Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Lựa chọn 1 dịch vụ cụ thể và phân tích đặc điểm lao động của dịch vụ đó( lựa chọn dịch vụ giúp việc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.99 KB, 19 trang )

Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Quản trị Dịch vụ (Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Thị Nguyên Hồng, Nhà
xuất bản thống kê năm 2014)
2. Bộ luật Lao động 2012
3. Nghị định 27/2014/NĐ-CP của Chính phủ, Quy định chi tiết thi hành một số điều
của Bộ luật Lao động về lao động là người giúp việc gia đình.
4. />5. />S_241181/lang--vi/index.htm
6. />

Lời mở đầu
Tại Việt Nam hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu về các dịch
vụ ngày càng tăng lên. Một trong những dịch vụ rất được ưa chuộng, đặc biệt ở các đô
thị, thành phố lớn đó là dịch vụ giúp việc trong gia đình. Cuộc sống thành thị với guồng
quay và áp lực của công việc xã hội khiến cho nhiều người khó có thể cân bằng được thời
gian và sức lực giữa việc đi làm, đóng góp cho xã hội với việc đảm bảo việc nhà, chăm
sóc cho gia đình. Đó là lý do cơ bản để xuất hiện cầu về lao động giúp việc. Trong khi
đó, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, nhiều
người dân ở vùng nông thôn đã tìm ra thành phố để kiếm việc làm mưu sinh. Trong đó,
những người phụ nữ di cư ra thành thị là nguồn cung cho dịch vụ giúp việc. Cũng như
những loại hình dịch vụ khác, lao động giúp việc mang những đặc điểm chung của lao
động xã hội nói chung và lao động trong ngành dịch vụ nói riêng, song mỗi ngành dịch
vụ lại có những đặc điểm lao động đặc thù, phân biệt với các loại hình dịch vụ khác,
không ngoại trừ dịch vụ giúp việc trong gia đình.

1


Chương 1. Lý thuyết về đặc điểm của lao động dịch vụ
1.1. Khái niệm “dịch vụ”, “lao động dịch vụ”
a. Khái niệm “dịch vụ”
Dịch vụ là những hoạt động và kết quả mà một bên (người bán) có thể cung cấp cho


bên kia (người mua) và chủ yếu là vô hình không mang tính sở hữu. Dịch vụ có thể gắn
liền hay không gắn liền với một sản phẩm vật chất.
Trong thực tế, sản phẩm chào bán của một doanh nghiệp có thể trải rộng từ một mặt
hàng thuần túy cho đến một dịch vụ thuần túy. Với mặt hàng cụ thể thuần túy như xà
phòng, kem đánh răng hay muối ăn, thì không cần có dịch vụ đi kèm. Một mặt hàng cụ
thể kèm dịch vụ là mặt hàng cộng thêm một hay nhiều dịch vụ để tăng khả năng thu hút
khách mua, nhất là đối với các sản phẩm hữu hình có công nghệ chế tạo và sử dụng phức
tạp. Các dịch vụ này có thể do nhà sản xuất cung cấp hay thuê qua một trung gian chuyên
kinh doanh dịch vụ đó. Một mặt hàng gồm một dịch vụ chính kèm theo những mặt hàng
và dịch vụ nhỏ hơn. Sau cùng một mặt hàng có thể là một dịch vụ thuần túy. Khi đó dịch
vụ mà doanh nghiệp mang tới khách hàng chính là sản phẩm chính mà doanh nghiệp
muốn bán để thu lại lợi nhuận, chứ không phải là một thứ đi kèm nữa.
Xét cho cùng, dịch vụ là sản phẩm của doanh nghiệp, không tồn tại dưới hình thái vật
thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thoả mãn các nhu cầu sản xuất và
sinh hoạt của khách hàng một cách kịp thời, thuận lợi và có hiệu quả.
b. Khái niệm lao động dịch vụ
Lao động dịch vụ là một bộ phận lao động xã hội cần thiết được phân công chuyên
môn hóa trong việc sản xuất và tổ chức cung ứng các sản phẩm dịch vụ nhằm thỏa mãn
nhu cầu của xã hội.
Có thể nói, sự hình thành của lao động dich vụ là tất yếu khách quan do nhu cầu về
dịch vụ và lực lượng lao động của lĩnh vực này phát triển mạnh mẽ. Trong xã hội hiện
đại, con người cảm thấy thiếu chuyên nghiệp và mất thời gian khi tự phục vụ những nhu

2


cầu của mình, đó là lý do họ tìm đến những dịch vụ chuyên nghiệp để thỏa mãn nhu cầu
bản thân. Tuân theo quy luật kinh tế, cầu tăng thì cung tăng, và lao động dịch vụ phát
triển. Ngoài ra, bối cảnh chung hiện nay là các quốc gia đều chọn con đường phát triển
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng tối đa khoa học công nghệ để thay

thế cho sản xuất thủ công với mục đích làm tăng năng suất lao động. Khi đó lao động
sống trở nên dư thừa, và phát triển dịch vụ là giải pháp hiệu quả cho các quốc gia để giải
quyết tốt vấn đề thất nghiệp cùng các vấn đề xã hội khác.
1.2 . Những đặc điểm của lao động dịch vụ
Là lực lượng lao động trong xã hội, lao động trong lĩnh vực dịch vụ mang đầy đủ
những phẩm chất của lao động xã hội. Bên cạnh đó, lao động dịch vụ có bảy đặc điểm
riêng, đặc thù trong ngành dịch vụ như sau:
a. Lao động dịch vụ mang tính chất phi sản xuất vật chất
Karl Marx chỉ rõ: "Trong những trường hợp mà tiền được trực tiếp trao đổi lấy một
lao động không sản xuất ra tư bản, tức là trao đổi lấy một lao động không sản xuất, thì lao
động đó được mua với tư cách là một sự phục vụ. Lao động đó cung cấp những sự phục
vụ không phải với tư cách là một đồ vật, mà với tư cách là một sự hoạt động.”
Sản phẩm của dịch vụ là sản phẩm vô hình. Dịch vụ chỉ có thể nhận thức được bằng
tư duy hay giác quan thông qua việc trải nghiệm, tiêu dùng chứ ta không thể "sờ mó" sản
phẩm dịch vụ được, dịch vụ cũng không thể đo lường được bằng các phương pháp đo
lường thông thường về thể tích, trọng lượng. Bệnh nhân không thể biết trước kết quả
khám bệnh trước khi đi khám bệnh, khách du lịch không biết trước tác động của những
dịch vụ được cung cấp trước khi chúng được cung ứng và tiếp nhận. Song trên thực tế,
sản phẩm của lao động dịch vụ sản xuất ra vẫn chứa giá trị gia tăng và mang lại lợi ích
cho khách hàng. Việc có những đãi ngộ nhân lực xứng đáng cho lao động trong ngành
dịch vụ giúp việc kinh doanh dịch vụ của doanh nghiệp có hiệu quả, giữ chân những lao
động có tài và có kinh nghiệm.

3


b. Lao động dịch vụ mang tính chất phức tạp
Trong quá trình thực hiện dịch vụ, lao động dịch vụ phải tương tác nhiều với các yếu
tố của môi trường kinh doanh. Thậm chí, do đặc thù của nghề dịch vụ mang tính rủi ro
cao, họ có thể bị đe dọa về cả sức khỏe và tính mạng. Về quan hệ giữa người với người,

có thể nảy sinh các mối quan hệ phức tạp như quan hệ với khách hàng, với các nhà quản
trị, mối quan hệ với những đồng nghiệp của mình nhằm mục đích chia sẻ lợi ích kinh
doanh. Trong đó, mối quan hệ giữa người lao động với khách hàng của họ được coi là
phức tạp nhất do tần suất tương tác cao, trong khi khách hàng thì vô cùng đa dạng về
trình độ, tâm lý, tình cảm ... Ngoài ra, trong quá trình thực hiện công việc, lao động dịch
vụ còn thiết lập mối quan hệ với cơ sở vật chất của chính nơi làm việc của mình. Cơ sở
vật chất được đề cập ở đây là trang thiết bị, phương tiện phục vụ công việc của họ, và cả
những cơ sở vật chất, đồ đạc, thiết bị xung quanh mà họ gặp phải khi thực hiện nhiệm vụ.
Khi đó, họ phải có trình độ, chuyên môn để vận hành và sử dụng chúng hiệu quả. Nhằm
giúp khắc phục tính phức tạp của lao động dịch vụ, các doanh nghiệp cần đào tạo đội ngũ
nhân viên của mình để họ trở nên chuyên nghiệp, có khả năng ứng phó với nhiều tình
huống, hạn chế tối đa rủi ro khi tác nghiệp. Ngoài ra, chính bản thân người lao động phải
tích lũy kinh nghiệm, lao động nghiêm túc và hiểu rõ tâm lý khách hàng.
c. Lao động dịch vụ mang tính chất thời điểm, thời vụ
Số lượng lao động trong ngành dịch vụ được sử dụng không cân đối trong và ngoài
thời vụ vì vào các thời điểm khác nhau trong năm thì nhu cầu của khách hàng cũng thay
đổi. Khi vào thời vụ, nhu cầu khách hàng tăng cao, cầu tăng dẫn đến cung tăng, nguồn
lao động trở nên dồi dào để đáp ứng nhu cầu khách hàng, Ngược lại, khi hết thời vụ, cầu
giảm dẫn đến cung giảm. Việc tăng và giảm nguồn cung lao động dịch vụ xuất phát từ cả
yếu tố chủ quan và khách quan. Vào thời vụ, người lao động nhận thức được cơ hội việc
làm và chủ động gia nhập lực lượng lao động, đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần
thêm nhân lực để phục vụ hoạt động kinh doanh. Còn khi hết thời vụ, lượng khách hàng
giảm đi, các lao động sẽ tự rút lui để tìm kiếm cơ hội việc làm mới hoặc các doanh

4


nghiệp sẽ cắt giảm nhân sự để giảm chi phí kinh doanh. Khó khăn đặt ra là khi cầu tăng,
các doanh nghiệp phải cho người lao động làm tăng ca nhưng vẫn phải đảm bảo tuân thủ
pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Còn về phía người lao động, do đặc thù

của ngành nghề, họ và gia đình của mình phải chịu thiệt thòi nhất định khi không thể
tham gia các hoạt động vui chơi giải trí vào dịp lễ tết. Để khắc phục tình trạng này, các
doanh nghiệp cần có sự cân bằng, đưa ra các sản phẩm đa dạng để phục vụ khách hàng
vào các thời điểm khác nhau trong năm, giúp điều hòa công việc cho người lao động.
d. Lao động dịch vụ có tỷ trọng lao động nữ cao
Tuy điều này không đúng với tất cả các ngành nghề trong lĩnh vực dịch vụ, song theo
thống kê cho thấy, ở hầu hết các ngành dịch vụ tỉ lệ lao động nữ chiếm hơn 50% so với
nam giới. Ngành dịch vụ là môi trường phù hợp với đa số lao động nữ do tính chất công
việc đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ và tính kiên nhẫn. Hơn nữa, vì chịu ảnh hưởng của tính
thời điểm, thời vụ nên ngành dịch vụ thường khó có công việc ổn định, thu nhập lại
không cao. Vì vậy, nam giới thường không mấy đón nhận bởi thu nhập không đảm bảo
được chức trách, vai trò người đàn ông trụ cột trong gia đình. Với tỷ trọng nhân lực là nữ
cao như vậy, các doanh nghiệp dịch vụ thường xuyên gặp khó khăn khi ngoài công việc,
những nữ nhân viên của họ còn phải đảm nhận vai trò làm vợ, làm mẹ trong gia đình.
Không chỉ phải bố trí nhân sự phù hợp khi nhân viên nghỉ sinh, nghỉ ốm, doanh nghiệp
còn phải đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật về chế độ thai sản, con nhỏ…của người lao
động. Để thực hiện tốt những điều đó, các doanh nghiệp phải rất linh hoạt trong việc sắp
xếp ca kíp cho nhân viên, chú ý tuổi tác và có những thỏa thuận rõ ràng về kế hoạch thai
sản của nhân viên từ khi tuyển dụng, cân bằng tỷ lệ nam nữ trong doanh nghiệp cũng như
có những chính sách nhất định dành cho nữ nhân viên.

5


e. Lao động dịch vụ có tính đa dạng và chuyên môn hóa cao
Theo thống kê của Tổ chức Thương mại thế giới WTO, dịch vụ có 12 với 155 phân
ngành khác nhau. Con số đó đã nói lên sự đa dạng của các ngành nghề dịch vụ đa dạng.
Với sự đa dạng đó, thì lao động trong lĩnh vực dịch vụ chắc chắn cũng phải vô cùng đa
dạng. Họ tác nghiệp trong các ngành dịch vụ khác nhau, với những công việc và chức
năng khác nhau. Tính chuyên môn hoá cao của lao động trong ngành dịch vụ thể hiện ở

việc gắn liền với một bộ phận dịch vụ có một bộ phận lao động riêng. Có rất nhiều ngành
dịch vụ do vậy lao động có tính đa dạng, đồng thời trong mỗi ngành dịch vụ lại yêu cầu
một đội ngũ lao động riêng giữa các ngành nghề nên rất khó có thể thay thế được cho
nhau. Ngành dịch vụ tổ chức thành các bộ phận chức năng khác nhau, đòi hỏi tính
chuyên môn cao và chuyên sâu ở từng bộ phận. Lao động dịch vụ phải vận dụng chuyên
môn, nghiệp vụ và các kĩ năng của khác để vận hành hệ thống thiết bị, sử dụng công cụ
lao động để tạo ra dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách hàng. Để những lao động của mình,
ngoài công việc thuộc chuyên môn, họ còn có thể làm những công việc thuộc chuyên
môn khác trong những trường hợp cần thiết, các doanh nghiệp có thể đào tạo chéo nhân
viên thuộc những ngành nghề có tính chất gần gũi với ngành nghề nhân viên được đào
tạo. Tuy nhiên việc đào tạo phải có sự chọn lọc để nhân viên không bị lúng túng, bỡ ngỡ
hay gặp nhiều khó khăn khi tiếp xúc công việc mới.
g. Lao động dịch vụ có tính sẵn sàng đón tiếp và phục vụ khách hàng
Kinh doanh dịch vụ xuất phát từ nhu cầu con người, không chỉ một người kinh doanh,
một cơ sở kinh doanh có thể đáp ứng được tất cả nhu cầu của khách hàng mà đòi hỏi sự
tổng hợp của nhiều ngành kinh doanh, nhiều nhà kinh doanh có liên quan khác tham gia
vào việc phục vụ những nhu cầu của khách hàng. Dịch vụ là phục vụ mọi lúc, mọi nơi,
đón tiếp khách hàng 365 ngày trong năm. Thậm chí khi dịp lễ tết đến, mọi người được
nghỉ ngơi mới là thời kỳ cao điểm để các dịch vụ đón tiếp khách hàng. Kỹ năng và thái
độ đón tiếp khách hàng của ngành dịch vụ sẽ là công cụ hữu hiệu để quảng bá hình ảnh
cho doanh nghiệp, quyết định chất lượng dịch vụ, đồng thời đây cũng là tiêu thức đánh

6


giá sự lớn mạnh của một doanh nghiệp dịch vụ. Để phục vụ khách hàng được chu đáo,
các bộ phận trong công ty, doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng những cơ sở vật chất, các
công tác chuẩn bị thiết yếu để có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, để
vừa phục vụ được khách hàng tốt, vừa tuân thủ pháp luật về thời gian làm việc cho nhân
viên, các doanh nghiệp cần phân chia ca kíp hợp lý để các nhân viên có thể luân phiên

nghỉ ngơi, tái tạo sức lao động.

Chương 2. Đặc điểm của lao động trong dịch vụ giúp việc gia đình
2.1. Khái quát về “Giúp việc gia đình”
a. Định nghĩa “Giúp việc gia đình”
Ngày nay, ở các nước phát triển nền kinh tế thị trường đều tồn tại loại hình lao động
giúp việc gia đình và lao động giúp việc gia đình đã trở thành một nghề được xã hội thừa
nhận. Trong mối quan hệ đó, người giúp việc gia đình và chủ nhân có địa vị pháp lý bình
đẳng, quan hệ được tiến hành trên cơ sở thỏa thuận, bình đẳng, tôn trọng danh dự và nhân
phẩm của nhau. Nghề giúp việc gia đình tại Việt Nam hiện nay đã không còn là một công
việc mới, nó đáp ứng nhu cầu của cả hai nhóm người có thu nhập nhưng thiếu thời gian,
nguồn lực (sức lực, khả năng) dành cho các công việc gia đình và người chưa có việc làm
hoặc việc làm có thu nhập thấp nhưng có thời gian và năng lực đáp ứng.
Theo qui định tại khoản 1 Điều 179, Bộ luật Lao động 2012 về lao động là người
giúp việc gia đình và tại Điều 3 - Nghị định số 27/2014/NĐ-CP Qui định chi tiết thi hành
một số điều của Bộ luật Lao động về lao động là giúp việc gia đình, lao động là người
GVGĐ được xác định là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đình
(là các công việc trong hợp đồng lao động được lặp đi lặp lại theo một khoảng thời gian
nhất định (hằng giờ, hằng ngày, hằng tuần hoặc hằng tháng) của một hoặc nhiều hộ gia
đình. Các công việc trong gia đình bao gồm công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ,
chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ
7


gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại. Trong đó, bao gồm người lao
động sống tại gia đình người sử dụng lao động và người lao động không sống tại gia đình
người sử dụng lao động.
b. Phân loại giúp việc gia đình
Theo thời gian làm việc, lao động giúp việc được phân thành: giúp việc toàn thời
gian, giúp việc bán thời gian và giúp việc theo giờ.

Giúp việc toàn thời gian thường thời gian làm việc của họ là không xác định bởi họ
thường bắt đầu làm việc từ sáng và chỉ kết thúc khi công việc mà họ được giao kết thúc.
Họ ăn, ở và hầu như sinh hoạt cùng chủ nhà. Phần lớn giúp việc toàn thời gian rơi vào
các trường hợp giúp việc với công việc chủ yếu là chăm sóc trẻ nhỏ, nội trợ.
Đối với nhóm người giúp việc theo giờ, thời gian làm việc của họ tùy thuộc vào sự
thỏa thuận giữa họ và chủ nhà. Thù lao được tính theo giờ và được trả theo ngày hoặc
tuần bởi tính chất công việc của họ không liên tục. Tại thời điểm hiện nay, đây cũng là
một dịch vụ được các gia đình ưa thích bởi nó không đòi hỏi sự cam kết lâu dài cũng như
phải chia sẻ không gian riêng tư nên phần nào tránh được những mâu thuẫn, xung đột.
Giúp việc bán thời gian hay giúp việc theo giờ thường cung cấp bởi các công ty giúp
việc. - Người giúp việc thời vụ: ví dụ: Trong vài năm trở lại đây, nhiều gia đình phải thuê
giúp việc thời vụ để trông con trong 1-2 tháng nghỉ hè.
Ngoài ra còn có giúp việc theo thời vụ, đây là loại hình giúp việc mới nổi lên những
năm gần đây. Trong vài năm trở lại đây, nhiều gia đình phải thuê giúp việc thời vụ để
trông con trong kỳ nghỉ hè của trẻ, hoặc những gia đình có xu hướng đi du lịch dài ngày
vào dịp nghỉ lễ tết sẽ thuê giúp việc để thay họ dọn dẹp nhà cửa.
Có một cách phân loại lao động giúp việc khác là theo công việc mà họ đảm nhận.
Có thể liệt kê ra đây một số loại lao động giúp việc:


Lau dọn

8




Nấu bếp




Trông trẻ



Chăm sóc người già, người bệnh



Làm vườn



Quản gia



Dắt chó đi dạo



v. v...

c. Nguồn lao động giúp việc gia đình
-

Qua giới thiệu: nguồn giới thiệu công việc cho người giúp việc chiếm tỷ lệ cao là

bạn bè, người quen, sau đó là tới nhóm bà con, họ hàng. Với tính chất công việc và phạm
vi hoạt động là tạicác gia đình nên cả người thuê và người tìm việc đều mong muốn tìm

hiểu kỹ vềngười làm việc hoặc gia đình tới làm việc… Do vậy, nhóm đối tượng thân
quen và có khả năng biết rõ về hoàn cảnh sống của gia đình đang tìm người chiếm lợi thế
hơn so với các trung tâm môi giới việc làm.
-

Qua trung tâm môi giới việc làm: Tại Việt Nam hiện nay, giúp việc gia đình chưa

phải là một nghề nghiệp chính thức,đồng thời chưa có một cơ quan, tổ chức nhà nước nào
đào tạo cũng như cung cấp nguồn lao động này cho thị trường mà mới chỉ có các trung
tâm giới thiệu việc làm thực hiện chức năng môi giới.
-

Người lao động tự tìm đến: Số người giúp việc tự tìm được công việc cho mình

chiếm tỷ lệ thấp, bởi đa số họ đều có nơi cư trú tại những địa phương khác nên khó nắm
bắt được những thông tin về công việc tại địa bàn có nhu cầu dịch vụ này cao.

9


d. Thực trạng nghề giúp việc gia đình ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, nhu cầu đối với lao động giúp việc gia đình (LĐGVGĐ) đang ngày
càng gia tăng và mang đặc trưng giới rõ ràng. Có tới 98% lao động giúp việc gia đình là
nữ. Lý do chủ yếu để họ gia nhập vào thị trường lao động giúp việc gia đình là vì muốn
tăng thu nhập cho bản thân và gia đình, một số ít khác cho rằng vì họ thấy phù hợp với
công việc này, hoặc muốn thoát nông…Tuy nhiên, sự gia tăng nhanh chóng về số lượng
hiện đang tỷ lệ nghịch với chất lượng của lực lượng lao động này. Kênh tìm người giúp
việc của các gia đình hiện nay phổ biến là thông qua bà con, họ hàng hay bạn bè, người
quen biết.
Theo số liệu thống kê của Trung tâm Quốc gia Dự báo và Thông tin thị trường lao

động (Bộ Kế hoạch Đầu tư, 2011), tính đến năm 2010, Việt Nam có khoảng 200 nghìn
lao động giúp việc gia đình (LĐGVGĐ) và nhu cầu đối với loại hình lao động này đang
ngày càng gia tăng, đặc biệt ở các thành phố lớn; dự tính đến năm 2020 lực lượng lao
động này có thể tới 350 nghìn người.
Về nhu cầu việc làm, tìm hiểu nhu cầu của người lao động về công việc LĐGVGĐ,
thống kê vào năm 2013 của Trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và phát triển cộng đồng
cho thấy 42,5% phụ nữ ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa có nhu cầu làm giúp
việc gia đình, phần lớn có nhu cầu làm nội trợ, việc nhà (51,4%), tiếp đến có 23,2%
người dự định chăm sóc trẻ em, chăm sóc người ốm/người cao tuổi chỉ chiếm 2,9%.
Người lao động giúp việc gia đình chủ yếu ở độ tuổi trung niên (36-55 tuổi). Bên cạnh
đó, có một bộ phận đáng kể là những người ở ngoài độ tuổi lao động (trên 55 tuổi) tham
gia vào thị trường lao động này.
Về nhu cầu sử dụng lao động GVGĐ, Qua các nghiên cứu về LĐGVGĐ đều chỉ ra
nhu cầu xã hội về sử dụng LĐGVGĐ ngày càng tăng lên qua các năm. Tìm hiểu nhu cầu
sử dụng LĐGVGĐ của các hộ gia đình đang có người giúp việc, thông tin thu được vào
năm 2015 cho thấy, đa số các hộ gia đình có nhu cầu sử dụng người giúp việc trong thời
gian dài (từ 3-5 năm), chủ yếu cần người giúp việc sống cùng (73%). Hộ gia đình thuê
10


LĐGVGĐ làm công việc nội trợ: Tỷ lệ số hộ gia đình thuê người giúp việc để làm các
công việc nội trợ có xu hướng tăng lên: (49,3%), Chăm em bé (33,8% ), chăm sóc, trông
nom người già, ốm (16,9%).
Do đa phần lao động giúp việc gia đình là nữ giới, đến từ nông thôn và có trình độ
học vấn không cao (kết quả điều tra tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh của Viện Gia
đình và giới (IFGS) năm 2011 cho thấy, có 85,7% người lao động có trình độ học vấn
trung học cơ sở trở xuống), nên LĐGVGĐ vẫn đang gặp nhiều trở ngại khi họ lựa chọn
công việc này. Đó có thể là những trở ngại về tâm lý khi trước đây nhiều quan điểm sống
chưa coi trọng người giúp việc, hay trở ngại về hiểu biết pháp luật khiến họ không rõ về
quyền lợi, nghĩa vụ của mình, kỹ năng làm việc cũng là một trở ngại đáng kể đối với cả

người lao động và người sử dụng lao động vì hơn 90% người giúp việc chưa qua khóa
đào tạo bài bản nào trước khi hành nghề mà chủ yếu thông qua kinh nghiệm bản thân. Vì
vậy trong nỗ lực sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động cho phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội và đảm bảo quyền bình đẳng về cơ hội và đối xử trong việc làm và nghề
nghiệp cho cả phụ nữ và nam giới, quan hệ lao động này đã được đề cập trong Chương
XI, Mục 5 từ Điều 179 đến Điều 183 quy định về Lao động là người giúp việc gia đình
(GVGĐ) . Đây là một bước tiến tích cực trong việc xây dựng khung pháp lý về GVGĐ
cũng như từng bước đưa GVGĐ trở thành một nghề trong thị trường lao động.
2.2. Những đặc điểm của dịch vụ giúp việc gia đình:
a. Tính phi sản xuất vật chất của lao động giúp việc
Như các loại hình dịch vụ khác, dịch vụ giúp việc gia đình mang đến sản phẩm vô
hình là những công việc người giúp việc thay chủ nhà thực hiện, và chỉ được đánh giá
thông qua quá trình sử dụng dịch vụ giúp việc đó (thuê họ về và giao công việc cho họ
thực hiện theo yêu cầu của mình). Lao động giúp việc giống như lao động trong các
ngành dịch vụ khác, họ là những lao động trực tiếp, trực tiếp thực hiện công việc của
mình, và kết quả công việc họ thực hiện là sản phẩm dịch vụ họ tạo ra. Mức độ thỏa mãn
của người sử dụng lao động là thước đo cho chất lượng, năng suất lao động của họ. Một
11


người giúp việc có thái độ, tác phong giúp việc không tốt, cẩu thả trong những phần công
việc được giao như dọn dẹp nhà cửa hay chăm sóc con người, có thái độ ứng xử không
tốt với chủ nhà, tác phong không nhanh nhẹn, không trung thực ... sẽ tác động khách
hàng của họ là chính chủ nhà, độ tin tưởng của cũng không có, người thuê giúp viêc sẽ
đánh giá chất lượng dịch vụ không đảm bảo, không đáng để tin cậy. Thậm chí, chất lượng
phục vụ của người giúp việc có thể ảnh hưởng liên đới đến uy tín của những người có
liên quan như trung tâm giới thiệu việc làm nơi môi giới họ với người chủ, người thân
quen mà đã giới thiệu họ với người chủ nhà…Chất lượng phục vụ sẽ là một trong những
cơ sở để người sử dụng lao động đưa ra quyết định có tiếp tục sử dụng lao động đó hay
không.

b. Tính chất phức tạp trong lao động giúp việc
Vài năm trở lại đây, nhu cầu tìm người giúp việc gia đình thông qua các trung tâm
ngày càng tăng. Điều này xuất phát từ những khó khăn thậm chí rủi ro khi những người
có nhu cầu phải tự tìm người giúp việc cho mình. Đồng thời, tình trạng người giúp việc
tự do “làm giá”, nghỉ ngang không lý do, lý lịch không rõ ràng, nhân thân thiếu tin cậy
gây khó khăn cho chủ nhà. Ngoài ra, đối với người lao động, khi họ tìm đến công việc,
với mỗi người chủ mới là một trải nghiệm mới. Họ không được lựa chọn, và khi về với
gia đình của người chủ, họ sẽ phải thích nghi, làm quen với những nguyên tắc, những nếp
sống của gia đình đó dù họ có muốn hay không. Thậm chí, những nữ giúp việc có nguy
cơ gặp rất nhiều rủi ro như bị bạo hành, bị bóc lột sức lao động, bị xâm hại, quấy rối…
Bên cạnh những quan hệ với con người, để đáp ứng yêu cầu công việc, những người giúp
việc phải thao tác, làm việc với đồ đạc trong nhà gia chủ, những trang thiết bị hiện đại mà
họ có thể chưa sử dụng bao giờ như máy rửa bát, lò nướng, các loại máy hỗ trợ chăm sóc
sức khỏe người bệnh… Để khắc phục tính phức tạp vốn có này, người sử dụng lao động
cần chỉ dẫn cẩn thận cho người giúp việc những việc họ cần làm, cách thức sử dụng
những trang thiết bị mà họ chưa biết sử dụng. Ngoài ra, về phía xã hội, các trung tâm dạy
nghề cần mở các khóa đào tạo chuyên nghiệp cho người hành nghề giúp việc, nhất là
trong bối cảnh nghề giúp việc gia đình đang dần được coi là một nghề nghiệp chính
12


thống. Điều này giúp người giúp việc có những kỹ năng, kiến thức cần thiết khi hành
nghề, nâng cao chất lượng lao động.
c. Tính thời điểm, thời vụ của lao động giúp việc
So với các dịch vụ khác như khách sạn, vui chơi giải trí… tính thời điểm, thời vụ của
lao động trong dịch vụ giúp việc gia đình thể hiện có phần mờ nhạt hơn. Đặc điểm này
xuất phát từ nhu cầu của khách hàng:
Vào thời điểm lễ tết, ở đô thị khách hàng có xu hướng đi du lịch thì sẽ cần đến giúp
việc theo giờ hoặc theo ngày để giúp họ chăm sóc dọn dẹp nhà cửa. Hoặc có những gia
đình không phải luôn có nhu cầu về giúp việc, mà chỉ là khi gia đình họ có người già, trẻ

nhỏ, người đau ốm bệnh tật thay vì họ phải thuê người giúp việc cố định thì họ chỉ thuê
người giúp việc trong thời điểm có người nhà ốm. Hoặc có thể thuê giúp việc theo giờ để
dọn dẹp trông nom người bệnh khi vắng nhà, để tắm cho trẻ em..
Như vậy đặc điểm lao động dịch vụ giúp việc mang tính thời điểm thời vụ có ưu
điểm tiết kiệm thời gian, chi phí lao động, thay vì phải thuê giúp việc cố định mà vẫn
đáp ứng được nhu cầu của người thuê giúp việc. Tuy nhiên, khi sử dụng người giúp việc
gia đình theo thời điểm, thời vụ, người sử dụng lao động khó kiểm soát người lao động
hơn do họ không ở cố định trong gia đình mình mà luôn di chuyển. Vì vậy, một lần nữa
yếu tố trung thực của người lao động lại phải được ưu tiên hàng đầu, ngoài ra người thuê
giúp việc cần có hợp đồng lao động chặt chẽ, hoặc có những thỏa thuận rõ ràng với
người giúp việc ngay từ ban đầu về những mong muốn, những nguyên tắc của mình. Về
phía người lao động, nếu chỉ chuyên làm việc theo thời vụ, họ có thể gặp khó khăn,
không có việc làm và thu nhập khi hết thời vụ, khi cầu về dịch vụ giảm. Vì vậy lao động
giúp việc theo thời điểm, thời vụ nên chủ động tìm kiếm cơ hội việc làm thường xuyên,
thiết lập các mối quan hệ rộng rãi, tin tưởng để tăng cơ hội cho bản thân, trau dồi kinh
nghiệm để có thể làm được nhiều công việc đa dạng…
d. Tỷ trọng nữ trong lao động giúp việc rất cao

13


Theo các số liệu thống kê, tỷ trọng lao động nữ chiếm 2/3 tổng số lao động dịch vụ.
Còn riêng trong dịch vụ giúp việc gia đình, trên thế giới, lực lượng lao động lĩnh vực này
chiếm khoảng 4 - 10% lực lượng lao động ở các quốc gia đang phát triển và 1- 2,5% ở
các quốc gia phát triển. Trong đó, phụ nữ chiếm đến hơn 90%. Tại Việt Nam, theo Báo
cáo Điều tra Quốc gia về Lao động việc làm năm 2010, tỷ lệ người làm thuê các công
việc trong hộ gia đình chiếm 0,4% tổng số lao động đang làm việc, và lao động nữ chiếm
90,8%.
Thứ nhất, do đặc điểm tính chất công việc của giúp việc gia đình:
Trong lao động dịch vụ giúp việc gia đình do tâm lý, nam giới không thích làm công

việc phục vụ người khác việc giúp việc đòi hỏi tính chất công việc phải làm một cách tỉ
mỉ, công phu lắt nhắt, phải có sự khéo léo trong nấu ăn, dọn dẹp, sự mềm mại, tế nhị của
người phụ nữ, người phụ nữ nhẹ nhàng, cần sự chịu khó, tỉ mỉ, chăm chỉ, hiền lành,
ngoan ngoãn, tâm lý và bản chất mạnh mẽ của nam giới không phù hợp với công việc đó.
Thứ hai, do tính phức tạp về tâm lý của người giúp việc và người thuê giúp việc: khi
thực hiện nhiệm vụ của mình, người lao động giúp việc phải chịu nhiều áp lực từ phía
chủ nhà, và các thành viên trong gia đình. Trong khi người phụ nữ vốn mang bản tính dịu
dàng, nhẫn nhịn thì người đàn ông thường sĩ diện, cái tôi lớn, không dễ dàng thỏa hiệp
với những yêu cầu của người khác. Hơn nữa, trong xã hội luôn tồn tại những mặt trái,
những tệ nạn và mối nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào như bắt cóc trẻ em, quấy rối
tình dục…, việc thuê một nữ giúp việc chắc chắn mang đến sự yên tâm cho các bậc phụ
huynh nhiều hơn là thuê một nam giúp việc. Mặt khác, có thể do thu nhập của công việc
giúp việc gia đình không cao và không ổn định nên nam giới không muốn làm vì không
đảm bảo được vai trò trụ cột trong gia đình họ.
Dù lao động nữ giới trong nghề giúp việc gia đình chiếm chủ yếu, song mỗi công việc
của người giúp việc lại có đặc thù riêng, phù hợp với những người phụ nữ khác nhau. Vì
vậy khi lựa chọn người giúp việc, người sử dụng lao động cần cân nhắc đến mục đích của
mình để có sự lựa cọn đúng đắn. Thông thường, những người phụ nữ đã đứng tuổi, có
14


nhiều kinh nghiệm sống sẽ hợp với việc chăm sóc người già, những người phụ nữ chưa
lấy chồng, còn có sức khỏe dẻo dai nên được lựa chọn cho công việc nấu nướng, dọn dẹp
nhà cửa. Còn những người phụ nữ không quá già hoặc quá trẻ, đã lập gia đình và có con,
tỉ mỉ và cẩn thận sẽ được ưu tiên cho công việc chăm sóc em bé. Trong quá trình làm
việc, người sử dụng lao động nên có những chính sách nhất định cho lao động của mình,
sắp xếp thời gian cho họ được nghỉ ngơi và về thăm gia đình định kỳ đối với những giúp
việc sống cùng chủ nhà. Có như vậy, người lao động vừa cân bằng được công việc và đời
tư, vừa có thêm động lực để làm việc hiệu quả.
e. Tính đa dạng và chuyên môn hóa cao của lao động giúp việc

Tính đa dạng: Tính đa dạng của lao động giúp việc gia đình được thể qua độ tuổi, có
thể là thanh niên, người trung niên…Thông thường lao động người giúp việc nhà thường
không đòi hỏi quá cao về ngoại hình và trình độ học vấn, chỉ cần có đủ sức khoẻ , năng
lực hành vi dân sự, trong độ tuổi lao động và có khả năng hoàn thành công việc theo yêu
cầu của người sử dụng lao động, nên người giúp việc có thể là nam hoặc nữ tuỳ thuộc
vào công việc yêu cầu của khách hàng. Trên thực tế, những người không quá cứng tuổi
(thường dưới 45 tuổi) nhưng đã lập gia đình và có kinh nghiệm nuôi con thường được
lựa chọn để giúp việc chăm sóc trẻ nhỏ, những người khỏe mạnh, hoạt bát phù hợp với
công việc nội trợ, dọn dẹp, những người đứng tuổi, có nhiều kinh nghiệm sống và tính
kiên nhẫn phù hợp với việc trông nom người già yếu…Vì vậy, người sử dụng lao động
cần tìm người giúp việc phù hợp với mục đích công việc họ được giao, đào tạo thêm nếu
cần thiết để họ đáp ứng được nhu cầu của mình.
Tính chuyên môn hoá cao: Trên thực tế, so với các ngành dịch vụ khác, tính chuyên
môn hóa của lao động giúp việc dường như không có. Bởi lẽ, khác với những dịch vụ
như khách sạn, giáo dục, y tế… giúp việc gia đình chủ yếu là làm những công việc quen
thuộc với mọi gia đình Việt Nam, có thể dù không được đào tạo nhưng người lao động
vẫn có thể tác nghiệp theo kinh nghiệm của chính bản thân mình. Họ được phân công
công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động, nhưng khả năng họ có thể làm được

15


nhiều công việc khác. Để minh họa, trong dịch vụ khách sạn hay y tế, người lao động
ban đầu không có chuyên môn nghề nghiệp, nhưng họ làm ở vị trí nào, chịu trách nhiệm
về công việc gì, thì họ sẽ được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ đó. Nếu doanh nghiệp
muốn họ làm được những việc khác thì buộc phải đào tạo thêm chứ họ không tự biết
được. Còn đối với dịch vụ giúp việc, có thể người sử dụng lao động chỉ thuê bạn với
mục đích chăm sóc em bé thôi, nhưng nếu một ngày bạn bận rộn và không thể làm công
việc hằng ngày như nấu cơm, dọn nhà, nếu bạn nhờ đến, họ cũng có thể làm được. Bởi
lẽ, những công việc nội trợ hằng ngày đó rất cơ bản, quen thuộc với hầu hết những người

phụ nữ Việt Nam.
Tuy nhiên, làm được không có nghĩa là làm đúng theo ý mình, vì vậy người sử dụng
lao động nên giới thiệu thêm về những công việc nhà khác, hướng dẫn người giúp việc
để họ có thể phục vụ mình trong trường hợp cần thiết, để đảm bảo việc họ luôn hoàn
thành công việc để chúng ta hài lòng. Ngoài ra, người chủ nhà tâm lý sẽ biết cách tạo
không khí thoải mái, bình đẳng để người lao động được tự tin, thoải mái, tránh tạp áp
lực, sẵn sàng giúp đỡ khi người giúp việc có điều khúc mắc, đồng thời tiếp thu, trân
trọng những đóng góp hay và hợp lý của người lao động.
g. Các đặc điểm khác có ở lao động giúp việc
Ngoài những đặc điểm chung của lao động trong ngành dịch vụ, lao động giúp việc
gia đình còn có một số đặc điểm riêng, mang tính đặc thù như sau:
Thứ nhất, phẩm chất thật thà của người lao động giúp việc luôn được đặt lên hàng
đầu. Trong những phẩm chất của lao động giúp việc gia đình, tính thật thà, ngay thẳng
luôn là tiêu chí đầu tiên khi người sử dụng lao động tiếp cận dịch vụ. Bởi lẽ, khi tiếp cận
dịch vụ giúp việc, người sử dụng lao động phải chấp nhận việc cho người lạ vào nhà,
chấp nhận san sẻ nơi riêng tư của mình. Thậm chí, đối với những giúp việc chuyên chăm
sóc trẻ nhỏ, người già yếu, người bệnh, người chủ phải giao phó sức khỏe và tính mạng
của người thân họ cho người giúp việc. Vì vậy, tính thật thà là điều tối quan trọng để cả
hai bên - người lao động và người sử dụng lao động có thể tin tưởng hợp tác với nhau.
16


Ngoài ra, người sử dụng lao động để tránh rủi ro cũng cần có những giải pháp riêng để
yên tâm sử dụng dịch vụ như tìm nguồn cung cấp dịch vụ uy tín, tin cậy, có chế độ đãi
ngộ và mức lương xứng đáng cho người giúp việc, sử dụng khoa học công nghệ hay như
thiết bị giám sát an ninh để hỗ trợ kiểm tra giám sát khi cần thiết, tôn trọng và đặt niềm
tin
Thứ hai, lao động giúp việc gia đình không có cơ hội thăng tiến.
Ở Việt Nam, phần lớn các gia đình chỉ thuê giúp việc đơn nhất (thuê một người giúp
việc làm chuyên tâm một công việc cụ thể hoặc làm nhiều công việc trong nhà). Vì vậy,

không giống như các dịch vụ khác, dịch vụ giúp việc gia đình không có nhiều nhân viên
để tổ chức thành một đội ngũ và có người phụ trách, người lãnh đạo. Người phụ trách,
giám sát công việc mà người giúp việc làm không ai khác chính là khách hàng của họ những người sử dụng lao động. Vì vậy, nghề giúp việc không có cơ hội thăng tiến, dù họ
luôn cố gắng để hoàn thành tốt công việc được giao, thạm chí trên cả mong đợi của khách
hàng. Vì vậy, để tạo động lực, hứng thú với công việc cho người lao động, người sử dụng
lao động cần có những chính sách, khen thưởng hợp lý cho người lao động. Người chủ
cần thể hiện cho giúp việc của mình thấy thành quả lao động của mình được ghi nhận, cố
gắng của mình đã làm người chủ hài lòng. Ngoài ra, người thuê giúp việc không nên quá
áp đặt công việc cho người giúp việc, khi họ đã quen việc, hãy để họ thoải mái hơn trong
việc tự sắp xếp việc làm của mình, trao cho họ một số quyền quyết định trong quá trình
hành nghề như ăn món gì? Hay làm việc gì trước, làm việc gì sau, miễn là có sự thống
nhất giữa cả 2 bên: người lao động và người sử dụng lao động.

17


Kết luận
Trên đây là quan điểm của nhóm về những đặc điểm của lao động dịch vụ giúp việc
gia đình. Do có đặc thù riêng của nghề mà lao động giúp việc gia đình không có đủ tất cả
các đặc điểm của lao động dịch vụ. Có những đặc điểm được thể hiện rất rõ nét như tỷ
trọng lao động nữ cao, tính chất phức tạp…, song cũng có những đặc điểm khó có thể tìm
thấy ở loại hình dịch vụ này như tính chuyên môn hóa, tính sẵn sàng phục vụ khách hàng.
Những khó khăn và giải pháp được nhóm đề xuất chỉ mang tính tham khảo và dựa trên
thực tế, nhưng chắc chắn đây là những giải pháp hoàn toàn có cơ sở thực tiễn và pháp lý,
giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cả người lao động và người sử dụng lao động,
đồng thời giúp phần nào nâng cao chất lượng của lao động trong dịch vụ giúp việc gia
đình, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, giúp cho thị trường lao động giúp việc
thêm sôi động và có tiềm năng, hướng tới việc chính thức công nhận giúp việc gia đình là
một nghề chuyên nghiệp.


18



×