Tải bản đầy đủ (.ppt) (31 trang)

Xây dựng kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.09 KB, 31 trang )

XÂY DỰNG KẾ HOẠCH GIÁO DỤC
LẤY TRẺ LÀM TRUNG TÂM


MỤC TIÊU BÀI HỌC
Sau bài học, học viên nắm được :
Kỹ năng xây dựng kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm
Kỹ năng xác định mục tiêu và lập kế hoạch cho
một hoạt động học.


Hoạt động 1
Theo bạn loại kế hoạch nào trong
các kế hoạch giáo dục năm, tháng, tuần,
ngày là quan trọng? Anh/chị hãy giải
thích tại sao? Các kế hoạch giáo dục đã
thể hiện được quan điểm lấy trẻ làm
trung tâm chưa?


1. Kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là:
KHGD căn cứ vào trẻ nghĩa là căn cứ khả năng, nhu
cầu học tập, kinh nghiệm sống của trẻ để xác định mục
tiêu, cụ thể nội dung.
Tổ chức hoạt động luôn đặt trẻ vào trung tâm của quá
trình giáo dục, có nghĩa là tạo mọi cơ hội cho trẻ được
tham gia vào các hoạt động:
- Trải nghiệm: trẻ được học qua thực tế, qua việc
làm, qua khám phá tìm tòi
- Giao tiếp: chia sẻ với bạn và học từ mọi người


-Suy ngẫm: suy nghĩ và vận dụng những điều đã
lĩnh hội được vào việc giải quyết các tình huống.(cho
trẻ có thời gian suy nghĩ)
-Trao đổi: diễn đạt và chia sẻ suy nghĩ và mong
muốn


2. Vì sao phải xây dựng kế hoạch lấy trẻ làm trung tâm
Con người chỉ thích nghe những cái mà bản thân
chưa biết, khám phá những điều chưa hiểu, trẻ em
cũng thế chỉ tích cực khám phá, tìm tòi, thích học cái
chưa có. Nên muốn trẻ học tập tích cực giáo viên
không dạy trẻ cái mà trẻ đã biết mà phải dạy cái trẻ
cần, điều mà trẻ thích nghe. Nói một cách khác xây
dựng kế hoạch phải hướng vào trẻ, lấy trẻ làm trung
tâm của quá trình giáo dục
Trong quá trình giáo dục trẻ em vừa là đối tượng của
hoạt động vừa là chủ thể của hoạt động. Dó đó hoạt
động giáo dục có hiệu quả nhất khi trẻ được tham gia
trải nghiệm, giao tiếp, chia sẻ với bạn




Việc xây dựng kế hoạch giáo dục là rất cần
thiết, giúp giáo viên dự kiến kế hoạch, chủ
động tổ chức các hoạt động giáo dục một cách
hiệu quả do đó khi xây dựng kế hoạch không
nên mang tính hình thức và đối phó



Hoạt động 2
Theo bạn giáo viên có những khó
khăn gì khi lập kế hoạch lấy trẻ làm trung
tâm


 Để trẻ thực sự trở thành trung tâm của việc
xây dựng kế hoạch giáo dục thì người giáo
viên cần có một quan điểm xuyên suốt luôn
luôn hướng vào trẻ, căn cứ vào nhu cầu của
trẻ để xây dựng kế hoạch giáo dục và tổ chức
các hoạt động giáo dục.
 Quá trình giáo dục (phát triển chương trình
giáo dục) đòi hỏi giáo viên thực hiện các hoạt
động sau
- Xây dưng kế hoạch giáo dục
- Tổ chức thực hiện
- Đánh giá kết quả thực hiện để điều chỉnh kế
hoạch cho thời gian tiếp theo


Xây dựng kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
1) Việc xác định mục tiêu:
Xây dựng kế hoạch lấy trẻ làm trung tâm được thể
hiện ngay từ việc xác định mục tiêu và cách viết
mục tiêu. Vì vậy mục tiêu trong kế hoạch được xây
dựng phải căn cứ vào:
- Khả năng, nhu cầu học tập, sở thích của trẻ
trong lớp bạn phụ trách, đây là kết quả được lựa

chọn từ việc theo dõi, quan sát trẻ hàng ngày, sau
một tuần, một tháng…
- Nội dung giáo dục cho từng độ tuổi (trong
chương trình giáo dục mầm non) để xác định mục
tiêu phù hợp khả năng, kinh nghiệm sống của trẻ,
đáp ứng được yêu cầu của chương trình, phù hợp
với vùng miền, với trường lớp của bạn


 Việc viết mục tiêu luôn hướng vào trẻ, nghĩa là
trẻ sẽ làm được gì? Sẽ như thế nào? Sau một
năm học (kế hoạch năm), sau 1 tháng (kế hoạch
tháng) và sau một tuần hoặc ngày (kế hoạch
giáo dục tuần hoặc ngày). Do đó mục tiêu giáo
dục giáo viên đặt ra cần cụ thể, đo được, đạt
được, thực tế và có giới hạn về thời gian để có
thể dễ dàng xác định trong một khoảng thời
gian nhất định mục tiêu đã đạt được chưa.


2) Việc lựa chọn nội dung:
Khi mục tiêu giáo dục đã được xác định, giáo viên
phải dựa vào mục tiêu để cụ thể hóa nội dung của từng
lĩnh vực cho từng độ tuổi quy định trong chương trình
vì nội dung giáo dục trong chương trình là những vấn
đề cốt lõi, cơ bản.
Những nội dung giáo dục trong kế hoạch là những nội
dung cụ thể, trẻ muốn biết, gẫn gũi với trẻ, phù hợp
với vùng, miền.
Mục tiêu và nội dung liên quan với nhau do đó có mục

tiêu thì phải có nội dung. Một mục tiêu có thể có 2-3 nội
dung


3) Lựa chọn hoạt động giáo dục
Theo Chương trình giáo dục mầm non, hoạt động
giáo dục gồm: hoạt động chơi, giờ học, hoạt động ăn,
ngủ, vệ sinh cá nhân, hoạt động lao động.
Tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
thì :
- Người giáo viên là người hướng dẫn, khuyến
khích, gợi mở, hỗ trợ và tạo cơ hội nhiều nhất cho trẻ
được hoạt động, được trao đổi chia sẻ trình bày ý kiến
của mình. Đồng thời giáo viên phải quan sát để đáp
ứng nhu cầu ham hiểu biết, tìm tòi, khám phá qua
những câu hỏi thắc mắc của trẻ.
- Trẻ luôn tích cực, chủ động tham gia các hoạt
động, thích làm việc theo cặp, theo nhóm nhóm
- Phương pháp, đồ dùng sử dụng, hình thức tổ
chức phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ để kích thích sự tìm
tòi, phám phá của trẻ.


 Việc đặt câu hỏi là một trong 10 chiến lược dạy học
giúp trẻ em có trí tuệ phát triển bình thường đạt
được thành công trong học tập. Với ý tưởng học
tập kiến tạo, thay vì dạy bằng cách kể giáo viên cần
dạy bằng cách hỏi. Hiện nay trong quá trình tổ chức
hoạt động học: từ giới thiệu bài, tổ chức các hoạt
động, củng cố bài...giáo viên đã chú ý đặt câu hỏi

và khuyến khích trẻ biết hỏi, việc đặt câu hỏi cần
một kỹ thuật quan trọng.
 Câu hỏi đặt ra phù hợp sẽ kích thích sự tư duy,
hứng thú học tập của trẻ, kích thích trẻ khám phá,
tìm tòi đồng thời cũng “mở đường” cho trẻ học
cách học – hỏi, tập đặt câu hỏi


 Khi đặt câu hỏi giáo viên cần phải hiểu có hai dạng
câu hỏi chính: câu hỏi đóng và câu hỏi mở:
- Loại câu hỏi đóng: câu trả lời là có hoặc
không hoặc chỉ có một câu trả lời đúng duy nhất.
Chức năng của loại câu hỏi này thường dùng để
đánh giá ở mức độ ghi nhớ thông tin, đòi hỏi tư
duy rất ít. Loại câu hỏi này thường dùng trong
phần kết luận hoặc giới thiệu bài để kiểm tra xem
trẻ đã hiểu nhiệm vụ và hướng dẫn cần làm trong
phần phát triển bài
- Câu hỏi mở : là loại câu hỏi có nhiều đáp án
cho trả lời. Câu hỏi này đòi hỏi tư duy nhiều
thường dùng trong phần giới thiệu và phát triển
bài


 Vậy thế nào là câu hỏi tốt ? và thế nào là câu hỏi
hạn chế tư duy của trẻ”
+ Câu hỏi tốt là câu hỏi tạo ra một thách thức về
trí tuệ, tìm kiếm hiểu biết và tạo hứng thú cho trẻ.
Để có được câu hỏi tốt giáo viên có thể làm như
sau:

Đặt ít câu hỏi hơn, nhưng câu hỏi phải khiến trẻ suy
nghĩ, không hỏi tràn lan.Với lượng câu hỏi ít, sẽ
có thời gian để trẻ suy nghĩ trả lời. Giáo viên
không nên chỉ nêu câu hỏi nhưng không để thời
gian cho trẻ suy nghĩ hoặc không nên vội đánh
giá, hãy động viên, khuyến khích để nhận được
câu trả lời tốt hơn từ trẻ.
Khuyến khích trẻ đặt câu hỏi. Đây chính là động lực
thúc đẩy học tập có hiệu quả, nên trân trọng câu
hỏi và câu trả lời của trẻ


Ví dụ một số câu hỏi mở khiến trẻ phải suy nghĩ:
- Con nghĩ thể nào?
- Làm sao con biết?
- Tại sao con lại nghĩ như vậy?
- Nếu.. thì sao? Nếu không… thì sao?
- Theo con thì điều gì/cái gì sẽ xảy ra tiếp theo?
Câu hỏi tốt thường là câu hỏi mở và có câu trả
lời mở, đòi hỏi sự tư duy, những câu hỏi này thường
mang tính dẫn xuất vì chúng tạo được một điều gì mới
mẻ, chẳng hạn những câu hỏi như:
- Câu hỏi về so sánh: Hai hành động/ hai nhân
vật/ hai bức tranh này giống nhau ở chỗ nào?
- Câu hỏi về đánh giá: Hành động nào tốt hơn?
Vì sao?


 Câu hỏi hạn chế tư duy của trẻ là những câu hỏi
không khuyến kích trẻ nổ lực suy nghĩ học tập,

ngược lại còn làm cản trở hoạt động trí tuệ. Đó là
những câu hỏi có dạng: những câu hỏi quá phức
tạp, quá lớn, trừu tượng khiến trẻ không thể trả lời
được ví dụ: “Gió là gì?” “ Tại sao có gió?” “Mưa là
gì?” “ Ngày hôm qua là gì?”….Những câu hỏi đóng
và hẹp: “Đây là cái gì?”, “Kia là cái gì?”, “Cái này
màu gì”, “ Hai bức tranh này có giống nhau
không?”…


 Giáo viên cần biết tạo ra một sự cân bằng giữa
những câu hỏi phải trả lời ngắn với những câu
hỏi mở. Để tạo ra các câu hỏi tốt giáo viên cần
lưu ý khi đặt câu hỏi:
- Phải chú ý đến mục đích của câu hỏi: hỏi
để làm gì? Để hướng dẫn, gợi mở hay để kiểm
tra, đánh giá mức độ hiểu, hỏi cái gì?
- Câu hỏi phải phù hợp với trình độ, khả
năng để trẻ có thể trả lời được và cố gắng để
trả lời.
- Câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp. Phân bổ câu hỏi cho tất cả các đối
tượng trẻ: trẻ nhút nhát đến trẻ tích cực.


 Nên dành thời gian suy nghĩ cho mỗi câu hỏi
và sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ (ánh mắt, cười,
gật đầu, vỗ tay…) để khuyến khích, khen
ngợi trẻ.
 Để trẻ tích cực hoạt động ngoài việc đặt câu

hỏi cho trẻ, giáo viên cũng cần biết khuyến
kích trẻ đặt câu hỏi để học.


Hoạt động 3
Kế họach giáo dục


1. Ý nghĩa của lập kế hoạch
Kế hoạch giáo dục giúp cho việc thực hiện mục tiêu
đầy đủ và có hệ thống, giúp giáo viên dự kiến trước nội
dung, thời gian, phương tiện để chủ động tổ chức các
hoạt động hiệu quả.
Trẻ ở các vùng miền khác nhau, sống trong điều
kiện khác nhau có khả năng, nhu cầu, hứng thú...khác
nhau. Mỗi nhóm lớp cần lập kế hoạch thực hiện chương
trình GDMN để xác định các nội dung phù hợp nhất đối
với trẻ trong nhóm lớp mình. Qua đó, giáo viên có điều
kiện quan tâm đến trẻ hơn, biết những mặt mạnh, tiến bộ
của trẻ để có tác động phù hợp.
Thông qua việc lập kế hoạch giáo dục của giáo viên,
cán bộ quản lý, đồng nghiệp... có thể hỗ trợ nhau trước
khi tiến hành các hoạt động giáo dục. Có thể hỗ trợ các ý
tưởng sáng tạo của giáo viên, tạo điều kiện để họ thực
hiện, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và cộng tác chặt chẽ
để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ.


2. Đặc điểm của kế hoạch giáo dục
Kế hoạch là của riêng giáo viên, mang

tính cá nhân, phụ thuộc kinh nghiệm, trình
độ...của mỗi người. Các kế hoạch có thể
khác nhau trong cùng một trường, khối
nhóm lớp...
Kế hoạch là dự kiến, có thể thay đổi
trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.


3. Thế nào là lập kế hoạch
Lập kế hoạch là việc thực hiện một chu
trình như sau:
Xác định
các căn
cứ/yếu tố

Xây dựng
mục tiêu

Xây dựng
nội dung
và hoạt
động

Đánh giá

Thực hiện
kế hoạch


CÁC BƯỚC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH

1. Xác định các căn cứ lập kế hoạch giáo dục
1.1. Nội dung Chương trình GDMN.
Viết cụ thể những nội dung có tính chất khái quát
trong chương trình.
Ví dụ 1: Nhận biết một số món ăn, thực phẩm
thông thường và ích lợi của chúng đối với sức khỏe:
Xác định cụ thể món ăn, thực phẩm nào thuộc 4 nhóm
thực phẩm là quen thuộc đối với trẻ; Lựa chọn món ăn,
thức uống nào có dạng chế biến đơn giản để trẻ được
làm quen thao tác, thực hành chế biến từ những thực
phẩm quen thuộc nơi trẻ sinh sống...
Ví dụ 2: Bảo vệ an toàn cho bản thân: hành vi nào
là nguy hiểm cho trẻ trong điều kiện cụ thể của nhóm
lớp, khu vực nào là nguy hiểm cho trẻ trong sinh hoạt
hàng ngày ở trong lớp, ngoài sân.., vật dụng nào là
không an toàn, trẻ sẽ thường thấy ở đâu?...


1.2. Điều kiện vùng miền, địa phương.
Tìm hiểu các đặc điểm, tập quán trong sinh hoạt
của trẻ cùng gia đình tại cộng đồng để lựa chọn
các nội dung có ý nghĩa trong đời sống thực của
trẻ. Ví dụ: trẻ vùng đồng bằng sông Cửu Long cần
học về các loại PTGT đường sông: lên và xuống
thuyền, cách ngồi an toàn trên ghe xuồng, mặc và
cởi áo phao...Trẻ vùng núi cao cần biết cách: đi an
toàn trên đường đồi núi, nghe phân biệt tiếng động
cơ, tiếng còi của các loại PTGT để tránh đường...
Vùng văn hoá nơi trẻ sinh sống có trang phục nào,
nên sử dụng và lựa chọn mặc như thế nào để phù

hợp thời tiết, giữ gìn sức khỏe...; thói quen đi vệ
sinh và điều kiện công trình vệ sinh của trường
lớp, của gia đình trẻ như thế nào để rèn luyện thói
quen đi vệ sinh và sử dụng đồ dùng vệ sinh cho
trẻ...


×