Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN KINH NGHIỆM GIẢI QUYẾT vấn đề RUỘNG đất TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM QUA các GIAI đoạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.79 KB, 30 trang )

Kinh nghiệm giải quyết vấn đề ruộng đất trong cách mạng Việt
Nam
Trước khi thực dân Pháp xâm lược, xã hội Việt Nam trải qua hàng
ngàn nǎm dưới chế độ phong kiến, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, ruộng
đất thuộc quyền chiếm đoạt và chi phối của giai cấp địa chủ phong kiến. Những
hình thức bóc lột phổ biến trong xã hội phong kiến là địa tô, nợ lãi và thuế.
Trong đó, hình thức đặc trưng là địa tô phong kiến, nó đã kìm hãm phát triển lực
lượng sản xuất và là nguồn gốc khổ cực của người nông dân. Mâu thuẫn cơ bản
của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và bọn tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân
Việt Nam, chủ yếu là giai cấp nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến.
Cuối thế kỷ XIX, vua quan phong kiến triều Nguyễn đầu hàng và bán
rẻ nước ta cho thực dân Pháp. Trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành ở nước ta. Thực dân Pháp
đã đặt hết thảy nền kinh tế nước ta vào tay các tổ chức tư bản độc quyền, đứng
đầu là tập đoàn tư bản tài chính "Ngân hàng Đông Dương". Sự thống trị của tư
bản độc quyền không có nghĩa là quan hệ sản xuất phong kiến bị loại trừ; trái
lại, chúng duy trì nó để kìm hãm sự phát triển và làm cơ sở kinh tế, chính trị, xã
hội của chế độ thuộc địa.
Về chính trị, thực dân Pháp sử dụng bộ máy chính quyền phong kiến
làm tay sai cho chế độ thực dân; mặt khác, chế độ thực dân làm chỗ dựa tồn tại
của giai cấp địa chủ phong kiến, nhằm bóc lột, đàn áp nhân dân Việt Nam.
Xã hội Việt Nam lúc này tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa nông dân với
địa chủ phong kiến. Xã hội Việt Nam từ chỗ là xã hội phong kiến chuyển thành
xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Tính chất này được thể hiện trong nền kinh tế
là chế độ chiếm hữu ruộng đất và đời sống nông dân.


I. ĐẶC ĐIỂM SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT VÀ ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN VIỆT
NAM DƯỚI CHẾ ĐỘ THỰC DÂN PHONG KIẾN


1. Ruộng đất bị địa chủ phong kiến chiếm hữu
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ở nước ta đất trồng trọt chỉ có 4,3
triệu hécta, trong đó, khoảng 54,5% diện tích do giai cấp địa chủ phong kiến và
các thế lực nhà thờ chiếm hữu. Số còn lại thuộc 37,8% số hộ nông dân, 62,2%
số hộ nông dân không có ruộng.
Đặc biệt ở Nam Bộ, ruộng đất tập trung trong tay giai cấp địa chủ phong
kiến với mức độ cao hơn. Trong tổng số 2,3 triệu hécta ruộng đất ở Nam Bộ, địa
chủ chiếm hữu khoảng 56,9%. 6300 địa chủ lớn (tổng số toàn quốc là 6530) đã
chiếm hữu 45% tổng số ruộng đất ở Nam Bộ, 67,6% số hộ nông dân không có
ruộng.
ở Bắc Bộ và Trung Bộ, nơi đất hẹp người đông, mức chiếm hữu ruộng đất
của địa chủ tuy thấp hơn Nam Bộ, nhưng tỷ lệ tập trung ruộng đất trong tay giai
cấp địa chủ khá lớn. Theo thống kê của ủy ban cải cách ruộng đất trung ương
(sau sửa sai) tại 3653 xã thuộc vùng đồng bằng và trung du miền Bắc nǎm 1945
địa chủ chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất. Phần lớn
ruộng đất công do địa chủ lũng đoạn, thao túng. Thực chất ruộng công thuộc
quyền chi phối của giai cấp địa chủ.
Tóm lại, những số liệu trên đã phản ánh một thực tế là dưới chế độ thực
dân phong kiến, giai cấp địa chủ chiếm hữu trên 50% tổng số ruộng đất ở nước
ta, chúng áp bức, bóc lột nông dân hết sức nặng nề. Dưới đây là tình hình phân
phối ruộng đất ở miền Bắc nǎm 1945.

b) Chiếm hữu ruộng đất của tư bản Pháp.
Thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, duy trì quan hệ sản xuất phong kiến,
đồng thời cho phép tư bản Pháp chiếm hữu và khai thác ruộng đất ở nước ta trên
quy mô lớn.


Đến nǎm 1890, ở Việt Nam đã có 126 đồn điền, hầu hết là của bọn cố
đạo, bọn võ quan và thực dân người Pháp. Số ruộng đất mà chúng khai thác ở

Trung Kỳ là 3484 hécta, Bắc Kỳ là 3068 hécta và Nam Kỳ là 4346 hécta.
Trong khoảng thời gian từ nǎm 1890 đến nǎm 1900, tư bản Pháp chiếm
320.000 hécta ruộng đất trồng lúa và cao su. Đặc biệt từ nǎm 1907 trở đi, thực
dân Pháp đổ xô vào khai thác vùng đất đỏ Nam Bộ, và Nam Trung Bộ, đồng
thời mở rộng các đồn điền ở Sơn Tây, Bắc Giang, Thái Nguyên. Sau Chiến tranh
thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa bằng việc mở
rộng các đồn điền. Từ nǎm 1921 đến nǎm 1926, chúng chiếm trên 100.000 hécta
đồn điền cao su, từ nǎm 1926 đến nǎm 1928 chúng chiếm 215.000 hécta.
Như vậy, từ khi trở thành thuộc địa của Pháp cho đến nǎm 1930, ruộng
đất ở Việt Nam tập trung trong tay tư bản Pháp lên tới 1.025.000 hécta (riêng
đồn điền cao su là 706.000 hécta).
Ngoài ra ruộng đất còn tập trung trong tay bọn tư bản tài chính (Đông
Pháp ngân hàng, Địa ốc ngân hàng và các chi nhánh của nó). Nông khố ngân
hàng có ở hầu khắp các tỉnh bằng hình thức cho vay rồi chiếm đoạt ruộng đất
của cả địa chủ và nông dân.
Qua nghiên cứu chế độ ruộng đất thời kỳ thực dân, phong kiến, có thể rút
ra mấy kết luận:
- Đế quốc Pháp xâm lược nước ta đã duy trì chế độ chiếm hữu ruộng đất
của giai cấp địa chủ phong kiến trong việc chiếm đoạt ruộng đất của nông dân,
đã tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của chế độ thực dân ở Việt Nam.
- Địa chủ và tư bản thực dân nắm trong tay khoảng 70% ruộng đất, trong
khi nông dân chiếm trên 90% số dân chỉ có khoảng gần 30% ruộng đất. Mức
chiếm hữu ruộng đất như trên tạo cho giai cấp thống trị có đầy đủ phương tiện
vật chất để áp bức bóc lột nông dân, làm tuyệt đại đa số nông dân ta sống trong
cảnh bần cùng, đói rách và dân tộc ta bị kìm hãm trong vòng nghèo nàn, lạc hậu.


2- Đời sống nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thống trị
a) Sự bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến.
Dựa vào sự chiếm hữu ruộng đất, giai cấp địa chủ phong kiến bóc lột nông dân

dưới hình thức địa tô, nợ lãi và thuê mướn bóc lột nhân công.
Địa tô là hình thức bóc lột phổ biến của giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam
(chủ yếu là tô hiện vật). Có ba hình thức địa tô sau đây:
Tô đóng: tuỳ theo từng loại ruộng đất thuộc hạng nào (tốt hay xấu, xa hay
gần, dễ làm hay khó làm...), địa chủ ấn định trước số lượng thóc mà tá điền phải
nộp tô trên mỗi mẫu bất kể vụ đó tá điền có thu hoạch được hay không. Hình
thức này thường được bọn địa chủ lớn áp dụng. Với hình thức tô đóng, địa chủ
có hai cái lợi: một là, nắm chắc phần sản phẩm trong tay; hai là, không phải bỏ
công quản lý. Còn đối với nông dân, được mùa đã vậy, chẳng may mất mùa, họ
chỉ còn cách đi vay lãi nộp tô cho địa chủ.
Tô rẽ: trên cơ sở thu hoạch cụ thể của vụ trước, địa chủ chia với nông dân
theo một tỷ lệ ấn định trước (thường là 50%- rẽ đôi cho mỗi bên). Chi phí ruộng
đất hoàn toàn do nông dân bỏ ra, sản lượng càng cao thì mức tô rẽ càng tǎng, do
vậy địa chủ bóc lột được nhiều. Hình thức này đã kìm hãm sự phát triển của sức
sản xuất trong nông nghiệp. Tô rẽ thường được bọn địa chủ nhỏ áp dụng.
Tô lao dịch: địa chủ lấy vụ chính, mọi việc làm trong vụ này đều do nông dân,
còn địa chủ quản lý. Bằng hình thức này, địa chủ vắt kiệt sức lao động của nông
dân.
Ngoài địa tô chính, nông dân còn phải nộp cái gọi là "địa tô phụ" dưới hình thức
lễ lạt, quà cáp, biếu xén...

Bóc lột bằng nợ lãi là hình thức bóc lột phổ biến của địa chủ và là gánh


nặng đổ lên đầu nông dân. Sau khi nộp tô cho địa chủ, người nông dân không
còn đủ sản phẩm để nuôi sống gia đình, phải đi vay lãi. Đây là dịp để địa chủ
thực hiện việc tước đoạt nốt ruộng đất và tài sản cuối cùng của nông dân.
Bóc lột bằng chế độ làm công nô lệ là hình thức bóc lột phổ biến của địa chủ
vừa và nhỏ. Quan hệ giữa nông dân và địa chủ là quan hệ lệ thuộc giữa tá điền
với chúa đất.

b) Sự bóc lột của tư bản Pháp
Trong số hơn một triệu hécta ruộng đất mà bọn tư bản Pháp chiếm đoạt,
gồm một phần ba là ruộng lúa. Khai thác loại ruộng đất này, về cơ bản tư bản
cũng áp dụng phương thức bóc lột phong kiến. Điểm khác ở đây là bộ máy
chính quyền thực dân trực tiếp bảo vệ quyền lợi của các chủ đồn điền.
Số đồn điền trồng cây công nghiệp, tư bản Pháp trực tiếp kinh doanh và
thuê mướn nhân công. Đồn điền trồng cây công nghiệp nằm tại những vùng đất
mới khai phá (đất rộng, người thưa). Chủ đồn điền Pháp mộ phu phần lớn ở Bắc
Bộ và Trung Bộ. Người nông dân bị dồn vào thế cùng quẫn bởi sưu cao, thuế
nặng, địa tô, nợ lãi... cuối cùng phải rời bỏ quê quán vào làm thuê cho các chủ
đồn điền. Tại đây, bọn tư bản thực dân bóc lột lao động làm thuê một cách tàn
bạo, thân phận người lao động trở thành thân phận người nô lệ.
Ngoài các hình thức bóc lột trên đây, địa chủ và thực dân Pháp còn bóc lột
nông dân bằng sưu cao, thuế nặng như: thuế đinh, thuế điền, thuế ngoại phụ.
Thuế đinh bổ vào người nam giới từ 18 tuổi đến 60 tuổi, thuế điền đánh vào các
loại ruộng, thuế phụ thu lạm bổ đánh vào người dân cày... Chính quyền thực dân
dùng thuế quan nhằm bảo hộ công thương nghiệp chính quốc, kìm hãm sự phát
triển kinh tế thuộc địa, triệt tiêu các nghề truyền thống của dân tộc Việt Nam.


Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, với toàn bộ thiết chế chính trị của
chúng, chính quyền thực dân cùng vua quan phong kiến và địa chủ đã kìm hãm
nền kinh tế Việt Nam trong phương thức sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Thân phận
người nông dân Việt Nam chỉ là nô lệ. Vì vậy, đánh đổ chế độ thực dân, phong
kiến giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày là yêu cầu khách quan, hợp
quy luật của xã hội Việt Nam, là nguyện vọng tha thiết của nông dân.
II- QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT TRONG
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1- Thời kỳ 1930-1945
Trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, trong hơn nửa thế kỷ, nhiều

giai cấp và tầng lớp đã đứng lên lãnh đạo nhân dân ta chống xâm lược. Nhưng
do hạn chế về mặt giai cấp, ở nước ta, chưa có một tầng lớp hay một giai cấp
nào nhận thức được tính bức thiết của vấn đề ruộng đất cũng như mối quan hệ
khǎng khít của nó với vấn đề giải phóng dân tộc. Đó chính là nguyên nhân khiến
cho họ không lôi kéo được đông đảo nông dân tiến hành giải phóng dân tộc và
không tránh khỏi thất bại.
Chỉ đến khi giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong của mình là
Đảng cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài chính trị thì vấn đề ruộng đất và vấn
đề nông dân mới được nhận thức đúng vị trí quan trọng của nó và được đặt
thành một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Trong Chính cương vắn tắt và Điều lệ vắn tắt do đồng chí Nguyễn ái
Quốc khởi thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
(3-2-1930) đã chỉ rõ: "Cách mạng Việt Nam là tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản".
Luận cương chính trị tháng 10-1930 khẳng định tính chất của cách mạng
Việt Nam là "cách mạng tư sản dân quyền, nó phải giải quyết hai nhiệm vụ


chiến lược là đánh đế quốc giành độc lập dân tộc và đánh đổ phong kiến giành
ruộng đất cho nông dân. Vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai
cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ
phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa".
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, đồng chí Nguyễn ái Quốc và Đảng ta
đã nhận thức đúng vị trí của vấn đề ruộng đất và vấn đề nông dân ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến và đặt thành một nhiệm vụ chiến lược gắn liền với
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Cương lĩnh của Đảng đã định hướng đúng cho sự
vận động phát triển của cách mạng Việt Nam.
Giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân chính là bảo đảm quyền dân
chủ cơ bản về mặt kinh tế của nông dân. Nó không chỉ được thực hiện trong
cách mạng dân tộc dân chủ, mà còn được định hướng cho sự phát triển tiếp theo

trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ngay sau khi Đảng ta ra đời, theo phương hướng mà Cương lĩnh vạch ra,
một phong trào cách mạng của công - nông dưới sự lãnh đạo của Đảng diễn ra
hết sức sôi nổi, đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh. Lần đầu tiên nhân dân ta đã nắm
quyền ở một số địa phương, thực hiện ngay những quyền dân chủ đối với nông
dân, trong đó có vấn đề ruộng đất cho dân cày.
Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939), Đảng lợi dụng những hình
thức hợp pháp, mở rộng hoạt động và ảnh hưởng của mình ở cả thành thị và
nông thôn. Đảng đặc biệt quan tâm đến vấn đề nông dân. Tác phẩm Vấn đề dân
cày của các đồng chí Trường - Chinh và Võ Nguyên Giáp xuất bản nǎm 19371938 đã phản ánh tình cảnh giai cấp nông dân Việt Nam, sự bóc lột tàn bạo của
đế quốc và phong kiến đối với nông dân và chỉ rõ: Chỉ có đánh đổ đế quốc và
phong kiến thì người nông dân mới chấm dứt được tình cảnh khổ cực của mình.
Từ nǎm 1939 đến nǎm 1945, mục tiêu trực tiếp của cách mạng Việt Nam
là giành độc lập dân tộc. Đảng ta chỉ rõ: Đứng trên lập trường giải phóng dân


tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cách mệnh, cả vấn
đề điền địa cũng phải nhằm vào mục đích ấy mà giải quyết. Vì vậy, Đảng chủ
trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng thổ địa để tập hợp lực lượng toàn dân tộc
chống đế quốc, phátxít. Đảng ta chỉ rõ: Trong giai đoạn hiện tại ai cũng biết
rằng, nếu không đánh đuổi được giặc Pháp - Nhật thì vận mệnh của dân tộc phải
chịu kiếp ngựa trâu muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải
quyết được.
Về vấn đề ruộng đất trong thời kỳ này, Đảng nêu khẩu hiệu tịch thu tài
sản của bọn phátxít Nhật - Pháp và bọn việt gian, thi hành giảm tô, chia lại công
điền theo chương trình của Mặt trận Việt Minh.
Vấn đề ruộng đất được Đảng ta đặt ra ở đây tuy mới chỉ là chủ trương,
chính sách, song nói có ý nghĩa thực tiễn là: chủ trương, chính sách đó đã phù
hợp với lợi ích của giai cấp nông dân nên đã sớm phát huy tác dụng, phát triển
phong trào cách mạng của quần chúng, tạo nên sức mạnh vật chất, góp phần

cùng toàn dân tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, lập nên
nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
2- Thời kỳ 1945-1953
Sau khi giành chính quyền, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp để giữ vững nền độc lập dân tộc. Vấn đề
ruộng đất được Đảng đề ra thành một hệ thống các chính sách và từng bước giải
quyết ruộng đất cho nông dân, cụ thể là:
Tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp để chia cấp cho nông dân. Tính đến
trước cải cách ruộng đất, đã tịch thu 81,3% ruộng đất từ tay thực dân Pháp chia
cho nông dân.
Chia cấp lại công điền, công thổ cho nông dân. Tính đến nǎm 1953 đã
chia cấp 77,8% ruộng công điền cho nông dân.
Tạm giao ruộng đất của địa chủ, việt gian và địa chủ vắng mặt cho nông
dân, 84,7% loại ruộng đất này đã được chia cho nông dân.


Nhà nước đã ban hành sắc lệnh giảm tô 25%, cho nông dân lĩnh canh
ruộng đất của địa chủ, thu thuế nông nghiệp (nǎm 1952).
Tính chung lại, đến nǎm 1953 đã có 58,3% tổng số ruộng đất của tư bản
Pháp, địa chủ, cùng ruộng công được chia cho nông dân. Kết quả trên đây có ý
nghĩa thực tiễn to lớn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, quyền sở hữu ruộng
đất đã thay đổi, từng bước chuyển từ tay giai cấp địa chủ phong kiến và đế quốc
sang tay nông dân, thu hẹp thế lực kinh tế và chính trị của chúng, tǎng cường thế
và lực của chính quyền cách mạng. Trên cơ sở đó, từng bước cải thiện đời sống
nhân dân, củng cố liên minh công - nông - nòng cốt của mặt trận dân tộc thống
nhất, đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi.
3- Thời kỳ 1953-1957
Việc thực hiện từng bước chính sách ruộng đất của Đảng từ sau Cách mạng
tháng Tám 1945 đến đầu nǎm 1953 đã tạo ra những chuyển biến sâu sắc về sở
hữu ruộng đất và quan hệ giai cấp ở nông thôn. Tuy vậy, chế độ chiếm hữu và

bóc lột phong kiến chưa bị thủ tiêu, khẩu hiệu "Người cày có ruộng" chưa được
giải quyết cǎn bản, giai cấp địa chủ vẫn tồn tại. Trên cơ sở những thành tựu đã
đạt được, Đảng ta tiếp tục tiến hành cải cách ruộng đất, hoàn thành nhiệm vụ
chống phong kiến. Hơn thế nữa, sự phát triển của cuộc kháng chiến đến nǎm
1953 đã đi vào giai đoạn quyết định, đòi hỏi cấp thiết phải thực hiện triệt để
nhiệm vụ chống phong kiến để bồi dưỡng lực lượng kháng chiến.
Tháng 1-1953, Ban chấp hành trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 4
kiểm điểm chính sách ruộng đất trong kháng chiến và phát động triệt để giảm tô
nhằm bước đầu thực hiện yêu cầu về kinh tế của nông dân.
Tháng 11-1953, Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 5 quyết
định cải cách ruộng đất, đề ra chủ trương, biện pháp tiến hành cải cách ruộng
đất...
Cải cách ruộng đất được thực hiện ngay trong lúc cuộc kháng chiến đang
trên thế đi tới thắng lợi. Đó là một chủ trương đúng đắn của Đảng, đã kết hợp


đúng đắn hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Thành
quả của nó đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến cuộc Đông Xuân
1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ.
Hoà bình lập lại, miền Bắc bước vào giai đoạn mới, Đảng tiếp tục đẩy
mạnh cải cách ruộng đất, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, tạo điều kiện cho việc khôi phục và phát triển kinh tế để củng cố miền Bắc
làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Kết quả đã phát động quần chúng giảm tô trong tám đợt bao gồm 1875 xã
với 1.106.955 hécta ruộng đất, tiến hành cải cách ruộng đất trong 5 đợt bao gồm
3653 xã (toàn bộ vùng đồng bằng và trung du miền Bắc), đã chia 810.000 hécta
ruộng đất cho hơn 2 triệu hộ nông dân, tức 72,8% tổng số hộ nông dân ở miền
Bắc.
ở miền núi, do những điều kiện đặc thù về kinh tế và xã hội không nằm trong
diện cải cách ruộng đất. ở đây, việc hoàn thành cải cách dân chủ được thực hiện

kết hợp với cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp vào những nǎm 1959-1961.
Như vậy, thực hiện cải cách ruộng đất, đã xoá bỏ chế độ chiếm hữu ruộng
đất và bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến, xác lập quyền sở hữu ruộng đất
của nông dân, bước đầu thực hiện dân chủ hoá về mặt kinh tế đối với nông dân cơ sở của dân chủ về mặt chính trị ở nông thôn. Trên cơ sở đó, nǎng lực sản xuất
trong nông nghiệp được giải phóng, sức lao động và ruộng đất của nông dân
được gắn với nhau trong quá trình sản xuất.
Trong khi tiến hành cải cách ruộng đất, bên cạnh những thắng lợi cǎn bản,
Đảng ta đã phạm một số sai lầm nghiêm trọng trong chỉ đạo thực hiện mà sau
một thời gian mới phát hiện được. Do chủ quan, giáo điều, không xuất phát đầy
đủ từ thực tiễn nước ta, nên không thấy rõ được những thay đổi quan trọng về sở
hữu ruộng đất ở nông thôn Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám, nhất là trong
9 nǎm kháng chiến. Từ đó, trong chỉ đạo tiến hành cải cách ruộng đất đã cường


điệu tính chất đấu tranh giai cấp ở nông thôn, dẫn đến mở rộng quá mức đối
tượng đấu tranh, gây ra tình trạng đánh nhầm vào nội bộ nông dân, nhất là trung
nông lớp trên. Trong chỉnh đốn tổ chức, đã nhận định sai về tổ chức cơ sở đảng
ở nông thôn, cho là bị địch lũng đoạn. Từ đó, trong chỉnh đốn Đảng đã dẫn đến
việc xử lý oan những cán bộ, đảng viên tốt. Sai lầm này đã gây ra một số tổn
thất cho Đảng.
Việc tổ chức ra một hệ thống tổ chức chỉ đạo cải cách ruộng đất từ Trung
ương đến cơ sở tách rời sự chỉ đạo và kiểm soát của các cấp uỷ đảng ở khu, tỉnh,
huyện; hệ thống này được giao quyền hạn quá rộng, dẫn đến mệnh lệnh, độc
đoán, hạ thấp vai trò lãnh đạo của các cấp bộ đảng, nhiều cán bộ theo đuôi quần
chúng, theo lập trường tư tưởng của giai cấp nông dân để giải quyết những vấn
đề kinh tế - xã hội nông thôn.
Hội nghị lần thứ 10 (khoá II) của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã
nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm trong thực hiện cải cách ruộng đất và
chỉnh đốn tổ chức. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công khai tự
phê bình và kên quyết sửa chữa sai lầm. Thái độ chân thành của Đảng được

nhân dân đồng tình ủng hộ, mặc dù có khó khǎn nhưng chỉ sau hai nǎm việc sửa
sai đã hoàn thành, uy tín của Đảng được nâng cao.
Cùng với việc xác lập quyền làm chủ ruộng đất của nông dân, tháng 51955, Quốc hội đã ban hành các chính sách kinh tế quan trọng nhằm khuyến
khích khôi phục và phát triển kinh tế hộ nông dân, nội dung cơ bản là bảo đảm
quyền sở hữu ruộng đất, bảo vệ tài sản của nông dân và các tầng lớp khác,
khuyến khích khai hoang phục hoá (khai hoang được miễn thuế 5 nǎm, phục hoá
được miễn thuế 3 nǎm), tǎng vụ, tǎng nǎng suất, tự do thuê mướn nhân công, tự
do thuê mướn trâu bò, tự do vay mượn, khuyến khích các hình thức đổi công
tương trợ, khuyến khích khôi phục các nghề thủ công truyền thống, bảo hộ,
khuyến khích, khen thưởng nông dân sản xuất giỏi, nghiêm cấm phá hoại sản
xuất...


Vụ chiêm nǎm 1955, Chính phủ ban hành chính sách thuế sửa đổi, giảm
bớt mức đóng góp của nông dân, đồng thời miễn thuế cho hộ quá nghèo.
Chính phủ vận động nông dân phát triển chǎn nuôi trâu bò, sửa chữa đê
điều, làm thuỷ lợi, khôi phục các hệ thống thuỷ nông.
Như vậy, sau khi được giải phóng khỏi phương thức sản xuất phong kiến,
nguyện vọng phát triển kinh tế của nông dân được Đảng và Nhà nước hết sức
quan tâm bằng các chính sách phù hợp và được pháp luật bảo hộ, đã làm cho sức
sản xuất ở nông thôn nước ta cuối thập kỷ 50 có bước tiến bộ rõ rệt. ở vào thời
điểm đất nước vừa trải qua chiến tranh, kinh tế còn nghèo nàn, kỹ thuật còn lạc
hậu, quan hệ hợp tác giúp đỡ quốc tế chưa có gì đáng kể, nhưng với hệ thống
chính sách đúng đắn, đã đưa lại quyền làm chủ ruộng đất cho nông dân, giải
phóng mọi nǎng lực sản xuất trong nông nghiệp, đã tạo ra động lực mới phát
triển sản xuất góp phần khôi phục kinh tế và ổn định đời sống nhân dân.
Về kinh tế, tổng sản lượng và thu nhập bình quân đầu người về lương
thực đã vượt nǎm 1939 (nǎm cao nhất dưới thời kỳ thực dân Pháp). Động lực
của kinh tế hộ nông nghiệp đã được phát huy trong những nǎm trước tập thể hoá
nông nghiệp.

4- Thời kỳ 1958-1980
a) ở miền Bắc
Sau thời kỳ khôi phục kinh tế, Đảng chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với nông nghiệp bằng hình thức hợp tác xã. Vấn đề ruộng đất được đặt ra và
giải quyết thông qua phong trào hợp tác hoá là một nội dung cơ bản của hợp tác
xã nông nghiệp. Xác lập chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất gắn liền với tổ chức
lao động tập thể trong các hợp tác xã nông nghiệp từ thấp đến cao, từ nhỏ đến
lớn. Từ đây, kinh tế hộ nông dân bị coi là kinh tế phụ.
Tập thể hoá nông nghiệp được nhân thức là nhằm ngǎn chặn khuynh
hướng tự phát tư bản chủ nghĩa ở nông thôn, tạo ra sự thuần nhất của kinh tế xã
hội chủ nghĩa với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Đảng nhận định:
"Chế độ tiểu nông hàng ngày hàng giờ sinh ra chủ nghĩa tư bản" . "Còn chế độ


sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lối làm ǎn riêng lẻ thì vẫn còn cơ sở vật
chất và điều kiện xã hội cho khuynh hướng tư bản chủ nghĩa tự phát nảy nở" .
Do đó, phải tiến hành tập thể hoá triệt để ruộng đất, tổ chức lại sản xuất theo
hình thức lao động tập thể, chặn đứng con đường tư bản chủ nghĩa ở nông thôn,
góp phần củng cố liên minh công nông. Hơn nữa, phải tập trung sức lao động, tư
liệu sản xuất của bần nông và trung nông lại để xây dựng một phương thức sản
xuất mới, một sự phân công lao động mới.
Từ nhận thức trên đây, Đảng đã đề ra đường lối giai cấp ở nông thôn:
"Dựa hẳn vào bần nông và trung nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung
nông, hạn chế đi đến xoá bỏ sự bóc lột kinh tế của phú nông, cải tạo tư tưởng
phú hông, ngǎn ngừa địa chủ ngóc đầu dậy ...".
Nội dung công hữu hoá tư liệu sản xuất trước hết là tập thể hoá triệt để
ruộng đất, theo đó là sức lao động và các tư liệu sản xuất khác của nông dân.
Ruộng đất tập thể hoá được đặt dưới sự quản lý và sử dụng của ban quản trị hợp
tác xã, mà ban quản trị chủ yếu được chọn từ những thành phần bần cố nông.
Thực hiện chủ trương trên đây, Đảng đã phát động một phong trào quần

chúng nhằm giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa lối làm ǎn tập thể và lối làm ǎn
cá thể ở nông thôn.
Kết quả, trong hơn một nǎm, từ tháng 4-1959 đến mùa thu 1960, đã tập
thể hoá 76% diện tích ruộng đất canh tác của 2,4 triệu hộ nông dân, chiếm
84,8% tổng số hộ nông dân miền Bắc.
Vào thời điểm nông dân đang phấn khởi với các chính sách khuyến nông
của Đảng và Chính phủ, lợi ích kinh tế của hộ nông dân gắn với đất đai đang trở
thành động lực kích thích phát triển sản xuất thì chúng ta tiến hành tập thể hoá
triệt để ruộng đất, sức lao động, đồng thời đặt trong một cơ chế tổ chức quản lý
và điều hành tập trung. Vì vậy, mô hình sở hữu tập thể ngay từ đầu đã mang
trong lòng nó những yếu kém, sự gò ép trái nguyên tắc, đã dẫn đến tan vỡ hàng
loạt hợp tác xã, hàng vạn nông dân xin ra hợp tác xã , sản lượng lương thực nǎm


1960 giảm một triệu tấn, nǎng suất lúa giảm 200 kg/hécta, lương thực bình quân
đầu người giảm từ 333 kg/nǎm 1959 xuống 261 kg/nǎm 1960.
Những yếu kém của mô hình tập thể hoá trên đây trước hết là do vi phạm
các nguyên tắc về hợp tác hoá, đã bỏ qua nội dung kinh tế của các nguyên tắc
này. Cơ sở kinh tế của nguyên tắc tự nguyện chính là sự xã hội hoá sức sản xuất,
trên cơ sở đó xuất hiện nhu cầu hợp tác hoá các hộ nông dân, hợp tác ở những
khâu nào có lợi nhất cho phát triển sản xuất. Song, trên thực tế là không nhận
thức và cũng không dựa trên tất yếu kinh tế mà chủ yếu là xuất phát từ những
tiền đề chính trị, lấy tất yếu chính trị thay cho tất yếu kinh tế để nhanh chóng tạo
ra quan hệ sản xuất mà ta cho đó là chủ nghĩa xã hội, đồng nhất hợp tác hoá với
tập thể hoá.
Cơ sở kinh tế cǎn bản nhất của nông dân là quyền làm chủ sử dụng ruộng
đất. Trong tập thể hoá, chúng ta đã xoá bỏ ngay từ đầu cơ sở kinh tế này.
Do phân phối bình quân, lợi ích kinh tế của nông dân bị vi phạm đã dẫn
đến thủ tiêu động lực sản xuất của người lao động.
Mặt khác, do "quản lý là khâu yếu kém nhất, ruộng đất được tập thể hoá

nhưng sử dụng không có kế hoạch, dẫn đến cày sâu cấy muộn, bỏ sót ruộng,
nǎng suất và sản lượng thấp. Cán bộ quản lý thiếu nǎng lực do trình độ vǎn hoá
thấp, không đủ kinh nghiệm quản lý sản xuất, từ đó dẫn đến hiệu quả kinh tế
giảm sút, không hơn sản xuất cá thể".
Mô hình sở hữu tập thể có nhiều sai trái, yếu kém, chậm được phát hiện,
sửa chữa. Vì vậy, sau ba nǎm xác lập mô hình sở hữu tập thể cho thấy: việc tập
thể hoá triệt để ruộng đất tất yếu dẫn đến tập thể hoá triệt để sức lao động và các
tư liệu sản xuất khác của nông dân. Cách làm đó đã biến nông dân từ người làm
chủ ruộng đất trở thành người làm công cho ban quản trị hợp tác xã - những
người chưa đủ khả nǎng và kinh nghiệm quản lý. Trong phương pháp tiến hành
tập thể hoá, nông dân từ chỗ là một lực lượng sản xuất xã hội, một tiềm nǎng


kinh tế to lớn trở thành đối tượng cải tạo, vì vậy đã triệt tiêu tính nǎng động,
sáng tạo của họ trong sản xuất.
Từ nǎm 1961 trở đi, Đảng tập trung củng cố, tǎng cường và mở rộng mô
hình sở hữu tập thể, bằng một loạt cuộc vận động ở nông thôn.
Nội dung cơ bản của các cuộc vận động thể hiện trên mấy điểm sau đây:
Một là, mở rộng quy mô sở hữu tập thể về ruộng đất từ thôn lên liên thôn, đỉnh
cao là quy mô toàn xã sau Hội nghị nông nghiệp ở Thái Bình tháng 8-1974.
Hai là, xác lập và thực hiện cơ chế quản lý tập trung trong kinh tế nông nghiệp
từ vi mô đến vĩ mô.
Về tổ chức sản xuất, chia cắt quá trình sản xuất nông nghiệp ra nhiều công
đoạn, đỉnh cao là thành lập các đội chuyên (1976-1980), tiến hành tổ chức lại
sản xuất trên phạm vi toàn huyện.
Quản lý và sử dụng ruộng đất tập trung thống nhất theo chế độ sở hữu tập
thể. Mọi phân biệt về lợi ích kinh tế trên đất đai đều bị xoá bỏ.
Về phân phối, thực hiện nguyên tắc "trừ lùi" (thuế, quỹ, chi phí sản xuất,
các khoản điều hoà...), còn lại chia theo ngày công, bằng hiện vật.
Ba là, cơ chế vận hành của mô hình tập thể hoá triệt để ruộng đất, sức lao

động và các tư liệu sản xuất khác của nông dân bằng một bộ máy hành chính
hoá, qua nhiều tầng nấc trung gian từ Trung ương xuống tỉnh, huyện, xã và hợp
tác xã.
Việc điều hành và quyết định trực tiếp quá trình sản xuất và phân phối sản
phẩm sản phẩm là bộ máy quản lý gồm đủ các phòng, ban, đội, tổ... bộ máy này
thoát ly sản xuất trở thành quan liêu hoá, song quyền lực rất lớn, quyết định toàn
bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở nông thôn.
Những chủ trương và biện pháp trên đây được triển khai trong đời sống
kinh tế xã hội nông thôn miền Bắc suốt 20 nǎm (1960-1980). Tuy nhiên, trong
điều kiện lịch sử cụ thể lúc bấy giờ, mô hình sở hữu tập thể cũng đã đưa lại
những kết quả nhất định.


Với nền nông nghiệp lạc hậu, thoát thai từ phương thức sản xuất phong
kiến, sau nhiều nǎm tập thể hoá, với nguồn vốn của Nhà nước đầu tư, vốn của
tập thể và công sức của nông dân, đã xây dựng được một hệ thống cơ sở vật
chất, kỹ thuật bước đầu rất quan trọng, đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi, cải tạo đồng
ruộng, phát triển giao thông nông thôn, khai hoang, phục hoá, cảnh quan nông
thôn đã có bước thay đổi. Nhiều tiến bộ khoa học - kỹ thuật được áp dụng trong
nông nghiệp, làm thay đổi tập quán và phương pháp canh tác cổ truyền, đưa lại
nǎng suất cao, nhất là nǎng suất lúa. Trong thời kỳ cả nước có chiến tranh, mô
hình tập thể hoá triệt để này đã trở thành một kết cấu kinh tế - xã hội cần thiết
góp phần vào ổn định đời sống chính trị, kinh tế, xã hội nông thôn, góp phần to
lớn vào việc cung cấp sức người, sức của cho kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
thực hiện có hiệu quả chính sách hậu phương quân đội. Sự đoàn kết tương trợ,
tình làng nghĩa xóm trong nông thôn đã thiết thực cổ vũ, động viên bộ đội trên
các chiến trường hoàn thành sự nghiệp vẻ vang giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
Tuy vậy, xét về bản chất kinh tế, mô hình tập trung cao với các đặc trưng
nêu trên có những khuyết điểm nghiêm trọng:

- Quá trình củng cố mô hình này chính là quá trình tách lao động nông
nghiệp ra khỏi ruộng đất và sản phẩm cuối cùng, đỉnh cao là thời kỳ 1976-1980
mà hệ quả trực tiếp là làm tha hoá người lao động. Họ chỉ còn cách quay về làm
chủ thực sự mảnh đất 5% với kinh tế gia đình.
- Kinh tế hộ nông dân bị hoà tan vào kinh tế tập thể. Các thành viên lao
động trong gia đình nông dân bị xé lẻ, phân công vào các đội chuyên hoặc đội
cơ bản đặt dưới sự điều hành của bộ máy quản lý tập trung. Chức nǎng kinh tế
của hộ gia đình cơ bản bị thủ tiêu, chỉ còn lại chức nǎng xã hội. Lợi ích kinh tế
trực tiếp của người lao động bị vi phạm đã làm mất đi sự thiết tha với ruộng đất,
làm mất đi bản chất cần cù một nắng hai sương của người nông dân Việt Nam.
- Do cơ chế quản lý tập trung quan liêu, ruộng đất thuộc sở hữu và sử


dụng tập thể theo kiểu "cha chung không ai khóc" đã dẫn đến tình trạng vô chủ
trong quản lý và sử dụng đất đai, gây ra lãng phí và mất đất đai nghiêm trọng. ở
Nam Hà, Thanh Hoá và Hải Hưng mỗi tỉnh mất 2 vạn hécta. Trong 10 nǎm
(1961-1971), mỗi tỉnh mất đi diện tích canh tác bằng diện tích hai huyện, còn
đất gieo trồng ở miền Bắc mất đi bằng diện tích hai tỉnh .
Tại Hội nghị nông nghiệp ở Thái Bình (tháng 8-1974), đồng chí Lê Duẩn
nhận định: Trong thời kỳ 1964-1974, "điều đáng lưu ý là ruộng đất canh tác bị
sụt đi khoảng vài chục vạn hécta do xây dựng cơ bản, làm thuỷ lợi, đắp đường. ..
Cho nên, dù nǎng suất có tǎng khá, nhưng tổng sản lượng lương thực cũng chỉ
xoay quanh một mức nhất định, không tǎng lên được nhiều, trong lúc đó dân số
tǎng hơn 4 triệu người".
Theo số liệu của cục quản lý ruộng đất, nǎm 1978 cả nước có 1,4 triệu
hécta đất chuyên dùng (dành cho thuỷ lợi, xây dựng cơ bản) chiếm 24% diện
tích canh tác. ở các tỉnh phía bắc, đất thuỷ lợi chiếm 9% diện tích canh tác. Một
số tỉnh đất hẹp, người đông, diện tích đất loại này lên đến 12% (Thái Bình, Hà
Nam Ninh). Song, hiệu quả sử dụng đất làm thuỷ lợi rất thấp, 1 hécta đất làm
thuỷ lợi bình quân chỉ tưới được 4,2 hécta diện tích canh tác.

Nếu tính cả những nǎm sau này, do quản lý và sử dụng ruộng đất vô trách
nhiệm, trong 5 nǎm (1981-1985), diện tích đất canh tác cả nước mất đi 350.000
hécta (riêng đồng bằng sông Cửu Long 250.000 hécta), tương đương với diện
tích trồng lúa của ba tỉnh miền Trung (Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên
cộng lại). Đây là chưa tính việc biến đất thổ canh thành thổ cư ở địa phương nào
cũng có. Riêng nǎm 1978 gần 7 vạn hécta đất "bờ xôi ruộng mật" biến thành thổ
cư.
Những khuyết điểm trên đây đã làm cho sản xuất nông nghiệp phát triển
chậm, không ổn định, kéo dài tình trạng tự cấp tự túc. Tiềm nǎng lao động và
đất đai khai thác kém hiệu quả. Nhất là những nǎm 1976-1980, đưa nông nghiệp
lên sản xuất lớn một cách duy ý chí đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế nông


nghiệp: sản lượng lương thực suốt những nǎm 1960-1980 trên miền Bắc chỉ đạt
bình quân trên dưới 5 triệu tấn/nǎm. Trong những nǎm 1976-1980 sản lượng
lương thực cả nước chỉ đạt 13 triệu tấn/nǎm (miền Bắc trên 5 triệu tấn), trong
khi đó Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV định ra chỉ tiêu phấn đấu đạt 21 triệu
tấn lương thực vào nǎm 1980.
Sản xuất nông nghiệp suy thoái như trên đã đưa đến hệ quả kinh tế là: tập
thể quản lý và sử dụng 95% diện tích ruộng đất chỉ đáp ứng được dưới 50% thu
nhập của hộ xã viên, còn trên 50% thu nhập của họ phải dựa vào mảnh đất 5%
và kinh tế gia đình. Mảnh đất 5% trở thành "mảnh đất thần kỳ". Nǎng suất lúa
trên mảnh đất 5% phổ biến đạt 90 đến 100 tạ/hécta, trong khi ruộng đất thuộc sở
hữu tập thể thì tối đa mới đạt 50-60 tạ/hécta. Đất 5% có thời kỳ chỉ coi là kinh tế
phụ, thậm chí còn hạn chế sự phát triển của nó. Song, trên mảnh đất 5% đã tỏ rõ
sức phát triển. ở đây, người nông dân đã kết hợp được những kinh nghiệm ngàn
nǎm của ông cha với những tri thức và kỹ thuật mới mà họ có thể sử dụng cùng
với sức lực, tâm huyết gắn bó với đất đai. Đất đã không phụ công người, đem lại
trên 50% thu nhập cho gia đình họ.
Nguyên nhân ra đời và tồn tại của mô hình tập thể hoá triệt để ruộng đất

thể hiện trên mấy điểm sau đây:
Trước hết, do nhận thức đơn giản, giáo điều, duy ý chí về chế độ kinh tế
xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là: quan niệm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ
tồn tại hai hình thức sở hữu: toàn dân và tập thể, và sau này đồng nghĩa với sở
hữu nhà nước, từ đó đã nóng vội muốn nhanh chóng xoá bỏ các loại hình sở hữu
khác, coi đó là điều kiện tiên quyết để xây dựng chế độ kinh tế mới trong khi
chưa có đủ các tiền đề cần thiết.
Trong xây dựng kinh tế nông thôn, chỉ tuyệt đối hoá một hình thức tập thể
hoá triệt để ruộng đất, theo nó là sức lao động nông nghiệp. Điều này đã làm
nghèo đi nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học và sự liên minh tự nguyện
giữa những người lao động tự do thành các hiệp hội.


Từ nhận thức giản đơn như vậy nên đã vận dụng một cách giáo điều học
thuyết ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp và nông
nghiệp, với mong muốn tạo ra quan hệ sản xuất mở đường cho lực lượng sản
xuất phát triển, đi ngược lại quy luật phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội và
không phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp, một lĩnh vực sản xuất đòi
hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt quy luật sinh học.
Thứ hai, mô hình tập thể hoá tập trung cao được xây dựng và củng cố,
phần nào do ảnh hưởng của nhân tố quốc tế. Những chương trình đồ sộ của Liên
Xô chuẩn bị "đi vào chủ nghĩa cộng sản", rồi "đại nhảy vọt" của Trung Quốc và
"Thiên lý mã" của Triều Tiên... đã tác động không nhỏ đến nước ta trong việc
hoạch định những chiến lược kinh tế lớn, muốn đi nhanh lên chủ nghĩa xã hội,
trong đó có nông nghiệp. Những hình thức kinh tế tập thể ở những nước này,
trên thực tế cho thấy là kém hiệu quả, khó đứng vững trước những thách thức,
biến động về kinh tế, chính trị, xã hội.
Thứ ba, mô hình sở hữu tập thể với việc tập thể hoá triệt để, tập trung là
con đẻ của cơ chế tập trung quan liêu của cả nền kinh tế. Hiện nay, việc xoá bỏ
cơ chế này tất yếu phải thay đổi mô hình cũ cả về tổ chức và phương thức hoạt

động.
Sau cùng, phải kể đến quy luật chiến tranh. Trong chiến tranh không trực
tiếp tạo nên mô hình này, song đã góp phần củng cố nó.
b) ở miền Nam
- Đặc điểm về sở hữu ruộng đất, nông nghiệp, nông thôn miền Nam sau
giải phóng 1975.
Trải qua chiến tranh lâu dài và ác liệt, do tác động của chính sách ruộng
đất của chính quyền cách mạng và do sự xâm nhập ở mức độ khác nhau của chủ
nghĩa thực dân mới từ thời Mỹ - ngụy, vấn đề ruộng đất, nông nghiệp và nông
thôn miền Nam sau giải phóng (1975) rất đa dạng và khác nhau giữa các vùng.


Miền Trung là dải đất hẹp, bình quân ruộng đất thấp, trong chiến tranh trở thành
vùng tranh chấp ác liệt, nông thôn bị tàn phá nặng nề, nông dân bị đồn xúc, phân
tán. Ruộng đất nhiều nơi trở thành vành đai trắng.
Tây Nguyên là vùng núi cao, phần lớn là dân tộc ít người. Cho đến ngày
giải phóng, trên vùng đất này tồn tại hai bộ phận kinh tế chủ yếu: kinh tế tự
nhiên và nửa tự nhiên mang dấu ấn của cộng đồng các thị tộc mà đơn vị sản xuất
chính là các đại gia đình theo chế độ "nhà dài". Kinh tế đồn điền với các vùng
cây công nghiệp của tư bản nước ngoài và Việt Nam kinh doanh theo phương
thức tư bản chủ nghĩa
Nam Bộ sau giải phóng có những đặc điểm khác miền Bắc sau hoà bình
(1954), khác miền Trung và Tây Nguyên ở cùng thời điểm. ở đây, phương thức
sản xuất phong kiến về cơ bản đã bị xoá bỏ, 70% số hộ nông dân là trung nông,
chiếm 80% diện tích canh tác. Họ đang trở thành lực lượng trung tâm của sản
xuất nông nghiệp ở Nam Bộ. Phú nông và tư sản nông thôn chiếm khoảng từ 1
đến 4% số hộ, sở hữu khoảng 4 đến 7% ruộng đất canh tác, họ vừa kinh doanh
trên ruộng đất, vừa kinh doanh dịch vụ. Nǎng lực cơ khí của họ rất lớn và đang
trở thành trung tâm dịch vụ kinh tế, kỹ thuật ở nông thôn. Còn lại khoảng 20%
số hộ thiếu ruộng hoặc không có ruộng, cộng với hàng triệu nông dân bị chiến

tranh xô đẩy vào các khu tập trung, các đô thị sau giải phóng trở về quê cũ. Tình
hình đó đặt ra yêu cầu khách quan phải giải quyết vấn đề ruộng đất ở nông thôn
sau chiến tranh.
Trung nông hoá phổ biến ở nông thôn Nam Bộ đã mở đường cho sự tiếp
thu tiến bộ kỹ thuật . Nhiều vùng nông thôn sức sản xuất phát triển, hình thành
sự phân công lao động đa dạng: sản xuất nông nghiệp, kinh doanh dịch vụ, chế
biến nông sản, thương nghiệp và lao động tự do. Hệ thống dịch vụ nông nghiệp,
sản xuất lưu thông hàng hoá - tiền tệ đã hình thành thông suốt từ thành thị đến
thôn ấp và hộ nông dân. Hệ thống này bước đầu đã gắn được nông nghiệp với
công nghiệp, sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy sản xuất phát


triển.
Xét về mặt xã hội hoá sản xuất thì đây là bước tiến bộ trong lịch sử sản
xuất nông nghiệp ở nước ta, là tiền đề kinh tế hết sức cơ bản để từng bước
chuyển nền nông nghiệp Nam Bộ sang sản xuất hàng hoá theo hướng xã hội chủ
nghĩa. Những đặc điểm trên đây mang tính khách quan quy định chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn Nam Bộ trước
hết và cǎn bản là vấn đề ruộng đất.
Chủ trương của Đảng về ruộng đất trong những nǎm 1975-1980.
Sau giải phóng (1975), Đảng chủ trương "xác lập quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa đồng nhất trong cả nước dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể
để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn" . Về vấn đề ruộng
đất, Đảng chủ trương triệt để xoá bỏ tàn dư bóc lột ruộng đất của địa chủ, phong
kiến, tịch thu ruộng đất của bọn phản động ác ôn có nợ máu chia cho nông dân
không ruộng và thiếu ruộng; điều chỉnh ruộng đất trong nội bộ nông dân gắn với
cải tạo nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã; tập thể hoá triệt để ruộng đất và
các tư liệu sản xuất của nông dân.
Thực hiện chủ trương trên, kết quả đưa lại ở các vùng không giống nhau.
ở các tỉnh duyên hải miền Trung, đến cuối nǎm 1975 đã thu hồi 125.527 hécta

ruộng đất chia cho 2 triệu nông dân. Mức chênh lệch ruộng đất giữa các hộ
không đáng kể. Vì vậy, tạo thuận lợi cho quá trình điều chỉnh ruộng đất và tập
thể hoá.
ở Tây Nguyên, ruộng đất chủ yếu là quốc gia công thổ và đồn điền. Việc
tịch thu đất đai và quốc hữu hoá đồn điền từ tay giai cấp tư sản khá thuận lợi.
Sau khi chuyển các đồn điền cây công nghiệp thành nông trường quốc doanh,
còn lại một số ruộng được chia cấp tập thể, lập các hợp tác xã và tập đoàn sản
xuất.
ở Nam Bộ, trước hết, là tịch thu ruộng đất của địa chủ, việt gian phản
động chia cho nông dân. Vấn đề mới đặt ra là ruộng đất tịch thu được của địa
chủ còn lại không nhiều trong khi gần hai triệu người, vốn đang hoạt động trong


các lĩnh vực công thương nghiệp (phi nông nghiệp) được coi là đối tượng cải tạo
công thương nghiệp phải trở về nông thôn, đòi hỏi có ruộng đất canh tác. Để có
ruộng đất cấp cho đối tượng này, phải tiến hành điều chỉnh ruộng đất bằng cuộc
vận động "nhường áo sẻ cơm" theo tinh thần Chỉ thị 57 của Bộ Chính trị (tháng
1-1978). Thực chất là cắt đất của 10% số hộ trung nông khá giả để chia bình
quân cho người không có ruộng.
Tiếp theo, thực hiện Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp
(tháng 1-1981) và Chỉ thị 19 (tháng 5-1993) về điều chỉnh ruộng đất và cải tạo
nông nghiệp Nam Bộ của Ban Bí thư trung ương, tiếp tục điều chỉnh ruộng đất
của 40% số hộ trung nông có ruộng đất cao hơn mức bình quân ở địa phương.
Trong quá trình tập thể hoá, đã coi việc phân biệt lợi ích kinh tế trên đất
đai của hộ nông dân là không cần thiết, nên dẫn đến tình trạng cắt đất xâm canh
và xáo canh diễn ra hết sức phức tạp ở nông thôn Nam Bộ.
Như vậy, sau giải phóng, giải quyết vấn đề ruộng đất ở miền Nam đã đưa
lại kết quả nhất định là hoàn thành cách mạng ruộng đất, xoá bỏ chế độ chiếm
hữu và bóc lột của đế quốc và địa chủ phong kiến trên phạm vi cả nước.
Nhưng bên cạnh thắng lợi đó, trong điều chỉnh ruộng đất gắn liền với tập

thể hoá, chúng ta đã mắc những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng:
Trước hết, việc điều chỉnh ruộng đất theo cách làm trên, đã vi phạm lợi
ích của nông dân, đặc biệt là trung nông - nhân vật trung tâm của sản xuất nông
sản hàng hoá ở Nam Bộ, những người có vốn, lao động và kinh nghiệm sản
xuất, đại biểu cho lực lượng sản xuất đang phát triển ở nông thôn.
Thứ hai, việc điều chỉnh ruộng đất nhiều lần dẫn đến bình quân, xoá xâm canh,
gây ra xáo canh, làm cho quá trình sản xuất hàng hoá và phân công lao động bị
biến động lớn. Trên thực chất là đi ngược lại quá trình tích tụ và tập trung ruộng
đất, vốn là tư liệu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá. Nhiều nơi còn chia
ruộng đất cho cả những người hoạt động trong các lĩnh vực phi nông nghiệp, mà


việc họ tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp lại chính là kết quả tiến bộ của quá
trình phân công lao động xã hội. Dù không tự giác, chúng ta làm lại cái đã qua
về mặt lịch sử phát triển.
5. Thời kỳ từ nǎm 1981 đến nay.
a) Từng bước khôi phục kinh tế hộ nông dân.
Kinh tế hộ nông dân được khôi phục bằng khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động, thực chất là khoán hộ.
Khoán hộ trải qua những bước thǎng trầm. Từ nǎm 1962, khoán hộ đã
xuất hiện trên đồng đất Đồ sơn (Hải Phòng) và sau đó ở Vĩnh Phú (1966). Do
nhận thức chưa đổi mới nên khoán hộ không được thừa nhận, phải đến những
nǎm 1977-1980, khi nền nông nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng thì
"khoán chui" xuất hiện phổ biến ở nhiều địa phương trên miền Bắc.
Qua tổng kết thực tiễn trên, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị
100 về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, thường gọi tắt là khoán
100.
"Khoán chui", một mặt, phản ánh sự bắt đầu đổ vỡ khó tránh khỏi của mô
hình tập thể hoá triệt để ruộng đất, sức lao động và tư liệu sản xuất khác của
nông dân; mặt khác, phản ánh tính tất yếu kinh tế - khôi phục lại chức nǎng kinh

tế hộ nông dân. Khoán 100 bước đầu đáp ứng được yêu cầu khách quan này.
Nội dung cơ bản của khoán 100 thể hiện trên mấy điểm:
Mục đích: phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, nǎng suất lao
động, nâng cao thu nhập của người lao động.
Nguyên tắc: quản lý và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất, trước hết là
ruộng đất, quản lý và điều hành lao động phải trên cơ sở gắn với kết quả cuối
cùng của sản xuất, thực hiện khoán theo 5 khâu và 3 khâu; trong phân phối giải
quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích người lao động.
Phạm vi: áp dụng đối với mọi loại cây trồng và vật nuôi.
Khoán 100 đã đưa lại tác dụng phân chia lại chức nǎng kinh tế giữa tập
thể và hộ gia đình cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và phân phối, mở đầu


cho quá trình dân chủ hoá về mặt kinh tế, bằng việc gắn bó trở lại lao động với
ruộng đất, mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân, tạo ra động lực kích thích
phát triển sản xuất. Xét về mặt cơ chế quản lý kinh tế, khoán 100 đã phá vỡ cơ
chế tập trung quan liêu trong sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian đầu, khoán
100 đã có tác dụng làm sống động nền kinh tế nông thôn và tạo ra một khối
lượng nông sản lớn hơn so với thời kỳ trước.
Tuy vậy, khoán 100 cũng chỉ có tác dụng trong một thời gian, sau đó
giảm dần vì cơ chế tập trung quan liêu vẫn còn được duy trì trong hợp tác xã,
cũng như toàn bộ hệ thống tái sản xuất xã hội trong nông nghiệp. Hệ thống này
cùng tính chất mệnh lệnh hành chính, mà hậu quả của nó đè lên vai người nông
dân, trước hết là hộ nhận khoán. Hộ nông dân không đủ khả nǎng bảo đảm tái
sản xuất và nhu cầu đời sống nên đã phải trả lại bớt ruộng đất.
Trước đòi hỏi của cuộc sống, nhiều cấp uỷ đảng ở địa phương đã chủ
động chuyển sang khoán gọn và sau đó được Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị
(tháng 4-1988) xác nhận và thường gọi là khoán 10. Cùng với việc thực hiện
khoán 10 là sự đổi mới toàn bộ cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, đổi mới hoạt
động kinh tế - xã hội ở nông thôn. Từ đây, chức nǎng kinh tế của hộ nông dân

được xác lập trở lại. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 6 (khoá
VI) tháng 3-1989 và Đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng khẳng
định hộ nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất hàng hoá. Đổi mới hình
thức và nội dung hoạt động của các hợp tác xã nhằm khai thác có hiệu quả các
tiềm nǎng kinh tế hộ nông dân và nông nghiệp, từng bước chuyển nền kinh tế tự
cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
III. MẤY KINH NGHIỆM GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT


1- Vấn đề ruộng đất cần được giải quyết từng bước phù hợp với sự phát
triển của cách mạng và lợi ích của nông dân
a) Nhận thức đúng vị trí của vấn đề ruộng đất và lợi ích của người nông
dân trong từng thời kỳ cách mạng để đề ra chính sách ruộng đất phù hợp với
thực tiễn.
Ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt không thay thế được đối với sản
xuất nông nghiệp, là yêu cầu cơ bản và cấp thiết của nông dân trong mọi thời kỳ
cách mạng. Giải quyết vấn đề ruộng đất và nông dân không chỉ mang ý nghĩa
chính trị, mà còn mang ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng đối với sự phát triển
của cách mạng.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng giải quyết vấn đề ruộng đất và
nông dân nhằm tập hợp lực lượng chính trị, tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân,
nòng cốt là liên minh công - nông, để tiến hành đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Mặt chính trị của vấn đề ruộng đất và nông dân được đặt lên hàng đầu. Chủ
trương của Đảng ta trong thời kỳ này là tịch thu ruộng đất của đế quốc, địa chủ
và việt gian chia cho dân cày. Tư tưởng cơ bản của chủ trương trên là nhằm
đoàn kết các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, đoàn kết với cả một bộ phận địa
chủ có tinh thần yêu nước. Nhờ đó, Đảng đã tập hợp xung quanh mình một lực
lượng chính trị, xã hội rộng lớn, nhân sức mạnh của giai cấp công nhân lên gấp
bội, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Mặt kinh tế của vấn đề ruộng đất và nông dân được giải quyết thành công

ở chỗ gắn liền với nhiệm vụ chính trị. Khẩu hiệu "Người cày có ruộng" và chính
sách cải cách ruộng đất thực chất mang nội dung kinh tế, đáp ứng nguyện vọng
tha thiết của nông dân, đồng thời có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Vấn đề ruộng đất
đã có sức lôi cuốn, động viên nông dân tham gia kháng chiến, tǎng cường và
củng cố liên minh công - nông và mặt trận dân tộc thống nhất. Trên cơ sở đó,
Đảng lãnh đạo toàn dân hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.


×