Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN DIỄN đàn hợp tác KINH tế CHÂU á THÁI BÌNH DƯƠNG và một số tác ĐỘNG của nó đến đời SỐNG KINH tế, CHÍNH TRỊ ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.31 KB, 26 trang )

DIỄN ĐÀN HỢP TÁC KINH TẾ CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG
VÀ MỘT SỐ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG KINH TẾ,
CHÍNH TRỊ...
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Một trong những sự kiện quốc tế thu hút sự quan tâm của đông đảo dư
luận trong và ngoài nước, đó là “Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái bình
dương” (viết tắt là APEC), năm 2006 Việt Nam là nước chủ nhà đăng cai tổ
chức. Vậy APEC là gì, quá trình hình thành, cơ cấu tổ chức, mục tiêu nguyên
tắc hoạt động... của nó như thế nào; đồng thời, sự tham gia của Việt Nam vào
APEC cũng như những tác động của nó đến đời sống kinh tế, chính trị... ở
nước ta hiện nay ra sao? Đây là những vấn đề rất cơ bản về APEC, đòi hỏi
mỗi người, nhất là những người làm công tác nghiên cứu, quản lý kinh tế...
(trong đó có, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành kinh tế chính
trị), cần phải nghiên cứu, nắm vững để phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu,
đồng thời góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân bảo đảm việc
tham gia APEC của Việt Nam có tác động tích cực đối với sự nghiệp đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
I/ BỐI CẢNH RA ĐỜI, MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC
HOẠT ĐỘNG CỦA APEC

1- Bối cảnh và sự ra đời của APEC
- Từ những năm 60 của thế kỷ XX, ý tưởng về liên kết khu vực đã được
một số học giả người Nhật đưa ra. Năm 1965, hai học giả người Nhật là:
Kojima và Kurimoto đã đề nghị thành lập một “Khu vực mậu dịch tự do Thái
Bình Dương” mà thành viên gồm 5 nước công nghiệp phát triển và mở cửa
cho một số thành viên liên kết là các nước đang phát triển ở khu vực lòng
chảo Thái bình dương (TBD) tham gia. Sau đó, một số học giả khác, trong đó


2


có tiến sĩ Sabura Okita (cựu ngoại trưởng Nhật Bản) và tiến sĩ John Crawford
(Đại học Tổng hợp Ốt-trây-li-a) đã sớm nhận thức được sự cần thiết phải xây
dựng sự hợp tác có hiệu quả về kinh tế ở khu vực. Tư tưởng này đã thúc đẩy
những nỗ lực hình thành Hội đồng Hợp tác kinh tế TBD (PECC) năm 1980.
Chính PECC sau này đã cùng với ASEAN đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành chế độ tư vấn kinh tế rộng rãi giữa các nền kinh tế trong khu vực
cũng như thúc đẩy ý tưởng thành lập APEC.
- Cuối những năm 80, một số quan chức Chính phủ Nhật Bản, đặc biệt
là Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp lúc đó là Hajime Tamura đã gợi ý
thành lập một diễn đàn hợp tác có tính chất kỹ thuật về các vấn đề kinh tế khu
vực. Cùng thời gian đó, chính phủ Công đảng của Thủ tướng Ốt-trây-li-a Bob
Hawke đã nhận thấy được tầm quan trọng thiết yếu của mối quan hệ kinh tế,
thương mại với châu Á nên đã kịp thời nắm bắt và thúc đẩy ý tưởng về một
diễn đàn hợp tác kinh tế trong khu vực.
- Từ cuối những năm 70, đặc biệt là trong những năm 80 của thế kỷ
XX, sự tăng trưởng kinh tế liên tục với nhịp độ cao của châu Á mà nòng cốt
là các nền kinh tế Đông Á đã thu hút sự chú ý của cả thế giới. Tiếp theo sự
“thần kỳ” của Nhật Bản các nền kinh tế công nghiệp mới (NIEs), ASEAN và
đặc biệt là sự nổi lên của Trung Quốc đã biến châu Á thành khu vực phát triển
kinh tế năng động bậc nhất thế giới. Từ những năm 80, các nước châu Á luôn
dẫn đầu thế giới về tốc độ phát triển trong khi kinh tế thế giới bị suy thoái vào
đầu những năm 80. Thời kỳ này, xuất khẩu thực sự là động lực tăng trưởng
kinh tế ở các nước châu Á. Trong giai đoạn (1980 – 1992), xuất khẩu của các
nước châu Á tăng nhanh nhất thế giới, đạt tốc độ bình quân hàng năm trên
10%, so với 4% của các nước châu Âu và Mỹ la tinh và 6% của các nước
công nghiệp phát triển vốn chiếm tới 2/3 thương mại thế giới. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) vào các nước châu Á tăng mạnh, phần lớn từ Mỹ, Nhật và


3


các nền kinh tế NIEs. Tiềm lực lớn về xuất khẩu hàng hoá dịch vụ và vốn đầu
tư đòi hỏi phải có thị trường ổn định, rộng mở và hạn chế đến mức tối đa
những hàng rào ngăn trở sự lưu chuyển của hàng hoá, dịch vụ, đầu tư trong
khu vực. Do đó, hợp tác và liên kết kinh tế ở khu vực trở thành nhu cầu cấp
thiết để bảo đảm cho sự phát triển kinh tế cao và ổn định.
- Trong khi đó, xu thế toàn cầu hoá phát triển mạnh thể hiện qua sự
phân công lao động quốc tế đan xen nhau dưới tác động của những tiến bộ
KH-CN, đặc biệt là công nghệ thông tin. Việc Trung Quốc cải cách và mở
cửa càng làm gia tăng xu thế này ở châu Á - Thái Bình Dương (CA-TBD).
Trong nền kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất, thương mại, tài chính và
dịch vụ ngày càng được quốc tế hoá. Cùng với toàn cầu hoá và như một sự
ứng phó với toàn cầu hoá, xu thế khu vực hoá cũng cũng phát triển mạnh cả
về chiều rộng và chiều sâu. Từ cuối những năm 80, liên kết kinh tế khu vực ở
châu Âu và Bắc Mỹ được đẩy mạnh thêm một bước. Các nước thuộc liên hiệp
châu Âu đã thoả thuận lập ra một thị trường chung vào năm 1992 và ráo riết
lập kế hoạch cho một liên minh tiền tệ với một đồng tiền chung. Còn ở Bắc
Mỹ, tháng 1/1989 Mỹ và Ca-na-đa chính thức ký hiệp định thành lập khu vực
mậu dịch tự do song phương (CAFTA). Trong khi đó, ở CA-TBD tuy có ổn
định tương đối về chính trị và là khu vực năng động, có nhịp độ tăng trưởng
kinh tế tương đối cao nhưng chưa có một hình thức liên kết nào có tính chất
chính thức, liên chính phủ và toàn thể khu vực để đảm bảo lợi ích của các
nước trong khu vực trước sự gia tăng ngày càng mạnh của chủ nghĩa bảo hộ ở
Tây Âu và Bắc Mỹ.
- Từ những năm 70 – 80, nhất là cuối những năm 80, trong khu vực
CA-TBD đã thấy rõ xu thế là các nền kinh tế ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau
một cách chặt chẽ hơn về nhiều mặt. Chỉ riêng về thương mại, năm 1989 xuất
khẩu của các nước CA-TBD sang Mỹ chiếm 25,8% tổng giá trị xuất khẩu của



4

họ, trong khi đó xuất khẩu của Mỹ sang CA-TBD chiếm 30,5% tổng giá trị
xuất khẩu của Mỹ. Xuất khẩu của Nhật sang các nước CA-TBD chiếm 33%
tổng kim ngạch xuất khẩu của Nhật và xuất khẩu của CA-TBD sang Nhật
chiếm 9,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước này. Xuất khẩu của Nhật
sang Mỹ chiếm 34,2% giá trị xuất khẩu của Nhật và xuất khẩu của Mỹ sang
Nhật chiếm 12,3% tổng giá trị xuất khẩu của Mỹ. Sự tuỳ thuộc lẫn nhau về
kinh tế ngày càng tăng đã tạo ra một lực gắn kết, một nhu cầu phối hợp giữa
các nền kinh tế trong khu vực với nhau.
Chính sự tăng trưởng cao liên tục và phát triển của nền kinh tế ở khu
vực CA-TBD, xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá cũng như sự tuỳ thuộc lẫn
nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế đặt ra yêu cầu khách quan, cấp bách
cho việc hình thành một diễn đàn kinh tế mở rộng trong khu vực nhằm phối
hợp chính sách về các lĩnh vực kinh tế, KH-CN giữa các nền kinh tế ở CATBD, qua đó duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bảo đảm sự phát triển
bền vững của khu vực này.
Tháng 1/1989, tại Xê-un (Hàn Quốc), Thủ tướng Ốt-trây-li-a Bob
Hawke đã nêu ý tưởng về việc thành lập một diễn đàn tư vấn kinh tế cấp bộ
trưởng ở CA-TBD với mục đích phối hợp hoạt động của các chính phủ nhằm
đẩy mạnh phát triển kinh tế ở khu vực và hỗ trợ hệ thống thương mại đa
phương, 12 nước thành viên đã ủng hộ sáng kiến này. Tháng 11/1989, hội
nghị bộ trưởng ngoại giao và kinh tế của các nước trên đã họp tại Ca-bê-ra
(Ốt-trây-li-a) quyết định chính thức thành lập Diễn đàn hợp tác kinh tế CATBD (Asia – Pacific Economic Cooperation) viết tắt là APEC.
2. Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của APEC
2.1. Mục tiêu của APEC
Mục đích chung của APEC đã được xây dựng ngay từ hội nghị bộ
trưởng APEC lần thứ nhất ở Can-bê-ra (Ốt-trây-li-a) năm 1989. Do mục tiêu


5


tăng trưởng và phát triển kinh tế của khu vực đòi hỏi phải thúc đẩy hệ thống
thương mại đa phương mở, tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế
nhằm tăng cường lợi ích chung thông qua việc khuyến khích các luồng
hàng hoá, dịch vụ, vốn đầu tư và chuyển giao công nghệ giữa các thành
viên. Tại hội nghị bộ trưởng lần thứ 3 ở Xê-un (Hàn Quốc) năm 1991, đã
thông qua tuyên bố Xê-un, đặt nền móng cho sự phát triển của APEC như
một khuôn khổ hợp tác với 4 mục tiêu là:
- Duy trì sự tăng trưởng và phát triển của khu vực vì lợi ích chung
của các dân tộc trong khu vực và bằng cách đó đã đóng góp vào sự tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế thế giới.
- Phát huy các kết quả tích cực đối với khu vực và nền kinh tế thế
giới do sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế tạo ra, khuyến
khích các luồng hàng hoá, dịch vụ, vốn và công nghệ.
- Phát triển và tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở vì lợi
ích của các nước CA-TBD và các nền kinh tế khác.
- Cắt giảm những hàng rào cản trở việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ
và đầu tư giữa các thành viên phù hợp với nguyên tắc của GATT/WTO ở
những lĩnh vực thích hợp và không làm tổn hại đến các nền kinh tế khác.
Đến hội nghị cấp cao Bogor (In-đô-nê-xi-a), các nhà lãnh đạo
APEC đã tiến một bước lớn hơn hướng tới mục tiêu dài hạn về thương
mại, đầu tư tự do và mở cửa trong khu vực CA-TBD. Tuyên bố về quyết
tâm của hội nghị nhấn mạnh: chúng ta nhất trí tuyên bố cam kết hoàn
thành việc đạt được mục tiêu về thương mại, đầu tư và mở cửa trong khu
vực CA-TBD vào năm 2010 đối với các nền kinh tế thành viên phát triển
và năm 2020 đối với các thành viên đang phát triển. Có thể nói một cách
ngắn gọn mục tiêu cơ bản của APEC là: tự do hoá, thuận lợi hoá thương
mại, đầu tư và đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế và kỹ thuật



6

giữa các thành viên. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự phát triển, nhiều
mục tiêu cụ thể được bổ sung cho phù hợp trong từng giai đoạn nhất định.
2.2. Nguyên tắc hoạt động của APEC
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, hoạt động của APEC được điều tiết bởi
các nguyên tắc:
2.2.1. Nguyên tắc cùng có lợi
Tuyên bố Xê-un của hội nghị bộ trưởng lần thứ ba (1991) nêu rõ: việc
hợp tác trong APEC dựa trên nguyên tắc cùng có lợi, có tính đến sự khác biệt
trong các giai đoạn phát triển kinh tế trong các hệ thống chính trị – xã hội và
chú ý đầy đủ đến các nhu cầu của những nền kinh tế đang phát triển.
Việc duy trì nguyên tắc này đóng vai trò quyết định đối với sự phát
triển của APEC. Bởi lẽ, diễn đàn này là tập hợp các lực lượng của các nền
kinh tế rất đa dạng về điều kiện địa lý, lịch sử và văn hoá, về chế độ chính trị
– xã hội và đặc biệt có sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các thành
viên. (Chẳng hạn, sự khác biệt về thể chế nhà nước: có quốc gia thể chế nhà
nước là chế độ quân chủ như Nhật Bản, Thái Lan, Niu-di-lân...; có quốc gia là
thể chế cộng hoà liên bang như Mỹ, Nga, Ca-na-đa; quốc gia khác là thể chế
nhà nước cộng hoà như In-đô-nê-xi-a, Chi-lê...; có quốc gia là thể chế nhà
nước XHCN như Trung Quốc, Việt Nam. Phân theo thu nhập: 2 nước trong
diện thu nhập thấp là Việt Nam, Pa-pua Niu-ghi-nê; 5 nước thu nhập trung
bình trong đó có Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Phi-lip-pin; 4 nước thu nhập
trung bình cao như: Nga, Chi-lê, Ma-lai-xi-a, Mê-xi-cô; 10 nước thuộc nhóm
nước thu nhập cao. Còn phân theo trình độ phát triển thì có 6 nước trong
nhóm phát triển là Mỹ, Ca-na-đa, Nhật Bản, Nga, Ốt-trây-li-a, Niu-di-lân).
Bởi vậy, chính nguyên tắc này mà APEC có sức hấp dẫn đối với các nước
trong và ngoài khu vực.



7

Trong khi thừa nhận mối quan hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực
phải dựa trên cơ sở cùng có lợi, để phù hợp với tính đa dạng của khu vực,
nguyên tắc này cũng nhấn mạnh cần chú ý tới sự khác biệt về trình độ phát
triển, chế độ chính trị – xã hội và yêu cầu của các nền kinh tế đang phát triển.
Đó là điểm rất quan trọng trong nguyên tắc hoạt động của APEC, nhằm giải
toả mối lo ngại của một số thành viên là các nước đang phát triển rằng sự
khác biệt lớn về trình độ phát triển kinh tế, KH-CN có thể dẫn tới sự lệ thuộc
bất bình đẳng của họ vào các nền kinh tế tiên tiến hơn.
2.2.2. Nguyên tắc đồng thuận
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của hợp tác trong APEC
như tuyên bố Xê-un đã nêu rõ là dựa trên: cam kết về sự đối thoại cởi mở và
xây dựng sự đồng thuận, bình đẳng, tôn trọng quan điểm của tất cả các thành
viên tham gia.
Khác với hoạt động của GATT/WTO, trong đó các nước phải trải qua
một quá trình thương thuyết, đàm phán lâu dài và thường là gay gắt để đạt
được những thoả thuận và hiệp định có tính pháp lý quốc tế cao, APEC đi đến
các quyết định thông qua quá trình xây dựng sự đồng thuận. Tất cả các hội
nghị, từ hội nghị cấp cao đến hội nghị bộ trưởng hay cấp chuyên viên đều
mang tính chất tư vấn, theo nghĩa là các thành viên không tham gia vào những
cuộc thương lượng, mặc cả để đạt được những quyết định ràng buộc. Toàn bộ
quyết định của các nhà lãnh đạo cấp cao, các bộ trưởng đều được đưa ra trong
tuyên bố chung phản ánh ý chí của tất cả các thành viên. Nguyên tắc này là cơ
sở bảo đảm cho sự bình đẳng giữa các thành viên tham gia APEC.
2.2.3. Nguyên tắc tự nguyện
Xuất phát từ đặc điểm của các nền kinh tế thành viên và các mối quan
hệ kinh tế trong khu vực CA-TBD, sự hợp tác giữa các thành viên trong
APEC mang tính chất tự nguyện. Điều này thể hiện trước hết, APEC chỉ là



8

một diễn đàn tư vấn kinh tế, một cơ chế liên chính phủ nhằm xúc tiến sự hợp
tác, tăng trưởng và phát triển của khu vực. Thứ hai, với tính chất là một diễn
đàn tư vấn kinh tế nên APEC không đưa ra những quyết định, nguyên tắc có
tính chất bắt buộc đối với các thành viên. Mọi hoạt động hợp tác đều dựa trên
cơ sở tự nguyện phù hợp với lợi ích các bên. Sự phát triển về cơ cấu tổ chức
của APEC cho đến nay mới chỉ mang tính chất hỗ trợ cho quá trình hợp tác
trong APEC chứ không phải là mục tiêu tự thân của nó như cơ cấu tổ chức
chính trị – xã hội của khu vực (chẳng hạn như liên hiệp châu Âu - EU). Điều
này, phù hợp với đặc điểm đa dạng về chế độ chính trị – xã hội của các thành
viên APEC, vì nó cho phép trong khi khai thác được những lợi ích từ sự hợp
tác vẫn giữ được chủ quyền kinh tế, bảo đảm không có sự can thiệp từ bên
ngoài vào chế độ chính trị – xã hội của các thành viên.
2.2.4. APEC là diễn đàn mở, hoạt động phù hợp với các nguyên tắc
của GATT/WTO
APEC là một diễn đàn mở theo nghĩa APEC ủng hộ chế độ thương mại
đa phương, không tạo ra sự khác biệt hay đối xử giữa APEC với các nước và
nhóm nước khác trên thế giới, đồng thời mở cửa cho các nền kinh tế không
phải là thành viên APEC trong khu vực tham gia. Ủng hộ chế độ thương mại
đa phương không chỉ là một nguyên tắc mà còn là một trong những mục tiêu
của APEC. Điều này thể hiện rõ trong tuyên bố Xê-un (1991): một trong
những nguyên tắc cơ bản của APEC là tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ, tích cực
tới sự tiến triển của hệ thống thương mại toàn cầu, và khả năng của APEC để
thực hiện điều đó sẽ được tăng cường mạnh mẽ qua việc tự mình làm một
hình mẫu tích cực. Việc theo đuổi tự do hoá thương mại trong APEC phù hợp
với cơ sở của GATT/WTO và không làm tổn hại tới các nước khác sẽ tạo ra
sự hỗ trợ mạnh mẽ cho hệ thống thương mại toàn cầu v.v...



9

Nói tóm lại, nguyên tắc hoạt động của APEC là: bình đẳng và tôn trọng
lẫn nhau; hỗ trợ và đôi bên cùng có lợi; quan hệ đối tác chân thành và theo
tinh thần xây dựng; mọi quyết định được đưa ra trên cơ sở nhất trí chung.
3. Cơ cấu tổ chức của APEC
3.1. Cấp chính sách
3.1.1. Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC
Bắt đầu từ năm 1993, theo sáng kiến của Tổng thống Mỹ Clin-tơn,
tháng 11/1993 lần đầu tiên tại Seattle (Mỹ), 14 nguyên thủ đứng đầu các
thành viên đã gặp gỡ trao đổi về các vấn đề kinh tế trong khu vực, từ đó hội
nghị này được tổ chức đều đặn hàng năm. Đây là diễn đàn có tính quyết
định cao nhất, nơi hoạch định các chiến lược và viễn cảnh dài hạn cho
APEC.
3.1.2. Hội nghị liên bộ trưởng ngoại giao và kinh tế APEC
Tổ chức lần đầu tiên tại Can-bê-ra (11/1989). Chủ tịch hội nghị do
nước thành viên đăng cai tổ chức hội nghị đảm nhiệm.
Hội nghị có nhiệm vụ: quyết định phương hướng hoạt động của
APEC và ấn định thời gian thực hiện chương trình hành động cho năm sau.
Theo đó:
- Quyết định các vấn đề về tổ chức, xác định mục tiêu, nguyên tắc
hoạt động của APEC; thành lập các uỷ ban, hội đồng..., thành lập quỹ
APEC và quy định tỷ lệ đóng góp của các thành viên; vấn đề kết nạp thành
viên mới;
- Quyết định nguyên tắc, mục tiêu, nội dung các chương trình hành
động và đánh giá tiến trình hợp tác của APEC cũng như công tác của các
uỷ ban, các nhóm công tác;
- Xem xét và đánh giá việc thực hiện các sáng kiến của hội nghị cấp
cao các nhà lãnh đạo kinh tế;



10

- Thông qua dự thảo chương trình hành động về tự do hoá thương
mại và đầu tư, sau đó đệ trình hội nghị lãnh đạo cấp cao xem xét và quyết
định cuối cùng.
Ngoài ra, các hội nghị bộ trưởng có tính chất chuyên ngành được
triệu tập khi cần thiết để giải quyết các vấn đề cụ thể liên quan đến lợi ích
chung của các thành viên.
3.2. Cấp làm việc
3.2.1. Hội nghị quan chức cấp cao (Senior Official’s Meeting SOM). Tổ chức thường kỳ giữa hai hội nghị bộ trưởng hàng năm nhằm
chuẩn bị và đưa ra các khuyến nghị trình hội nghị bộ trưởng xem xét.
3.2.2. Uỷ ban Thương mại và đầu tư. Thành lập năm 1993, có nhiệm
vụ thúc đẩy hợp tác về tự do hoá thương mại và tạo môi trường đầu tư cởi
mở hơn giữa các nền kinh tế thành viên.
3.2.3. Uỷ ban SOM về hợp tác kinh tế – kỹ thuật. Thành lập năm 1998
nhằm hỗ trợ hội nghị quan chức cấp cao (SOM) trong việc phối hợp và quản
lý các hoạt động hợp tác kinh tế – kỹ thuật và triển khai các sáng kiến hợp
tác trong lĩnh vực này giữa các thành viên.
3.2.4. Uỷ ban Kinh tế. Thành lập năm 1994 để thực hiện việc nghiên
cứu các xu hướng và vấn đề kinh tế thông qua các chỉ số kinh tế cơ bản. Đây
là một diễn đàn thúc đẩy đối thoại giữa các nền kinh tế thành viên về các
vấn đề kinh tế, dự báo, xu hướng kinh tế trong khu vực để tạo khung cảnh
rộng hơn cho hợp tác APEC. Hoạt động của nó đóng vai trò quan trọng, hỗ
trợ cho việc soạn thảo chính sách trong các diễn đàn khác của APEC.
3.2.5. Uỷ ban Ngân sách và quản lý. Thành lập năm 1993, nhằm tư
vấn cho các quan chức cấp cao về những vấn đề ngân quỹ, quản lý và điều
hành. Uỷ ban này mỗi năm họp 2 lần vào cuối tháng 3 và tháng 7.



11

3.2.6. Hội đồng tư vấn doanh nghiệp APEC. Có nhiệm vụ nghiên cứu,
đề xuất các vấn đề liên quan đến phát triển doanh nghiệp trong APEC.
3.2.7. Các nhóm công tác. Có nhiệm vụ thực hiện các nhiệm vụ do các
nhà lãnh đạo, bộ trưởng và quan chức cấp cao giao. Hiện có 11 nhóm công
tác trên các lĩnh vực: hợp tác kỹ thuật nông nghiệp; năng lượng; nghề cá;
phát triển nguồn nhân lực; khoa học và công nghệ; bảo vệ tài nguyên biển;
doanh nghiệp vừa và nhỏ; thông tin và viễn thông; du lịch; xúc tiến thương
mại; vận tải.
3.2.8. Các nhóm đặc trách. Hiện có 3 nhóm: nhóm đặc trách về mạng
các điểm liên hệ về giới (Gender Focal-Point Network); nhóm chỉ đạo về
thương mại điện tử (Electronic commerce Steering Group) và nhóm đặc
trách về chống khủng bố (Counter-Terroim Task Force).
3.3. Ban Thư ký APEC
Thành lập năm 1992, trụ sở tại Sing-ga-po. Đứng đầu Ban Thư ký là
giám đốc điều hành (do nước giữ ghế chủ tịch APEC cử với thời hạn 1 năm),
đây là các quan chức của chính phủ mang hàm đại sứ. Một phó giám đốc điều
hành (do nước sẽ giữ chức chủ tịch APEC vào năm tiếp sau cử). Ngoài ra, Ban
Thư ký hiện có khoảng 20 giám đốc chương trình, 25 nhân viên chuyên nghiệp
từ các nước biệt phái đến. Ban Thư ký thực hiện nhiệm vụ mang tính hành
chính, phục vụ các hội nghị và theo dõi việc triển khai các dự án của APEC
4. Một số nét về hoạt động của APEC trong thời gian qua
* APEC thành lập tháng 11/1989 với 12 nước thành viên ban đầu gồm:
Ốt-trây-li-a, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Hàn Quốc, Thái Lan, Phi-líp-pin, Singga-po, Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Niu-di-lân, Ca-na-đa và Mỹ.
- Năm 1991, kết nạp thêm 3 thành viên, gồm: Trung Quốc, Hồng Kông
và Đài Loan.
- Năm 1993, có thêm 2 thành viên là: Mê-xi-cô và Pa-pua-niu-ghi-nê.



12

- Năm 1994, kết nạp thêm Chi-lê.
- Năm 1998, thêm 3 thành viên được kết nạp, gồm: Việt Nam, Liên
bang Nga và Pê-ru. Hiện APEC gồm 21 thành viên.
Theo quy chế thành viên và quan sát viên của APEC được các nhà lãnh
đạo cấp cao thông qua vào kỳ họp hàng năm tại Van-cu-vơ (Ca-na-đa) tháng
11/1997. Về cơ bản, một nước hoặc vùng lãnh thổ kinh tế muốn trở thành
thành viên của APEC phải có đủ một số điều kiện cần thiết như:
1- Vị trí địa lý: nằm ở khu vực CA-TBD, tiếp giáp với bờ biển TBD.
2- Quan hệ kinh tế:có mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các nền kinh tế
thành viên APEC về thương mại hàng hoá và dịch vụ, đầu tư trực tiếp nước
ngoài và sự tự do đi lại của các quan chức.
3- Tương đồng về kinh tế: chấp nhận chính sách kinh tế mở cửa theo
hướng thị trường.
4- Quan tâm và chấp thuận các mục tiêu của APEC: tỏ rõ mối quan tâm
mạnh mẽ tới các lĩnh vực hoạt động của APEC bằng cách tham gia vào các
nhóm công tác hoặc nghiên cứu độc lập và các hoạt động khác của APEC.
Tuy nhiên, không có mối liên quan đặc biệt nào giữa việc tham gia vào các
nhóm công tác của APEC và việc trở thành thành viên. Nếu muốn trở thành
thành viên phải hoàn toàn chấp nhận những mục tiêu và nguyên tắc cơ
bản được đề ra trong các tuyên bố và quyết định của APEC, kể cả các
nguyên tắc đồng thuận và tự nguyện.
Ngoài quy chế thành viên chính thức, APEC còn có quy chế quan sát
viên dành cho 3 tổ chức khu vực là: Ban Thư ký ASEAN, Hội đồng Hợp tác
kinh tế TBD và Diễn đàn đảo TBD. Không có quy chế quan sát viên cho một
nước hay vùng lãnh thổ riêng biệt. Quan sát viên có thể tham dự các cuộc họp
từ cấp bộ trưởng trở xuống và tham gia vào các hoạt động của APEC. Các



13

nước không phải thành viên APEC có thể được tham gia các hoạt động với tư
cách khách mời tại các nhóm công tác của APEC.
Căn cứ quy chế trên, tính từ khi thành lập (1989) đến năm 1998,
tức sau gần 10 năm, APEC đã kết nạp thêm 9 thành viên mới. Từ năm
1998 đến nay, APEC thống nhất tạm ngừng thời hạn xem xét kết nạp
thành viên mới trong 10 năm để củng cố tổ chức.
* Theo số liệu thống kê, APEC có diện tích 62.620,1 nghìn km 2.
Dân số tính đến năm 2005 là 2.647,6 triệu người, mật độ dân số 42,3
người/km 2 . GDP đạt 23.008 tỷ USD, bình quân đầu người đạt 8.739
USD. Kim ngạch xuất khẩu đạt 4.038,5 tỷ USD, bình quân đầu người
1.533,9 USD. Kim ngạch nhập khẩu 4.446,4 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) cộng dồn hết 2004 đạt 3.641,8 tỷ USD. Tổng
dự trữ quốc tế (không kể vàng) đạt 2.347,3 tỷ USD. APEC hiện chiếm
46% diện tích, 41,2% dân số, xấp xỉ 60% GDP và hơn 57% giá trị giao
dịch thương mại toàn cầu. Trong tổng số 14 nền kinh tế lớn nhất thế giới
với GDP lớn hơn 500 tỷ USD, thì có 7 nền kinh tế là thành viên của
APEC, trong đó có 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Nhật Bản.
Chỉ qua một vài số liệu nêu trên cũng chứng tỏ APEC là khu vực có vị
trí địa – kinh tế, địa – chính trị rất quan trọng trong khu vực và trên thế
giới.
II. VIỆC THAM GIA APEC CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NÉT VỀ
APEC 2006

1. Việt Nam với APEC
Trên cơ sở sự ra đời của APEC cùng với mục tiêu, nguyên tắc hoạt
động, quy chế thành viên cũng như vị trí địa – kinh tế, địa – chính trị của
APEC..., Đảng, Nhà nước ta nhận thấy, Việt Nam cần thiết, đồng thời có đủ

điều kiện để tham gia diễn đàn quan trọng này. Bởi vậy, tháng 6/1996 chúng


14

ta đã nộp đơn và đến tháng 11/1998 được kết nạp vào APEC. Quá trình tham
gia của APEC Việt Nam, mặc dù thời gian chưa dài, mới chỉ 8 năm, song sự
hoạt động cùng với những đóng góp tích cực của Việt Nam trong điễn đàn
này (cho đến 2005): đưa ra sáng kiến thành lập quỹ hỗ trợ APEC cho các
doanh nghiệp nhỏ và xúc tiến đầu tư nội khối APEC (2003); tổ chức tuần lễ
APEC tại Hà Nội để mở rộng hơn sự hiểu biết của các tầng lớp nhân dân Việt
Nam vào các hoạt động của APEC(2003); bảo trợ cho các sáng kiến tăng
cường hoạt động của APEC nhằm sẵn sàng đối phó với dịch cúm gia cầm và
dịch sát, đồng thời tham gia chương trình thẻ thông hành doanh nghiệp tạo sự
đi lại thuận lợi trong khu vực của các doanh nhân Việt Nam và các thành viên
APEC khác (2005)... được các thành viên APEC ủng hộ và đánh giá cao, đã
khẳng định rõ vai trò của Việt Nam trong APEC. Đáp lại, là những cơ hội mà
APEC đã đem đến cho Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế là khá ấn
tượng, nhất là trên các lĩnh vực đầu tư, thương mại và dịch vụ. Điều đó chứng
tỏ, việc tham gia APEC là chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, phù
hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế đang diễn ra một cách mạnh mẽ hiện nay.
2. Một số nét về APEC lần thứ 14 tại Việt Nam 2006
Theo quy định, hội nghị APEC được tổ chức hàng năm và do các nước
thành viên luôn phiên đăng cai đảm nhiệm. Tính từ khi thành lập (1989) đến
2005, APEC đã tiến hành 13 hội nghị. Năm 2006 là hội nghị lần thứ 14 của
APEC mà Việt Nam là nước chủ nhà. Đây là sự kiện quốc tế lớn nhất từ trước
tới nay được tổ chức tại Việt Nam. Việc tổ chức thành công hội nghị lần này
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc khẳng định và nâng cao vị thế của
Việt Nam không chỉ trong APEC mà cả trên trường quốc tế. Khác với các kỳ

họp APEC trước đây với các sự kiện chỉ tập trung trong vòng 1 tháng quanh
hội nghị thượng đỉnh, APEC năm 2006 được tổ chức với khoảng hơn 100


15

cuộc họp diễn ra cả năm tại nhiều thành phố lớn trên phạm vi cả nước, kỳ họp
đầu tiên bắt đầu từ 20/2 và kết thúc bởi tuần lễ cấp cao APEC (từ 1219/11/2006) tại Hà Nội. Bởi vậy, để bảo đảm cho việc tổ chức thành công
năm APEC 2006, từ năm 2005 Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập
Uỷ ban quốc gia APEC 2006 do nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan làm Chủ
tịch (nay chức này được giao cho Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao
Phạm Gia Khiêm đảm nhiệm); 2 Phó Chủ tịch gồm (nguyên Bộ trưởng Ngoại
giao Nguyên Dy Niên và Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển); và 5
tiểu ban gồm (tiểu ban nội dung, tiểu ban an ninh, tiểu ban hậu cần, tiểu ban lễ
tân và tiểu ban tuyên truyền) mà thành viên là lãnh đạo các bộ, ngành có liên
quan đảm nhiệm. Uỷ ban này có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ trong
việc tiến hành công tác chuẩn bị và tổ chức các hoạt động của APEC tại Việt
Nam 2006.
Với chủ đề: “Hướng tới một cộng đồng năng động vì sự phát triển
triển bền vững và thịnh vượng”, năm APEC Việt Nam 2006 bao gồm rất
nhiều các hoạt động, trong đó tuần lễ cấp cao APEC 2006 là một trong những
sự kiện quan trọng nhất. Cho đến trước hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo
kinh tế APEC, hàng loạt các hội nghị của các uỷ ban, các quan chức cấp cao
(SOM) và hội nghị của các bộ trưởng (tài chính, du lịch, doanh nghiệp...) đã
điễn ra trên các địa bàn: Quảng Ninh, Hà Nội, Đà Nẵng, Quảng Nam, Thành
phố Hồ Chí Minh v.v... Mặc dù địa bàn tổ chức các hội nghị trải rộng trên
phạm vi cả nước, công tác bảo đảm gặp nhiều khó khăn (nhất là hội nghị bộ
trưởng du lịch được tổ chức tại Hội An – Quảng Nam ngay sau bão chan-chu
vừa đi qua), song với sự cố gắng nỗ lực cao của Việt Nam cũng như của các
thành viên APEC, các hội nghị này đều diễn ra theo đúng kế hoạch và thành

công tốt đẹp. Trong đó, đáng chú ý là, nhiều hội nghị có quy mô khá lớn với
số đại biểu tham gia lên tới hàng ngàn người (như: hội nghị quan chức cấp


16

cao SOM II tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh từ 22-29/5 với 1000 đại biểu
tham gia, trong đó có 800 đại biểu nước ngoài; hay SOM III, diễn ra từ 0617/9 tại Đà Nẵng và thị xã Hội An, với sự tham gia của 1.300 đại biểu). Đây
chính là các hội nghị chuyên ngành nhằm chuẩn bị các nội dung đệ trình hội
nghị các nhà lãnh đạo thảo luận đưa ra quyết sách về kế hoạch Hà Nội thực
hiện lộ trình Bu san hướng đến mục tiêu Bogor do Việt Nam chủ trì đề xuất.
Riêng về tuần lễ cấp cao APEC diễn ra tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 1219/11/2006. Mặc dù với thời gian không dài, chỉ diễn ra trong vòng một tuần,
song có thể nói đây là một trong những sự kiện quan trọng nhất của APEC
nói chung và năm APEC Việt Nam 2006 nói riêng. Với 17 sự kiện, trong đó
có: Hội nghị quan chức cấp cao APEC kỳ tổng kết (CSOM), Hội nghị liên Bộ
trưởng Ngoại giao - Kinh tế lần thức 18 (AMM 18), Hội đồng Tư vấn kinh
doanh APEC (ABAC), Diễn đàn đầu tư APEC 2006, Diễn đàn Xúc tiến
thương mại và đầu tư với Việt Nam, Hội nghị cấp cao các Tổng giám đốc
doanh nghiệp APEC (CEO-Summit) và Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế
APEC (AELM) v.v…
Tham gia tuần lễ cấp cao APEC, có khoảng hơn 10.000 ngàn khách
quốc tế, hơn 1.500 phóng viên nước ngoài, 500 phóng viên trong nước,
khoảng 1.200 chủ doanh nghiệp đến từ các nước thành viên APEC. 21 trưởng
đoàn APEC 2006, trong đó (các đoàn do chủ tịch nước làm trưởng đoàn gồm:
Việt Nam, Trung Quốc; do tổng thống làm trưởng đoàn gồm: Mỹ, Nga, Chi
lê, In-đô-nê-xi-a, Hàn Quốc, Phi-lip-pin; do thủ tướng làm trưởng đoàn gồm:
Thái Lan, Xin-ga-po, Niu Di-lân, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Ca-na-đa, Ốt-trây-lia và Pa-pua Niu-ghi-nê; đoàn Pê-ru do phó tổng thống thứ nhất làm trưởng
đoàn; đoàn Mê-hi-cô trưởng đoàn là Bộ trưởng kinh tế; đoàn Hồng Kông là
Trưởng đặc khu hành chính và đoàn đài Loan là Chủ tịch công ty sản xuất
thiết bị bán dẫn.



17

Cùng với việc tham gia vào các nội dung của tuần lễ cấp cao APEC,
nhiều các cuộc gặp song phương, đa phương diễn ra giữa các nguyên thủ các
nước. Trong đó, có 5 chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của: Tổng
Bí thư, Chủ tịch Trung quốc Hồ Cẩm Đào; Tổng thống Mỹ George Bush;
Tổng thống Nga Pu tin; Thủ tướng Nhật Bản Shino Abe và Thủ tướng Chi lê
Michelle Bachelet. Các cuộc gặp song phương, đa phương giữa: Nhật Bản Mỹ; Nhật Bản - Mỹ - Hàn Quốc; Trung Quốc - Mỹ; Nga - Mỹ và ASEAN Mỹ để trao đổi và giải quyết những vấn đề các bên quan tâm. Cũng trong thời
gian này, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã có trên 30 cuộc tiếp song phương với
lãnh đạo các nền kinh tế thành viên APEC, riêng Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng có khoảng 20 cuộc gặp song phương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Bộ Ngoại giao Phạm Gia khiêm có 12 cuộc gặp song phương, đa phương.
Trong tuần lễ cấp cao APEC diễn ra tại Hà Nội, đồng chí Vũ Khoan
đặc phái viên của Thủ tướng được cử làm tổng chỉ huy. Chỉ riêng việc bảo
đảm an ninh, đi lại của các đại biểu, Ban Tổ chức đã phải huy động hàng ngàn
cảnh sát, gần 1000 ô tô các loại và khoảng 500 tình nguyện viên đến từ các
trường đại học (Học viện Quan hệ quốc tế, Đại học Thương mại và Đại học
Ngoại ngữ - nay là Đại học Hà Nội).
Đáng chú ý, trong tuần lễ cấp cao APEC, đã có hàng chục hiệp định,
thoả thuận, hợp đồng hợp tác giữa Việt Nam với các nước được ký kết với trị
giá nhiều tỷ đô la. Với Trung Quốc, Việt Nam đã ký 10 hiệp định, văn bản
hợp tác với tổng trị giá 3 tỷ USD. Riêng tại Diễn đàn xúc tiến thương mại và
đầu tư với Việt Nam, đã có 8 hợp đồng, văn bản, dự án giữa doanh nghiệp
Việt Nam với các đối tác, tổng trị giá gần 2 tỷ USD.
Chiều ngày 19/11/2006, tuần lễ cấp cao APEC kết thúc và năm APEC
Việt Nam 2006 đã khép lại. Các nhà lãnh đạo APEC đã nhất trí thông qua
Tuyên bố Hà Nội với 3 nội dung chính là: thúc đẩy tự do thương mại và đầu



18

tư; tăng cường an ninh con người và xây dựng các xã hội vững mạnh hơn và
một cộng đồng năng động hài hoà, đã đánh dấu sự thành công tốt đẹp của
tuần lễ cấp cao nói riêng, năm APEC Việt Nam 2006 nói chung. Với tư cách
chủ nhà, Việt Nam đã đề xuất hai nội dung chính: đẩy mạnh thương mại và
đầu tư trong một thế giới đang thay đổi (trong đó có việc sớm khởi động lại
vòng đàm phán Đô ha, đưa ra chương trình hành động Hà Nội nhằm thực hiện
lộ trình Bu-san, hướng đến mục tiêu Borgo); những nhân tố cơ bản bảo đảm
tính năng động, sự tăng trưởng và phát triển bền vững trong APEC (trong đó
có việc cải cách APEC theo hướng: nâng cao năng lực của Ban Thư ký, cải
tiến hoạt động của các nhóm công tác và các nhóm chuyên đề của APEC;
tăng cường tính liên kết ngang giữa các thành viên, xây dựng chương trình
hành động có trọng tâm, trọng điểm, xác định thức tự ưu tiên hợp tác trong
APEC) v.v…. Đồng thời, cùng với việc tổ chức thành công Hội nghị APEC
lần thứ 14 đã khẳng định rõ vai trò, vị trí của Việt Nam trong APEC cũng như
trên trường quốc tế và để lại những tình cảm tốt đẹp không chỉ với các thành
viên APEC mà cả các nước khác trên thế giới.
Nói về kết quả của năm APEC Việt Nam 2006, Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết đã khẳng định: Việt Nam đã thành công trong việc tổ chức thành
công hội nghị APEC và thành công trong quảng bá hình ảnh của mình. Trong
thông điệp gửi APEC 2006, Thủ tướng Ốt-trây-li-a Jhon Howard - chủ tịch
APEC 2007 đã nói: Đối với Ốt-trây-li-a, Việt Nam là một đối tác quan trọng
và lâu dài cả trên bình diện song phương và khu vực. Ốt-trây-li-a mong sẽ
tiếp tục nối những nỗ lực của Việt Nam và đón chào tất cả các thành viên APEC
trong năm 2007 với tình cảm nồng ấm như Việt Nam đã thể hiện trong năm nay.
III. MỘT SỐ TÁC ĐỘNG CỦA APEC ĐẾN ĐỜI SỐNG KINH TẾ, CHÍNH
TRỊ... Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


1. Những tác động tích cực


19

Như đã trình ở trên về APEC, từ bối cảnh ra đời, mục tiêu, nguyên tắc
hoạt động cũng như vị trí địa – kinh tế, địa – chính trị của APEC cho thấy,
APEC là một diễn đàn kinh tế có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
của khu vực CA-TBD nói riêng, của toàn thế giới nói chung. Đối với nước ta
cũng vậy, việc tham gia APEC là một tất yếu phù hợp với yêu cầu của công
cuộc đổi mới đất nước và xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá đời sống kinh tế thế
giới hiện nay. Việc tham gia APEC đương nhiên có tác động đến mọi mặt đời
sống của đất nước cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng – an ninh QP-AN)....
Có thể thấy điều này trên một số điểm cơ bản sau:
Về kinh tế, đây là một trong những tác động tích cực đễ nhận thấy nhất
trong quá trình tham gia APEC của Việt Nam. Tuy mới gia nhập APEC được
8 năm nhưng quan hệ kinh tế Việt Nam – APEC đã có bước phát triển khá ấn
tượng, đặc biệt là trên các lĩnh vực đầu tư, thương mại và dịch vụ.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các thành viên APEC vào Việt Nam
tính từ năm 1998 đến hết tháng 9/2006 có 6.527 dự án, với tổng số vốn đăng ký
mới và bổ sung lên đến 49.391,5 triệu USD, chiếm 83,1% về tổng số dự án và
chiếm 69,2% về tổng số vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian tương ứng. Trong
số 14 nước và vùng lãnh thổ đầu lớn nhất vào Việt Nam (trên 1 tỷ USD) thì APEC
có 10. Chỉ với 10 nước và vùng lãnh thổ này, lượng vốn đầu tư đăng ký đạt
47.273,3 triệu USD, chiếm 95,7% trong APEC và chiếm 66,2% tổng số vốn FDI
vào Việt Nam. Đồng thời, APEC cũng là diễn đàn có lượng vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) lớn nhất cho Việt Nam (trong đó có Nhật Bản).
- Xuất khẩu của của Việt Nam vào APEC khá lớn, riêng năm 2005 chiếm
71,6% tổng kim ngạch xuất khẩu sang tất cả các nước trên thế giới (trong 7 nước
nhập khẩu lớn nhất – trên 1 tỷ USD của Việt Nam, thì APEC có 5), trong đó: Mỹ

5.930,5 triệu USD, Nhật Bản 4.411,2 triệu USD, Trung Quốc 2.961 triệu USD, Ốttrây-li-a 2.570,2 triệu USD và Sing-ga-po 1.808,5 triệu USD). Chỉ 5 nước này đã


20

đạt 17.681 triệu USD, chiếm 76,1% APEC và chiếm 54,5% tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam.
- Nhập khẩu của Việt Nam từ APEC cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất: năm
1995 là 6,5 tỷ USD chiếm 79,6%; năm 2000 là 13 tỷ USD chiếm 81,3%; năm 2002
đạt 15,8 tỷ USD chiếm 80%; năm 2003 đạt 20,1 tỷ USD chiếm 79,4%; năm 2004
đạt 25,7 tỷ USD chiếm 83,8% và năm 2005 đạt 29,9 tỷ USD chiếm 80,7%. Trong
đó, đáng lưu ý là trong số cả 8 quốc gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam nhập khẩu
trên 1 tỷ USD đều là thành viên APEC.
- Trong lĩnh vực du lịch, lượng khách quốc tế đến Việt Nam từ APEC cũng
luôn giữ vị trí dẫn đầu với khoảng 80% tổng khách nước ngoài. Số nước và vùng
lãnh thổ thuộc APEC có lượng khách đến Việt Nam đông nhất phải kể đến là:
Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan....
Cùng với những tác động tích cực trong lĩnh vực đầu tư, thương mại và dịch
vụ, việc tham gia APEC của Việt Nam còn có tác động tích cực đến việc thúc đẩy
nhanh quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. Bởi lẽ, một mặt là do mục
tiêu của APEC có nét tương đồng với WTO, mặt khác quan trọng hơn là nhiều đối
tác lớn cần phải thực hiện đàm phán song phương (Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Ốttrây-li-a, Ca-na-đa... ) đều là thành viên APEC. Hơn nữa, việc tham gia APEC còn
là cơ hội tốt để Việt Nam giới thiệu với bạn bè quốc tế về tiềm năng, chính sách
phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước ta, nhằm thu hút, mở rộng đầu tư, hợp tác
của các đối tác nước ngoài cho phát triển kinh tế đất nước, đồng thời nó còn giúp
cho các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện mở rộng liên doanh, liên kết, tiếp cận
với công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các thành viên APEC
để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất, kinh doanh đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế v.v... Tất cả những điều đó có ý nghĩa quan trọng góp phần



21

sớm hiện thực hoá các mục tiêu kinh tế của thời kỳ quá độ và rút ngắn khoảng cách
phát triển giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Về chính trị, bên cạnh những tác động tích cực đối với phát triển kinh tế, việc
tham gia APEC của Việt Nam có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Đó là, cùng với việc
tham gia APEC và gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là một thực tiễn
sinh động minh chứng cho quan điểm, đường lối đối ngoại cũng như phát triển kinh
tế đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta. Đó là, chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá
và chủ động hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế. Điều này sẽ giúp cho cộng đồng
quốc tế có sự nhìn nhận đúng đắn hơn về Việt Nam cả về mục tiêu cũng như chủ
trương, chính sách phát triển, từ đó xây dựng mối quan hệ gắn bó hơn giữa Việt
Nam và cộng đồng quốc tế, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho quá trình phát
triển đất nước. Điều quan trọng hơn, là thành viên của APEC, Việt Nam có uy tín
hơn và tiếng nói có trọng lượng hơn trên trường quốc tế, đồng thời đây là cơ hội
quý để Việt Nam thực hiện các cuộc gặp song phương cấp cao và để tham gia vào
việc quyết định các vấn đề quan trọng của khu vực và trên thế giới. Mặc dù không
phải là nguyên nhân trực tiếp, song việc tham gia APEC cũng như là thành viên của
WTO vừa qua là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy để nhóm các nước
châu Á nhất trí cao việc đề cử Việt Nam để bầu là thành viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 (điều mà chúng ta đã tham
gia ứng cử từ năm 1997). Rõ ràng, những gì mà Việt Nam đã và đang làm, trong đó
có việc tham gia APEC ngày càng khẳng định và nâng cao vị thế của nước ta trong
khu vực và trên trường quốc tế, làm cho cộng đồng quốc tế biết đến hình ảnh của
Việt Nam không chỉ trong chiến đấu, mà còn rất năng động, sáng tạo trong xây
dựng, phát triển đất nước.
Về xã hội, việc tham gia APEC sẽ tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho
sản xuất, trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam với các thành viên APEC, trong đó có

những nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Đây là cơ hội tốt cho việc mở rộng giao


22

lưu quốc tế cũng như việc thụ hưởng những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tiến tiến
đối với mỗi người dân, góp phần nâng cao đời sống và ngày càng gắn kết hơn giữa
các thành viên trong cộng đồng khu vực, quốc tế bảo đảm ổn định cho thực hiện
mục tiêu hoà bình và tiến bộ xã hội.
Đối với quốc phòng – an ninh, là lĩnh vực vốn phụ thuộc và chịu sự chi phối
mạnh mẽ của kinh tế, bởi vậy việc tham gia APEC của Việt Nam có tác động lớn
đối với phát triển kinh tế đất nước, đương nhiên dù trực tiếp hay gián tiếp đều có tác
động đến củng cố QP-AN.
Trước hết, việc tham gia APEC có tác dụng tăng cường tự do thương mại,
đầu tư, hợp tác chuyển giao công nghệ, phát triển doanh nghiệp v.v... giữa các thành
viên APEC. Điều này có tác tích cực thúc đẩy nền kinh tế phát triển làm cho tiềm
lực kinh tế của nước ta được tăng cường, đây là cơ sở quan trọng cho xây dựng
củng cố tiềm lực QP-AN.
Thứ hai, việc tham gia APEC cũng như các tổ chức khu vực, quốc tế khác
góp phần tạo mối liên hệ, gắn bó chặt chẽ giữa Việt Nam với các thành viên khác
trong khu vực cũng như cộng đồng quốc tế, tránh được sự bao vây, cô lập. Điều
này, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, một mặt góp phần tạo môi trường hoà bình, ổn
định cho sự phát triển của đất nước, mặt khác nó tạo nên sự đan xen lợi ích giữa
nước ta với các nước khác (trong đó có những nước từng là đối tượng của Việt
Nam trong các cuộc chiến trước đây) trong việc gây chiến, hoặc gây mất ổn định
làm ảnh hưởng đến lợi ích công dân nước họ. Bên cạnh đó, việc tham gia APEC
của Việt Nam còn có ý nghĩa quan trọng là góp phần tuyên truyền, quảng bá sâu
rộng trong khu vực và trên thế giới về chủ trương, đường lối, chính sách kinh tế,
ngoại giao, văn hoá... của Việt Nam, làm cho các nước cũng như các vùng lãnh thổ
trên thế giới hiểu rõ hơn về Việt Nam. Điều đó, thực sự góp phần làm thất bại âm

mưu xuyên tạc, kích động, gây chia rẽ giữa cộng đồng quốc tế với Việt Nam của
các thế lực thù địch, phản động. Ngoài ra, trước yêu cầu thực tiễn, việc hợp tác


23

trong APEC bên cạnh mục tiêu chính là thúc đẩy tự do hoá thương mại, đầu tư thì
các vấn đề mang tính khu vực, toàn cầu (như: dịch bệnh, nghèo đói, chống khủng
bố...) cũng từng bước được đưa vào trong chương trình nghị sự của APEC. Tất cả
những vấn đề đó, trên từng khía cạnh cụ thể đều có tác động tính cực đến củng cố
QP-AN, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hiện nay.
2. Những tác động tiêu cực
Cần phải thấy rằng, việc tham gia APEC của Việt Nam, đi đôi với những tác
động tích cực cũng sẽ đặt ra không ít những vấn đề mà chúng ta cần phải quan tâm
và nỗ lực giải quyết trên tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế đến chính trị, ngoại giao, văn
hoá và QP-AN.
Trước hết, trong công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân hiện nay, nếu không được quan tâm đúng mức sẽ dễ dẫn đến
nhận thức, tư tưởng lệch lạc, đề cao lợi ích vật chất, coi nhẹ lợi ích văn hoá, QPAN. Đặc biệt là ý thức cảnh giác cách mạng, ý thức về kết hợp kinh tế với QP-AN
trong các hoạt động đời sống xã hội sẽ dễ bị xem nhẹ. Việc lầm lẫn giữa đối tượng,
đối tác cũng như tư tưởng tuyệt đối hoá “hợp tác” mà quên đi “đấu tranh”, đồng
thời chỉ thấy mặt thuận lợi mà không thấy hết những khó khăn, thách thức trong
quá trình hội nhập... cũng sẽ xuất hiện nếu công tác giáo dục, tuyên truyền không
được thực hiện có hiệu quả. Đây là điều rất nguy hiểm và gây hậu quả khó lường
đối với việc thực hiện hai nhiệm chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ hai, tham gia APEC trong điều kiện trình độ kinh tế, năng lực cạnh
tranh... của nền kinh tế đất nước nói chung, của các doanh nghiệp Việt Nam nói
riêng còn nhiều hạn chế, bất cập, trong khi đó APEC lại bao gồm trong đó nhiều
nền kinh tế lớn với trình độ phát triển cao, trong đó có cả những nền kinh tế đứng
nhất, nhì thế giới (Mỹ, Nhật Bản). Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với các

doanh nghiệp Việt Nam khi phải cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế khổng lồ của
các thành viên APEC. Bởi lẽ, đa số các doanh nghiệp của Việt Nam thuộc diện


24

doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm tới 96% trong tổng số doanh nghiệp của cả nước),
hầu hết mới thành lập trong quá trình đổi mới nên năng lực, kinh nghiệm phát triển
còn hạn chế, nhất là đối với các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình đổi mới, sắp
xếp lại đang còn gặp nhiều khó khăn. Đáng chú ý là, cùng với sự tăng lên trong quá
trình tự do hoá thương mại, đầu tư trong APEC, chúng ta cũng từng bước phải mở
cửa các lĩnh vực vốn trước đây đều do nước độc quyền nắm giữ. Do đó, nếu không
có biện pháp thích hợp sẽ dẫn đến sự phá sản của nhiều doanh nghiệp là điều khó
tránh khỏi làm ảnh hưởng đến tiềm lực kinh tế của đất nước, đồng thời, việc xây
dựng củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước nhằm định hướng XHCN đối
với nền kinh tế cũng sẽ gặp không ít khó khăn.
Thứ ba, trong APEC có sự đa dạng cả về thể chế nhà nước cũng như trình độ
phát triển giữa các thành viên. Trong đó, Việt Nam vừa là nước có trình độ phát
triển thấp nhất, lại vừa là một trong hai nước có thể chế chính trị khác biệt so với
các thành viên còn lại. Do đó, nếu không chú ý đầy đủ đến mục tiêu phát triển của
mình, sẽ dễ dẫn đến việc bị chi phối, cuốn hút bởi lợi ích kinh tế thuần tuý, mà sao
nhãng các lợi ích về văn hoá, xã hội, QP-AN..., đặc biệt, trong điều kiện hiện nay
khi các thế lực thù địch, phản động đang ra sức lợi dụng quá trình đổi mới, hội nhập
kinh tế khu vực, quốc tế nhằm thúc đẩy quá trình “tự do hoá”, “tư nhân hoá”, làm
tăng nguy cơ lệ thuộc của nền kinh tế nước ta vào nước ngoài và dễ chệch hướng
mục tiêu XHCN trong quá trình phát triển. Hơn nữa, trong điều kiện tự do hoá
thương mại, đầu tư và giao lưu giữa các thành viên phát triển mạnh cũng dễ làm
cho việc giữ gìn bí mật quân sự, bí mật quốc gia cũng như việc bố trí thế trận của
nền quốc phòng toàn dân của chúng ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Đó là chưa kể đến những tình huống khó xử khác liên quan trực tiếp đến bảo đảm

QP-AN của đất nước khi thực hiện nhiệm vụ hợp tác chống khủng bố... Tất cả điều
này sẽ gây những ảnh hưởng không nhỏ đến việc giữ vững định hướng XHCN


25

trong quá trình phát triển, và đương nhiên liên quan đến nó là việc hiện thực hoá các
mục tiêu trong thời kỳ quá độ của Việt Nam cũng sẽ gặp không ít khó khăn v.v...
Tóm lại, sự ra đời của APEC là một tất yếu khách quan phù hợp với quy luật
và xu thế thời đại, đồng thời mục tiêu, nguyên tắc, cơ cấu tổ chức hoạt động của
APEC là phù hợp với điều kiện thực tiễn của khu vực nói chung và thực tiễn Việt
Nam nói riêng. Cùng với quá trình đó, việc tham gia của Việt Nam vào APEC cũng
là một tất yếu. Tuy nhiên, tham gia vào diễn đàn này bên cạnh những cơ hội lớn
cho phát triển kinh tế cũng đặt ra không ít những thách thức đòi hỏi phải cố gắng nỗ
lực cao để có thể vượt qua, bảo đảm việc tham gia APEC của Việt Nam có tác động
tích cực đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặc dù vậy, kết quả của
quá trình này như thế nào còn phụ thuộc rất lớn vào sự lãnh đạo của Đảng, vai trò
quản lý, điều hành của Nhà nước cùng ý thức, tinh thần trách nhiệm cao của các
ngành, các cấp, các địa phương và của mỗi người Việt Nam.
Những nghiên cứu trên về APEC, nhất là những tác động của nó đến đời
sống kinh tế, chính trị, QP-AN của Việt Nam với tư cách là thành viên của APEC
mới chỉ là những nét rất cơ bản. Bởi vậy, trong thời gian tới vấn đề này cần được
tiếp tục theo dõi, đầu tư, nghiên cứu làm rõ hơn. Trên cơ sở đó, góp phần khai thác
có hiệu quả những thuận lợi và hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực
của quá trình tham gia APEC đến công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình hiện nay./.


×