Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

TIỂU LUẬN tìm HIỂU cơ sở KHOA học để PHÂN ĐỊNH các THÀNH PHẦN KINH tế ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.09 KB, 6 trang )

1

TÌM HIỂU CƠ SỞ KHOA HỌC TRONG VIỆC PHÂN ĐỊNH
CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Phân định các thành phần kinh tế là vấn đề phức tạp và có ý nghĩa
quan trọng trong hoạt động lãnh đạo kinh tế của Đảng. Đó là căn cứ cho hoạch
định chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
và việc xác định các chính sách cụ thể, sát, đúng với mỗi thành phần kinh tế
nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo
định hướng XHCN.
Dựa trên cơ sở những kết quả của công tác tổng kết lý luận và thực
tiễn qua 30 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã
xác định sự tồn tại của 5 thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay. Đó là kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (bao gồm cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sự phân
định này phản ánh nhận thức của Đảng ta về sở hữu trong nền kinh tế của thời
kỳ quá độ, cả về chế độ và hình thức sở hữu các tư liệu sản xuất trong nền
kinh tế nước ta, phù hợp và sát với sự vận động của thực tiễn. Đó là kết quả
của quá trình nhận thức lý luận và chỉ đạo thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo
kinh tế của Đảng. Bài viết nhỏ này góp phần làm sáng tỏ các luận cứ khoa học
của nhận thức đó.
1- Sự phân định các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ bắt
nguồn từ sự nhận thức các quan điểm Mác xít về vấn đề sở hữu.
Sự phân định các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH
bao giờ cũng là kết quả của quá trình nhận thức của Đảng vô sản về các


2

nguyên lý lý luận Mác xít về vấn đề sở hữu, mà bản chất của nó không gì khác


hơn là quan hệ giữa con người ta với nhau đối với các tư liệu sản xuất xã hội
và thực tiễn sự vận động của nền kinh tế với các chủ thể mang lợi ích kinh tế
khác nhau tồn tại trong thời kỳ quá độ. Vì vậy, nói đến sự phân định các thành
phần kinh tế ở nước ta hiện nay, nhất định phải là kết quả của quá trình nhận
thức các luận điểm Mác xít về sở hữu trong thời kỳ quá độ. Đặt vấn đề khác đi
sẽ không thể tìm thấy lời giải cho điều chúng ta cần tìm hiểu.
Khai cứu lịch sử vận động của xã hội loài người cho thấy, quá trình
sản xuất là quá trình con người chinh phục tự nhiên để tạo ra những sản phẩm
đáp ứng (thỏa mãn) các nhu cầu của cuộc sống. Trong quá trình đó, con người
phải quan hệ với nhau theo các phương thức nhất định. Đó chính là các quan
hệ sản xuất, trong đó tồn tại mối quan hệ cơ bản: quan hệ với nhau đối với các
tư liệu sản xuất (quan hệ sở hữu), mà nhờ có nó con người mới có thể tiến
hành sản xuất tạo ra của cải. Đây là quan hệ cơ bản, quyết định hai mối quan
hệ còn lại (quan hệ về tổ chức, quản lý và quan hệ về phân phối các sản phẩm
làm ra), đồng thời quyết định tính chất của quan hệ sản xuất.
Nội dung chính của sở hữu (quan hệ sở hữu) là quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và định đoạt được biểu hiện ra về mặt pháp lý là: ai là người
chủ sở hữu các tư liệu sản xuất thì có quyền sử dụng hoặc cho thuê, chuyển
nhượng các tư liệu sản xuất và quyết định việc phân phối các sản phẩm làm ra
từ quá trình sử dụng các tư liệu sản xuất đó; các quyền đó được xác định như
thế nào ở các chế độ nhất định, đó là chế độ sở hữu.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác- Lênin quy các chế độ sở hữu trong
các hình thái kinh tế - xã hội thành hai loại (hai chế độ) khác nhau: chế độ tư
hữu và chế độ công hữu. Trong mỗi chế độ khái quát đó lại bao gồm những
chế độ sở hữu cụ thể - được gọi là các hình thức sở hữu. Các hình thức sở hữu


3

phản ánh đặc điểm quan trọng và cơ bản của một kiểu quan hệ sản xuât nhất

định của con người trong việc nắm giữ các tư liệu sản xuất của xã hội
Do thời kỳ quá độ có đặc trưng là sự tồn tại đan xen của hai kết cấu xã
hội, mà theo Lênin, đó là kết cấu của xã hội cộng sản đã ra đời nhưng còn non
yếu và kết cấu của xã hội tư bản chủ nghĩa đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu
diệt hẳn. Nên trong thời kỳ quá độ tồn tại đan xen hai loại chế độ sở hữu là
công hữu và tư hữu, tất yếu sẽ tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau. Đây là
cơ sở để Lênin xác định trong nền kinh tế nước Nga sau cách mạng tháng
Mười thành 5 thành phần kinh tế.
Như vậy, về mặt lý luận, sự phân định các thành phần kinh tế phải dựa
trên nhận thức về sự tồn tại khách quan chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu
cụ thể chứ không thể tuỳ tiện.
Đối với nền kinh tế nước ta, Đại hội Đảng lần thứ X xác định có 3 chế
độ sở hữu, 4 hình thức sở hữu trên cơ sở đó, tồn tại 5 thành phần kinh tế là dựa
trên các quan điểm Mác xít về sở hữu đã nêu ở trên.
Có một thực tế là, các Đại hội VIII, IX và X có sự phân định khác
nhau về số lượng và thành phần kinh tế cụ thể, nhưng điều đó không có nghĩa
là có sự mâu thuẫn về mặt lý luận, mà chỉ là những nấc thang phát triển của
quá trình nhận thức chân lý khách quan. Một khái niệm, phạm trù khoa học
hay một sự vật hiện tượng kinh tế, từ nhận thức để khái quát được bản chất
của sự vật hiện tượng bao giờ cũng gắn liền với quá trình vận động và phát
triển của thực tiễn. Hiện thực khách quan không bộc lộ ra mà đòi hỏi con
người phải tìm hiểu, khám phá; hiện thực khách quan luôn vận động phát
triển, đòi hỏi con người phải vươn lên nhận thức, để có những kết luận lý luận
phù hợp với thực tiễn.


4

2- Thực tiễn sinh động của quá trình phát triển các thành phần
kinh tế ở nước ta - cơ sở khách quan của sự thay đổi phân định về các

thành phần kinh tế.
Qua các kỳ Đại hội, có sự thay đổi số lượng, tên gọi và kết cấu nội bộ
các thành phần kinh tế, song tựu chung lại, trong 15 năm qua chỉ là sự thay đổi
của tên gọi và kết cấu của thành phần kinh tế tư nhân - dựa trên cơ sở chế độ
tư hữu và sự xuất hiện thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đối với thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, tại Đại hội
XIII và IX, chúng ta phân ra thành thành phần kinh tế tư bản tư nhân và thành
phần kinh tế cá thể, tiểu chủ. Đến Đại hội X, hai thành phần kinh tế này được
gộp lại làm một. Sở dĩ như vậy là do:
Thứ nhất, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân mặc dù có
mặt ở cả 4 khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu
dùng; tồn tại, hoạt động trong các ngành kinh tế và dịch vụ công, đều có quan
hệ ràng buộc với kinh tế nhà nước và các loại hình kinh tế khác, nhưng chúng
đều dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất với các trình độ khác
nhau và đều có thuê mướn lao động trong mức độ nhất định. Phân phối kết
quả lao động của kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân đều dựa trên sự
đóng góp về vốn, tài năng sản xuất kinh doanh và kết quả lao động. Mặt khác,
hoạt động của các kiểu tổ chức kinh tế này đều chịu sự chi phối của quy luật
kinh tế thị trường, trong đó có quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật
cạnh tranh…Do đó, những hình thức tổ chức kinh tế cụ thể trên được xếp vào
thành phần kinh tế tư nhân là hợp lý.
Thứ hai, thực tiễn cho thấy, kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân
trong thời gian qua phát triển hết sức năng động, có vai trò quan trọng là một
trong những động lực của nền kinh tế. Năm 2004, tổng sản phẩm trong nước


5

tính theo giá thực tế là 713.071 ngàn tỷ đồng, trong đó khu vực ngoài nhà
nước trong đó chủ yếu là kinh tế tư nhân chiếm 325.211 ngàn tỷ đồng chiếm

45,61% (kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được tách riêng không nằm trong
số thống kê trên).
Một thực tế nữa là, hiện nay chúng ta chưa xác định được tiêu chí cụ
thể thế nào là kinh tế cá thể, tiểu chủ, thế nào là kinh tế tư bản tư nhân (bởi sự
vận động, phát triển, biến đổi không ngừng của chúng cũng như sự ảnh hưởng
của nhiều yếu tố khác). Vì thế, gộp kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân
vào một thành phần kinh tế còn có vấn đề của thực tiễn.
Về thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, ở đây không bao hàm
hình thức sở hữu của tư bản nước ngoài. Vì theo quan điểm của Lênin, dù
doanh nghiệp 100% vốn của tư bản nước ngoài, nhưng nó vẫn là thành phần
kinh tế tư bản nhà nước. Ở đây tư bản đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước vô
sản. Do vậy, “nó đã mang 50% tính chất XHCN”. Tuy nhiên, trong quá trình
đổi mới đó có sự tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhưng nó không phải
là tư bản, vì nó không thuộc chế độ tư hữu mà là nguồn vốn từ các nước
XHCN đầu tư ra nước ngoài - Nền kinh tế nước ta không phải là ngoại lệ.
Hình thức sở hữu không phải là chế độ tư hữu, nhưng lại không phải là nguồn
nội lực của nền kinh tế, việc xác định thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài sẽ cho phép có chính sách kinh tế phù hợp.
Từ những phân tích trên đây, có thể khẳng định rằng, việc phân định 5
thành phần kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X là hoàn
toàn hợp lý, có cơ sở khoa học vững chắc, là “chủ quan trong tính trừu tượng
của chúng, trong sự tách rời của chúng nhưng lại là khách quan trong chỉnh
thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng, trong nguồn gốc”,
thể hiện sự đổi mới trong tư duy nhận thức của Đảng ta.


6




×