Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN một số vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN về xây DỰNG CHẾ độ dân CHỦ xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.69 KB, 24 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1.

1
Một số vấn đề lý luận về chế độ dân chủ xã hội chủ

2

nghĩa ở nước ta
1.1.

Quan điểm về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa

2

1.2.

Bản chất, nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt

11

2.

Nam
Thực trạng và giải pháp xây dựng chế độ dân chủ

15


2.1

xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Thực trạng xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa

15

2.2.

ở nước ta hiện nay
Phương hướng, giải pháp cơ bản xây dựng và hoàn

18

thiện chế độ dân chủ xã hội chủ ở nước ta hiện nay
KẾT

23

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

24


2
Dân chủ là một phạm trù đa nghĩa với nhiều tầng bản chất và các hình thức
khác nhau. Trong các thời đại lịch sử khác nhau, thì bản chất, trình độ phát triển
của dân chủ cũng có những biến đổi khác nhau. Trình độ dân chủ bị chi phối bởi

trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, dân trí và các nhân tố xã hội khác. Dân chủ là
một thước đo, tiêu chí đánh giá trình độ văn minh của xã hội, trình độ giải phóng
xã hội, giải phóng con người, phản ánh điều kiện, năng lực làm chủ xã hội của
con người. Trải qua, quá trình phát triển các chế độ dân chủ trong lịch sử, đến chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, các quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được
mở rộng và phát huy trên thực tế; các thể chế cơ chế dân chủ không ngừng được
hoàn thiện, nhân dân ngày càng tham gia sâu rộng vào quản lý nhà nước. Và thực
tế lịch sử đã chứng minh tính ưu việt của dân chủ xã hội chủ nghĩa so với nền dân
chủ tư sản.
Ở nước ta “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thật sự phát triển đất nước.” 1. Trong những năm qua,
Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng hoàn thiện chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa nhằm hướng tới xây dựng một nền dân chủ thực sự. Tuy nhiên, trong
đời sống dân chủ hiện nay, hiện tượng vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức diễn
ra phổ biến ở nhiều nơi, do đó thực hiện dân chủ ở cơ sở vẫn còn hình thức, hiệu
quả thấp, là điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ, nhân quyền để
xuyên tạc, chống phá chế độ ta, ảnh hưởng trực tiếp đến công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hơn nữa, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
hiện nay, đã và đang đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện chế độ dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm cho công dân được thực
hành hình thức dân chủ trên thực tế. Vì vậy, nghiên cứu: “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay ”
là đặc biệt cần thiết.

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr. 84



3

NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
1.1. Quan điểm về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
* Quan niệm về dân chủ:
Thuật ngữ “dân chủ” có nguồn gốc từ với cụm từ “demokratia” có nghĩa là
“quyền lực của nhân dân” được ghép từ chữ demos là “nhân dân” và kratos là
“quyền lực” vào khoảng giữa thế kỷ thứ 5 đến thứ 4 trước Công nguyên để chỉ hệ
thống chính trị tồn tại ở một số thành bang Hy Lạp. Như vậy, theo nghĩa khởi
thủy, dân chủ là khái niệm dùng để chỉ một hình thức tổ chức thiết chế chính trị
của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua
một hệ thống bầu cử tự do.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại, qua mỗi thời đại,
mỗi chế độ xã hội, khái niệm dân chủ được hiểu và diễn đạt với nhiều nghĩa khác
nhau, từ chiều rộng, chiều sâu đến quy mô, liên quan đến nhận thức, hành vi con
người, các cộng đồng xã hội và hoạt động của Nhà nước. Trong đó nổi lên các cách
tiếp cận chủ yếu là:
Thứ nhất, dân chủ là một chế độ chính trị, một hình thức nhà nước. Ở nghĩa
này, dân chủ là khái niệm dùng để chỉ tính chất của mối quan hệ giữa cộng đồng dân
cư với nhà nước, theo đó cộng đồng là chủ thể gốc của quyền lực và có quyền năng
áp đặt ý chí lên nhà nước. Khác với các hình thức khác của thiết chế nhà nước, trong
thiết chế dân chủ, quyền của đa số, quyền bình đẳng của mọi công dân, tính tối cao
của pháp luật được chính thức thừa nhận; những cơ quan quyền lực của Nhà nước do
dân bầu cử mà ra. Dân chủ được thực hiện thông qua hai hình thức cơ bản: dân chủ
đại diện và dân chủ trực tiếp.
Thứ hai, dân chủ là một hệ giá trị xã hội mang tính nhân văn cao cả. Với
nghĩa này, dân chủ được xác định như một lý tưởng nhân đạo, một giá trị nhân
văn, nó gắn liền với sự bình đẳng, công bằng xã hội và tự do. Chúng hợp thành

một hệ giá trị xã hội của văn minh và văn hóa mà con người và cộng đồng người
phải không ngừng sáng tạo ra thông qua lao động, đấu tranh và tự giải phóng


4
mình ra khỏi áp bức, bóc lột để trở thành người tự do trong một xã hội mà sự
bình đẳng giữa người với người được thực sự tôn trọng và có khả năng phát triển
tối đa các năng lực làm chủ xã hội của họ.
Thứ ba, dân chủ là một kiểu tổ chức sinh hoạt của các tổ chức chính trị - xã
hội, cộng đồng dân cư dựa trên sự tham gia bình quyền của các thành viên theo
nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và tôn trọng ý kiến của thiểu số. Với nghĩa
này, dân chủ được hiểu theo nghĩa rất rộng, nó có thể tồn tại ở khắp mọi nơi có tổ
chức, có quyền lực và quản lý. Tùy từng phương diện nghiên cứu, cấp độ của dân
chủ được xem xét mà người ta nói đến dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội như: dân chủ ở cơ sở, dân chủ trong sinh hoạt đảng, dân chủ trong trường
học, dân chủ trong đơn vị và thậm chí trong quan hệ gia đình …
Thứ tư, dân chủ còn được xét với ý nghĩa là điều kiện để hình thành và
phát triển một nhân cách toàn diện của các chủ thể chính trị. Ðó là sự hình thành
thái độ, tính tích cực chính trị, sự chủ động, nhu cầu và sự tự giác tham gia vào
các quá trình chính trị thực tiễn. Ðó là tinh thần trách nhiệm của cá nhân công
dân trong cuộc đấu tranh nhằm loại bỏ những gì phản dân chủ đang tồn tại trong
đời sống cộng đồng. Do vậy, dân chủ không chỉ là phạm trù chính trị mà còn là
phạm trù đạo đức.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ là một phạm trù chính
trị - lịch sử, khi Nhà nước xuất hiện, vấn đề dân chủ - quyền lực của dân được
xây dựng thành một chế độ dân chủ, hay một nền dân chủ, biểu hiện tập trung ở
chế độ nhà nước, thông qua chế độ nhà nước. Khi đó, dân chủ có nghĩa là quyền
lực thuộc về nhân dân, là quyền tự do, bình đẳng của nhân dân trong đời sống xã
hội và quan hệ xã hội, gắn liền với những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định.
Dân chủ là sự bình đẳng về quyền lực giữa những cá nhân và cộng đồng. Sự bình

đẳng quyền lực đó được thể hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội… Dân chủ là một quan hệ xã hội, phản ánh khát vọng,
nhu cầu bình đẳng của con người trong hệ thống các quan hệ quyền lực. Là một
quan hệ quyền lực xã hội, dân chủ chịu sự qui định của phương thức sản xuất xã
hội, chế độ xã hội, giai cấp thống trị xã hội. Bởi vậy, trong chế độ xã hội dựa trên


5
chế độ tư hữu, giai cấp thống trị xã hội là giai cấp bóc lột, thì dân chủ thực chất
chỉ là dân chủ của thiểu số bóc lột, là “thiên đường của bọn giàu có”, và là “hạn
chế, cắt xén, giả hiệu, giả dối đối với các giai cấp bị áp bức bóc lột, đối với người
nghèo”. Không thể có bình đẳng giữa người giàu và người nghèo” như V.I.Lênin
khẳng định.
Sự hiện diện của dân chủ trong đời sống và quan hệ xã hội của con người
trong lịch sử gắn liền với sự phát triển xã hội. Cuộc đấu tranh cho dân chủ là một
nội dung, một mục tiêu của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc.Trải qua quá
trình lịch sử lâu dài, dân chủ từng bước được thực hiện, từ chỗ các giai cấp bóc
lột thống trị chà đạp, phủ nhận các quyền dân chủ của nhân dân đến chỗ phải
thừa nhận các quyền dân chủ của nhân dân về mặt pháp lý và thực thi dân chủ
một cách hạn chế. Chỉ có chuyên chính vô sản, chế độ xã hội chủ nghĩa mới đem
lại cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động các quyền dân chủ ngày càng rộng
mở, dân chủ ngày càng trở thành quan hệ xã hội hiện thực, trở nên hoàn bị, triệt
để dưới xã hội cộng sản chủ nghĩa.
* Chế độ dân chủ
Về khái niệm “chế độ dân chủ”, trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết
học pháp quyền Hê ghen”, C.Mác cho rằng: “Chế độ dân chủ là chế độ nhà
nước”; “chế độ dân chủ là sự tự quy định của nhân dân. ..”. “Chế độ dân chủ
ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực, nhân dân
hiện thực và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân”.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác về chế độ dân chủ, V.I.Lênin đã phân tích sâu

sắc thực chất của chế độ dân chủ với tính cách là hình thức chính trị của nhà
nước, phân biệt sự khác nhau giữa chế độ dân chủ với các hình thức chính trị
khác của nhà nước. Trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng", V.I.Lênin viết:
"Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà
nước, cho nên cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ
chức, có hệ thống sự cưỡng chế đối với người ta; một mặt là như thế. Nhưng mặt
khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa


6
những công dân, thừa nhận cho mọi người có quyền ngang nhau trong việc xác
định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước" 1.
"Chế độ dân chủ" là toàn bộ những thể chế, thiết chế cơ chế chính trị thể
hiện và bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, các quyền tự do bình đẳng của
nhân dân trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
Từ quan niệm trên ta thấy, chế độ dân chủ là một hình thức tổ chức xã hội,
là phương thức quản lý và điều hành xã hội được xây dựng thành các thiết chế,
cơ chế, quy chế, chế độ mang tính pháp lý để các chủ thể chính trị thực hiện
quyền lực của mình đối với xã hội.
Dưới góc độ chính trị - xã hội, thì dân chủ là "quyền lực thuộc về nhân
dân", là quyền tự do và bình đẳng về quyền lực của nhân dân trong đời sống xã
hội và quan hệ xã hội. Dân chủ phản ánh mối quan hệ giai cấp, quan hệ công dân
theo nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật, mang giá trị
xã hội sâu sắc. Dân chủ là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, là thành quả đấu
tranh của nhân dân. Là một quan hệ xã hội nên dân chủ cũng như các quan hệ xã
hội khác, chịu sự quy định của phương thức sản xuất xã hội, bản chất kinh tế,
chính trị của một chế độ xã hội và giai cấp nhất định. Do đó, dân chủ là một
phạm trù lịch sử. Dân chủ mang tính giai cấp. Các giai cấp có quan điểm, quan
niệm khác nhau về dân chủ và mục tiêu, phương thức thực thi dân chủ, không có
dân chủ chung chung phi giai cấp, dân chủ gắn với chuyên chính, gắn với quyền

lực giai cấp, gắn với sự lãnh đạo của một chính đảng, sự quản lý của một nhà
nước nhất định. Các thời đại khác nhau, các chế độ xã hội khác nhau, có sự khác
nhau về bản chất, trình độ dân chủ. Trong nền chuyên chính tư sản, giai cấp tư
sản thường rêu rao về tự do, dân chủ một cách chung chung, trừu tượng, siêu giai
cấp, phi giai cấp, hoặc ban hành hay thực thi những cải cách dân chủ hạn chế
cũng không nằm ngoài lập trường, lợi ích kinh tế và quyền lực thống trị của giai
cấp tư sản; đều nhằm mị dân, xoa dịu sự bất bình, phản kháng của quần chúng
nhân dân hoặc lừa bịp quần chúng bảo vệ trật tự tư sản.

1

V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, M. 1976, Tr. 123.


7
Dân chủ cũng mang tính dân tộc sâu sắc, phản ánh đặc điểm dân tộc,
truyền thống lịch sử, bản sắc văn hoá dân tộc, do đó dân chủ chịu sự qui định của
tính chất, trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, dân trí, thông tin, đặc điểm
dân tộc... Đồng thời, xét dưới góc độ và phạm vi nào đó, dân chủ còn mang tính
nhân loại- tính chung của con người, loài người. Các thuộc tính của dân chủ có
mối quan hệ biện chứng chặt chẽ, trong đó tính giai cấp của dân chủ là thuộc tính
cơ bản nhất, thẩm thấu và chi phối sâu sắc tới các thuộc tính khác của dân chủ,
quy định bản chất dân chủ.
Thực tế lịch sử đã thừa nhận, trong mỗi chế độ dân chủ, chủ thể trực tiếp của
quyền lực nhà nước luôn thuộc về một giai cấp hoặc lực lượng xã hội nào nắm
quyền điều khiển, chi phối nhà nước và thông qua nhà nước mà điều khiển và chi
phối xã hội. Và do vậy, khi xã hội có giai cấp đối kháng và nhà nước, dân chủ là
sản phẩm của đấu tranh giai cấp giữa một số ít nắm quyền thống trị và số đông
nhân dân bị mất hết quyền và bị thống trị. Số ít cầm quyền, nhân danh cộng đồng,
nhân danh lợi ích chung đặt ra luật pháp, thao túng mọi quyền hành, tước quyền

làm chủ của nhân dân. Dân chủ luôn mang tính giai cấp, không có dân chủ chung
chung phi giai cấp, dân chủ gắn với chuyên chính, gắn với quyền lực giai cấp, gắn
với sự lãnh đạo của một chính đảng, sự quản lý của một nhà nước nhất định.
Ngay từ năm 1975, khi nghiên cứu về Nhà nước Phổ, C.Mác đã nói, dân
chủ theo tiếng Đức là chính quyền của nhân dân. Trong tác phẩm “Nhà nước và
cách mạng”, Lênin cho rằng: “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một
trong những hình thái của nhà nước”2, nghĩa là có nhà nước dân chủ và cũng có
nhà nước không dân chủ. Cơ sở kinh tế của chế độ dân chủ thể hiện trực tiếp ở
chế độ sở hữu các tư liệu sản xuất của xã hội. Cơ sở xã hội của một chế độ dân
chủ không chỉ là giai cấp cầm quyền mà còn là các giai cấp và tầng lớp khác cấu
thành dân tộc, các cộng đồng dân cư trong xã hội. Do vậy, tính dân tộc và tính xã
hội là đặc tính khách quan của bất cứ một chế độ dân chủ nào. Các thời đại khác
nhau, các chế độ xã hội khác nhau, có sự khác nhau về bản chất, trình độ dân chủ.
Dân chủ chịu sự qui định của tính chất, trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn
2

V.I.Lênin (1917), Nhà nước và cách mạng, Toàn tập, t33, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1980, tr.


8
hoá, xã hội, dân trí, thông tin, đặc điểm dân tộc...
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã từng xuất hiện ba chế độ
dân chủ là: dân chủ chủ nô; dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chế độ
dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản về thực chất là dân chủ cho một số ít người nắm
quyền lực thống trị xã hội, còn tuyệt đại đa số nhân dân mất quyền, trở thành
người bị trị, bị áp bức, bóc lột. Còn dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ
mà mọi quyền lực thực tế thuộc về nhân dân - dân chủ của nhân dân lao động dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nền dân chủ này giành được do kết quả
thắng lợi của cuộc đấu tranh lâu dài vì tiến bộ xã hội của nhân dân lao động.
* Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa:

Chế độ dân chủ XHCN là toàn bộ những thể chế, thiết chế chính trị - xã hội
XHCN, thể hiện và bảo đảm quyền lực xã hội thuộc về giai cấp công nhân và nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, thông qua hệ thống chính trị XHCN và
làm chủ trực tiếp của nhân dân theo những qui định của pháp luật XHCN.
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức chính trị của nhà nước
chuyên chính vô sản - nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong đó toàn bộ những thể
chế, thiết chế, cơ chế, quy chế được thể chế hóa thành luật pháp, thể hiện và bảo
đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Chế độ dân chủ XHCN là chế độ do nhân dân lao động làm chủ. Cơ sở khách
quan qui định bản chất chế độ dân chủ XHCN là chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất và bản chất chính trị - xã hội của giai cấp công nhân. Chế độ dân chủ XHCN
là nền dân chủ thực sự chứ không phải là dân chủ hình thức, nó hoàn toàn đối lập
với dân chủ cực đoan, vô chính phủ, với chuyên quyền độc đoán.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là thành quả đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân và toàn thể những người lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, chống ách bóc lột, áp bức và nô dịch của chủ nghĩa tư bản. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa được ra đời từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917)
nhưng so với nền dân chủ tư sản, nó vẫn còn rất mới mẻ, non trẻ và đang trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện.


9
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ khác biệt về bản chất và nguyên
tắc so với dân chủ tư sản - đó là nền dân chủ của đông đảo nhân dân trong xã hội,
quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân tự tổ chức và thực hiện, trước hết và chủ
yếu là thông qua nhà nước của mình. Sự khác biệt này được thể hiện ở những đặc
trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất, dân chủ tư sản chỉ phục vụ lợi ích của một thiểu số giai cấp tư
sản nắm quyền lực về kinh tế và chính trị trong xã hội tư sản. Nền dân chủ tư sản,
xét về mặt bản chất, không phục vụ cho công nhân và nhân dân lao động, trái lại,

các thiết chế dân chủ tư sản lập ra chủ yếu nhằm phục vụ lợi ích và quyền lực cho
giai cấp tư sản, bóc lột và áp bức số đông trong xã hội. Pháp quyền tư sản thừa
nhận trên nguyên tắc pháp lý những quyền của con người, nhưng trên thực tế,
việc thực hiện những quyền đó đối với quần chúng thường bị hạn chế. Những
thành quả dân chủ và tiến bộ xã hội đạt được chủ yếu phải thông qua cuộc đấu
tranh của quần chúng nhân dân lao động, của phong trào công nhân chứ không
phải do giai cấp tư sản cầm quyền tự nguyện thực hiện. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
hướng mục tiêu vào việc khẳng định và thực hiện quyền lực của đa số. Giai cấp
công nhân và nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực đó. Thể chế nhà nước
và các thiết chế dân chủ khác đều hướng đích vào việc thực hiện lợi ích, quyền
lực của nhân dân. Quyền lực nhân dân, đó là cơ sở và là mục tiêu của việc xây
dựng thể chế, phát triển và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, xét về mặt chính trị, Thể chế nhà nước tư sản tuy là một bước
tiến lớn so với nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến, song nhà nước đó
vẫn dựa trên nền tảng kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
sở hữu thuộc về giai cấp tư sản nên nhà nước ấy trước sau vẫn chỉ là công cụ
nhằm bảo vệ lợi ích và duy trì quyền lực của giai cấp tư sản. Quyền lực nhân
dân uỷ quyền vào nhà nước tư sản bị giai cấp tư sản cầm quyền thao túng. Nó
đã bị tha hoá, chỉ còn mang tính hình thức mà căn nguyên sâu xa của nó là ở
chế độ tư hữu.
Khác với thể chế chính trị của nền dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ
nghĩa là một hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân trong xã hội, thông qua


10
nhà nước xã hội chủ nghĩa và biểu hiện trực tiếp ở nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Lực lượng chủ đạo của toàn bộ quá trình phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là Đảng Cộng sản. Nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng phản ánh những
lợi ích của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một thể chế quyền lực để thực hiện chức năng

quản lý, điều hành toàn diện các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và để
thực thi quyền lực nhân dân. Mục tiêu của thể chế nhà nước và thể chế chính trị
xã hội chủ nghĩa nói chung là xây dựng và phát triển dân chủ, đảm bảo cho nhà
nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và thực quyền, thực sự là của dân, do
dân và vì dân, thể hiện được sự uỷ quyền của nhân dân.
Cơ sở chính trị đồng thời là đối tượng phục vụ của nhà nước là khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trên nền tảng khối liên minh giữa giai cấp công với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức. Nhà nước phục vụ nhân dân bằng cách tạo ra những điều kiện để
dân thực hiện được lợi ích, được quyền và nghĩa vụ của mình, để dân tham gia
vào đời sống chính trị của xã hội với các hoạt động quản lý, kiểm tra, giám sát và
tự quản một cách tích cực, tự giác, chủ động.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, những hình thức dân chủ là dân chủ đại diện
và dân chủ trực tiếp được phát triển rộng rãi, biểu hiện trong những hoạt động
của công dân và các tổ chức xã hội để xây dựng nhà nước, xã hội và nền dân chủ,
đồng thời nhà nước thực hiện vai trò, chức năng quản lý của mình theo nguyên
tắc tập trung dân chủ. Sự phối hợp những phương thức đó giữa nhà nước - nhân
dân và xã hội đảm bảo cho tập trung dân chủ không bị biến dạng bởi quan liêu và
tự do vô chính phủ.
Thứ ba, về kinh tế, cùng với việc thiết lập chế độ chính trị và thể chế nhà
nước của xã hội mới, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở
kinh tế mới với chế độ sở hữu xã hội thay thế cho chế độ tư hữu. Sở hữu xã hội
mà nhà nước là đại diện đem lại quyền làm chủ tư liệu sản xuất của xã hội thuộc
về giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Những quan hệ lợi ích mới được
hình thành từ quan hệ sở hữu đó, lợi ích giữa giai cấp với dân tộc, giữa cá nhân
với tập thể và xã hội thống nhất hài hoà. Chính quan hệ sản xuất mới xã hội chủ


11
nghĩa mà hạt nhân của nó là chế độ sở hữu xã hội hình thành, đem lại quyền làm
chủ kinh tế của nhân dân.

Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và dân chủ xã hội
chủ nghĩa, nhất là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn những khác biệt về
nhu cầu, trình độ và lợi ích, những chênh lệch trong hưởng thụ lợi ích và cũng
còn cả những mâu thuẫn lợi ích giữa các chủ thể khác nhau về sở hữu, nhưng
trong xã hội không còn cơ sở cho sự tồn tại những đối kháng và xung đột về kinh
tế cũng như các quan hệ xã hội, giai cấp. Những khác biệt đó sẽ dần dần được
khắc phục bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội, sự
hoàn thiện của tổ chức sản xuất và quản lý kinh tế và việc thực hiện hài hoà giữa
lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã
hội. Cơ sở kinh tế của dân chủ có tác dụng và ảnh hưởng trực tiếp đối với cơ sở
chính trị và môi trường xã hội của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, về hệ tư tưởng và văn hoá: Với tư cách là một chế độ xã hội kiểu mới dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng không chỉ trên cơ sở kinh tế, chính trị mà
còn trên cơ sở hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm chủ đạo, ý thức xã hội và đời
sống tinh thần của xã hội thấm sâu giá trị văn hoá dân chủ nhân văn, nhân đạo. Nó
thẩm thấu và chi phối các quan hệ ứng xử, thực hành dân chủ của cá nhân, công dân
một cách có văn hoá, trở thành giá trị văn hoá của mỗi người. Đồng thời tạo ra môi
trường văn hóa tinh thần lành mạnh trong xã hội, làm điều kiện để hình thành và phát
triển nhân cách trung thực, sáng tạo, tự ý thức rõ rệt mối liên hệ tất yếu giữa quyền và
nghĩa vụ, giữa cá nhân với xã hội, giữa dân chủ với pháp luật, giữa dân chủ với tập
trung. Với tất cả những cơ sở và nội dung đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự đóng
vai trò là mục tiêu, động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Thứ năm, dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình phủ định biện chứng dân chủ
tư sản. Nó kế thừa những mặt tiến bộ và hợp lý các giá trị tiến bộ mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa như: trình độ và kinh nghiệm xây dựng thể
chế, nhất là luật pháp, tính nền nếp, kỷ cương trong thi hành luật pháp, nếp sống
theo tập quán pháp để giữ nghiêm hiệu lực pháp luật; các kỹ năng và công nghệ
chính trị, nhất là trong quản lý nhà nước, trình độ học vấn, học thức và văn hóa của


12

con người trong hoạt động tham chính…. Đồng thời nó lọc bỏ để vượt qua những gì
không phù hợp, đối lập với bản chất xã hội chủ nghĩa đó là chủ nghĩa cá nhân tư sản
cực đoan, vị lợi và vị kỷ, tôn thờ lợi nhuận và làm giàu bằng mọi giá…
Những đặc trưng trên phản ánh bản chất ưu việt của chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhưng trên thực tế nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đang trong quá trình xây
dựng, hoàn thiện để đạt được sự trưởng thành, phát triển đúng bản chất vốn có của nó
- Đó là chế độ dân chủ hơn “gấp triệu lần” bất cứ chế độ dân chủ nào trong lịch
sử như V.I.Lênin từng khẳng định.
Tuy nhiên, thực tế lịch sử cho thấy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời từ
các nước vốn là các nước tư bản phát triển trung bình, hoặc chưa qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, nên các thể chế, cơ chế dân chủ phải xây dựng từ
đầu, hoặc chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện; trình độ dân trí, văn hoá dân chủ, văn
hoá pháp luật của nhân dân còn hạn chế; các tàn dư tư tưởng tư sản, tiểu tư sản,
phong kiến, tâm lý, thói quen tản mạn, tuỳ tiện của người sản xuất nhỏ còn ảnh
hưởng không nhỏ, cũng như năng lực quản lý nhà nước, quản lý xã hội của chủ
thể dân chủ xã hội chủ nghĩa còn nhiều bấp cập, yếu kém, thậm chí sai lầm trong
quá trình thực thi dân chủ, phần nào đã hạn chế, thậm chí làm biến dạng bản chất
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Lợi dụng những bất cập, hạn chế đó, các thế lực thù
địch với chủ nghĩa xã hội đang ra sức xuyên tạc, phủ nhận dân chủ xã hội chủ
nghĩa, coi nhà nước chuyên chính vô sản là quan liêu, cực quyền, vi phạm dân
chủ, nhân quyền và . ..v.v. . để kích động, gây mất ổn định chính trị, hòng làm
suy yếu và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình đó, Đảng cộng sản và
nhà nước xã hội chủ nghĩa cùng toàn thể nhân dân cần đề cao cảnh giác, kiên
quyết vạch trần những âm mưu đen tối đó; đồng thời, chăm lo xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, mở rộng và phát huy dân chủ, tôn trọng quyền
dân chủ của nhân dân để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng thể
hiện bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa.
1.2. Bản chất, nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
* Bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:



13
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân…
… quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”3.
Thực hiện tư tưởng của Người, Đảng và Nhà nước ta không ngừng xây
dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã khẳng định: “Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước”4. Luận điểm cơ bản này của Đảng là luận điểm "gốc"
khẳng định những vấn đề chủ yếu nhất, cốt lõi nhất của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa: bản chất và vai trò của nền dân chủ; sự trung thành với chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thời đại và thực tiễn Việt Nam.
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một thể chế chính trị để bảo
đảm và thực hiện quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân trong đời sống kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, tinh thần; phát huy cao độ tính tích cực sáng tạo của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, thông qua Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bản chất dân chủ của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta được thể hiện trên những điểm sau:
Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân. Nhân dân là chủ thể của Nhà nước và của quyền lực. Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và
các hình thức dân trực tiếp, dân chủ đại diện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm bằng hiến pháp, pháp luật,
chính sách và cơ chế, điều kiện và được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi
cấp, trên tất cả các lĩnh vực; được hoàn thiện và nâng cao trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, phát triển con người cả về đạo đức, trí tuệ, thể chất và năng
lực hoạt động.

3

Hồ Chí Minh (1949), “Dân vận”, Toàn tập, t5, Nxb CTQG, H, 2000, tr.698.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-Sự
thật, H, tr.84.
4


14
Xã hội tạo điều kiện và cơ chế đảm bảo cho nhân dân tham gia vào công
việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia vào những công việc trọng đại
của đất nước, đảm bảo cho nhân dân có quyền và có điều kiện bầu cử, ứng cử tự
do, dân chủ, có chất lượng; tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ
quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội…
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân;
chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công
dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời
nghĩa vụ công dân.
Mọi hành vi xâm phạm đến chủ quyền quốc gia, lợi ích quốc gia và lợi ích
của mỗi công dân đều bị nghiêm trị. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương,
quyền lực gắn liền với trách nhiệm và nghĩa vụ; dân chủ với nhân dân và chuyên
chính đối với kẻ thù.
Như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu của công cuộc đổi mới,
đồng thời là mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu dân chủ được
thể hiện trước hết ở dân chủ trong kinh tế, dân chủ trong chính trị. Cùng với nó
còn là dân chủ trong văn hóa, trong phát triển xã hội và quản lý xã hội, hướng
trực tiếp vào việc giải quyết các vấn đề xã hội, chính sách xã hội và an sinh xã
hội cho con người, vì con người.
Với tư cách là động lực của phát triển đất nước. Vai trò của dân chủ thể
hiện ở chỗ khi lợi ích giữa cá nhân và cộng đồng được giải quyết, nó sẽ khơi

thông các nguồn lực, phát huy tính tích cực lao động, thúc đẩy năng suất, chất
lượng, hiệu quả, vì lợi ích cá nhân và vì lợi ích cộng đồng. Dân chủ làm nhân lên
sức mạnh của nội lực và ngoại lực, tạo ra xung lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
cả về tốc độ, quy mô và chất lượng.
Động lực dân chủ không chỉ biểu hiện ở kinh tế mà còn biểu hiện ngày
càng rõ hơn ở chính trị, khi quyền lực và ý chí của nhân dân được tôn trọng và
thực hiện rõ ràng, công khai, minh bạch, thì dân chủ chính trị sẽ tỏ rõ sức mạnh
động lực của nó đối với tiến bộ và phát triển xã hội. Môi trường xã hội dân chủ sẽ
làm hình thành dư luận xã hội tích cực, thúc đẩy hành động sáng tạo của đông


15
đảo quần chúng để bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng và Nhà nước, chống lại những
hành vi phản dân chủ.
Với từng người, dân chủ là động lực mạnh mẽ để thực hiện tự do tư tưởng,
hình thành nhân cách trung thực và sáng tạo. Môi trường xã hội dân chủ lành mạnh
- nơi các trị nhân cách, năng lực, phẩm giá con người được tôn trọng, được đánh
giá khách quan công bằng và có chính sách đãi ngộ thỏa đáng thì họ sẽ tận tụy hết
mình trong công việc, trong sự nghiệp phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
* Nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có nội dung toàn diện, bao quát các
lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, từ các mối
quan hệ giữa con người với con người đến quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng,
giữa công dân với nhà nước, với tổ chức và thể chế hiện hành.
Hai lĩnh vực quan trọng hàng đầu và nổi bật nhất là dân chủ kinh tế và dân
chủ chính trị. Nó quy định dân chủ trong lĩnh vực xã hội, tư tưởng và văn hóa.
Nó cũng biểu hiện trực tiếp vấn đề quyền con người (nhân quyền) và quyền công
dân (dân quyền).
Điểm cốt lõi của dân chủ kinh tế là lợi ích - đó chính là quyền làm chủ về
sở hữu của người lao động trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội

chủ nghĩa. Nó cho phép người có sức lao động tự mình tổ chức sản xuất kinh
doanh, thực hiện quyền lao động chính đáng, hợp pháp mang lại lợi ích cho mình
cũng như của sự phát triển xã hội.
Quyền làm chủ về sở hữu được thể hiện cụ thể qua quyền vận dụng các
nguồn lực kinh tế, đưa chúng vào hoạt động sản xuất kinh doanh; ở việc phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu và phân phối sản
phẩm lao động xã hội.
Điểm cốt lõi của dân chủ chính trị ở Việt Nam được thể hiện trên bốn vấn
đề cơ bản đó là: Thứ nhất, quyền được có một nhà nước thực sự dân chủ. Nhà
nước do nhân dân bầu ra qua phổ thông đầu phiếu. Mọi hoạt động của nhà nước
phải đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp và thông qua các tổ chức đại diện của nhân
dân. Thứ hai, quyền của người dân tham gia vào công việc nhà nước. Thứ ba, bảo


16
đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững nền tảng tư tưởng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo đảm cho mọi người dân quyền
tự do suy nghĩ, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng... Thứ tư, mọi đại biểu cho dân
phải được nhân dân bầu ra, mọi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật...
Thứ năm, phương thức hiện dân chủ là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, phát
huy dân chủ tự quản.
Dân chủ trong xã hội được biểu hiện đó là: Quyền công dân, quyền con người
của nhân dân - không chỉ bảo đảm bằng pháp lý thông qua việc thể chế hóa thành luật,
mà quan trọng hơn được bảo đảm trong thực tế. Nhu cầu cao nhất của quyền công
dân, quyền con người là được sống trong một đất nước hòa bình, độc lập, tự do. Dân
chủ trong văn hóa, tư tưởng, tinh thần đó là quyền tự do thân thể, tự do tư tưởng, tự
do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, quyền được giải phóng tiềm năng sáng tạo và hưởng
thụ các giá trị tinh thần… trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
Nội dung dân chủ ở Việt Nam còn được biểu hiện quan hệ giữa cá nhân
với cộng đồng và xã hội với sự thống nhất hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, lợi

ích và trách nhiệm.
2. Thực trạng và giải pháp xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay
2.1.Thực trạng xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay
Trải qua hơn 60 năm xây dựng đất nước, đặc biệt qua hơn 25 đổi mới,
công cuộc xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực.
Về dân chủ trong kinh tế: Với hạt nhân là lợi ích và công bằng trong phân
phối lợi ích, trong quá trình đổi mới từ năm 1986 đến nay, Đảng, Nhà nước ta đã
ban hành và không ngừng hoàn thiện các cơ chế và chính sách mới nhằm mở
rộng quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế, phát huy tiềm năng của các thành phần
kinh tế, mọi người dân được phép tự do kinh doanh theo pháp luật.
Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư nhân và các thành
phần kinh tế khác đã có nhiều khởi sắc, mang lại những đóng góp có giá trị cho


17
đất nước. Cũng nhờ việc xác lập nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế đã tạo nên sự năng động của sản xuất và dẫn tới tăng trưởng kinh tế, đưa xã hội
ra khỏi lạm phát, khủng hoảng, vượt qua sức ỳ và sự trì trệ, hướng tới phát triển.
Về dân chủ trong chính trị:
Cùng với thành tựu dân chủ trong kinh tế, dân chủ trong chính trị ở nước ta
cũng đã có những bước tiến căn bản, nổi bật nhất là việc đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị nhằm phát huy
hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của nhân dân, vai trò giám sát của nhân
dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức.
Công tác dân vận của hệ thống chính trị có nhiều đổi mới cả về nội dung
và hình thức. Trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan dân cử, hiệu lực, hiệu

quả quản lý của chính quyền các cấp được nâng lên. Các cấp ủy đảng, chính
quyền lắng nghe, tăng cường đối thoại với các tầng lớp nhân dân, tôn trọng các
loại ý kiến khác nhau. Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở
rộng và nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn. Việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
được coi trọng.
Về dân chủ trong văn hóa, xã hội.
Trong sinh hoạt tư tưởng, người dân được tự do thảo luận và tham gia trực
tiếp vào những vấn đề trọng đại của đất nước. Nhiều chủ trương, chính sách,
pháp luật quan trọng đã được nhân dân tham gia góp ý kiến trước khi quyết định.
Nhiều văn bản pháp quy được ban hành nhằm từng bước thực hiện dân chủ hóa
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, góp phần giảm sự phân cực giàu nghèo, xóa
đói giảm nghèo; khuyến khích làm giàu chính đáng…Nhu cầu tín ngưỡng tôn
giáo của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Những giá trị văn hóa của 54 dân
tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam được trân trọng giữ gìn và
phát huy. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng và tăng cường
trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt vai trò tập


18
hợp lực lượng, cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của nhân dân. Quyền tự do cư trú, quyền đăng ký hộ khẩu - hộ tịch, quyền
lựa chọn quốc tịch và quyền có hai quốc tịch... của công dân ngày càng được mở
rộng. Nhờ đó, xã hội đã hình thành bầu không khí cởi mở, tinh thần, ý thức xã hội
được giải phóng, môi trường - tâm lý xã hội ngày càng dân chủ tạo sự đồng thuận
trong xã hội, kích thích mọi khả năng sáng tạo của cá nhân và cộng đồng.
Như vậy, trong đời sống dân chủ ở nước ta, các hình thức dân chủ đã được
tổ chức thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ. Thông qua thực hiện các hình thức dân
chủ, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng, tạo động lực mạnh

thúc đẩy nhân dân tham gia ngày càng tích cực vào mọi công việc của đất nước,
xã hội và cộng đồng; làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng hệ
thống chính trị, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh; ngăn chặn
các tư tưởng, hành động lợi dụng “dân chủ”, vi phạm dân chủ, tạo sự đồng thuận
trong xã hội và góp phần hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên,
quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay cũng có
những khó khăn, hạn chế, thiếu sót. Biểu hiện cụ thể là: Tình trạng suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng; quyền làm chủ của
nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Nhiều chủ trương,
quan điểm của Đảng về quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa
được thể chế hóa đầy đủ thành pháp luật; hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa được
thực hiện nghiêm túc. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân
còn hạn chế, mang tính hành chính, chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở.
Việc thực hành dân chủ ở các cấp trong hệ thống chính trị còn mang tính hình
thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối,
ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội…
Tình trạng trên làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến bản chất tốt đẹp của chế độ
dân chủ nước ta, làm suy giảm động lực phát triển của đất nước, nếu không được
ngăn chặn và khắc phục kịp thời sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận
mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.


19
Những hạn chế trên có những nguyên nhân cơ bản sau:
- Một số tổ chức và cấp ủy đảng còn có biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung
dân chủ, quan liêu, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức, không chấp hành nghiêm
nghị quyết, không thực hiện tốt việc phê bình và tự phê bình trong Ðảng.
- Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh, nặng nề; hệ thống pháp
luật chưa hoàn thiện và đồng bộ; thực hiện cải cách hành chính còn chậm trễ gây

nhiều phiền hà cho nhân dân. Chưa quy định rõ ràng hợp lý chức năng, nhiệm vụ, cơ
chế vận hành của tổ chức bộ máy dẫn đến tình trạng vừa chồng chéo, vừa sơ hở, đùn
đẩy trách nhiệm cho nhau; một số bộ, ngành không thực hiện đúng chức năng quản lý
nhà nước trên các lĩnh vực được giao phó.
- Tổ chức các đoàn thể nhân dân nhìn chung khắc phục chưa tốt tình trạng
hành chính hóa trong hoạt động dẫn đến không nắm chắc được tâm tư, nguyện
vọng và vướng mắc của quần chúng để kịp thời giải quyết hoặc báo cáo với tổ
chức đảng, chính quyền phối hợp giải quyết.
- Một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ của Ðảng, Nhà nước và các
đoàn thể còn bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém so với yêu cầu, nhiệm vụ của giai
đoạn cách mạng mới. Trong điều kiện kinh tế thị trường, một bộ phận không nhỏ
cán bộ sa sút về phẩm chất chính trị, về đạo đức lối sống, lợi dụng chức quyền
dẫn đến quan liêu, tham nhũng, sa vào chủ nghĩa cá nhân.
- Trình độ dân trí, năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của quần
chúng nhân dân trong những năm đổi mới, tuy đã được nâng lên một bước,
nhưng vẫn còn nhiều biểu hiện non yếu. Sự hiểu biết về các quy định của pháp
luật, về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm công dân, nhìn chung còn chưa đầy
đủ, còn cảm tính, xuôi chiều. Tình trạng coi thường pháp luật, kỷ cương, kỷ luật,
quy tắc sinh hoạt xã hội vẫn còn tiếp tục diễn ra.
2.2. Phương hướng, giải pháp cơ bản xây dựng và hoàn thiện chế độ
dân chủ xã hội chủ ở nước ta hiện nay
* Phương hướng:
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối


20
quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thực hiện đầy đủ quyền làm
chủ của nhân dân, giữ nghiệm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động
xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

- Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức
phải thực sự là công bộc của nhân dân.
- Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức
thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng. Mọi đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân.
- Xác định và hoàn thiện các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực
hiện quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện các cơ chế cụ thể
để nhân dân thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối
với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.
- Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người
dân, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt
Nam đã tham gia ký kết hoặc tham gia.
* Giải pháp xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay
- Thứ nhất, quán triệt và nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, công
chức và nhân dân về bản chất, mục tiêu và vai trò của dân chủ đối với sự nghiệp
đổi mới phát triển đất nước.
Mọi cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân phải luôn luôn quán triệt quan
điểm dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Quyền lực
chính trị của nhân dân không được bảo đảm sẽ dẫn tới tình trạng người dân thờ ơ,
lãnh đạm đối với xã hội, suy giảm tính tích cực chính trị - đó chính là đầu mối làm
suy giảm và đánh mất tiềm năng sáng tạo, mất động lực để phát triển. Khi dân chủ
được bảo đảm, con người và các quan hệ xã hội sẽ trở nên cởi mở và năng động hơn.
Nguồn lực của mọi nguồn lực, động lực của mọi động lực, động lực sâu xa cho mọi
sự phát triển chính là nhân tố con người.


21
- Thứ hai, đẩy mạnh thực hiện dân chủ trong Ðảng, trong bộ máy nhà nước
và các đoàn thể xã hội; đồng thời không ngừng nâng cao hiệu quả vận hành của

cả hệ thống chính trị.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền dân chủ nhất nguyên dưới
sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, để tránh nguy cơ độc đoán chuyên
quyền, mất dân chủ, trước hết phải tiến hành dân chủ hóa trong Ðảng, thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình và tự phê bình. Các tổ chức
Ðảng, cũng như từng đảng viên, đều phải hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp
và pháp luật. Đảng phải luôn đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo đối với hệ
thống chính trị, mà trong đó cơ bản nhất là đối với nhà nước nhằm đạt mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội, khẳng định trên thực tế quyền lực chính trị thật sự thuộc về
nhân dân lao động.
- Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm các quyền công
dân và quyền con người trong quá trình mở rộng và phát huy dân chủ.
Để mở rộng dân chủ, thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
một mặt, Nhà nước phải bảo đảm các thể chế, thiết chế, cơ chế dân chủ được chế
định bằng nguyên tắc, luật pháp và các chuẩn mực văn hóa đạo đức để buộc các
chủ thể cầm quyền dù muốn hay không cũng phải tuân theo. Pháp luật phải ghi
nhận và thể chế hóa đầy đủ quyền con người, quyền công dân và bảo đảm về mặt
pháp lý để các thành viên của xã hội có điều kiện bảo vệ lợi ích hợp pháp cũng
như kiểm soát được quyền lực của mình...
Mặt khác, phải bảo đảm tính toàn diện trong quá trình mở rộng và phát huy
dân chủ. Về kinh tế, cái cốt lõi là bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động. Những
lợi ích đó phải được thể chế hóa trong các quyền công dân: sở hữu, quản lý, phân
phối làm cho người lao động làm chủ thực sự về tư liệu sản xuất, tạo động lực phát
triển sản xuất kinh doanh là cơ sở để thực hiện lợi ích và tiến bộ xã hội.
Về chính trị, phải bảo đảm cho nhân dân có quyền tham gia vào các hoạt
động quản lý điều hành của nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội một cách trực
tiếp và thông qua các đại diện ưu tú do mình lựa chọn. Phải bảo đảm quyền dân


22

chủ trong ứng cử, bầu cử, trong thảo luận, đóng góp ý kiến xây dựng các dự án
luật; trong sinh hoạt dân chủ ở các cơ quan dân cử, các đoàn thể xã hội...
Về văn hóa, tinh thần, phải tạo cho các tầng lớp nhân dân có quyền tự do
hưởng thụ thành tựu văn hóa tiến bộ và tự do tư tưởng. Nhà nước bảo đảm cho
công dân quyền được thông tin, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do sáng tạo,
quyền thảo luận và biểu quyết những vấn đề quan trọng trong việc xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần xã hội...
- Thứ tư, đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ sở. Việc bảo vệ quyền làm chủ
của nhân dân ở cơ sở và từ cơ sở là vấn đề rất quan trọng. Cơ sở là nơi trực tiếp
thực hiện đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước, là nơi sinh sống, lao
động sản xuất, công tác, nơi diễn ra tiếp xúc và mối quan hệ nhiều mặt giữa các
tầng lớp nhân dân với đảng bộ chính quyền, công chức điều hành xử lý công việc
thường ngày... Do vậy, cần phải xây dựng chế độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở, từ nền
tảng của hành chính với sự tham gia thật sự, trực tiếp của quần chúng vào tất cả
đời sống của nhà nước.
- Thứ năm, không ngừng nâng văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ và năng
lực thực hành dân chủ của quần chúng nhân dân lao động. Quyền lực thuộc về
nhân dân, do nhân dân tự tay mình thực hiện chỉ trở thành hiện thực trong cuộc
sống khi trình độ ý thức chính trị, văn hóa dân chủ và khả năng tham gia vào đời
sống chính trị của đất nước của nhân dân đạt được ở những mức độ nhất định và
ngày càng được nâng cao. Do vậy phải phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học
nâng cao dân trí và năng lực thực hành dân chủ cho nhân dân, trước hết phải đẩy
mạnh phát triển truyền thông đại chúng để làm cơ sở cho các cuộc tranh luận,
thảo luận, trưng cầu ý kiến qua đó nâng cao văn hóa dân chủ trong xã hội, hình
thành dư luận xã hội, đồng thời là diễn đàn để dân chúng diễn đạt ý kiến của
mình, nơi nhân dân gửi đơn thư, khiếu nại trước khi các cơ quan chức năng vào
cuộc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.


23

KẾT LUẬN
Dân chủ xã hội chủ nghĩa có kế thừa những giá trị của văn minh nhân
loại, kể cả các giá trị dân chủ tư sản và phát huy những truyền thống dân chủ tốt
đẹp của dân tộc. Do đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ rộng rãi, hoàn
thiện, triệt để hơn các chế độ dân chủ đã có trong lịch sử. Cùng với sự phát triển
của xã hội xã hội chủ nghĩa, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ ngày càng được
mở rộng, phát huy và tự tiêu vong trong xã hội cộng sản chủ nghĩa. Thực hiện
dân chủ hóa trong đời sống xã hội là phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước,
qua đó làm giảm thiểu khả năng tha hóa của quyền lực, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Do đó, việc hoàn thiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
là đặc biệt cần cấp thiết, tuy nhiên, đó là một quá trình khó khăn, lâu dài gắn liền
với quá trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, bảo đảm quyền lực Nhà nước trên
thực tế thuộc về nhân dân, thu hút, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ
của mình, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tạo động lực to lớn cho
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước./.


24
Tài liệu tham khảo
1. Các văn kiện Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, HN, 1987.
2. Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII, Nxb ST, HN, 1991.
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001.
6. Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011.
7. Tìm hiểu một số khái niệm trong dự thảo cương lĩnh, Nxb TTVH, HN,1991.
8. Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991-2011), Nxb CTQG, H. 2011.
15. C.Mác - Ph.ăng ghen, Toàn tập, tập 6, Nxb ST, HN, 1981.
16. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb M, 1981.
5. Hoàng Chí Bảo, Hệ thống chính trị ở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb CTQG,

H, 2005.
6. Vũ Hoàng Công, Hệ thống chính trị cơ sở, đặc điểm, xu hướng và giải pháp,
Nxb CTQG, H, 2002.
12. Hồ Chí Minh, Tuyển tập (tập 2), Nxb ST, H, 1980.
13. Một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay (tài liệu học tập nghị
quyết 09 của BCT), Nxb ST, HN, 1995.
14. Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại hiện nay, Nxb CTQG,
HN, 1996.



×