong từng thời kỳ cách mạng.
Công cuộc đổi mới của đất nước ta đang trên đà phát triển, trước sự tác
động của tình hình thế giới, khu vực cả tích tích cực lẫn tiêu cực; sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam đang đặt ra
nhiều cơ hội và thách thức lớn và chưa có tiền lệ trong lịch sử; bên cạnh đó,
kẻ thù đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “diễn
biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ….


2


Vì vậy, nghiên cứu quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự
cường tìm ra con đường thích hợp thực hiện mục tiêu cụ thể phù hợp với điều
kiện Việt Nam là vấn đề quan trọng, cấp thiết hiện nay.
1.Độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường, Đảng tìm ra con
đường thích hợp thực hiện mục tiêu cụ thể phù hợp với điều kiện của
Việt Nam
Đây là một trong những bài học kinh nghiệm quý báu của Đảng ta được
rút ra từ thực tiễn đấu tranh cách mạng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN, được xuất phát từ những cơ sở khoa học sau đây.
* Cơ sở lí luận và thực tiễn
- Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội và tính độc lập, tự chủ của mỗi dân tộc.
Tư tưởng về thời kỳ quá độ lên CNXH lần đầu tiên được C.Mác đề cập
trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta (1875). Dựa trên những căn cứ
khoa học về sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen không chỉ “coi sự phát triển của
những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”[13, 21],
mà hai ông còn phân các hình thái kinh tế - xã hội thành các giai đoạn phát
triển nhất định. Mỗi giai đoạn ấy lại được chia thành các thời đoạn khác nhau.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp lên cao, từ giai
đoạn XHCN lên giai đoạn cộng sản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
khẳng định: Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa mới lọt lòng từ xã
hội tư bản chủ nghĩa, là thời kỳ quá độ, do đó, là thời kỳ sinh đẻ lâu dài và
đau đớn để loại bỏ dần những cái cũ, xây dựng và củng cố dần những cái mới.
Kế thừa, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác, trong tác phẩm Nhà nước
và cách mạng Lênin đã khái quát tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về các
giai đoạn phát triển của hình thái cộng sản chủ nghĩa:
I- “Những cơn đau đẻ kéo dài”;



3
II- “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”
III- “giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa”[7, 223].
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, Lênin cho rằng: “Với sự
giúp đỡ của giai cấp vô sản tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ
Xô viết và qua những giai đoạn phát triển nhất định tiến tới chủ nghĩa cộng
sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”[8, 295] và
tránh được những đau khổ mà phần lớn cuộc đấu tranh mà các nước phát triển
hơn ở Tây Âu đã phải trải qua.
Trong Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa Lênin đã đề
cập nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề hết sức quan trọng là: Các nước chậm
tiến với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản có thể bỏ qua con đường tư bản chủ
nghĩa tiến thẳng lên CNXH, còn bằng phương pháp nào là tùy thuộc vào điều
kiện lịch sử cụ thể. Bản Luận cương của Lênin đã trở thành “cẩm nang” thần
kỳ giúp Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đưa cách mạng Việt
Nam đi theo con đường XHCN, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Như vậy, với quan điểm đúng đắn, khoa học, các nhà kinh điển MácLênin đã chỉ ra cho giai cấp vô sản và nhân dân thế giới thấy rằng, đi lên
CNXH và chủ nghĩa cộng sản là tất yếu khách quan của xã hội loài người; tuy
nhiên, ở từng dân tộc cần có sự vận dụng, phát triển, bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa với những hình thức, bước đi phù hợp, chủ động, sáng
tạo không rập khuôn, máy móc; bởi học thuyết của các ông là học thuyết mở.
Khi bàn về tính độc lập, tự chủ, C.Mác đã dạy: sự nghiệp con người
phải chính do con người tự giải phóng lấy.
Kế thừa và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong tác
phẩm Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản Lênin khẳng định:
“Chừng nào mà giữa các dân tộc và các nước vẫn còn những sự khác nhau về
dân tộc và về chế độ nhà nước - những sự khác nhau này, ngay cả khi nền
chuyên chính của giai cấp vô sản đã được thiết lập trên phạm vi toàn thế giới,



4
cũng vẫn còn tồn tại trong một thời gian lâu, rất lâu,-thì chừng đó, sự thống
nhất sách lược quốc tế của phong trào công nhân cộng sản tất cả các nước vẫn
không đòi hỏi phải xóa bỏ mọi màu sắc khác nhau, vẫn không đòi hỏi phải thủ
tiêu mọi sự khác nhau về dân tộc…,mà nó đòi hỏi phải áp dụng những nguyên
tắc cơ bản của chủ nghĩa cộng sản... sao cho những nguyên tắc ấy được cải
biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết, được làm cho phù hợp, cho thích
hợp với những đặc điểm dân tộc và đặc điểm nhà nước - dân tộc”[8, 96].
Quan điểm trên của chủ nghĩa Mác-Lênin, nghĩa là: mỗi dân tộc trên
thế giới có đặc điểm riêng, các nước không nên áp đặt con đường đi cho dân
tộc khác. Nhưng mỗi dân tộc cần phải có tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo
trong việc quyết định vận mệnh của dân tộc mình với mục tiêu cuối cùng là
tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
- Xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng vô sản.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, các phong trào yêu nước đã nổ
ra mạnh mẽ, nhưng đều bị thất bại do thiếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
không có đường lối đúng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đòi hỏi phải lựa
chọn đúng đắn con đường cứu nước. Nguyễn Ái Quốc từ một người yêu nước
đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, được soi sáng bởi những tư tưởng tiến bộ
của thời đại, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[12, 314]. Trong
Chánh cương vắn tắt của Đảng Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[10, 1].
Chính vì vậy, ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng ta đã dứt khoát lựa
chọn con đường XHCN, khẳng định sự thống nhất hữu cơ giữa đấu tranh cho
độc lập dân tộc và đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, với trí tuệ thiên tài, năng lực hành động thực tiễn sắc sảo, tư
duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước



5
cho dân tộc phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, đó là con đường
cách mạng vô sản; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Xuất phát từ truyền thống của dân tộc Việt Nam
Việt Nam là đất nước có vị trí địa lý chiến lược về chính trị, kinh tế,
văn hoá, an ninh, quốc phòng. Từ xưa đến nay, dân tộc Việt Nam luôn phải
đối mặt với thiên tai, địch họa. Chính từ những yếu tố đó đã hun đúc cho dân
tộc Việt Nam, con người Việt Nam bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực
tự cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; luôn tìm ra cho mình một con
đường đi đúng đắn, không bị đồng hóa, không chịu khuất phục trước mọi kẻ
thù xâm lược, đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta.
- Xuất phát từ sự chống phá của kẻ thù
Chủ nghĩa cộng sản từ khi trở thành hiện thực, với sự ra đời tác phẩm
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản(1848) đã thường xuyên phải đương đầu với
sự chống phá quyết kiệt của kẻ thù. Vào những năm cuối của thập kỷ 80 thế
kỷ XX, chủ nghĩa xã hội các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, một trong
những nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự sụp đổ đó là do âm mưu, thủ đoạn thâm
độc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Ngày nay, chúng đang tăng
cường chống phá các nước XHCN còn lại bằng chiến lược “diễn biến hoà
bình” và bạo loạn lật đổ, trong đó Việt Nam là một trọng điểm; đồng thời, ra
sức xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là về học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam … .
Từ đó thấy rằng, sự lựa chọn con đường đi lên CNXH Đảng và nhân
dân ta là hoàn toàn đúng đắn và có cơ sở khoa học. Chỉ có tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với sức mạnh đoàn kết của
toàn dân, đất nước ta mới giữ vững và phát triển như ngày hôm nay.
- Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng, chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực



6
tự cường tìm ra con đường đi thích hợp trong từng giai đoạn cách mạng, với
mục tiêu xuyên suốt, bất di bất dịch là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Đó cũng chính là sự lựa chọn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, sự lựa
chọn của lịch sử, không do một ai áp đặt. Kiên định với con đường đó, dân
tộc Việt Nam mới đứng vững, chiến thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ;
đồng thời, giành được nhiều thành tựu trong 20 năm đổi mới, được bạn bè
trên thế giới đánh giá cao. Ngược lại, cũng có lúc do Đảng ta không phát huy
được tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN, rập khuôn, máy móc mô hình của nước ngoài thì lúc
đó, thời điểm đó đất nước rơi vào tình trạng khó khăn, lâm vào khủng
hoảng…
Vì vậy, chỉ trên cơ sở độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường tìm ra
con đường đi đắn; kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Đảng
cộng sản Việt Nam mới lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đúng hướng, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
* Độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường, Đảng tìm ra con đường
thích hợp thực hiện mục tiêu cụ thể phù hợp với điều kiện của Việt Nam
Để xác định con đường đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt
Nam, là một quá trình nghiên cứu, tìm tòi độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự
cường của Đảng ta trên cơ sở thực tiễn, cụ thể ở những nội dung cơ bản sau:
- Tìm ra con đường cứu nước và thực hiện mục tiêu cụ thể phù hợp với
điều kiện của Việt Nam từ năm 1911-1945
Trước năm 1930, khi Đảng ta chưa ra đời, đất nước ta chìm trong đêm
trường nô lệ. Các phong trào yêu nước nổ ra khắp nơi, tiêu biểu là Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh và Hoàng Hoa Thám, nhưng đều thất bại.
Phan Bội Châu chủ trương lập chế độ quân chủ lập hiến; hạn chế lớn
nhất của ông là dựa vào Nhật để đuổi Pháp; không xác định rõ bạn, thù, ta.
Sau này, trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ



7
tịch, Trần Dân Tiên đã nhận xét con đường đó chẳng khác gì “đưa hổ cửa
trước, rước beo cửa sau”. Con đường cứu nước của Phan Bội Châu đã trăm
lần thất bại mà không một thành công.
Phan Châu Trinh là nhà yêu nước dân chủ nhiệt thành, nhưng đường lối
cứu nước của ông là cải lương, phản đối bạo động, cho rằng “bạo động tắc tử”
và muốn dựa vào Pháp để chống phong kiến, chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng
thương”. Vì vậy, con đường cứu nước của ông đã bị thất bại. Ông bị thực dân
Pháp bắt giam và đày đi Côn Đảo.
Hoàng Hoa Thám, khi kết thúc phong trào đánh Pháp vẫn không có
đường lối rõ rệt, vẫn nằm trong khuôn khổ của “cốt cách phong kiến”.
Thất bại của các phong trào yêu nước trên đã nói lên một sự thật là, con
đường dân chủ tư sản không thể thành công. Lúc này ở Việt Nam, cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước diễn ra sâu sắc, trầm trọng; việc tìm lối ra cho
cuộc khủng hoảng là nhu cầu nóng bỏng của dân tộc ta lúc bấy giờ.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau
này) đã ra đi tìm đường cứu nước. Người đã phân tích, đối chiếu, so sánh, tìm
ra con đường cứu nước phù hợp cho cách mạng Việt Nam. Khi so sánh cách
mạng tư sản với cách mạng vô sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mệnh
Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không
đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công
nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công
nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng
áp bức”[9, 274]. Người nhấn mạnh: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh
Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng
cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối
như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”[9, 280]
Như vậy, quá trình nghiên cứu, xem xét, so sánh hàng loạt cuộc cách

mạng thế giới đã giúp Nguyễn Ái Quốc học hỏi được nhiều điều. Người đã


8
đánh giá những cuộc cách mạng tư sản là “những cuộc cách mạng không đến
nơi”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã giúp Nguyễn
Ái Quốc nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: Chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ. Cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường cách
mạng vô sản.
Khác với các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã có một
phương pháp nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng tạo, đem lí luận đối chiếu với
thực tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội làm tiêu chuẩn
đánh giá các học thuyết và tiếp thu kinh nghiệm cách mạng thế giới có chọn
lọc. Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc đã được thể hiện
nổi bật trong việc vận dụng học thuyết Mác-Lênin, vạch ra đường lối cứu
nước đúng đắn cho dân tộc ta.
Nguyễn Ái Quốc đã trả lời được các câu hỏi về con đường cứu nước
cho Việt Nam, đó là:
“Cách mạng trước hết phải có cái gì ? Trước hết phải có Đảng cách
mệnh ….Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái
có vững thì thuyền mới chạy”[9, 267-268]
Về mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là CNXH.
Muốn xóa bỏ chế độ người bóc lột người, muốn có tự do, hạnh phúc, bình
đẳng thật sự thì phải qua hai cuộc cách mạng, cách mạng giải phóng dân tộc
và cách mạng XHCN. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau.
Về lực lượng cách mạng: Trung thành và vận dụng sáng tạo tư tưởng
của Mác-Lênin. Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy lực lượng to lớn của cách
mạng Việt Nam: Công nông là gốc của cách mệnh, học trò, nhà buôn nhỏ,
điền chủ nhỏ đều là bầu bạn của công nông. Ai mà bị áp bức càng nặng, thì

lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết. Cách mệnh là việc
chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người.


9
Nét sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc ở chỗ, không bó hẹp lực lượng cách
mạng chỉ là công nông. Đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến như ở
Việt Nam, khác với nước Nga. Lực lượng cách mạng ở Việt Nam ngoài công
nông làm nòng cốt, thì lực lượng học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ đều là
bầu bạn, đều là đồng minh với công nông; vì họ đều có kẻ thù chung đó là đế
quốc, phong kiến.
Về phương pháp và hình thức của cách mạng:
Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là cách mạng bạo lực; đồng thời,
giành chính quyền nhất thiết phải bằng con đường khởi nghĩa. Nhưng tiến
hành khởi nghĩa như thế nào là vấn đề không phải đã trả lời ngay được. Khởi
nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga là dựa vào giai cấp công nhân, tiến
hành khởi nghĩa từ thành thị về nông thôn. Khởi nghĩa của cách mạng Trung
Quốc là lấy nông thôn bao vây thành thị.
Trong Chánh cương sách lược vắn tắt, Nguyễn ái Quốc, xác định, cách
mạng phải từng bước hình thành, phát triển theo con đường khởi nghĩa vũ
trang; với con đường khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa; hình thái,
kết hợp khởi nghĩa cả nông thôn và thành thị; lực lượng khởi nghĩa, cả giai
cấp công nhân, nông dân lao động đều là chủ lực quân. Nét đắc sắc của Người
là, sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng, quân sự và chính trị; kết hợp
hai hình thức đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị; trong từng trường hợp
sử dụng cho phù hợp. Người đã chỉ ra thiếu sót của những phong trào cách
mạng trước đây là, xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức. Việc giải
phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại là công việc “to tát”, cho
nên phải “dùng hết sức”, nhưng phải “biết cách làm thì mới chóng”. Tóm lại,
là phải có sách lược, mưu chước, kế hoạch, biết lúc nào nên làm, lúc nào chưa

nên làm.
Thực tế thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã chứng minh,
với điều kiện và tình hình thực tiễn của Việt Nam lúc đó, sử dụng phương


10
pháp và hình thức cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc đưa ra phù hợp. Tiến hành
khởi nghĩa của quần chúng làm lực lượng chủ yếu, đấu tranh vũ trang là hỗ
trợ; tiến hành khởi nghĩa từ nông thôn tiến về thành thị.
Biểu hiện của tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường của
Nguyễn Ái Quốc về phương pháp và hình thức cách mạng, là không bê nguyên
xi con đường cách mạng của Nga, Trung Quốc hay nước khác, mà đã vận dụng
sáng tạo những phương pháp, hình thức đó phù hợp với điều kiện của Việt
Nam.
Về đối tượng của cách mạng: Giữa thực dân và phong kiến thì kẻ thù
nào lớn nhất và cần đánh kẻ thù nào trước ? Đây là vấn đề không phải ngay từ
đầu đã trả lời ngay được. Đảng ta có lúc xác định: tập trung đánh đế quốc, lúc
cho rằng, tiến hành đồng thời đánh đế quốc và đánh phong kiến. Nghĩa là,
ngay từ đầu Đảng chưa thể nhận thấy đâu là kẻ thù chủ yếu, trước mắt, đâu là
kẻ thù cơ bản lâu dài của dân tộc để có phương pháp, hình thức tiến hành cách
mạng, tiến hành quy tụ lực lượng phù hợp. Đến năm 1939, với Nghị quyết
Trung ương VI, câu trả lời mới đầy đủ: Đánh đế quốc và đánh phong kiến
không nhất loạt ngang nhau. Đánh đế quốc là nhiệm vụ hàng đầu, đánh phong
kiến phục vụ cho nhiệm vụ đánh đế quốc. Bởi vì, mục tiêu cao nhất của cách
mạng Việt Nam lúc này là đấu tranh giành độc lập cho dân tộc sau đó tiến
thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Về mục tiêu độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, đều là cơ bản
thiết yếu, nhưng mục tiêu nào là quan trọng hàng đầu ? Đây cũng là vấn đề
được Đảng ta và Hồ Chí Minh trăn trở, tìm tòi, đấu tranh cả trong nhận thức
và cả trong thực tiễn. Từ năm 1930-1945 đã từng bước cụ thể hóa. Đảng ta và

Hồ Chí Minh đã xem độc lập dân tộc là mục tiêu quan trọng hàng đầu. Giành
được độc lập cho dân tộc không chỉ đáp ứng được nguyện vọng cho công
nông mà còn đáp ứng được nguyện vọng cho các tầng lớp nhân dân khác.


11
Mục tiêu ruộng đất cho dân cày sẽ được giải quyết từng bước trong cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.
Như vậy, để tìm ra con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam,
Nguyễn Ái Quốc đã bôn ba hải ngoại, với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự
lực tự cường, không sao chép rập khuôn máy móc. Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tổ chức lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng tháng Tám năm
1945 thắng lợi, đưa lịch sử Việt Nam sang một trang mới.
- Tìm kiếm con đường giữ nước và giải phóng dân tộc thích hợp từ năm
1945-1975
Từ Hội nghị toàn quốc ở Tân Trào (13/8/1945), Đảng ta đã xác định
được con đường giữ nước cho dân tộc, gồm 10 chính sách lớn. Trong đó,
chính sách đối ngoại căn bản của ta là thêm ban bớt thù; hết sức tránh trường
hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc; tranh thủ được sự
đồng tình, ủng hộ của Liên Xô và Mỹ. Đảng đã khẳng định được nguyên tắc:
phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo để tiến hành giữ nước. Như Hồ
Chí Minh đã nói: đem sức ta giải phóng cho ta; chỉ có độc lập, tự chủ, sáng
tạo mới quyết định thắng lợi của cách mạng.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược:
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam Bộ. Hồ Chí Minh đã kêu gọi:
“Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”[10, 557]. Trong suốt
chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tinh thần ấy được thể hiện rõ nét:
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; vừa
kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng lực lượng.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặt ra nhiều câu hỏi cần phải
giải đáp: Cách mạng miền Nam có trường kỳ mai phục hay làm tiếp ngay
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; cách mạng miền Nam phải tiến
hành bằng con đường nào; làm thế nào giữ được hoà bình ở miền Bắc vẫn tiếp


12
tục cuộc đấu tranh thống nhất ở miền Nam mà không gây ra nguy cơ chiến
tranh thế giới lần thứ ba; cách mạng miền Bắc chờ cách mạng miền Nam
thắng lợi rồi cùng đi lên CNXH, hay vẫn tiến hành xây dựng CNXH trên
miền Bắc ? Những câu hỏi đó không thể trả lời ngay được, mà phải trải qua
quá trình cân nhắc, tìm tòi trong thực tiễn và được thể hiện ở các Hội nghị
Trung ương, đó là:
Thực hiện toàn quốc kháng chiến, cả nước đánh Mỹ; đồng thời, tiến
hành hai chiến lược cách mạng nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc.
Dùng sức mạnh tổng hợp, chiến tranh toàn dân, toàn diện, lựa chọn
phương thức tiến hành thích hợp cho toàn bộ cuộc chiến tranh và từng thời
kỳ. Đại hội IV của Đảng đã tổng kết trên 9 vấn đề có tính quy luật. Trong đó,
nét đặc sắc, nổi bật là, phải luôn luôn sử dụng hai lực lượng: quân sự và chính
trị, hai hình thức đấu tranh: đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị; tiến hành
đấu tranh quân sự song song với đấu tranh chính trị trong chiến tranh cách
mạng, nhưng không nhất loạt ngang nhau và được vận dụng sáng tạo trên
từng vùng chiến lược để có hình thức, lực lượng quân sự hay chính trị cho
thích hợp. Vùng rừng núi, đấu tranh quân sự là chủ yếu, đấu tranh chính trị là
hỗ trợ; vùng nông thôn, đồng bằng, do tương quan lực lượng giữa ta và địch
ngang nhau nên Đảng ta vận dụng đấu tranh quân sự song song với đấu tranh
chính trị; vùng thành thị, đấu tranh chính trị là chủ yếu, đấu tranh quân sự hỗ
trợ cho quần chúng nổi dậy.
Đây là những vấn đề phản ánh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của
Đảng trong lãnh đạo đấu tranh cách mạng, đưa cách mạng đi đến thành công.

Đồng chí Lê Duẩn đã nói: Sau đường lối và phương pháp cách mạng thì đòi
hỏi tư duy, sáng tạo nhiều nhất, nếu không huy động được sự sáng tạo thì
cách mạng không thể thắng được.
Cùng với những nét sáng tạo ở trên, Đảng ta đã thực hiện được ba tầng
mặt trận trong chống đế quốc Mỹ xâm lược, đó là: Mặt trận thống nhất trong


13
nước, Mặt trận liên minh ba nước Đông Dương, Mặt trận của nhân dân thế
giới đoàn kết với Việt Nam. Trong đó, Mặt trận của nhân dân thế giới đoàn
kết với Việt Nam chống đế quốc Mỹ đã thu hút được lực lượng to lớn ủng hộ
cách mạng Việt Nam, gây tiếng vang lớn phản đối chiến tranh, bảo vệ hoà
bình thế giới. Qua đó cho thấy, Đảng đã phát huy tối đa sức mạnh trong nước
và sức mạnh thời đại, giải quyết hài hòa giữa sức mạnh bên trong với sức
mạnh bên ngoài, trong đó sức mạnh bên trong là chủ yếu, quyết định; độc lập,
tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường nhưng không bài ngoại.
Đảng ta đã được xây dựng ngang tầm đòi hỏi sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhờ có sự lãnh
đạo tài tình, đúng đắn của Đảng mà cách mạng miền Nam không những
không bị tan rã bởi luật 10/59 của Diệm. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
được cài cắm sau Hiệp định Giơnevơ đã hoạt động có hiệu quả. Các tổ chức
cơ sở đảng được củng cố, kiện toàn, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Đây cũng là một nét thể hiện tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta,
khác với Đảng dân chủ nhân dân Triều Tiên lúc bấy giờ, cùng có điều kiện,
hoàn cảnh như Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng có lúc, có thời điểm, chúng ta đã quá hữu khuynh, chỉ
nhấn mạnh đấu tranh chính trị, coi nhẹ hình thức quân sự; hoặc mắc phải bệnh
dập khuôn, máy móc, bê nguyên xi nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành
cải cách ruộng đất của Trung Quốc vào Việt Nam không phù hợp, nên đã dẫn
đến những sai lầm không đáng có.

Có thể nói trong giai đoạn 1954-1975, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng
tạo, tự lực tự cường của Đảng ta được phát triển lên một tầm cao mới trong
hoạch định đường lối, tìm ra con đường đi thích hợp cho hai miền Nam, Bắc
và con đường chung cho cách mạng Việt Nam nên đã đánh thắng hai đế quốc
to là Pháp và Mỹ, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Tìm kiếm con đường quá độ thích hợp lên chủ nghĩa xã hội


14
Sau thắng lợi năm 1975, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối.
Lúc này, có ý kiến cho rằng, nên để miền Nam dừng lại khôi phục sau chiến
tranh, chứ chưa vội tiến lên CNXH như miền Bắc. Có thể nói, đây cũng là
một sự thử thách lớn đối với Đảng ta. Nhưng với sự sáng suốt, tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng và nhân dân ta quyết tâm đưa cả nước tiến lên
CNXH, đây là một quyết định đúng đắn.
Nhưng để đưa cả nước quá độ đi lên CNXH bằng hình thức, mô hình
nào ? đòi hỏi phải có câu trả lời. Thực tiễn các nước Đông Âu, sau khi kết
thúc chiến tranh đều đi lên CNXH theo mô hình của Liên Xô. Bên cạnh đó,
hàng loạt vấn đề về xây dựng CNXH trong thời kỳ mới đang đặt ra phải giải
quyết, như: con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa ?, nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng XHCN là như thế nào ?. Trong bối cảnh đó
có những người nhân danh góp ý cho Đảng là: Đảng Cộng sản Việt Nam
không nên bắt cá hai tay, không nên vừa là CNXH, vừa là nền kinh tế thị
trường, vì lợi ích dân tộc, nên theo kinh tế thị trường, có nghĩa là không thừa
nhận con đường đi lên CNXH ở nước ta. Hay có ý kiến cho rằng: Việt Nam
nên đi theo con đường tư bản chủ nghĩa để phát triển kinh tế mạnh, sau đó
xây dựng CNXH cũng chưa muộn !. Đó là những quan điểm hết sức sai trái,
phản động, lệch lạc.
Thẳng thắn nhìn vào sự thật là, trong một thời gian, chúng ta đã ảnh
hưởng tư tưởng sao chép, dập khuôn theo mô hình CNXH của Liên Xô;

không kịp thời rút kinh nghiệm công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc trong
những năm chiến tranh, nên sau khi thống nhất đất nước, chúng ta vẫn tiến
hành xây dựng CNXH theo quy luật của chiến tranh trong một thời gian dài.
Dẫn đến, nền kinh tế của nước ta lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, lạm
phát có lúc đã lên hơn 700%. Khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông
Âu sụp đổ, đã đặt đất nước ta vào những thử thách khó khăn chưa từng thấy;
bên cạnh đó, kẻ thù tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến


15
lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ; tiêu cực, tệ nạn xã hội không giảm
…Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động, hoài nghi về CNXH;
cho rằng, Liên Xô với thành tựu xây dựng CNXH hơn 70 năm còn bị tan vỡ,
huống gì đất nước ta mới xây dựng CNXH chưa đầy 15 năm.
Để lãnh đạo đất nước thoát ra khó khăn, Đại hội VI (12/1986) của Đảng
đã chủ trương đổi mới toàn diện, từng bước đưa đất nước vượt qua khó khăn,
kiên định con đường đi lên CNXH và đã giành được nhiều kết quả quan
trọng; không những đưa nước ta vượt qua khỏi khủng hoảng mà còn phát
triển đi lên, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Đại hội IX đã tổng kết: “Công
cuộc đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham
khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn
nào”[5, 81]. Đó là là một thực tế khách quan, nhưng đã con người với âm
mưu xuyên tạc, cho rằng: Trong thời điểm đó, Việt Nam vẫn phát triển bình
thường, không có dấu hiệu gì về đổi mới, mà do sức ép cải tổ, cải cách của
Liên Xô và Trung Quốc. Đó là quan điểm hết sức phản động nhằm đánh lừa
dư luận.
Qua đó, thể hiện Đảng ta có một bản lĩnh chính trị vững vàng, độc lập,
tự chủ, sáng tạo; tư duy lí luận sắc sảo trên cơ sở vận dụng đúng đắn, sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Đổi mới nhưng không rơi vào vết xe đổ của các nước khác.

Để kịp thời định hướng nhận thức, tư tưởng trong toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân, Đại hội lần thứ VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã đánh dấu
“quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta có thể hình thành những nét chủ yếu” [2, 111]. Cương lĩnh đã chỉ rõ 6 đặc
trưng và 7 phương hướng về con đường đi lên CNXH mà nhân dân ta cần xây
dựng. Tổng kết thực hiện giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, tại Đại hội IX,
Đảng ta khẳng định: “Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự


16
nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
định hướng cho mọi hoạt động của Đảng ta hiện nay và những thập kỷ tới”[5,
83]. Có thể nói, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta về CNXH đã
được phát triển lên một tầm cao mới và được khẳng định trên thực tế. Từ đây,
nhân dân ta, đất nước ta đã có một con đường rộng mở, đó là con đường đi
lên CNXH, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đại hội VII kết luận: Cương
lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của cách mạng Việt Nam từng bước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho toàn bộ mọi hoạt động của Đảng ta
hiện nay và trong tương lai; tuy còn nhiều khó khăn, thử thách, nhưng đã
tránh được mọi sự hoài nghi dao động và là vũ khí sắc bén đấu tranh có hiệu
quả với các quan điểm thù địch.
Hội nghị Đảng giữa nhiệm kỳ (khóa VII, 1/1994) đã tiếp tục làm sáng
tỏ thêm một số vấn đề quan trọng trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Hội nghị đã xác định những chủ trương, giải pháp lớn để thực hiện Nghị
quyết Đại hội VII. Vấn đề quan trọng là, Hội nghị đã đi sâu phân tích thời cơ,
thách thức và chỉ ra bốn nguy cơ, trong đó có nguy cơ “chệch hướng xã hội
chủ nghĩa”. Đồng thời, còn chỉ ra cho đất nước ta đang ở vị trí nào, giai đoạn
nào trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tránh được sự thỏa mãn dừng lại, hay

“lạc quan tếu”. Đó là: “Mặc dù còn nhiều mặt yếu kém phải khắc phục, những
thành tựu quan trọng đã đạt được đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất
nước chuyển dần sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[3, 22]
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình
đã rút ra kết luận: Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và cơ bản
hoàn thành nhiệm vụ chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, đất nước chuyển
sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội nhận định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng


17
xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi
mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa”[4, 68]
Tháng 4/2001 Đảng ta tiến hành Đại hội IX. Một trong những vấn đề
rất quan trọng là, Đại hội đã tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn về lí luận và
thực tiễn con đường đi lên CNXH ở nước ta trên một số nội dung cơ bản mà
các Đại hội trước đây chưa làm rõ. Đó là những nội dung: Về mục tiêu của
cách mạng và lý tưởng của Đảng. “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng
đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[5, 83].
Về nội dung đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đại hội
đã chỉ rõ: “Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay
là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện
công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục
những và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và
hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây
dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”[5, 86]. Cùng với

những nội dung trên, Đại hội đã xác định động lực chủ yếu của cách mạng,
xác định mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH …
Sự khẳng định trên là hết sức quan trọng trong thời điểm hiện nay. Bởi,
“Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi…Các quốc gia độc lập ngày càng
tăng cường cuộc đấu tranh để lựa chọn và quyết định con đường phát triển
của mình. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất
bại cũng như từ khát vọng và thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả
năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”[5, 14]. Đại hội tiếp tục khẳng định:


18
“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa” [5, 84].
Những nội dung cơ bản trên được Đại hội IX làm sáng tỏ, bổ sung,
hoàn chỉnh là những về lí luận và thực tiễn rất quan trọng liên quan trực tiếp
về con đường đi lên CNXH ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội đã cho
chúng ta thấy rõ hơn tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc tìm tòi, phát
triển lí luận về thời kỳ quá độ lên CNXH trên cơ sở những nguyên lí của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện thực tế Việt
Nam.
Quá độ đi lên CNXH được Đảng ta đề ra trong công cuộc đổi mới đã
đem lại những kết quả thành công rất quan trọng, nhưng “đất nước ta phải đối
mặt với nhiều thách thức”[5, 15] và bốn nguy cơ đang tồn tại. Với bản lĩnh
của người cộng sản, với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường;
cùng với sức mạnh của khối “đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”[5, 86]. Chúng ta tin
tưởng công cuộc đổi mới của đất nước sẽ đi đến thành công.
2. Ý nghĩa trong công cuộc đổi mới hiện nay
Công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo đang trên đà phát triển, đẩy

mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những thành tựu mà
đất nước ta đạt được trong 20 năm đổi mới vừa qua rất to lớn và có ý nghĩa
quan trọng. “Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình,
sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tạo điều
kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại
lực. Đó là cơ hội lớn.
Đồng thời, đất nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức. Bốn nguy cơ
mà Đảng ta từng chỉ rõ - tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ
quan liêu, “diễn biến hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra - đến nay vẫn


19
còn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem
nhẹ nguy cơ nào”. [5, 15]. “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội mới dừng lại ở những nét khái quát chung; còn không ít
vấn đề cụ thể đặt ra từ thực tiễn chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ
sức thuyết phục.
Nhiều cán bộ, đảng viên nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh còn giản đơn; hiểu biết về chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa
sâu sắc, phương pháp tư duy chưa vươn tới tầm duy vật biện chứng, còn dừng
lại ở trình độ cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm”[6, 72].
Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ
mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta. Vì vậy,
chúng ta cần:
Một là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời, Đảng phải có
một trình độ lí luận ngang tầm đòi hỏi của cách mạng Việt Nam
Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là tất yếu khách quan. Chỉ có sự
lãnh đạo của Đảng với đường lối đúng đắn thì mới phát huy được sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

và ngày nay là cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Để Đảng có đường lối đúng, nhất là trong công cuộc đổi mới, đòi hỏi
Đảng phải có một trình độ lí luận ngang tầm. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Không có lí luận cách
mệnh, thì không có cách mệnh vận động …Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”[9, 268].
Thực tiễn cách mạng thế giới và trong nước đã chứng minh tính tất yếu
Đảng phải lãnh đạo cách mạng và vận dụng sáng tạo lí luận chủ nghĩa MácLênin thì cách mạng mới thành công. Các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô
là ví dụ điển hình, do từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, từ bỏ lí luận chủ nghĩa
Mác-Lênin nên đã dẫn tới sự sụp đổ.


20
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước,
cần phải: Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đây
là vấn đề có tính nguyên tắc đối với tất cả các Đảng chân chính; bên cạnh đó,
thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực của cán bộ,
đảng viên của Đảng; thường xuyên củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; do đó cần tránh, buông lỏng vai trò
lãnh đạo của Đảng, hoặc Đảng bao biện làm thay.
Để Đảng có một trình độ lí luận ngang tầm đòi hỏi của công cuộc đổi
mới, cần phải: Mở rộng dân chủ, phát huy tự do tư tưởng, khai thác mọi tiềm
năng sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lí luận; đồng thời, giữ
nghiêm kỷ cương trong việc phổ biến kết quả nghiên cứu; bên cạnh đó, phải
tích cực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư tưởng lí luận của Đảng; thường
xuyên đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cả trong Đảng và trong
nhân dân; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện và nhận thức sai trái, như:
cán bộ đã được đào tạo lí luận cơ bản rồi thì không cần bồi dưỡng thêm làm
gì; hoặc lí luận không gắn với thực tiễn, nói không đi đôi với làm.

Hai là: Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới
Đây là vấn đề rất quan trọng quyết định sự thành bại của cách mạng
XHCN ở Việt Nam.
Đảng ta đã xác định, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; đồng thời, bốn nguy cơ
mà Đảng đã chỉ ra tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khóa VII) vẫn nguyên giá trị,
trong đó có nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Tổng kết mười năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội VIII của
Đảng nhận định: “Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối
đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng XHCN, tuy


21
trong quá trình thực hiện có một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài dẫn
đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ
khác”[4, 68]. Vì vậy, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới là vấn đề có
tính nguyên tắc, thể hiện bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường
của Đảng ta.
Để Đảng luôn kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
cần: Nắm chắc bản chất cách mạng khoa học và vận dụng sáng tạo vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam, không rập khuôn máy móc; đồng thời, phải biết
chắt lọc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của dân tộc, của nhân loại; kiên
quyết đấu tranh chống các luận điệu thù địch, bảo vệ sự trong sáng, đúng đắn
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới, điều quan
trọng hàng đầu là Đảng phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa chiến lược và sách
lược. Về chiến lược, là phải giữ vững nguyên tắc, kiên định với mục tiêu độc
lập dân tộc và CNXH. Về sách lược, phải mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo, chủ

động nắm bắt cái mới cái tiến bộ; thận trọng giải quyết những vấn đề mới nảy
sinh; nhưng không vi phạm nguyên tắc, mục tiêu; nghĩa là “dĩ bất biến, ứng
vạn biến”, nhằm giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hoà bình để đất
nước phát triển.
Đảng không được sai lầm về đường lối; phải tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước bằng pháp luật; khai thác triệt để
vai trò tích cực đi đôi với khắc phục ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu
cực của cơ chế thị trường theo định hướng XHCN; bảo đảm sự bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của mọi doanh nghiệp và cá nhân, không
phân biệt thành phần kinh tế; đồng thời, phải giữ vững độc lập, chủ quyền và
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế với bên ngoài.


22
Ba là: Đảng phải thường xuyên bám sát, nắm chắc thực tiễn thế giới và
trong nước để có đường lối lãnh đạo đúng đắn
Thực tiễn thế giới, trong nước luôn diễn ra sinh động, mau lẹ; nếu Đảng
không thường xuyên bám sát thực tiễn sẽ dẫn tới lạc hậu, xơ cứng, quan liêu
trong hoạch định đường lối.
Thực tiễn đường lối đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc và
đường lối đổi mới của Đảng được đều được xuất phát từ thực tiễn, chứ không
do ý muốn chủ quan của Đảng, nên đường lối đó luôn đúng đắn.
Ngày nay, trước xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới; chủ nghĩa tư
bản đã có sự điều chỉnh thích nghi; Đảng ta chủ trương tiến hành kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN …Vì vậy, Đảng cần phải thường xuyên bám
sát thực tiễn để có đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi
cuối cùng.
Để bám sát và nắm chắc thực tiễn, trước hết, Đảng phải có hiểu bết sâu
sắc về lí luận, có tinh thần cách mạng; đứng vững trên lập trường cách mạng
và khoa học; nắm vững nội dung của phép biện chứng duy vật, đặc biệt là tư

tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu thực tiễn.
Thứ hai, phải mở rộng dân chủ, phải trung thực với thực tiễn với chân lí
khách quan; tránh, dân chủ hình thức hoặc dân chủ quá trớn, nhất là trong lĩnh
vực nghiên cứu khoa học và phát hiện những mâu thuẫn trong thực tiễn; hoặc
biểu hiện tô hồng, hay bôi đen thực tiễn, đều trái với quan điểm của Đảng.
Thứ ba, phải rèn luyện năng lực tư duy, tư duy tích cực (nghĩa là suy
nghĩ tới nơi, tới chốn); đồng thời, phải hiểu biết kỹ càng các vấn đề cụ thể của
lĩnh vực khảo sát để có thể khái quát những thực tiễn phong phú nhưng
thường tản mạn, trở thành những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo hành động.
Thứ tư, cần có những hình thức, phương thức huy động rộng rãi các nhà
khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn cùng tham gia nghiên cứu, tổng kết
thực tiễn.


23
Hết sức tránh “làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh
lệnh, ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi
đưa ra cột vào dân chúng, bắt dân chúng làm theo”[11, 293].
Bốn là: Đảng phải thường xuyên tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm
trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng
Đây là khâu có ý nghĩa quan trọng trong quy trình lãnh đạo của Đảng,
nhằm đánh giá đúng những mặt đã làm được để phát huy, những mặt còn hạn
chế để kịp thời chấn chỉnh và bổ sung, điều chỉnh đường lối lãnh đạo, chỉ đạo
cách mạng phù hợp với thực tế.
Vì vậy, phải “coi trọng tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu lí luận và
trong hoạt động của các cấp ủy đảng; coi tổng kết thực tiễn là nhiệm vụ
thường xuyên của các cấp, các ngành; gắn nghiên cứu thực tiễn với tiếp thu
có chọn lọc những thành tựu khoa học của nhân loại”[6, 76]; đồng thời, Đảng
phải chú ý lắng nghe những ý kiến phản ánh và tình hình tư tưởng của quần
chúng nhân dân; kịp thời đúc rút những bài học kinh nghiệm để đề ra chủ

trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp hơn. Trong giai đoạn hiện nay,
Nghị quyết Trung ương Năm (khóa IX) Đảng xác định, cần tập trung nghiên
cứu 10 vấn đề, như: Kinh tế thị trường định hướng XHCN; con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; những tác động nhiều mặt của quá trình toàn cầu
hóa; đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân…..
Bốn nội dung cơ bản nêu trên có quan hệ chặt chẽ và tác động biện
chứng lẫn nhau và có ý nghĩa rất quan trọng đối với mỗi tổ chức cơ sở đảng;
vì vậy, cần vận dụng cho phù hợp với tình hình thực tế, nhằm phát huy tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường trong lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng được đề ra tại Đại hội X.
* Ý nghĩa đối với Quân đội nhân dân Việt Nam


24
Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén, là lực lượng
chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng và Nhà nước
Việt Nam XHCN và của nhân dân.
Trước hết cần quán triệt và nhận thức sâu sắc quan điểm độc lập, tự
chủ, sáng tạo, tự lực tự cường, tìm ra con phương pháp, hình thức huấn luyện
bộ đội đáp ứng với yêu cầu của cuộc chiến tranh hiện đại; đồng thời tranh thủ
sự giúp đỡ của các cấp, các ngành, của cả nước, để “xây dựng Quân đội nhân
dân… cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, có bản lĩnh
chính trị vững vàng; trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và nhân
dân”[5, 118]; đủ sức “bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi
mới và lợi ích quốc gia, dân tộc”[5, 117]; nhằm giữ vững ổn định chính trị,
quốc phòng, an ninh, tạo điều kiện cho đất nước tiến hành thành công công
cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.

Quân đội cần tích cực tham gia nghiên cứu những vấn đề lí luận phục
vụ quốc phòng, an ninh và các lĩnh vực khoa học xã hội - nhân văn; đấu tranh
làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù hòng “phi chính trị hóa quân đội”.
* Ý nghĩa đối với bản thân
Là giáo viên khoa học xã hội và nhân văn quân sự, bản thân phải luôn
quán triệt và nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của quan điểm độc lập, tự chủ,
sáng tạo, tự lực tự cường để tìm ra phương pháp, hình thức học tập, rèn luyện
thích hợp, từ đó vận dụng sáng tạo vào công tác giảng dạy, giáo dục học viên.
Thường xuyên tự mình nâng cao trình độ lí luận chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách
và luật pháp của Nhà nước; bồi dưỡng kiến thức mọi mặt để làm cơ sở vững
chắc trong công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học.


25
Trong giảng dạy, giáo dục, tuyên truyền đường lối, chính sách của
Đảng, nhiệm vụ quân đội, bản thân phải đề cao giáo dục cho học viên ý chí
độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường trong học tập, rèn luyện; đồng thời,
biết tranh thủ sự giúp đỡ của đồng chí, đồng đội, của giáo viên để không
ngừng tiến bộ; kiên quyết chống biểu hiện dựa dẫm, ỷ lại, bắt chước, rập
khuôn máy móc, học tủ, học gạo của học viên.
Trong công tác cũng như trong đời sống, bản thân phải luôn mô phạm
về tư cách, gương mẫu, độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường để học viên
noi theo.
KẾT LUẬN
Độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường tìm ra con đường thích hợp
thực hiện mục tiêu cụ thể phù hợp với điều kiện cụ thể, là một trong những
bài học kinh nghiệm có giá trị lí luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt
Nam trong mọi thời kỳ, nhất là trong tình hình hiện nay, Đảng ta lãnh đạo đất
nước tiến hành sự nghiệp đổi mới.

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần quán triệt và vận dụng sáng tạo
trong thực tiễn; đề cao tinh thần năng động, sáng tạo; đồng thời, kết hợp sự
giúp đỡ của bạn bè quốc tế; kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái
của các thế lực thù địch hòng nhằm xóa bỏ CNXH ở Việt Nam, từ bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với xã hội; những biểu hiện lệch lạc, dập khuôn máy
móc; hoặc, tư tưởng bài ngoại, không biết tận dụng sự giúp đỡ của bạn bè
quốc tế, tận dụng những kiến thức văn minh của nhân loại, đều không đúng
với quan điểm của Đảng.
Mọi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội cần quán triệt sâu sắc quan điểm
độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường, quan tâm xây dựng đơn vị vững
mạnh, sẵn sàng chiến đấu cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và
nhân dân giao phó.


×