Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN QUAN NIỆM về cơ CHẾ THỊ TRƯỜNG TRONG lý THUYẾT nền KINH tế hỗn hợp và sự vận DỤNG vấn đề này TRONG PHÁT TRIỂN KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.93 KB, 18 trang )

1

QUAN NIỆM VỀ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG TRONG LÝ THUYẾT
NỀN KINH TẾ HỖN HỢP VÀ SỰ VẬN DỤNG VẤN ĐỀ NÀY TRONG
PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA
Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp là tư tưởng trung tâm của kinh tế học
trường phái chính hiện đại. Mầm mống về nền kinh tế hỗn hợp có từ những
năm cuối thế kỷ XIX. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nó được các nhà
kinh tế học Mỹ là Hassen tiếp tục nghiên cứu và được Samuelson phát triển
trong “Kinh tế học”.
Samuelson sinh năm 1915 tại Gary, bang Indiana nước Mỹ; là người
sáng lập ra khoa kinh tế học nổi tiếng chuyên đào tạo sau đại học của Viện
Công nghệ Massachusetts. Ông được đào tạo ở trường Đại học Chicagô và
Harvard. Ông nổi tiếng thế giới nhờ nhiều công trình khoa học của mình và là
người Mỹ đầu tiên được nhận giải thưởng Nobel về kinh tế năm 1970. Ông
tham ra viết bài trong mục Kinh tế học của tạp chí Newsweeks, thường điều
trần trước quốc hội Mỹ, cố vấn chuyên môn cho Ngân hàng dự trữ liên bang
và Bộ Ngân khố Hoa Kỳ, nhiều tổ chức tư nhân phi vụ lợi. Ông đã từng làm
cố vấn kinh tế cho Tổng thống Kennedy và còn là giáo sư thỉnh giảng tại
trường Đại học New York.
Cuốn “Kinh tế học” do Samuelson viết được xuất bản lần đầu tiên tại
New York vào năm 1948. Nó được dịch ra nhiều thứ tiếng và được xem là
chuẩn mực cho việc giảng dạy kinh tế cơ bản cho các trường học ở Mỹ và
một số nước khác. Cuốn sách gồm 2 tập. Tập I từ chương 1 đến chương 20
nói về kinh tế học vi mô; tập II từ chương 21 đến chương 37 nói về kinh tế
học vĩ mô. Năm 1995 cuốn sách đã được xuất bản lần thứ 15 có sửa đổi và bổ
sung những vấn đề mới nhất của kinh tế học hiện đại. Đặc điểm nổi bật trong
“Kinh tế học” là đã vận dụng một cách tổng hợp các tư tưởng và phương pháp



2

của những trường phái kinh tế trong lịch sử để phân tích những vấn đề của
nền kinh tế hàng hóa phát triển, xây dựng các lý thuyết kinh tế làm cơ sở cho
các hoạt động của doanh nghiệp và chính sách kinh tế của nhà nước tư sản.
Nếu các nhà kinh tế học cổ điển say sưa với “bàn tay vô hình”, “thăng
bằng tổng quát”, hạn chế tối đa sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế;
trường phái Keynes say sưa với “bàn tay hữu hình”, đề cao vai trò vai trò điều
tiết vĩ mô của nhà nước, phê phán những khuyết tật của cơ chế thị trường;
trường phái tự do mới, một mặt khuyến khích phát triển cơ chế thị trường,
nhưng mặt khác lại quan tâm đến giải quyết những vấn đề xã hội, khắc phục
hậu quả tiêu cực của cơ chế thị trường thông qua vai trò của nhà nước với các
mục tiêu, phương pháp và công cụ can thiệp khác nhau; thì Samuelson quan
tâm đến cả hai yếu tố này. Ông chủ trương phát triển kinh tế với cả hai bàn
tay là cơ chế thị trường và nhà nước điều tiết, thiếu một trong những bàn tay
ấy “thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”. Theo đó, cùng với việc quan
tâm đến vai trò của nhà nước, thì Samuelson cũng đã đi vào lý giải một cách
khá chi tiết và đầy đủ vấn đề cơ chế thị trường – một phạm trù mà trước đó
còn là một bí ẩn đối với nhiều nhà kinh tế học tư sản và tiểu tư sản.
Theo Samuelson, do sản xuất của nền kinh tế bị hạn chế bởi các nguồn
lực và kiến thức công nghệ, mỗi xã hội – dù giàu hay nghèo đều phải lựa
chọn. Điều đó có nghĩa là, mỗi xã hội đều phải xác định cần sản xuất loại
hàng hóa nào, sản xuất ra sao và sản xuất cho ai? Đó là ba vấn đề cơ bản của
tổ chức kinh tế. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của kinh tế học là nghiên
cứu và giải thích những cách thức khác nhau mà xã hội trả lời các câu hỏi: cái
gì, thế nào và cho ai. Các xã hội khác nhau, được tổ chức theo những hệ thống
kinh tế khác nhau và kinh tế học nghiên cứu những cơ chế khác nhau mà xã
hội có thể vận dụng để phân bổ các nguồn lực khan hiếm của mình. Đây là
hướng tiếp cận khá mới mẻ của ông.



3

Samuelson cho rằng, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế,
trong đó cá nhân người tiêu dùng và những nhà kinh doanh tác động lẫn nhau
qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là cái gì?
như thế nào? và cho ai? Cơ chế thị trường “không phải là sự hỗn độn mà là
một trật tự kinh tế”. Với cách hiểu này cho thấy, mặc dù chưa thật đầy đủ,
nhưng ít nhiều, ở đây Samuelson đã bước đầu hiểu được cốt lõi của vấn đề cơ
chế thị trường.
Nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp mọi người, mọi
hoạt động và mọi doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là
một phương tiện gián tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá
nhân khác nhau. Không có một bộ não hay hệ thống tính toán trung tâm,
nhưng nó vẫn giải quyết được những vấn đề sản xuất và phân phối bao gồm
hàng triệu các ẩn số và mối tương quan mà không ai biết, những vấn đề ấy dù
cho những siêu máy tính nhanh nhất ngày nay cũng không thể làm nổi. Chẳng
ai thiết kế ra thị trường, nhưng nó vẫn vận hành rất tốt. Trong nền kinh tế thị
trường, không có một cá nhân hay tổ chức đơn lẻ nào có trách nhiệm sản xuất,
tiêu dùng, phân phối hay định giá. Thực ra ở đây, Samuelson đã nhìn thấy vai
trò to lớn không thể thiếu của thị trường trong nền kinh tế.
Thị trường là một cơ chế, trong đó người mua và người bán tương tác
với nhau để xác định giá cả và sản lượng của hàng hóa hay dịch vụ. Như vậy,
nói đến thị trường và cơ chế thị trường là phải nói tới hàng hóa, người bán,
người mua và giá cả hàng hóa.
Trong hệ thống thị trường, mọi thứ đều có giá cả, đó là giá trị của hàng
hóa và dịch vụ được tính bằng tiền. Giá cả thể hiện mức mà mọi người và các
hãng tự nguyện trao đổi nhiều loại hàng hóa khác nhau. Giá cả hoạt động như
một tín hiệu đối với người sản xuất và tiêu dùng. Nếu người tiêu dùng muốn
mua nhiều hàng hóa nào đó hơn nữa thì giá sẽ tăng và nó phát tín hiệu cho



4

người bán hàng rằng cần cung nhiều hơn. Mặt khác, nếu một hàng hóa nào đó
tồn kho quá nhiều thì những người bán và sản xuất sẽ giảm giá để giảm bớt
lượng tồn kho. Với mức giá thấp hơn, nhiều người tiêu dùng muốn mua hàng
hóa hơn, nhưng người sản xuất lại muốn sản xuất ít hơn. Kết quả là sự cân
bằng giữa người mua và người bán được duy trì. Giá cả sẽ kết hợp các quyết
định của người sản xuất và người tiêu dùng trên thị trường. Giá tăng sẽ làm
giảm lượng mua sắm của người tiêu dùng và khuyến khích sản xuất. Ngược
lại, giá giảm sẽ khuyến khích người tiêu dùng và không khuyến khích sản
xuất. Giá cả là quả cân trong cơ chế thị trường. Tóm lại, giá cả chỉ cho người
sản xuất biết sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và phân phối cho ai?
Theo Samuelson, nói đến cơ chế thị trường là phải nói đến quan hệ
cung – cầu hàng hóa, đó là hai lực lượng cơ bản – người bán và người mua
trên thị trường. Sự biến động của giá cả đã làm cho trạng thái cân bằng cung –
cầu thường xuyên biến đổi. Đó chính là nội dung của quy luật cung – cầu
hàng hóa và dịch vụ trên thị trường.
Nền kinh tế thị trường chịu sự điều khiển của “hai ông vua”, đó là
người tiêu dùng và kỹ thuật. Người tiêu dùng điều khiển thị trường vì họ là
người bỏ tiền ra mua hàng hóa mà các hãng sản xuất ra, nghĩa là họ bỏ phiếu
bằng đô la. Họ chọn điểm nằm trên ranh giới khả năng sản xuất. Song kỹ
thuật lại hạn chế người tiêu dùng một cách căn bản. Theo Samuelson, vì nền
kinh tế không vượt qua được ranh giới khả năng sản xuất nên lá phiếu của
người tiêu dùng không thể quyết định được vấn đề phải sản xuất hàng hóa gì.
Nhu cầu phải tuân theo sự cung ứng của người kinh doanh. Người kinh doanh
định giá hàng hóa của mình theo chi phí sản xuất. Họ sẵn sàng bỏ những lĩnh
vực kinh doanh ít lợi nhuận để chuyển sang kinh doanh ở lĩnh vực khác mang
lại nhiều lợi nhuận hơn. Như vậy, chi phí sản xuất, các quyết định kinh doanh

và lá phiếu bằng đô la của người tiêu dùng mới thực sự xác định nên sản xuất


5

cái gì. Ở đây thị trường đóng vai trò trung gian hòa giải giữa sở thích của
người tiêu dùng và những hạn chế về kỹ thuật.
Samuelson cho rằng, trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực
chi phối hoạt động của người kinh doanh. Các hãng luôn hướng tới mục tiêu
đạt lợi nhuận tối đa, vì vậy họ sẽ rời bỏ các hoạt động không đem lại lợi
nhuận và đầu tư vào sản xuất những hàng hóa có nhu cầu cao, thu nhiều lợi
nhuận. Đây là một nhận thức hoàn toàn chính xác và cũng là một bước tiến so
với những nhà kinh tế học trước đó trong lịch sử. Thực tiễn cho thấy rằng,
trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, vì lợi nhuận tối đa cho mình, mà các nhà
tư bản đã không ngừng tăng cường bóc lột lao động làm thuê, ít chú ý tới các
vấn đề xã hội, môi trường…Một học giả phương Tây đã viết: chủ nghĩa tư
bản là một cỗ máy sáng tạo / hủy hoại. Cỗ máy ấy càng sáng tạo nhiều thì hủy
hoại càng lớn; Nó tàn phá cả môi trường sinh thái, các cân bằng lâu dài của tự
nhiên lẫn bản thân con người và các hình thái xã hội; Nó đẻ ra tình trạng bất
bình đẳng ngày càng lớn (1969, 20% dân số nghèo nhất thế giới nắm 2,3%
các nguồn lực, đến 1994, chỉ còn nắm 1,1%. Trong khi đó, 20% dân số giàu
nhất thế giới năm 1969 nắm 69% và 1995 chiếm 89% các nguồn lực; Một
người Thụy Sỹ một ngày làm ra số của cải bằng một người Ôtiôpia lao động
suốt một năm. Những điều này không thể được coi là chính đáng.
Samuelson cũng chỉ ra rằng, kinh tế thị trường hoạt động trong môi
trường cạnh tranh, do các quy luật kinh tế chi phối. Việc cạnh tranh giữa
những nhà sản xuất sẽ xác định các hàng hóa được sản xuất như thế nào. Cách
tốt nhất để các nhà sản xuất giữ mức giá cạnh tranh và tối đa hóa lợi nhuận là
giảm chi phí sản xuất nhờ áp dụng các phương pháp sản xuất hiệu quả nhất Samuelson đã áp dụng lý thuyết bàn tay vô hình của A. Smith, nguyên lý “cân
bằng tổng quát” của Leon Walras để phân tích môi trường hoạt động của kinh

tế thị trường. Và theo lô gích, muốn có lợi nhuận cao, các chủ thể kinh tế phải


6

tìm cách để cải tiến, đổi mới trình độ sản xuất, áp dụng những tiến bộ kỹ thuật
công nghệ mới; còn nhà nước phải có trách nhiệm trong việc tạo ra môi
trường cạnh tranh pháp lý thuận lợi để cho nền kinh tế phát triển. Đây là một
đánh giá khá chính xác, có ý nghĩa rất lớn trong lịch sử cũng như trong tình
hình hiện nay.
Từ những phân tích và lý giải trên, Samuelson đã đưa ra sơ đồ tổng
quát về cơ chế thị trường (xem hình vẽ).
Cạnh tranh
Giày dép
Nhà cửa
Chè

Giá cả
trên
TT
hàng
hoá

Giày dép
Nhà cửa
Chè

Cái gì ?
Hộ gia đình


Doanh nghiệp

Thế nào ?
Cho ai ?

Lao động
Đất đai
Vốn

Lao động
giá cả
trên
TT
yếu tốsx
SX

Cầu

Đất đai
Vốn
Cung

Cạnh tranh


7

Trong sơ đồ này cho thấy, bức tranh tổng quát về việc người tiêu dùng
và người sản xuất quan hệ với nhau như thế nào để xác định giá cả và số
lượng hàng hóa đầu ra, đầu vào. Trong vòng tuần hoàn này có hai loại thị

trường. Phía trên là thị trường hàng hóa đầu ra như chè hay giày dép, phía
dưới là thị trường hàng hóa đầu vào yếu tố sản xuất như đất đai, lao động,
vốn. Trên thị trường có hai lực lượng chính, đó là hộ gia đình và các doanh
nghiệp tác động qua lại với nhau.
Hộ gia đình là những người tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ. vì thế
trên thị trường đầu ra, hộ gia đình là sức cầu. Cầu về hàng hóa tiêu dùng và
dịch vụ của hộ gia đình cũng tuân theo nguyên tắc ích lợi giới hạn. Để có tiền
mua hàng hóa tiêu dùng, hộ tiêu dùng phải xuất hiện trên thị trường đầu vào
để bán yếu tố sản xuất nào đó. Vì vậy trên thị trường đầu vào hộ gia đình là
sức cung, sức cung của hộ gia đình được xác định theo nguyên tắc thích nghỉ
ngơi hay thích làm việc, thích tiêu dùng hiện tại hay thích tiêu dùng tương lai
hoặc là sở hữu đất đai.
Doanh nghiệp là người sản xuất hàng hóa để bán trên thị trường hàng
hóa và dịch vụ, vì vậy trên thị trường này doanh nghiệp là sức cung, cung
hàng hóa của doanh nghiệp hoạt động tuân theo nguyên lý chi phí sản xuất,
điều này có nghĩa, khi giá cả hàng hóa trên thị trường càng cao, thì doanh
nghiệp bán ra một khối lượng hàng hóa lớn hơn. Để có thể tiến hành sản xuất,
doanh nghiệp phải mua các yếu tố sản xuất trên thị trường. Do vậy trên thị
trường này, doanh nghiệp là sức cầu. Cầu của doanh nghiệp về các yếu tố sản
xuất được tuân theo nguyên tắc lợi ích giới hạn. Tức là, doanh nghiệp sẽ mua
khối lượng yếu tố sản xuất lớn hơn khi giá cả của các yếu tố sản xuất giảm
xuống.
Như vậy, hộ gia đình mua hàng hóa và bán các yếu tố sản xuất. Hãng
kinh doanh bán hàng hóa và mua các yếu tố sản xuất. Hộ gia đình sử dụng thu


8

nhập do bán sức lao động và các đầu vào khác để mua hàng hóa của các hãng
kinh doanh. Hãng kinh doanh xác định mức giá các hàng hóa của họ trên cơ

sở chi phí sản xuất và các tài khoản khác. Giá cả hàng hóa trên thị trường
được xác định trên cơ sở cân đối nhu cầu của người tiêu dùng với mức cung
của các hãng sản xuất. Giá trên thị trường yếu tố sản xuất được xác định trên
cơ sở cân đối giữa cung của hộ gia đình với cầu của các hãng kinh doanh.
Theo sơ đồ này, đồng tiền được vận động theo quy trình vòng tròn,
khép kín. Nó đi từ hộ tiêu dùng ra thị trường hàng hóa tiêu dùng, dịch vụ để
mua hàng hóa. Thông qua giá cả và quan hệ cung – cầu, tiền trở về tay các
doanh nghiệp. Doanh nghiệp lại dùng lượng tiền đó để mua các yếu tố sản
xuất. Thông qua quan hệ cung – cầu và giá cả, nó lại trở về hộ gia đình.
Với cơ chế vận động như vậy, thị trường sẽ hoạt động nhịp nhàng, trôi
chảy, nền kinh tế sẽ đạt được sự cân bằng chung.
Samuelson cũng chỉ ra rằng, thị trường không phải lúc nào cũng đưa tới
kết quả tối ưu, mà nó có cả những hạn chế nhất định. Thứ nhất, đó là độc
quyền và các hình thức cạnh tranh không hoàn hảo khác. Thứ hai, những ảnh
hưởng ngoại sinh tiêu cực như ô nhiễm môi trường, khủng hoẳng, thất
nghiệp,thu nhập bất bình đẳng...Chính vì vậy mà cần có vai trò của nhà nước
để khắc phục những hạn chế này.
A. Smith, người viết tác phẩm “sự giàu có của các quốc gia” (1776) là
người đầu tiên thừa nhận trật tự của hệ thống thị trường. Ông phát hiện ra
nguyên tắc về “bàn tay vô hình”. Nguyên tắc này là mỗi người, trong khi theo
đuổi lợi ích cá nhân của mình đều bị bàn tay vô hình dẫn tới kết quả làm lợi
cho tất cả. Ông nêu lên sự hòa hợp giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng
như sau:
Mỗi cá nhân đều sử dụng vốn liếng của mình sao cho nó tạo ra giá trị
lớn nhất. Nói chung anh ta không chú ý đến việc khuyến khích lợi ích cộng


9

đồng và cũng không biết khuyến khích nó như thế nào. Anh ta chỉ chú ý tới

sự an toàn cá nhân, tới các thu hái cá nhân. Trong quá trình đó, anh ta đã bị
một bàn tay vô hình dẫn dắt tới một kết cục mà anh ta không định. Do việc
theo đuổi lợi ích cá nhân, anh ta thường xuyên khuyến khích nâng cao lợi ích
cộng đồng một cách có hiệu quả hơn là khi anh ta chủ định làm điều đó.
Quan niệm trên về cơ chế thị trường của Samuelson có nhiều mặt hợp
lý và phù hợp trong phát triển nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, nó vẫn còn
những điểm bất hợp lý, xa rời thực tiễn. Những nội dung ông đưa ra còn
mang nặng yếu tố tâm lý chủ quan, thiên về mặt kỹ thuật của kinh tế thị
trường. Ông chưa chỉ ra được một cách đầy đủ và chính xác nguồn gốc, bản
chất cũng như chức năng, vai trò của vấn đề nghiên cứu. Samuelson đứng trên
lập trường giai cấp tư sản để xem xét, lý giải vấn đề kinh tế, bảo vệ cho quyền
lợi của các nhà tư bản và chủ nghĩa tư bản.
Thực tiễn lịch sử phát triển của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã
chứng minh những hạn chế của lý thuyết này. Bởi lẽ bên cạnh những ưu
điểm, nó còn tồn tại nhiều khuyết tật không thể tránh khỏi. Trong cuốn “Kinh
tế học”, Samuelson cũng đã thừa nhận những kết luận khoa học và sự tiên
đoán của Mác về tính quá độ của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mác đã
lập luận rằng, nếu không có sự kiểm soát, sức sản xuất của thị trường và sự
cạnh tranh nhất định sẽ diễn ra hỗn loạn và gây ra những cuộc suy thoái trầm
trọng, và làm tăng thêm sự bần cùng của công nhân. Mác khẳng định rằng,
chủ nghĩa tư bản đã đến ngày tận thế và những cuộc cách mạng, chủ nghĩa xã
hội sẽ sớm xảy ra. Trong các thập kỷ sau đó, lịch sử đã khẳng định những lời
tiên đoán của Mác. Những cuộc khủng hoẳng và suy thoái kinh tế liên tiếp sảy
ra và đặc biệt là sự ra đời của nước Nga vào năm 1917 càng chứng tỏ sự thất
bại của cơ chế thị trường tự do cạnh tranh.


10

Xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ thực tiễn sự tồn

tại và hoạt động của chính cơ chế thị trường trong lịch sử phát triển kinh tế
thế giới, trực tiếp là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, chúng ta có thể hiểu cơ chế
thị trường một cách đầy đủ, đó là cơ chế tự điều chỉnh các cân đối của nền
kinh tế theo yêu cầu của các quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, giá cả , cạnh
tranh, lưu thông tiền tệ. Nó là guồng máy vận hành của nền kinh tế hàng hóa
phát triển, là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn vốn, tài
nguyên, công nghệ, sức lao động. Căn cứ vào thị trường, các doanh nghiệp sẽ
quyết định: sản xuất cái gì? sản xuất thế nào? sản xuất cho ai?
Cơ chế thị trường đòi hỏi mọi chủ thể kinh tế phải được tự do kinh
doanh (trong những ngành nghề, lĩnh vực pháp luật cho phép); mọi chủ thể
kinh doanh đều được quyền tự chủ; các hình thức lợi ích như, lợi nhuận, thu
nhập...chính là động lực, mục tiêu tìm kiếm của các chủ thể hoạt động trên
thương trường; cạnh tranh là phương thức hoạt động chủ yếu của các doanh
nghiệp trên thị trường.
Nói đến cơ chế thị trường là nói tới vai trò điều tiết của các quy luật
kinh tế khách quan, nó không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người.
Lúc này, thị trường là cơ sở để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh
tế: sản xuất cái gì? sản xuất thế nào? sản xuất cho ai?
Cơ chế thị trường bao gồm ba nhân tố cơ bản đó là, thị trường, nhà
nước và người tiêu dùng. Mỗi một nhân tố có một vai trò vị trí khác nhau và
tất cả đều có quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau.
Dấu hiệu đặc trưng nhất của cơ chế thị trường là cơ chế hình thành giá
cả tự do. Người bán và người mua thông qua thị trường để xác định giá cả.
Giá cả thị trường là hạt nhân, là trung tâm của cơ chế này, và là bàn tay vô
hình trực tiếp điều tiết hành vi kinh doanh của các chủ thể kinh tế.


11

Cơ chế này tồn tại khách quan gắn liền với sự tồn tại và phát triển của

nền kinh tế thị trường – nền kinh tế hàng hóa phát triển cao. Vì vậy, nó tồn tại
trong nhiều chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Theo đó, nó không chỉ chịu sự
tác động của các quy luật kinh tế thị trường nói chung, mà còn chịu sự chi
phối của các quy luật kinh tế riêng của các phương thức sản xuất chủ đạo. Cơ
chế thị trường trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và cơ chế thị trường trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khác nhau về chất. Mác đã
từng khẳng định rằng, “sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là những
hiện tượng thuộc về nhiều phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy rằng
quy mô và tầm quan trọng của chúng không khác nhau...Chúng ta hoàn toàn
chưa biết một tý gì về những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất
ấy và chúng ta chưa thể nói gì về những phương thức ấy, nếu như chúng ta
chỉ biết có những phạm trù trìu tượng của lưu thông hàng hóa, những phạm
trù chung cho tất cả các phương thức ấy”.
Còn thị trường - nhân tố của quá trình tái sản xuất xã hội - nối liền sản
xuất với tiêu dùng thông qua sự giao tiếp giữa các chủ thể tham ra thị trường
gắn liền với các nhân tố cạnh tranh, hàng – tiền, cung – cầu và giá cả; là lĩnh
vực trao đổi, mua bán, mà ở đó các chủ thể kinh tế thường xuyên cạnh tranh
với nhau để xác định giá cả và sản lượng. Quy mô các quan hệ kinh tế mở
rộng thì thị trường cũng phát triển: từ thị trường địa phương, khu vực tới thị
trường cả nước và vươn ra thị trường thế giới; từ thị trường cạnh tranh không
hoàn hảo tới thị trường cạnh tranh hoàn hảo tùy tính chất và cơ chế điều tiết.
Thị trường, cơ chế thị trường là những phạm trù kinh tế đi liền với phân
công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa. Lênin nói: ở đâu và khi nào có
phân công lao động xã hội, có sản xuất hàng hóa, thì ở đó và khi ấy có thị
trường và cơ chế thị trường. Sản xuất hàng hóa, thị trường và cơ chế thị
trường là một bước tiến quan trọng và là sản phẩm của nền văn minh nhân


12


loại. Vì thế, không nên quan niệm một cách giản đơn là thị trường và cơ chế
thị trường là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản. Càng không nên ngộ nhận
kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản là một. Từ đó cho rằng, chuyển sang
nền kinh tế thị trường là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chúng ta lựa
chọn con đường xã hội chủ nghĩa vì sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” trên cơ sở một nền kinh tế hoạt động năng
động, có hiệu quả, có môi trường để mọi người tự do kinh doanh, tự do làm
giàu một cách chân chính, có điều kiện thực hiện công bằng xã hội...Nền kinh
tế đó không thể là một nền kinh tế tự cấp, tự túc gắn liền với cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, mà phải là nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước – nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
cùng phát triển trong một cơ cấu thống nhất, cùng phát huy tác dụng tích cực
trong môi trường cạnh tranh, trong đó nhà nước đóng vai trò quan trọng để
phát huy ảnh hưởng kinh tế của mình trên thị trường.
Lịch sử đã chứng minh có hai phương thức cơ bản trong tổ chức nền
kinh tế. Phương thức thứ nhất là chính phủ đưa ra hầu hết các quyết định kinh
tế theo các mệnh lệnh hành chính. Còn phương thức thứ hai là toàn bộ các
quyết định đều do thị trường xác định, việc mua bán trên thị trường thông qua
tiền tệ. Mỗi phương thức đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Nếu
quá nhấn mạnh phương thức này hoặc phương thức kia đều dẫn tới sự kém
hiệu quả của nền kinh tế. Theo đó, việc lựa chọn mô hình hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta không phải đơn giản là sự trở
về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công
nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải chuyển sang nền
kinh tế hiện đại, văn minh, nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều kiện lịch
sử cụ thể của thời đại và của những nước đi sau, “cho phép các nước này


13


giảm thiểu được những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới
chủ nghĩa xã hội” trên cơ sở sử dụng được những ưu thế cũng như hạn chế
được những khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị trường. Nói cách
khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế
đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị
trường, vừa đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính tính chất, đặc
trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của
nền kinh tế và con đường đạt tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị trường, nâng
cao hiệu lực và hiệu quả điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để có được nhận thức đầy đủ này là cả một quá trình đấu tranh quyết
liệt trên lĩnh vực tư tưởng lý luận và tổng kết thực tiễn trong quá trình lãnh
đạo cách mạng của Đảng ta.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa IV, năm 1979 của Đảng đã
đặt vấn đề cải tiến các chính sách lưu thông, phân phối. Đến Đại hội V
(1982), Đảng ta đặt quyết tâm khắc phục những yếu kém trong kinh tế và
quản lý kinh tế; sắp xếp và cải tạo kinh tế, đặc biệt là tập trung phát triển nông
nghiệp. Tiếp đó, một số chính sách kinh tế, trong đó có chính sách khoán sản
phẩm nông nghiệp tới nhóm và từng hộ nông dân đã đi vào cuộc sống. Đại
hội VI (1986), tiến thêm một bước mới trong việc nhận thức vấn đề xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. Đại hội VII (1991), tiến
thêm một bước, đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là thực hiện cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ
khác. Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), nhận định: “Đổi mới kinh tế
là bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Đại hội VIII (1996), đặt vấn



14

đề, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần không tách rời việc xây dựng đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ
chế thị trường...Đến Đại hội IX (2001), Đảng khẳng định: “Đảng và nhà nước
ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội Đảng lần thứ X (2006), một lần nữa
khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa...Chuyển thực sự nền kinh tế sang hoạt
động theo nguyên tắc thị trường, lấy thị trường làm cơ sở chủ yếu để phân bổ
các nguồn lực, có sự điều tiết của nhà nước”. Đây là bước đổi mới quan trọng
trong tư duy lý luận của Đảng ta, tiếp tục mở ra một trang mới về đổi mới
kinh tế ở Việt Nam.
Trong phát triển kinh tế, chúng ta coi thị trường là một công cụ điều tiết
kinh tế khách quan, nó là căn cứ để xây dựng và kiểm tra các kế hoạch phát
triển kinh tế. Những mục tiêu và biện pháp đã dự định của các kế hoạch kinh
tế muốn được thực hiện có hiệu quả như mong muốn, phải xuất phát từ yêu
cầu của thị trường.
Ở tầm vi mô, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng kế
hoạch sản xuất , kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua sự biến động của
giá cả, cung – cầu trên thị trường, các doanh nghiệp lựa chọn phương án: sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Cũng từ đó mà các doanh
nghiệp lựa chọn cơ cấu sản xuất, đầu tư của mình.
Trên tầm vĩ mô, mặc dù thị trường không phải là căn cứ duy nhất có
tính quyết định, song kế hoạch nhà nước không thể thoát ly khỏi tình hình
thực tiễn của thị trường. Thoát ly thị trường, kế hoạch vĩ mô sẽ trở thành duy
ý chí. Kế hoạch vĩ mô đóng vai trò điều tiết và duy trì sự ổn định các cân đối



15

chủ yếu của nền kinh tế. Sự điều tiết của kế hoạch hóa vĩ mô phải xuất phát từ
các cân đối tổng thể của nền kinh tế như: tổng cung – tổng cầu, sản xuất – tiêu
dùng, hàng hóa – tiền tệ...Căn cứ vào thị trường, kế hoạch hóa vĩ mô tác động
trở lại cung, cầu, giá cả để uốn ắn những lệch lạc của sự phát triển do chính
thị trường tạo ra.
Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế hiện nay, chúng ta xác
định thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế, khuyến khích và đãi ngộ xứng đáng tài năng, đồng thời phân phối
theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và
thông qua phúc lợi xã hội. Đây là nguyên tắc phân phối công bằng trong hoàn
cảnh thu nhập kinh tế còn chưa cao như hiện nay ở nước ta.
Để xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã có thái độ dứt khoát trong việc từ bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, đề ra và lãnh đạo việc thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển
kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp
luật đều là bộ phần cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Chúng ta đã có nhiều những chính sách cụ thể như, khoán sản phẩm
đến nhóm và người lao động; thực hiện chính sách phát huy quyền chủ động
sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh
thông qua kế hoạch “ba phần”; thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã
hội chủ nghĩa; cải cách giá, lương, tiền, xóa bỏ bao cấp qua lương và giá, thực
hiện cơ chế một giá; điều tiết các quan hệ cung cầu và sử dụng các chính sách
kinh tế vĩ mô mà trước hết là chính sách thuế, tài chính, tiền tệ, giá cả, tỷ giá
hối đoái…; xác lập quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh và tự do lưu thông
buôn bán, tạo động lực mạnh đến mọi tế bào của nền kinh tế.



16

Theo đó, chúng ta xác định, tiếp tục phát triển đồng bộ các yếu tố thị
trường và các loại thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế
của nhà nước. Cụ thể là:
Tạo lập đồng bộ các yếu tố cấu thành thị trường chung bao gồm “thị
trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường khoa học và công
nghệ, thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản.
Tinh thần nhất quán là: tôn trọng các nguyên tắc của thị trường gắn với hội
nhập quốc tế”. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các
doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển. Thông qua chiến lược và
quy hoạch, chính sách phù hợp nhằm sử dụng có hiệu quả lực lượng vật chất
của nhà nước để định hướng phát triển kinh tế xã hội, điều tiết phân phối và
thu nhập.
Tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước theo quy định của pháp
luật, đấu tranh chống các tệ nạn buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại,
tham nhũng…; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch,
hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Phân định rõ chức năng quản lý
hành chính nhà nước với chức năng quản lý sản xuất. Đổi mới công tác kế
hoạch hóa theo hướng xuất phát và gắn chặt với thị trường. Đồng thời giữ
vững sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của nhà nước trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, cơ chế thị trường là guồng máy vận hành của nền kinh tế hàng
hóa phát triển, là cơ chế tự điều chỉnh các cân đối của nền kinh tế theo yêu
cầu của các quy luật kinh tế khách quan, hoạt động không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan. Sẽ là sai lầm nếu không có một nhận thức đầy đủ về vấn đề
này trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước. Theo đó,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ
chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị



17

trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội – Thị
trường được xem như là động cơ còn kế hoạch là bánh lái của con thuyền
kinh tế. Nó là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội, trong đó quá trình sản xuất,
phân phối, trao đổi, tiêu dùng gắn với thị trường, được thực hiện thông qua thị
trường, dưới sự điều tiết, quản lý của nhà nước Việt Nam. Và như vậy, kinh tế
thị trường không chỉ là công nghệ, là kỹ thuật, mà còn là quan hệ xã hội,
không chỉ bao hàm yếu tố lực lượng sản xuất mà còn cả quan hệ sản xuất. Nó
gồm nhiều hình thức sở hữu mà trong đó nó phụ thuộc vào chế độ sở hữu nhà
nước xã hội chủ nghĩa thống trị. Việc xác định cả kế hoạch và thị trường đều
là công cụ điều tiết kinh tế khách quan mặc dù chúng là hai cơ chế hoạt động
theo những nguyên tắc khác nhau đã thể hiện tư duy sáng tạo và khoa học của
Đảng ta trong quá trình lãnh đạo, xây dựng và phát triển đất nước theo hướng:
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng , dân chủ, văn minh.


18



×