1
CON NGƯỜI - YẾU TỐ HỢP THÀNH CHỦ YẾU CỦA HỆ THỐNG XÃ
HỘI TRONG TÁC PHẨM “CON NGƯỜI TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI”
CỦA V.G. AFANAXEP. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ
Trong lịch sử phát triển của tâm lý học từ trước tới nay,“con người”
luôn được xem là đối tượng tranh cãi của các nhà tư tưởng, các trường phái
tâm lý học. Xét tới cùng thì vấn đề con người đã được xác định, bản chất con
người và vai trò của con người trong xã hội được làm rõ trong học thuyết
khoa học Mác - Lênin. Số phận của con người và ý nghĩa của cuộc sống con
người là một vấn đề hết sức cơ bản, đang được nghiên cứu rất sâu sắc trong
tâm lý học. Bởi vì xuất phát từ vị trí và vai trò của con người trên tất cả các
lĩnh vực của xã hội, đặc biệt là con người - với tư cách là chủ thể quản lý xã
hội.
Trong những năm gần đây, vấn đề con người và chiến lược con người
được đề cập khá nhiều trong các văn kiện, trong các đại hội, hội nghị, hội
thảo…Điều đó thể hiện sự nhạy cảm đúng hướng, sự suy nghĩ phù hợp với
trào lưu, sự khởi đầu tiếp cận với những tư duy quản lý hiện đại, và nó cũng
là dấu hiệu của khúc ngoặt trưởng thành. Bởi vì con người xưa nay vẫn là mối
quan tâm hàng đầu của mọi thời đại.
Nhìn lại quá khứ để đào sâu trong những trang sử về khoa học con
người và vai trò của con người trong hệ thống xã hội, ta thấy nhiều nhà
nghiên cứu đã chỉ rõ tầm quan trọng của vấn đề con người trong quản lý như;
G. Kh. Pôpôp; Cơkhôn; Tlôpdăc v.v. Nhưng đánh giá cao hơn cả là V.G.
Afanaxep, với tác phẩm nổi tiếng “Con người trong quản lý xã hội”, trong đó
ông nhấn mạnh ngay trong phần đầu tiên của tác phẩm làm cho người nghiên
cứu phải quan tâm đó là: “Con người - yếu tố hợp thành chủ yếu của hệ thống
xã hội”.
2
Tác phẩm mà V.G. Afanaxep cho ra đời trong khi cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật phát triển như vũ bão, thành quả của nó được vận dụng vào
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính điều đó đã làm cho các học giả các
nước phương Tây cho rằng sự phát triển của khoa học kỹ thuật có thể thay thế
con người, không cần đến con người trong quản lý. Họ phủ nhận vai trò của
con người trong công tác quản lý xã hội và tuyệt đối hóa sức mạnh của khoa
học kỹ thuật. Cũng trong thời kỳ này, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên xô đã và đang thu được nhiều thành tựu hết sức to lớn trên các lĩnh vực.
Đặc biệt Đại hội Đảng cộng sản Liên xô lần thứ 15 đã thông qua một trương
trình toàn diện nhằm cải tiến hơn nữa công tác quản lý trong nước. Điều đó
cho thấy vấn đề con người và việc quản lý xã hội vẫn là nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng của xã hội trong bất kỳ chế độ xã hội nào.
Trước bối cảnh đó, V.G. Afanaxep đã viết tác phẩm “Con người trong
quản lý xã hội” nhằm khẳng định vai trò to lớn của con người trong quản lý xã
hội. Tác phẩm do nhà xuất bản CTQG tại Matxcơva xuất bản năm 1977, sau đó
được dịch sang tiếng Việt Nam và được nhà xuất bản KHXH in năm 1979.
Tác phẩm có một ý nghĩa vô cùng to lớn, bởi một mặt V.G. Afanaxep
thừa nhận sự phát triển của cuộc cách mạng KHKT và vai trò của nó đối với
sự phát triển của xã hội nói chung và lĩnh vực quản lý nói riêng. Mặt khác ông
lại không phủ nhận vị trí, vai trò của con người trong quản lý xã hội, xã hội
chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực.
Tác phẩm dày 274 trang, gồm mở đầu, 4 chương.
- Chương một; Con người xem như một hệ thống và hệ thống hoạt động
của con người.
- Chương hai ; Quản lý xem như một biến thế của hoạt động của con người.
- Chương ba: Con người xem như chủ thể quản lý.
Trong chương 1, tác giả luận giải về con người xem như là một hệ
thống hoàn chỉnh, có mối quan hệ chặt chẽ với xã hội và trong cấu trúc của xã
3
hội, chứ không như một số quan điểm phủ nhận vai trò của con người.V.G.
Afanaxep nhấn mạnh: Đối tượng của tác phẩm này là vị trí vai trò của con
người trong quản lý xã hội. Nhưng trước khi nói đến vai trò của con người
trong quản lý, cần phải làm sáng tỏ vấn đề con người là gì và điều đầu tiên là
phải xem xét con người như là thành tố của chính hệ thống xã hội. Xã hội xã
hội chủ nghĩa là một hệ thống cực kỳ phức tạp, nó tạo nên bởi các hệ thống
con có trình độ phát triển, tính phức tạp và tổ chức khác nhau. Cơ sở của xã
hội nói chung cũng mhư của các hệ thống con tạo thành xã hội nói riêng là
những thành tố vật chất, quá trình, tinh thần và con người.
Đối tượng tự nhiên được con người biến thành những phương tiện
cần thiết cho đời sống của mình. Đó là đối tượng thuộc cái gọi là “Tự
nhiên thứ hai”, như các tư liệu tiêu dùng, các công cụ lao động được con
người sử dụng trong hoạt động sản xuất. Con người là thực thể xã hội, là
một tế bào - một yếu tố chủ yếu của bất kỳ một hệ thống xã hội nào trong
xã hội, không có con người thì không có xã hội loài người.
V.G. Afanaxep nói về con người “con người cũng là một vật, một vật
có tính vật chất, tự nhiên, bởi vì con người là một sinh vật. Nhưng con người
là một bộ phận, một yếu tố hợp thành của chỉnh thể xã hội không phải do cái
bản chất sinh vật của nó, mà với tư cách là một thực thể mang tính chất cộng
đồng, tính chất xã hội”.1 Như vậy tác giả đã khẳng định vai trò, vị trí của con
người trong xã hội, con người có được tính người không phải do bẩm sinh
mà là do con người tham gia vào cuộc sống và hoạt động, trong quá trình lao
động cái thế giới đã được rất nhiều các thế hệ con người tạo ra chứ không
phải có sẵn. Khi nêu lên tính đồ vật của các yếu tố hợp thành nhất định của
chỉnh thể xã hội thì rõ ràng những yếu tố đó đều mang một chức năng xã hội
nhất định. Tất cả những cái đó không thể tách rời mối quan hệ với con người,
1
Con người trong quản lý xã hội V.G. Afanaxep tr 13. Nxb CTQG H 1979.
4
với chỉnh thể xã hội. Chức năng xã hội của các đồ vật đó nhất thiết phải được
thể hiện thông qua tính người. Thông qua mối quan hệ người - người.
Theo tác giả thì: Các quá trình xã hội - kinh tế, xã hội - chính trị, tinh
thần - tạo thành nhóm yếu tố thứ hai của chỉnh thể xã hội.
Tác giả luận giải. Quá trình xã hội là sự thay thế nối tiếp nhau giữa các
trạng thái của xã hội nói chung hoặc của các hệ con trong những khuôn khổ
của nó. Quá trình này diễn ra dưới tác động của những điều kiện bên trong và
những điều kiện bên ngoài theo một trật tự và một chiều hướng nhất định.
Mặc dù có thăng trầm nhưng mọi quá trình xã hội bao giờ cũng gắn với hoạt
động của con người, của các tập đoàn xã hội và các giai cấp. Tất cả các quá
trình xã hội, suy cho cùng, đều biểu hiện thông qua hoạt động của con người,
mặc dù chúng được thực hiện theo những quy luật khách quan.
V.G. Afanaxep cho rằng; nhóm yếu tố thứ ba mang bản chất tinh thần.
Đó là những tư tưởng xã hội tồn tại trong những con người, trong ý thức của
con người. Tư tưởng được con người sáng tạo ra, tiếp thu và truyền bá. Chính
con người được chỉ đạo bởi các tư tưởng trong hoạt động của mình, trong
quan hệ của mình với các sự vật, với các quá trình xã hội. Đằng sau các tư
tưởng bao giờ cũng là những nhu cầu nhất định của con người. Những tư
tưởng và nhu cầu của con người ở chế độ xã hội chủ nghĩa hoàn toàn khác về
chất so với chủ nghĩa tư bản. X. L. Rubinstêin viết: “Tất cả những vấn đề về
thế giới quan, mà câu trả lời về chúng phải xác định cho được rằng con
người sống như thế nào, y tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống ở đâu, măc dù đa
dạng và phong phú vô cùng, nhưng suy cho cùng đều quy về một điểm duy
nhất, một vất đề duy nhất, đó là bản chất của con người và vị trí của y trên
thế giới”.2
Trong xã hội, việc phân chia ranh giới giữa các yếu tố sự vật chỉ là
tương đối, vì chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong từng vị trí xác
2
X. L. Rubinstêin. những vấn đề của tâm lý học đại cương.M . Giáo dục học.1973,tr 382, Bản tiếng Nga.
5
định. Song tác giả chỉ rõ cho ta thấy bất kỳ yếu tố, sự vật nào cũng đều gắn bó
với con người, đều nói lên tính tích cực xã hội hoặc là kết quả của tính tích
cực xã hội của con người.
Như vậy, (tác giả khẳng định): con người xem như một thực thể xã hội,
bao giờ cũng là một yếu tố chủ yếu của bất kỳ hệ thống thực thể xã hội nào,
con người là kẻ đại diện cơ bản, cuối cùng theo nghĩa thông thường của chữ
này, cho phẩm chất của hệ thống xã hội. Con người đóng vai trò quyết định cả
trong cấu trúc, trong tổ chức nội bộ của bất kỳ hệ thống xã hội nào. Cấu trúc
xã hội - đó là một tổng hòa các quan hệ xã hội, xã hội nói chung và bất kể một
phân hệ cụ thể nào trong phạm vi của một xã hội cũng đều có cấu trúc cả, hơn
nữa, bất kể một chính thể xã hội nào, trong khuôn khổ của cái chỉnh thể toàn
bộ là cái xã hội - cũng đều có cấu trúc chung lớn hơn là cấu trúc đang thống
trị xã hội.
Tác giả chỉ rõ “Cơ cấu của cái chỉnh thể xã hội không chỉ là những
quan hệ giữa người với người. Những quan hệ thuộc các lĩnh vực đời sống xã
hội khác nhau - kinh tế và xã hội - chính trị, kinh tế và tinh thần và những
quan hệ xã hội khác nữa - đó cũng đều là những yếu tố chủ cơ cấu”.3
Cơ cấu cũng được biểu hiện cả trong quan hệ của con người với các
vật, cụ thể là với tư liệu sản xuất, tức là trong các hình thức sở hữu, là yếu tố
quan trọng nhất của cơ cấu xã hội. Tác giả nhấn mạnh: cơ cấu cũng có thể
đóng vai những quan hệ của con người với các tư tưởng, đó là các quá trình
xây dựng, lĩnh hội, truyền bá các tư tưởng bởi những tập đoàn người hoặc giai
cấp nào đấy, ví dụ như ý thức xã hội, khoa học, tư tưởng chính trị, nghệ
thuật…đều nằm trong mối quan hệ nhất định.
Con người là yếu tố chủ yếu của bất kỳ hệ thống xã hội nào, nên các
quan hệ giữa người với người mà trước hết là quan hệ sản xuất là yếu tố cơ
bản nhất trong cơ cấu của hệ thống xã hội, mỗi cơ cấu lại có những dấu ấn
3
Sđd tr 17
6
,mang đặc điểm và bản chất riêng của xã hội và trước hết bị quy định bởi
những hình thức sở hữu hiện đang thống trị trong xã hội.
Cơ cấu - V.G. Afanaxep đã chỉ rõ tính đa dạng, phong phú của nó, và
nó được biểu hiện trong những mối liên hệ và những quan hệ khác nhau, cho
nên chúng ta không được quên rằng dù các yếu tố có liên hệ thế nào trong
chính thể xã hội, dù cơ cấu biểu hiện dưới hình thức nào, thì nhất định cuối
cùng cũng phải bộc lộ thông qua hành vi của con người. Tất nhiên những
quan hệ ấy không phải bao giờ con người cũng ý thức được, lĩnh hội được,
nhưng đằng sau quan hệ ấy bao giờ cũng là con người. Chính vì vậy V.I.
Lênin viết “Nhà xã hội học duy vật lấy các quan hệ xã hội nhất định giữa
người với người làm đối tượng nghiên cứu của mình, do đó nghiên cứu những
cá nhân thực tế, nguồn gốc của hành động tạo nên các quan hệ ấy”.4
Tác giả luận giải: đằng sau cơ cấu không thể nhìn thấy con người xem
như một bản chất xã hội. Do đó không nên tuyệt đối hóa cơ cấu và xem đó là
cái gì trừu tượng, tự túc, và các vật cũng như các quá trình, các tư tưởng trong
bất kỳ cơ cấu nào cũng đóng vai trò trung gian, còn cái chính yếu trong cơ cấu
lại là những quan hệ người, người trong xã hội .
Như vậy V.G. Afanaxep khẳng định; ở bất cứ mọi nơi, mọi lúc, trong
bất kỳ hệ thống xã hội thì con người vẫn là yếu tố chủ yếu.
Đây là vấn đề hết sức cơ bản trong nghiên cứu và đánh giá của V.G.
Afanaxep, ông đã không phủ nhận yếu tố con người, mà hơn nữa trên quan
điểm đúng đắn và thái độ của mình ông lại càng khẳng định vai trò của con
người trong hệ thống xã hội. Con người ở đây không đơn thuần chỉ là số
lượng người hay sức mạnh cơ bắp hữu hạn của họ mà cái quan trọng hơn là
nguồn dự trữ phi vật chất vô hạn đó là; tư tưởng, tình cảm, ý chí, nghị lực,
trình độ kiến thức, kinh nghiệm, tính tích cực, óc sáng tạo và những yếu tố rất
“người” khác ở họ. Con người ở đây, không chỉ là những con người đơn độc,
4
V.I. Lênin, Toàn tập, t1, tr, 424, bản tiếng Nga
7
riêng lẻ, mà con nguời nằm trong mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ với một nhóm
người, một tập thể, một cộng đồng người với tất cả tâm, sinh lý muôn màu,
muôn vẻ, luôn luôn biến động, vô cùng phong phú, vô cùng phức tạp và đa
dạng trong hệ thống các quan hệ xã hội.
V.G. Afanaxep kết luận về con người và xem con người là tế bào cơ bản
và là thành tố chính của hệ thống xã hội, cho nên việc cho rằng tuyệt đối hóa
con người là điều vô cùng xa lạ đối với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Con người là “trung tâm” của hệ thống xã hội chỉ vì con người gắn liền hữu cơ
với hệ thống ấy, với các chỉnh thể xã hội mà con người nằm trong đó. Chỉ có
thông qua hệ thống xã hội thì con người mới có được bản chất xã hội của
mình.
C.Mác và F. Ăngghen viết: “con người về bản chất là một tồn tại xã
hội và chỉ có thể phát huy được bản chất của mình trong xã hội và cần phải
xem xét sức mạnh của bản chất con người không phải căn cứ vào sức mạnh
của từng cá nhân mà căn cứ vào sức mạnh của toàn xã hội”5.
Từ những quan điểm đó chúng ta lại càng thống nhất rằng; khoa học dù
có phát triển cao đến đâu, thì yếu tố con người bao giờ cũng là chủ đạo - là
yếu tố hợp thành chủ yếu của hệ thống xã hội. Nhân tố con người luôn luôn
có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý. Con người với tư cách là chủ thể
quản lý hay đối tượng quản lý, thì con người vẫn luôn luôn là chủ thể của
hành động, chủ thể của nhận thức và tác động vào thế giới khách quan. Mà
thực chất của hoạt động lãnh đạo quản lý xã hội là tác động kịp thời và có
mục đích với phương án tối ưu để kết hợp giữa điều kiện khách quan và hoạt
động chủ quan có mục đích của con người - phát huy yếu tố con người và lấy
việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của hoạt động. Do đó trong
đổi mới tư duy. Trước hết cần đổi mới tư duy trong nhận thức đối với con
người, phải tiếp cận con người theo như bản chất của nó một cách khách quan
5
C.Mác và Ăng ghen. Toàn tập. Tập 2 tr, 146, Bản tiếng Nga.
8
hơn, khoa học hơn, chính xác hơn, nhìn con người luôn xuất phát từ hai phía
bởi vì con người luôn tồn tại hai yếu tố; tự nhiên và xã hội. Trong đó con
người xã hội được hình thành thông qua hoạt động và giao tiếp, qua giáo dục
và rèn luyện, con người thể hiện mình thông qua tâm lý đạo đức và chính trị
xã hội. Nếu hiểu con người như một thực thể tự nhiên, phủ nhận hoặc coi
thường, xem nhẹ mặt xã hội con người thì lối sống và quan niệm sống thiên
về bản năng sinh vật, ngược lại, nếu chỉ thấy yếu tố xã hội, phủ nhận hoặc
xem nhẹ yếu tố tự nhiên, coi thường mặt sinh học thì dễ sa vào hiện tượng
chủ quan duy ý chí.
Lịch sử và cuộc sống dạy chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm, nếu hiểu
sai bản chất con người, nếu chỉ hiểu một chiều và tác động một mặt thì con
người và xã hội đều phải trả giá.
Xất phát từ bản chất con người và coi con người là yếu tố hợp thành
chủ yếu của hệ thống xã hội, V.G. Afanaxep đã kịch liệt lên án các quan điểm
sai trái của các nhà xã hội học tư sản hiện đại theo chủ nghĩa cá nhân, tuyệt
đối hóa cá nhân, tách con người ra khỏi đời sống xã hội, đồng thời ông đã
luận giải các quan điểm của mình hoàn toàn đúng đắn và khoa học. Ông đi từ
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin chống lại những quan điểm khác nhau
của thuyết nguyên tử luận về xã hội là thuyết đặt con người một cách vô điều
kiện vào vị trí trung tâm của hệ thống xã hội, như Xmít, Ricacđô, Rutxô và
các đại biểu khác của giai cấp tư sản đang lên lúc bấy giờ trong việc giải
quyết vấn đề quan hệ “con người - xã hội” - các nhà tiên tri ấy không muốn
hiểu rằng, con người đương thời của họ, con người tư sản, không phải là do tự
nhiên tạo nên mà là sản phẩm của lịch sử, sản phẩm của xã hội phong kiến tan
rã, đồng thời là sản phẩm của chế độ tư bản. Mặc dù hiện nay thế giới đã có
nhiều đổi thay, chủ nghĩa tư bản không còn như trước nữa, nó đang trải qua
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, và hiện nay chủ nghĩa xã hội đang trên đà phát
triển, làm xuất hiện con người mới. Song trong các quan điểm của của các
9
nhà xã hội học tư sản về vai trò và vị trí của con người trong hệ thống xã hội
vẫn chẳng thay đổi là bao. Chủ nghĩa cá nhân, sự tuyệt đối hóa con người,
việc tách con người khỏi xã hội - đó chính là cách giải quyết vấn đề quan hệ
giữa cá nhân và xã hội của các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản hiện đại.
V.G. Afanaxep đã phê phán quan điểm của F. Bataglia và những người
theo thuyết Tômát mới hiện đại không đánh giá đúng vai trò của con người,
thậm chí vẫn có quan điểm cho rằng con người là do thượng đế sinh ra theo
mẫu mực riêng của người, đồng thời thượng đế cũng ban cho con người cái
giá trị cá nhân không thể tách rời và bất khả xâm phạm, nâng con người lên
trên xã hội. Đại biểu là A.Duyxtechaim nhà tư tưởng Thiên chúa giáo Tây đức
viết: “Xuất phát từ sự thật là chỉ có con người riêng lẻ mới có một linh hồn
bất tử và có sự tiền định siêu việt; còn các tập thể xã hội thì không có linh
hồn bất tử, và chỉ được phép giải quyết những nhiệm vụ ở trần gian, trên thế
giới, có thể suy ra quyền ưu tiên của mỗi con người riêng lẻ so với các tổ
chức xã hội của con người bằng cách so sánh tự nhiên giữa các mục tiêu trần
thế với các mục tiêu trên thiên đàng”.6
Bên cạnh những tư tưởng sai trái trên, thì Frơt là người đã trừu xuất
con người ra khỏi xã hội xuất phát từ cái bản chất tâm lý của cá nhân, cá
nhân ấy lại không có tính xã hội, mà là “một cá nhân hoàn toàn cá nhân”
bị thúc đẩy bởi cái khuynh hướng bản năng tình dục, ông không phủ nhận
mối liên giữa cá nhân với xã hội, nhưng các ảnh hưởng ấy lại được quy về
những sự cấm đoán cùng những yêu cầu xã hội mà con người phải chịu đựng như
các gì xa lạ và thù địch với y. Để xoa dịu sự xung đột thường xuyên giữa các nhân
và xã hội, tâm lý của con người có một cơ chế bảo vệ đặc biệt nhằm hoặc là bảo
đảm sự biểu hiện những bản năng dưới một hình thức xã hội có thể chấp nhận
được, hoặc là dồn ép những ý muốn không được phép thực hiện vào lĩnh vực của
vô thức7.
A. Siiserheim…Das Stufenprinzip - Vol- …1954 S. 55
7. Những vấn đề lý luận của tâm lý cá nhân , tr . 286 , bản tiếng Nga
8. J. O. Heill . Modes of individualism and Colllecttiviam. Lon - don1973
6
7
10
Trong bài báo “Chủ nghĩa khoa họ và sự nghiên cứu xã hội”, F. Hâylơ, một
trong những tác giả của cuốn sách viết rằng: “Tất cả các khoa học xã hội đều là
chủ quan, tất cả đều phải dựa vào nguyên tắc chủ nghĩa cá nhân phương pháp
luận”8, vì chỉ có thể nghiên cứu các bản chất của các tập thể, của xã hội bằng con
đường phát hiện những động cơ hành động của cá nhân. Từ đó nảy sinh ra“chủ
nghĩa chủ quan triệt để và chủ nghĩa cá nhân của khoa học xã hội”. Đối tượng
nghiên cứu của khoa học ấy chỉ có thể nghiên cứu bằng phương pháp nội quan.
V.G. Afanaxep tiếp tục phê phán quan điểm của C.Pôppơ vì ông ta cũng đi
theo quan điểm của chủ nghĩa cá nhân, ông ta đã viết phần nói về “sự khốn cùng
của chủ nghĩa lịch sử”. Chủ nghĩa cá nhân của C. Pôppơ mang sắc thái lôgic hơn
là mang màu sắc tâm lý học, bởi vì ông lấy “cái lô gíc tình huống” của các biến
cố cái lô gíc và việc xây dựng các mô hình hành vi của con người với mô hình
trừu tượng dựa trên lô gíc thuần túy của sự lựa chọn, klàm cơ sở cho xã hội học.
Song điều này cũng không làm thay đổi thúc chất của vấn đề, nhất là vì lý luận xã
hội lại được kiểm tra bằng các mô hình trừu tượng này. Như vậy là chủ nghĩa cá
nhân phương pháp luận của C.Pôppơ xuất hiện dưới hình thức thuần túy nhất của
chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Tất cả các quan điểm của thuyết nguyên tử luận xã hội đều coi thường một
sự thật mà khoa học đã khẳng định rằng con người là sản phẩm của xã hội cụ thể,
của cái chế độ đã sản sinh ra nó, và con người sống và phát triển trong những
khuôn khổ của chế độ ấy. C. Mác đã khẳng định rằng: “Chúng ta càng đi sâu vào
lịch sử bao nhiêu, thì cá nhân và so đó cả cá nhân người sản xuất, càng không
phải là độc lập mà càng phụ thuộc vào một chỉnh thể rộng lớn hơn: lúc đầu cá
nhân gắn liền một cách hoàn toàn tự nhiên với gia đình và với cái gia đình đã
được phát triển thành thị tộc, rồi sau đó với công xã dưới những hình thức khác
nhau của nó, xuất hiện từ sự xung đột và dung hợp của các thị tộc, chỉ đến thế kỷ
XVIII, trong ‘xã hội dân sự’, các hình thức liên hệ xã hội khác nhau mới đóng vai
8
11
một phương tiện đối với từng cá nhân để đạt tới các mục đích riêng của nó như là
sự tất yếu bên ngoài. Song cái thời đại đã sản sinh ra quan điểm ấy - quan điểm
về một con người đơn độc, biệt lập, - lại chính là thời đại của những liên hệ xã
hội phát triển nhất (chung nhất theo quan điểm này). Con người không những
là… một động vật có sự giao tiếp , mà còn là một động vật chỉ có thể tự tách mình
ra ở trong xã hội mà thôi”9
V.G. Afanaxep nghiên cứu, đánh giá, khái quát các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, phê phán lối suy nghĩ thiển cận của các học giả tư sản về
con người và vị trí của con người trong hệ thống xã hội, và qua đó V.G.
Afanaxep cũng khẳng định rằng con người xem như một hệ thống hoàn chỉnh.
Biểu hiện cụ thể là con người là một hệ thống sinh học xã hội, nó là cái bẩm
sinh di truyền, là tiền đề vật chất không thể thiếu đối với sự hình thành các
phẩm chất tâm lý cá nhân.
Ông cũng nhấn mạnh rằng con người là một cá nhân cụ thể, là sản
phẩm của xã hội. Song sự phát triển của mỗi cá nhân là hoàn toàn khác nhau,
nó phụ thuộc vào qua trình mà cá nhân đó tham gia vào các hoạt động xã hội
ở mức độ nào, nếu con người tích cực tham gia các hoạt động xã hội thì các
phẩm chất tâm lý phát triển, ngược lại. Tác giả cũng khẳng định rằng; cá nhân
bao giờ cũng đóng vai một con người nhất định và biểu hiện rõ đời sống tinh
thần của chính mình như tư tưởng, tình cảm, thái độ, tính cách, năng lực,
những quyền lợi và cả những mục đích cao cả…Con người là một chỉnh thể
trọn vẹn không thể chia cắt được và bao giờ cũng hoạt động trong một môi
trường xã hội cụ thể và thể hiện rõ năng lực xã hội của mình - đó chính là con
người - yếu tố hợp thành chủ yếu của hệ thống xã hội.
Có thể nói rằng: Tác phẩm của V.G. Afanaxep chỉ với 274 trang, nhưng
ông đã mang đến cho chúng ta một kho tàng giá trị lớn lao cả về lý luận và
thực tiễn trong việc khẳng định vị trí vai trò của con người trong quản lý xã
9
C. Mác và F.Ăngghen. toàn tập, tập 12, tr. 710. bản tiếng Nga.
12
hội. Đây là cơ sở lý luận và phương pháp luận để cho chúng ta có hướng đi
đúng đắn trong việc tiếp cận công tác lãnh đạo quản lý bộ đội hiện nay. Đồng
thời cũng là cơ sở lý luận và thực tiễn để các nhà lãnh đạo, quản lý nói chung
và cán bộ lãnh đạo, quản lý bộ đội nói riêng thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ và quy trình của công tác lãnh đạo quản lý bộ đội.
Tác phẩm của V.G. Afanaxep là vũ khí lý luận sắc bén để chống lại các
luận điểm sai trái phủ nhận vai trò của con người trong xã hội, nhất là giai
đoạn hiện nay khi cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ.
Chúng ta đang sống trong những năm tháng đầy biến động của thế kỷ
21. Sự thay đổi mau lẹ làm đảo lộn cách suy nghĩ cũ, cách làm và thích nghi
cũ, nhưng nó cũng tạo ra những hiện tượng mới có khi đầy mâu thuẫn và đầy
nghịch lý. Chính vì vậy mà cách nhìn nhận về con người về mặt nào đó cũng
chưa thực sự đúng bản chất của nó. Muốn lãnh đạo và quản lý tốt, đòi hỏi
người cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý không những phải biết việc, mà điều
quan trọng hơn cả là là phải biết người. Biết việc đã khó, biết người lại càng
khó hơn. Đó là vì hiện nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã đạt được
rất nhiều những thành tựu rực rỡ, thì khoa học về quản lý, khoa học về con
người gần một thế kỷ nay được đông đảo các nhà khoa học bàn bạc rất nhiều
nhưng vẫn chưa có sự nhất trí đầy đủ và chưa trở thành một ngành khoa học
hoàn chỉnh. Đặc biệt ở nước ta hiện nay, vấn đề này lại càng là vấn đề phức
tạp, Do đó phải thấy và hiểu được tầm mức nhạy cảm và năng động của sự
đòi hỏi khi chuyển sang cơ chế thị trường, để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ lãnh đạo quản lý xã hội cho đội ngũ cán bộ của đảng hiện
nay.
Trong công tác lãnh đạo quản lý có nhiều mặt, nhưng suy cho cùng thì
lãnh đạo quản lý con người vẫn là cái cơ bản nhất và quan trọng nhất. Bởi vì
con người là chủ thể của hành động, chủ thể cải tạo thế giới, chủ thể sáng tạo
13
ra mọi giá trị vật chất tinh thần của xã hội, là thành phần cơ bản nhất của hệ
thống quản lý.
Trong hoạt động quân sự - yếu tố con người có vai trò cực kỳ quan
trọng quyết định mọi thắng lợi của cuộc chiến tranh. Nghiên cứu các vấn đề
có tính quy luật tâm lý của hoạt động lãnh đạo - quản lý bộ đội trong các điều
kiện khác nhau của hoạt động chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu phải dựa trên
quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin và quan điểm của V.G.
Afanaxep trong tác phẩm vừa khai thác để vận dụng linh hoạt và phù hợp với
lĩnh vực hoạt động quân sự mang tính đặc thù và đầy biến động. Do đó, muốn
lãnh đạo chỉ huy đơn vị hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ thì người chỉ huy
đơn vị - với tư cách là người lãnh đạo - quản lý phải am hiểu sâu sắc đối
tượng mà mình có nhiệm vụ lãnh đạo - quản lý. Đối tượng ấy chính là con
người và các nhóm người, tập thể quân nhân trong đơn vị. Phải làm sao cho
mỗi cán bộ, chiến sỹ có những phẩm chất nhân cách cần thiết, có năng lực và
nghệ thuật quân sự, biết phát huy và mang hết khả năng vốn có để xây dựng
đơn vị vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại - Đó cũng chính
là sự khẳng định mình là một nhân tố trong hệ thống quản lý xã hội nói chung
và trong lĩnh vực quân sự nói riêng.