Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN sử LIỆU, PHÂN LOẠI sử LIỆU và ý NGHĨA đối với HOẠT ĐỘNG NGHIÊN cứu, GIẢNG dạy LỊCH sử ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.32 KB, 16 trang )

SỬ LIỆU, PHÂN LOẠI SỬ LIỆU VÀ Ý NGHĨA VỚI HOẠT ĐỘNG
NGHIÊN CỨU, GIẢNG DẠY LỊCH SỬ ĐẢNG
Khoa học lịch sử có nhiệm vụ cơ bản nhất là nghiên cứu những hoạt
động của con người trong quá khứ. Những hoạt động đó được biểu hiện thông
qua các sự kiện, biến cố lịch sử. Do vậy, trong nghiên cứu giảng dạy lịch sử
bao giờ cũng phải bắt đầu đi từ nghiên cứu các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên, sự
kiện lịch sử là những cái nhà nghiên cứu không thể quan sát trực tiếp được, nó
là cái đã xảy ra trong qúa khứ, cũng không thể dùng thí nghiệm hay thực
nghiệm để tái hiện lại sự kiện lịch sử như nó vốn có trong quá khứ để nghiên
cứu. Sự kiện lịch sử chỉ được ghi lại, dưới dạng này hay dạng khác, trong các
tư liệu lịch sử. Vì vậy, nhà nghiên cứu muốn khôi phục lại được bức tranh
chân thực của lịch sử, không có cách nào khác phải dựa trên cơ sở các nguồn
sử liệu. Nếu không có tư liệu lịch sử (sử liệu) về một sự kiện, một vấn đề lịch
sử nào đó thì không thể nghiên cứu về sự kiện đó, vấn đề đó một cách đầy đủ
và chính xác được, càng không thể khôi phục lại sự kiện lịch sử đó đúng như
nó vốn có trong hiện thực khách quan được. Như vậy, sử liệu đóng một vai
trò đặc biệt quan trọng trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy lịch sử.
1. Nhận thức về sử liệu và sử liệu học với hoạt động nghiên cứu lịch sử.
Trong quá trình ra đời, tồn tại và phát triển khoa học lịch sử khi
nghiên cứu về sử liệu tồn tại nhiều quan niệm khác nhau, người ta đã chia ra
thành ba nhóm định nghĩa khác nhau: nhóm định nghĩa một vế nhóm định
nghĩa hai vế và nhóm định nghĩa tổng quát.
Nhóm định nghĩa một vế chia thành hai trường phái cơ bản. Trường
phái sử học Pháp, đại biểu là Langloas cho rằng sử liệu là những dấu vết do tư
tưởng và hoạt động của con người từ quá khứ để lại, nó bao gồm tư duy, nhận
thức, hành động của con người được để lại từ quá khứ. Trường phái sử học Ba
Lan, đại biểu là Handeseman cho rằng sử liệu là dấu vết đời sống của con
người trong quá khứ được duy trì và giữ lại. Tức là tất cả những dấu tích, dấu


vết của đời sống con người được giữ lại được coi là sử liệu. Trường phái sử


học Ba Lan đề cao vai trò chủ động của con người, trách nhiệm của con người
là phải giữ lại những dấu vết dấu tích của quá khứ. Như vậy nhóm định nghĩa
này mới chỉ đề cập đến một khía cạnh, một vế, họ cho sử liệu mới chỉ có yếu
tố khách quan mà chưa có yếu tố người sử dụng nó.
Nhóm định nghĩa hai vế cũng có hai trường phái. Trường phái sử học
Đức, đại biểu là Bescnheim cho sử liệu là kết quả hoạt động của con người,
(những kết quả này hoặc từ ý đồ có trước, hoặc từ bản thân sự tồn tại của nó),
đặc biệt có ích cho nhận thức lịch sử và kiểm tra các sự kiện lịch sử, còn gọi
là kiểm tra trong lịch sử. Trường phái sử học Ba Lan, đại biểu là
Koslatskowsky cho sử liệu là dấu vết còn lại sau một sự kiện lịch sử phục vụ
cho việc nhận thức lịch sử và khôi phục sự kiện lịch sử. Nhóm định nghĩa hai
vế về sử liệu không chỉ phản ánh khách quan sự kiện lịch sử, vị trí, vai trò của
sự kiện lịch sử mà nó giúp con người nhận thức lịch sử và kiểm tra lịch sử.
Nhóm định nghĩa tổng quát với quan điểm của hai đại biểu. Sử gia
Smitol cho rằng tất cả những gì mà từ đó người ta khai thác được những
thông tin từ quá khứ thì đó là sử liệu. Còn nhà sử học Tôpôxky thì đưa ra
quan điểm: sử liệu là mọi thông tin về đời sống của con người trong quá khứ
cùng với kênh thông tin. Từ các khái niệm trên, có thể hiểu một cách khái
quát: sử liệu là mọi nguồn gốc của nhận thức lịch sử, mọi thông tin về quá
khứ xã hội (dù là trực tiếp hay gián tiếp), bất kỳ chúng nằm ở đâu với những
gì mà chúng truyền đạt bằng kênh thông tin. Tất cả những thông tin từ quá
khứ của thế giới tự nhiên, xã hội, hoàn cảnh sống, phong tục tập quán của con
người, cùng với những phương tiện chuyển tải những thông tin đó (hiện vật,
văn bản, âm thanh, chữ viết…) là sử liệu. Sử liệu là nguyên liệu để xây dựng
lên đề tài, sử liệu có vai trò hết sức quan trọng trong nhận thức, nghiên cứu
lịch sử.


Nghiên cứu các định nghĩa về sử liệu thấy rằng cả ba nhóm định nghĩa
đưa đến quan niệm về sử liệu là rất rộng, sử liệu là những dấu vết của con

người trong quá khứ được lưu lại trong những điều kiện nhất định đó là cơ sở
để nhận thức, để kiểm tra lịch sử và để khôi phục sự kiện lịch sử. Tuy nhiên,
nhóm định nghĩa một vế chỉ cho ta sử liệu là vết tích để lại từ quá khứ, chỉ
nhắc đến nguồn sử liệu là gì? Nhóm định nghĩa hai vế không những cho ta
nguồn là gì mà còn cho biết tác dụng của nguồn là để nhận thức và kiểm tra
lại sự kiện lịch sử, nhắc tới vấn đề sử dụng nguồn để làm gì? Mặc dù vậy, cả
hai nhóm định nghĩa một vế và định nghĩa hai vế chỉ đề cập đến yếu tố dấu
vết hoặc sản phẩm hoạt động của con người để lại từ quá khứ mà không đề
cập đến yếu tố tự nhiên và môi trường sống của con người.
Nhóm định nghĩa tổng quát không chỉ nói đến dấu vết, đến hoạt động
và tư tưởng của con người trong qúa khứ mà còn có thể khai thác những
thông tin về đời sống của con người qua các yếu tố tự nhiên, đó là những
kênh thông tin. Đây là cơ sở xác định khái niệm nguồn sử liệu là gì, những
nguồn đó phải gắn với lịch sử, là cơ sở gắn khái niệm nguồn sử liệu với khái
niệm lịch sử. Chúng ta đều biết rằng khoa học lịch sử bao gồm ba bộ phận cấu
thành: một là, cái đã xảy ra (tức là lịch sử); hai là, đi tìm và khẳng định cái đã
xảy ra trên thực tế (chính là hoạt động nghiên cứu của con người); ba là tri
thức lại cái đã xảy ra (trình bày kết quả nghiên cứu). Do đó, theo Mác: lịch sử
là quá trình hoạt động có mục đích của con người đã diễn ra trong quá khứ.
Quá trình hoạt động của con người có hai phương thức chủ yếu để đạt mục
đích đó là hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn. Vì vậy, “muốn đi tìm và
khẳng định cái đã xảy ra trên thực tế”, nói cách khác là muốn tiến hành hoạt
động nghiên cứu của con người về các vấn đề trong lịch sử đòi hỏi phải có sử
liệu, phải dựa trên cơ sở các nguồn sử liệu chân thực, có độ tin cậy cao.
Sử liệu có vai trò hết sức quan trọng, có thể được coi là nền tảng của
hoạt động nghiên cứu, giảng dạy lịch sử. Vai trò của sử liệu được thể hiện


qua tính chất chức năng và mối liên hệ của nó với các hoạt động nghiên
cứu lịch sử. Với chức năng bản thể luận, sử liệu ra đời do nhu cầu cuộc

sống và phục vụ cho đời sống của con người, thoả mãn nhu cầu của xã hội,
trực tiếp tham gia vào quá trình vận động của xã hội. Sử liệu là một mảnh,
một bộ phận của hiện thực xã hội và như vậy một mảnh, một bộ phận của
hiện thực đã tham gia vào sự kiện lịch sử. Sử liệu là cơ sở để xem xét đánh
giá, nhận thức, khôi phục sự kiện lịch sử. Với chức năng nhận thức luận: sử
liệu là một bộ phận của sự kiện lịch sử mà nó phản ánh, chứa đựng những
phần mà nó tham gia, là cái còn lại của sự kiện lịch sử, là tiền đề để nhận
thức quá trình lịch sử, sự kiện lịch sử và các qui luật của lịch sử. Các nhà
sử học sử dụng sử liệu để khai thác thông tin, phục vụ cho các hoạt động nhận
thức và nghiên cứu, cũng như giảng dạy lịch sử.
Sử liệu có thể phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp sự kiện lịch sử, đó
chính là tính chất của sử liệu. Những thông tin từ nguồn sử liệu có thể trực
tiếp phản ánh hiện thực lịch sử, quá trình lịch sử, các sự kiện lịch sử mà
không qua một kênh, một khâu trung gian nào. Ví dụ như những tài liệu ghi
chép (được bảo mật) tại Hội nghị Bộ chính trị về mở chiến dịch Tây
Nguyên (03/1975)… Khi sử liệu không ra đời cùng thời với sự kiện lịch sử,
sử liệu phản ánh gián tiếp sự kiện đó qua chủ thể trung gian thứ ba trở lên
viết lại, thuật lại. Ví dụ: như hiện nay (đầu thế kỷ XXI) có những tài liệu
mới ra đời mà viết về Cách mạng Tháng Tám 1945…
Dựa trên cơ sở nhận thức về khái niệm, chức năng, tính chất của sử
liệu có thể thấy vai trò của sử liệu là rất to lớn, giữ vị trí đặc biệt quan trọng
đối với hoạt động nhận thức và nghiên cứu lịch sử. Sử liệu là cơ sở, là điều
kiện, tiền đề cho mọi quá trình nhận thức lịch sử. Không có sử liệu nhận thức
lịch sử sẽ thiếu tính khách quan chân thực và như vậy sẽ không thể khôi phục
sự kiện lịch sử đúng như nó vốn có trong hiện thực.


Nhờ có sử liệu chúng ta mới có thể nhận thức được lịch sử, để rồi từ
sự nhận thức đó con người có thể giải đáp những yêu cầu mà thực tiễn xã hội
đang đặt ra. Lịch sử là dòng chảy tự nhiên nối liền quá khứ, hiện tại và tương

lai, sử liệu không những cung cấp cho chúng ta thông tin để nhận thức, nghiên
cứu và khôi phục bức tranh chân thực của lịch sử mà còn cung cấp cho chúng
ta cơ sở quan trọng để xem xét, đánh giá, so sánh nhiều vấn đề giữa quá khứ
với hiện tại, thông qua đó mà hiểu các vấn đề hiện tại, vận dụng thông tin từ
quá khứ để giải quyết các vấn đề do hiện thực xã hội đặt ra. Nghiên cứu lịch
sử mục đích chính là nhằm tìm ra qui luật phát triển, con đường đi lên của
lịch sử xã hội, đúc rút những bài học, những kinh nghiệm hữu ích cho hoạt
động thực tiễn trong hiện tại và tương lai. Chính vì vậy mà người ta ví “lịch
sử là ngọn đuốc soi đường đưa ta đến tương lai”.
Sử liệu với tư cách là một phần của lịch sử luôn khẳng định vai trò hữu
ích của nó với tương lai. Lịch sử không phải là sự chấm hết đối với một vấn đề,
một sự kiện, một hiện tượng xã hội. Bản thân nguồn sử liệu cũng không phải
chỉ là sự phản ánh thuần tuý các sự kiện, các hiện tượng và các quá trình lịch sử
trong quá khứ. Thông qua sử liệu, cho phép phát hiện ra khả năng tiềm tàng
của các sự kiện hiện tượng của lịch sử bằng việc phát hiện ra các qui luật vận
động và lôgíc phát triển nội tại của chúng. Dựa vào các thông tin mà sử liệu
cung cấp, chúng ta có thể dự báo được xu hướng vận động phát triển của các sự
vật, hiện tượng của lịch sử trong tương lai. Sử liệu với tư cách tồn tại khách
quan, có vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức lịch sử, đồng thời cũng là
yếu tố tham gia vào quá trình vận động phát triển của thực tiễn xã hội loài
người.
Vai trò của sử liệu còn được thể hiện qua vị trí của nó trong hệ
thống nhận thức lịch sử đó là: Sự kiện lịch sử luôn được phản ánh trong sử
liệu thông qua tác giả. Tác giả và sử liệu đều tham gia tạo thành sự kiện
lịch sử. Sử liệu vốn là một bộ phận của sự kiện lịch sử. Sử liệu cũng là biểu


hiện sự nhận thức và hoạt động của tác giả trong quá trình tạo ra sự kiện
lịch sử. Sự kiện sử học là hình ảnh của sự kiện lịch sử do nhà sử học tạo
nên dựa trên cơ sở sử liệu. Sử liệu và sự kiện lịch sử đều tồn tại khách quan

không lệ thuộc vào nhà nghiên cứu nhưng trên cơ sở của các nguồn sử liệu
mà nhà nghiên cứu sử học có thể khôi phục sự kiện lịch sử. Sử liệu và sự
kiện sử học phản ánh về sự kiện lịch sử thông qua lăng kính của nhà sử
học. Sử liệu là nền tảng trong quá trình tái tạo khôi phục sự kiện lịch sử
(khi sự kiện lịch sử được khôi phục thì nó chính là sự kiện sử học). Trong
các mối quan hệ của quá trình nhận thức lịch sử bao giờ cũng có nhân tố sử
liệu, sử liệu giữ vai trò là cơ sở nền tảng trong nhận thức lịch sử. Mối quan
hệ của quá trình nhận thức lịch sử có thể hiểu rõ hơn qua sơ đồ sau:
Sự kiện lịch sử

Tác giả

Sử liệu

Sự kiện lịch sử

Nhà sử học

Từ mối quan hệ trên cho thấy, sử liệu giữ vai trò là “hạt nhân” trong
hoạt động nghiên cứu lịch sử, do đó, bản thân sử liệu cũng cần một khoa học
nghiên cứu về nó, đó là những phương pháp khoa học trong phát hiện, nhận
thức, phân loại và xử lý thông tin từ sử liệu.
Qua nghiên cứu về khái niệm, chức năng, tính chất và vai trò của sử
liệu đã cho chúng ta hiểu rõ hơn về sử liệu học là một ngành của khoa học
lịch sử, một bộ môn khoa học của khoa học lịch sử bổ trợ cho phần nghiên


cứu lý luận, nghiên cứu thực tiễn, cung cấp những phương pháp sử dụng
các nguồn sử liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu lịch sử. Đối tượng
nghiên cứu của sử liệu học là nguồn sử liệu với tư cách là căn cứ tư liệu

của lịch sử (những dấu vết của con người trong lịch sử). Nhiệm vụ nghiên
cứu của sử liệu học là nghiên cứu lý luận về sử liệu; xây dựng các phương
pháp xử lý sử liệu; nghiên cứu tính xác thực, độ tin cậy của sử liệu.
Đối với khoa học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tuy là một
chuyên ngành khoa học mới ra đời nhưng nó cũng có đầy đủ các đặc trưng
cơ bản của ngành khoa học lịch sử. Về vấn đề sử liệu lịch sử Đảng, phạm
vi của nó là tất cả những gì ra đời gắn với quá trình ra đời, tồn tại và hoạt
động của Đảng để phục vụ cho việc nhận thức lịch sử Đảng, khôi phục sự
kiện lịch sử Đảng. Sử liệu lịch sử Đảng là mọi nguồn gốc của nhận thức lịch
sử Đảng, mọi thông tin về quá khứ ra đời, tồn tại, hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng (dù là trực tiếp hay gián tiếp), bất kỳ chúng nằm ở đâu với những gì
mà chúng truyền đạt bằng kênh thông tin. Sử liệu lịch sử Đảng “được hình
thành trong quá trình hoạt động của Đảng, chuyển tải thông tin, phản ánh một
cách sinh động và đầy đủ quá trình hoạt động, những bài học, kinh nghiệm
qúi báu trong lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và
xây dựng chế độ mới xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của Đảng Cộng
sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay”1. Sử liệu lịch sử Đảng gồm tất cả những
di tích, di vật, tài liệu, tư liệu…liên quan đến các sự kiện, các quá trình lịch sử
Đảng. Tất cả những thông tin về quá khứ của Đảng cùng với những phương
tiện chuyển tải những thông tin đó (hiện vật, văn bản, âm thanh, phim, ảnh…)
là sử liệu lịch sử Đảng.
Sử liệu lịch sử Đảng bao gồm các dạng cơ bản là tài liệu, tư liệu và di
tích, hiện vật lịch sử Đảng. Tài liệu lịch sử Đảng là những vấn đề có liên quan
đến Đảng, đến hoạt động lãnh đạo của Đảng, là những nội dung hoàn chỉnh
1

Vê phương pháp nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lý luận Chính
trị, H, 2008. tr268



về một vấn đề nào đó của hoạt động lãnh đạo của Đảng do từng tập thể hoặc
cá nhân nghiên cứu có sự tác động đến xã hội. Tài liệu lịch sử Đảng phần lớn
do cơ quan Đảng, Nhà nước quản lý, sử dụng theo những qui chế nhất định,
đặc biệt là những tài liệu gốc là những chứng tích lịch sử có giá trị pháp lý
cao, là những di sản có giá trị đặc biệt không chỉ với Đảng ta mà còn với dân
tộc ta. Tư liệu lịch sử Đảng được khai thác từ tài liệu lịch sử Đảng, được sử
dụng trong nghiên cứu một lĩnh vực nào đó, tư liệu là những mảnh, những bộ
phận của tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu một lĩnh vực nhất định. Tư liệu
lịch sử Đảng được hình thành trong quá trình sưu tầm, tích luỹ của các nhân
hoặc nhóm nghiên cứu. Tư liệu lịch sử Đảng cũng được các cơ quan Đảng,
Nhà nước lưu trữ và có những qui định về việc bảo quản và sử dụng. Di tích,
hiện vật lịch sử Đảng là những địa điểm (không gian), những vật chứng có
liên quan trực tiếp đến sự ra đời, tồn tại, phát triển và các hoạt động lãnh đạo,
chỉ đạo mang đậm dấu ấn của Đảng. Ví dụ như: Cây đa Tân Trào nơi diễn ra
những Hội nghị quan trọng của Đảng chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám
1945; lá cờ giải phóng cắm trên Dinh Độc Lập, xe tăng 390 trong chiến thắng
30 tháng 04 năm 1975;…
Trong khoa học lịch sử Đảng, sử liệu lịch sử Đảng giữ một vị trí
đặc biệt quan trọng trong việc khôi phục lại bức tranh chân thực của lịch
sử, phác họa toàn bộ lịch sử cách mạng sinh động và phong phú của Đảng.
Sử liệu lịch sử Đảng là sản phẩm của trí tuệ tập thể, thể hiện khả năng, bản
lĩnh, trình độ và nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng nói chung và của
từng cấp bộ Đảng nói riêng. Sử liệu lịch sử Đảng là nguồn thông tin chính
thức của Đảng, là chứng cứ tin cậy phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
tổng kết công tác, nghiên cứu của các cơ quan và tổ chức Đảng, là nguồn
sử liệu quan trọng nhất, chính xác nhất phục vụ cho công tác nghiên cứu và
biên soạn, giảng dạy lịch sử Đảng.
2. Phương pháp phân loại sử liệu và sử liệu lịch sử Đảng



Trong quá trình nghiên cứu, để khai thác các thông tin có chứa
trong sử liệu vào phục vụ cho việc khôi phục sự kiện lịch sử đúng như nó
vốn có trong hiện thực, nhà nghiên cứu phải thực hiện nhiều công đoạn như
phát hiện, sưu tầm, phân loại, lựa chọn, đọc và phê phán sử liệu… Trong
các thao tác đó, phân loại sử liệu là một trong những công đoạn rất quan
trọng hỗ trợ cho các công đoạn khác được thực hiện một cách chuẩn xác
nhằm mục tiêu cuối cùng là lựa chọn được những sử liệu xác thực, có độ
tin cậy cao phục vụ tốt cho hoạt động nghiên cứu.
Nguồn sử liệu tồn tại trong thực tế rất đa dạng phong phú với nhiều
đặc trưng, tính chất và loại hình khác nhau, việc phân loại sử liệu có thể dựa
trên cơ sở những sự khác nhau đó. Khi phân loại các nguồn sử liệu người ta
thường tiến hành phân loại theo ba cách chủ yếu là: phân loại theo đặc trưng;
phân loại theo tính chất phản ánh và phân loại theo loại hình.
Nhà nghiên cứu có thể căn cứ vào đặc trưng của nguồn sử liệu để
phân thành hai loại: sử liệu thành văn và không thành văn. Sử liệu thành văn
là nguồn sử liệu tồn tại dưới dạng chữ viết (cổ ngữ, quốc ngữ và chữ nước
ngoài), là nguồn quan trọng hàng đầu của sử học vì nó cung cấp thông tin một
cách cơ bản, hệ thống và đầy đủ và chính xác nhất. Ví dụ: có nhiều nguồn,
nhiều loại sử liệu về sự kiện Xô viết Nghệ tĩnh (1930-1931) nhưng các tài liệu
thành văn trình bày một cách rõ ràng và đầy đủ nhất. Sử liệu thành văn có thể
chia làm bốn loại: Một là, loại truyền đạt thông tin có mục đích, có giá trị ổn
định lâu dài như Cương lĩnh xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ
của Đảng cộng sản Việt Nam. Hai là, loại truyền đạt thông tin có mục đích
nhưng chỉ có giá trị trong thời gian ngắn như các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, các loại văn bản của Nhà nước mang tính chất giải quyết tình thế. Ba
là, loại trực tiếp phản ánh quá trình lịch sử, giai đoạn lịch sử như các chiếu,
biểu, lời kêu gọi… Bốn là, loại gián tiếp phản ánh quá trình lịch sử, giai đoạn
lịch sử sự kiện lịch sử như các tác phẩm văn học, hồi ký của các nhân vật lịch



sử, các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội. Sử liệu không thành văn là
nguồn sử liệu không phải bằng chữ viết, truyền đạt thông tin bằng biểu cảm,
như phim, tranh ảnh, hiện vật, di chỉ, di tích…Đây là nguồn sử liệu rất phong
phú và ra đời sớm trước cả sử liệu thành văn. Ví dụ như thông tin về quá trình
hình thành dân tộc Việt Nam có rất nhiều sử liệu là hiện vật như: rìu đá, trống
đồng…(được bảo tồn, lưu giữ trong Bảo tàng Lịch sử Dân tộc Việt Nam)
Trên cơ sở tính chất phản ánh của sử liệu người ta phân chia thành hai
loại là sử liệu trực tiếp và gián tiếp. Sử liệu trực tiếp là những tài liệu trực tiếp
phản ánh một mặt, một bộ phận nào đó của sự kiện lịch sử. Đây là nguồn sử
liệu có tính chính xác cao, nhà sử học chỉ cần kiểm tra tính xác thực của sử
liệu mà không cần phải xác minh độ tin cậy của kênh thông tin. Ví dụ như:
“Chính cương sách lược vắn tắt” trong Hội nghị thành lập Đảng (02/1930) là
cơ sở để Đảng ta vạch ra đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sử liệu
gián tiếp là những sử liệu không phải phản ánh trực tiếp từ sự kiện lịch sử đó,
mà qua người khác thông tin lại. Ví dụ như: các bài báo, hồi ký…về sự kiện
lịch sử đó hoặc về sự kiện khác có liên quan đến sự kiện lịch sử đang được
nghiên cứu. Muốn nhận thức được nguồn gián tiếp một cách chân thực, nhà
nghiên cứu vừa phải xác minh độ tin cậy của nguồn thông tin, vừa phải xác
minh tính xác thực của sử liệu.
Dựa vào loại hình của nguồn sử liệu mà người ta phân chia sử liệu
thành sáu nhóm khác nhau: Nhóm sử liệu vật thực, là những di tích vật thực
được hình thành trong quá trình hoạt động của con người (nhà cửa, các công
trình kiến trúc đền, chùa, các công cụ lao động sản xuất…). Đây là nhóm sử
liệu có đầu tiên, có giá trị cao, cho đến hiện nay vẫn giữ được ý nghĩa của nó
trong quá trình nghiên cứu lịch sử. Nhóm sử liệu chữ viết là nguồn tài liệu ra
đời do nhu cầu của lịch sử, thể hiện trình độ phát triển của con người và xã
hội loài người. So với sử liệu vật thực thì sử liệu chữ viết có khả năng cung
cấp thông tin tổng hợp hơn về sự kiện lịch sử mà qua sử liệu hiện vật chưa



thấy hết, để có thể so sánh, xác định nguyên nhân, kết quả của sự kiện lịch sử.
Nhóm sử liệu truyền miệng là nguồn sử liệu được sáng tác trong dân gian, dựa
trên thực tế, gắn sát với lịch sử, trên cơ sở tổng kết, khái quát lịch sử (tục ngữ,
ca dao, dân ca, hò, vè…). Đây là nguồn sử liệu thường không có tác giả, luôn
được thêm, bớt qua các thời đại với nhiều dị bản khác nhau nên thật giả khó
phân biệt, khó xác minh độ tin cậy của thông tin, nó không phải là sử liệu gốc,
nhà nghiên cứu có chăng chỉ nên sử dụng trong giảng giải, thuyết trình. Nhóm
sử liệu ngôn ngữ học, là nguồn sử liệu biểu đạt thông tin qua ngôn từ, dựa vào
ngôn từ để nhận thức lịch sử. Ngôn từ có tính lịch sử, khi xã hội phát triển
ngôn từ cũng phát triển, sẽ có nhiều thuật ngữ mới ra đời. Nhà nghiên cứu
thông qua những thông tin từ ngôn từ ở các thời đại khác nhau để nhận thức
lịch sử. Ví dụ: từ “tản cư” và từ “sơ tán” là hai từ đồng nghĩa nhưng khác
nhau về thời đại sử dụng, một văn bản nào mà sử dụng từ “tản cư” thì đó là
văn bản thời kháng chiến chống Pháp, văn bản nào sử dụng từ “sơ tán” thì đó
là văn bản thời kháng chiến chống Mỹ. Nhóm sử liệu dân tộc học là nguồn sử
liệu bao gồm trong đó cả vật thực, truyền miệng, ngôn ngữ…,thông qua tàn
tích, dấu ấn, phong tục tập quán để nghiên cứu về một dân tộc nào đó. Ví dụ
như: các loại Chiêng đồng, nhà Rông, các nghi thức sinh hoạt tinh thần của
một số dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên. Loại này có đặc điểm là phản ánh
cái đã qua có khi rất mờ nhạt, song nhờ nó nhà nghiên cứu có thể tìm ra
nguồn gốc của sự kiện lịch sử. Nhóm sử liệu phim, ảnh, ghi âm, được ra đời
trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, là nhóm tư liệu rất phong phú,
chứa nhiều thông tin trực tiếp và chuẩn xác. Ví dụ qua phim và ảnh của một
phóng viên người Pháp mà chúng ta mới biết được chính xác là xe tăng mang
số hiệu 390 là xe đã húc đổ cổng Dinh Độc Lập trong chiến thắng 30/04/1975
chứ không phải là xe tăng mang số hiệu 843. Tuy nhiên khi khai thác thông
tin từ nguồn này, cũng cần phải xem xét lập trường, quan điểm của người cầm


máy (theo lập trường nào, đưa thông tin nhằm mục đích gì?), nếu không, cũng

có thể dẫn tới nhận thức sai lệch lịch sử.
Đối với khoa học lịch sử Đảng trong quá trình nhận thức, nghiên cứu
và giảng dạy lịch sử Đảng, sau khi đã có một cơ sở tư liệu, tài liệu đầy đủ
người nghiên cứu cũng cần phải tiến hành phân loại sử liệu lịch sử Đảng
thành các nhóm khác nhau, về cơ bản được chia thành năm loại.
Một là, nguồn sử liệu vật thực, bao gồm các di tích, hiện vật…có liên
quan đến sự ra đời, tồn tại, phát triển và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Ví dụ
như hang Pắc Bó nơi Bác Hồ làm việc trong thời kỳ trước Cách mạng Tháng
Tám; là cờ của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940... Khi tìm kiếm nguồn sử liệu
này nhà nghiên cứu thường phải sử dụng phương pháp điền dã, đi thực tế để
phát hiện, sưu tầm và tích luỹ sử liệu.
Hai là, nguồn sử liệu chữ viết: nguồn này là khách quan chân thực
nhất, chủ yếu nhất giúp cho hiểu đường lối chủ trương, chính sách của Đảng,
giúp nghiên cứu khôi phục sự kiện lịch sử Đảng. Nguồn sử liệu chữ viết bao
gồm: các văn kiện của Đảng qua các kỳ đại hội (nguồn chủ yếu trực tiếp
nhất); các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí
thư; các văn bản khác có tính chất chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về các vấn đề
cụ thể, trong các giai đoạn thời điểm khác nhau; các bài nói, bài viết của các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; các cuốn sổ tay ghi chép, nhật ký của
nhân chứng lịch sử; các hồi ký (sử liệu gián tiếp) của cá nhân các đồng chí lão
thành cách mạng…
Ba là, sử liệu truyền miệng như ca dao, tục ngữ, hò, vè… được quần
chúng nhân dân khái quát, tổng kết từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng,
ca ngợi công lao của Đảng, Bác Hồ… Tuy nhiên, khoa học lịch sử Đảng ít sử
dụng do nó không có tác giả, khó kiểm định tính chân thực, khó xác định
mức độ thật giả.


Bốn là, nguồn sử liệu sống, tức là các nhân chứng lịch sử, các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội… những người đã trực tiếp tham gia

vào các sự kiện lịch sử đang còn sống. Nhà nghiên cứu phải làm tốt mọi công
tác chuẩn bị (câu hỏi, phương tiện ghi chép, ghi âm…) và trực tiếp gặp gỡ, trò
chuyện, trao đổi… với nhân chứng để thu thập tư liệu về sự kiện lịch sử Đảng
mà mình nghiên cứu.
Năm là, nguồn sử liệu phim, ảnh, băng ghi âm, đây là nguồn sử liệu
chân thật, xác thực có độ tin cậy cao. Hiện nay tại Văn phòng lưu trữ Trung
ương Đảng đang lưu trữ rất nhiều tài liệu với khoảng 300 bộ phim, 3.600 đơn
vị ghi âm và khoảng 40.000 bức ảnh là sử liệu về lịch sử Đảng.
Phân loại sử liệu có vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức và
nghiên cứu lịch sử nói chung và lịch sử Đảng nói riêng. Sau khi sưu tầm và đã
có một cơ sở tài liệu tương đối đầy đủ, nhà nghiên cứu phải tiến hành phân
loại để chuẩn bị cho các bước chọn lọc, đọc, phê phán và sử dụng tài liệu. Vì
trong các công trình nghiên cứu lịch sử không thể chỉ sử dụng một loại mà sử
dụng đồng thời nhiều loại, nhiều nguồn sử liệu với nội dung, tính chất khác
nhau, với ý nghĩa và vị trí của mỗi loại khác nhau. Trên cơ sở phân loại sử
liệu mà nhà nghiên cứu có cách tiếp cận sử dụng các nguồn tài liệu, sử liệu
phục vụ cho việc nghiên cứu thực hiện đề tài một cách gần, sát và đúng đắn
nhất, tiết kiệm được thời gian, công sức, kinh phí, tránh được sự dàn trải,
phân tán không cần thiết. Việc phân loại sử liệu trong công trình nghiên cứu
lịch sử khó có thể tiến hành theo một dấu hiệu cơ bản nào đó, mà phải dựa
vào vào một tập hợp nhiều dấu hiệu quan trọng khác nhau. Cũng chính vì vậy
mà khó có thể có một sơ đồ phân loại toàn năng cho tất cả các công trình
nghiên cứu, mà thường tồn tại những kiểu phân loại sử liệu theo từng công
trình nghiên cứu cụ thể. Các cách phân loại nguồn sử liệu như trên cũng chỉ là
mang tính ước lệ, tương đối cho dễ hiểu, vì các nguồn sử liệu có sự giao thoa
nhau và một sử liệu có thể chứa đựng nhiều thông tin khi khai thác ở góc độ


khác nhau. Ví dụ như: những bia đá trong Văn Miếu Quốc Tử giám; bản Di
Chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh- vừa là sử liệu hiện vật, vừa là sử liệu chữ

viết. Việc thu thập, nhận biết đặc điểm, phân loại sử liệu có ý nghĩa quan
trọng giúp cho người nghiên cứu khai thác thông tin trong những trường hợp
cụ thể. Song để giới hạn phạm vi, thu thập và sử dụng những nguồn sử liệu có
giá trị, nhà nghiên cứu lịch sử còn cần phải nắm được cách chọn lọc sử liệu,
đọc sử liệu và phê phán sử liệu.
Việc phân loại nguồn sử liệu có ý nghĩa rất lớn, là cơ sở để xem xét
khai thác thông tin trong từng loại sử liệu, sử liệu nào là chính, tài liệu nào chỉ
dùng để tham khảo. Trong khoa học lịch sử Đảng sử liệu chủ yếu là văn kiện,
nghị quyết, chỉ thị, di tích, nhân chứng, hồi ký… Muốn cho công trình nghiên
cứu lịch sử đạt kết quả, có chất lượng cao đòi hỏi nhà nghiên cứu phải tích
cực sưu tầm các nguồn sử liệu, phải phân loại sắp xếp sử liệu thành từng
nhóm trên cơ sở đó mà thực hiện các thao tác tiếp theo và khai thác thông tin
phục vụ cho hoạt động nhận thức và nghiên cứu lịch sử. Quá trình nhận thức
và nghiên cứu lịch sử cần đấu tranh phê phán tư tưởng xem nhẹ vai trò của sử
liệu hay coi thường việc phân loại nguồn sử liệu. Những biểu hiện như vậy sẽ
dẫn đến làm cho kết quả nghiên cứu lịch sử bị sai lệch so với hiện thực, thậm
trí đó là những biểu hiện ban đầu của tư tưởng muốn bôi đen hoặc tô hồng
lịch sử. Trong nghiên cứu, trình bày kết quả nghiên cứu lịch sử, muốn các
công trình sử học được đánh giá là có chất lượng cao, phản ánh đúng hiện
thực lịch sử đòi hỏi những công trình này phải có một hệ thống các nguồn sử
liệu phong phú và xác thực, đầy đủ độ tin cậy.
3. Ý nghĩa của sử liệu học với việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng.
Khoa học lịch sử Đảng là một chuyên ngành trong khoa học lịch sử,
do vậy, nó cũng cần đầy đủ lý luận về phương pháp nghiên cứu lịch sử nói
chung cũng như lý thuyết về sử liệu nói riêng. Tuy nhiên, gắn với đặc điểm
đối tượng nghiên cứu là quy luật ra đời, quá trình phát triển và hoạt động lãnh


đạo của một tổ chức, vì thế, việc nắm vững các phương pháp nghiên cứu lịch
sử nói chung và sử liệu học nói riêng càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng

trong quá trình nhận thức, nghiên cứu lịch sử Đảng.
Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử Đảng tuy là hai lĩnh vực khác nhau
nhưng có mối quan hệ gắn bó không tách rời nhau, đều có sự cần thiết tham
gia không thể thiếu của các sử liệu lịch sử Đảng. Quá trình nghiên cứu lịch sử
Đảng cần phải biết khai thác sử dụng các sử liệu lịch sử Đảng để làm rõ, khôi
phục các sự kiện lịch sử, quá trình phát triển, hoạt động lãnh đạo của Đảng.
Giảng dạy lịch sử Đảng là quá trình giáo dục nhận thức về Đảng, cần phải có
các sử liệu lịch sử Đảng để xây dựng các sự kiện lịch sử Đảng, dùng sử liệu
để chứng minh cho đường lối lãnh đạo của Đảng, tạo ra sự hấp dẫn và sức
thuyết phục cho bài giảng, mở rộng, nâng cao nhận thức cho người học. Bản
thân sử liệu cũng có chức năng giáo dục, ví dụ thông qua những sử liệu về Hồ
Chí Minh có ý nghĩa giáo dục lối sống trong sạch lành mạnh, đạo đức cách
mạng, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người.
Sử liệu lịch sử Đảng là sử liệu đáp ứng yêu cầu nghiên cứu quá trình
ra đời, hoạt động của Đảng. Toàn bộ lý thuyết về sử liệu đều có thể vận dụng
trong xem xét đánh giá sử liệu lịch sử Đảng và có vị trí rất quan trọng vì: hơn
70 năm ra đời và phát triển của Đảng, thời kỳ hoạt động bất hợp pháp rất dài,
sử liệu bị thất thoát, hư hại, có nhiều sử liệu không thành văn. Mặt khác, khi
Đảng hoạt động công khai, hợp pháp có chính quyền thì công tác lưu trữ cũng
chưa được quan tâm đầy đủ. Vì vậy, phân loại, phát hiện, đọc sử liệu và phê
phán sử liệu lịch sử Đảng là việc có ý nghĩa quyết định đến kết quả nghiên
cứu của người nghiên cứu lịch sử Đảng.
Sử liệu lịch sử Đảng là một loại di sản văn hoá đặc biệt, là chứng cớ
xác thực của lịch sử, có ý nghĩa rất to lớn đối với việc nghiên cứu lịch sử nói
chung và lịch sử Đảng nói riêng. Khai thác một cách triệt để và toàn diện sử
liệu lịch sử Đảng sẽ góp phần quan trọng nâng cao chất lượng của các công


trình nghiên cứu, đổi mới công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử Đảng.
Hiện nay, nguồn sử liệu mà chúng ta còn lưu giữ được tương đối đầy đủ, là

điều kiện thuận lợi mở ra cho khoa học lịch sử Đảng những khả năng mới
trong việc làm sáng tỏ nhiều vấn đề của lịch sử Đảng, nhất là thời kỳ Đảng
cầm quyền.
Từ vị trí, vai trò của sử liệu trong nghiên cứu và giảng dạy lịch sử
Đảng, đòi hỏi người nghiên cứu phải có trình độ kiến thức về sử liệu học, phải
biết phát hiện, phân loại, đọc sử liệu, nắm vững các khâu, các hoạt động xem
xét đánh giá và kiểm tra tính chân thật của sử liệu. Đây là yêu cầu cần thiết
mang tính nguyên tắc trong nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng.
Ngay trong nội dung của sử liệu học cũng chỉ ra rằng: muốn nghiên
cứu, giảng dạy lịch sử Đảng có hiệu quả, người nghiên cứu phải có hiểu biết
về lịch sử dân tộc, lịch sử thế giới, lịch sử quân sự… và những kiến thức phổ
thông khác. Do đó, đòi hỏi người nghiên cứu phải tích cực trau dồi, học tập
nghiên cứu nâng cao trình độ kiến thức về các môn khoa học khác có liên
quan. Nghiên cứu lý thuyết về sử liệu cũng nhận thức được rằng: nghiên cứu
và giảng dạy lịch sử Đảng phải có căn cứ khoa học luôn tôn trọng và phải
xuất phát từ sự thật lịch sử, chống áp đặt chủ quan tuỳ tiện, tô hồng hay bôi
đen lịch sử.



×