Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG đoàn kết TRONG tác PHẨM DI CHÚC của hồ CHÍ MINH và sự vận DỤNG của ĐẢNG TA TRONG sự NGHIỆP đổi mới HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.27 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đón nhận quy luật cuộc sống thật
ung dung và thanh thản, Người chuẩn bị cho việc ra đi của mình bằng những lời dặn dò
tâm huyết qua bản Di chúc. Hơn 40 năm đã qua, đọc bản Di chúc mà Người để lại,
trong lòng mỗi người dân Việt Nam ai cũng dâng trào niềm xúc động trước sự quan
tâm lo lắng của Người đối với tương lai của non sông đất nước, là sự thể hiện tâm
nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Người với Tổ quốc, với nhân dân và
với sự nghiệp cách mạng.
Sinh thời, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết bởi theo Người:
“Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại lúc
nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”1. Vấn đề này được Hồ Chí Minh
thể hiện trên một tầm cao mới ở trong Di chúc - tác phẩm cuối cùng của Người. Hơn
bốn mươi năm đã qua, kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết những dòng cuối cùng của
bản Di chúc lịch sử, là thời gian thích hợp nhất để chúng ta suy ngẫm về tư tưởng đoàn
kết trong di sản cuối cùng mà Người để lại cho dân tộc Việt Nam.
Tìm hiểu Di chúc của Chủ tịch Hồ chí Minh cho chúng ta thấy một trong những
Di nguyện mà Người đã nhấn mạnh và nhắc lại nhiều lần trong bản Di chúc đó chính là
vấn đề về “Đoàn kết”. Có lẽ Người muốn nhắc nhở cho các thế sau, cho cách mạng
Việt Nam rằng “Đoàn kết” đó không chỉ là sự phát huy một truyền thống quý báu của
dân tộc ta, mà “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”, như lúc sinh thời
Người đã từng nói “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại
thành công”.
Vì vậy, trước những thời cơ và thách thức mới trong sự nghiệp đổi mới cần
nghiên cứu sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là, tư tưởng Đoàn kết
trong tác phẩm Di chúc làm cơ sở để xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết trong
tình hình mới.

1

Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, trang 217.



2

NỘI DUNG
1. Tư tưởng Đoàn kết trong tác phẩm Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1.1.Hoàn cảnh lịch sử
Tháng 5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu khởi thảo viết Di chúc. Lúc
bấy giờ, đất nước ta đang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy cam go, khốc
liệt và sức khoẻ của Người đã yếu. Năm 1968, Bác viết thêm 6 trang. Tháng
5/1969, Bác viết lại đoạn mở đầu Di chúc.
Di chúc được công bố một phần trong lễ tang Bác. Thông báo số 151TB/TW ngày 19/8/1989 của Bộ Chính trị về một số vấn đề liên quan đến Di chúc
và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định bản Di chúc công bố
tháng 9/1969 là “bảo đảm trung thành với bản gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Một số vấn đề như những việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước thắng lợi, miễn giảm thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông
nghiệp, cho bà con nông dân cũng như đề nghị của Người về hoả táng thi hài
chưa được công bố. Thông báo của Trung ương đã giải thích rõ lý do việc này.
Vào dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) đã quyết định công bố toàn bộ các bản Di
chúc của Người viết.
Trong đó có các nội dung củ yếu là: Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý
chí, niềm tin, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và sự
nghiệp cách mạng; Di chúc là công trình lý luận về xây dựng và củng cố Đảng
cầm quyền; Di chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, mối
quan hệ giữa công bằng và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và phát triển văn hoá trong xây dựng xã hội mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
và sức mạnh thời đại, động lực lợi ích và chăm lo chu đáo tới cuộc sống con
người, tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và
đổi mới đất nước….

Vì vậy, có thể khẳng định, di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch
sử vô giá kết tinh những tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp, những nội dung cơ


3

bản, những quan điểm cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, vạch ra phương hướng
phát triển cho cách mạng Việt Nam cả hôm nay và trong tương lai.
1. 2. Tư tưởng Đoàn kết trong tác phẩm Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đoàn kết và đại đoàn kết dân tộc là một nội dung xuyên suốt trong tư
tưởng cũng như trong hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một cống
hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn hết sức quan trọng. Tư tưởng
“Đoàn kết” và “Đoàn kết dân tộc” là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ
thời kỳ đầu lãnh đạo cách mạng cho đến lúc Người sắp ra đi đặc biệt quan tâm và
coi trọng. Có thể nói, sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta chỉ có thể được thực
hiện và thành công bằng sức mạnh của cả dân tộc, bằng đại đoàn kết dân tộc. Vì
vậy, theo quan niệm của Người “đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân
tố quan trọng nhất bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam”
Với cương vị là lãnh tụ tối cao của Đảng và của dân tộc, đứng đầu Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 24 năm liền, Người đã tập hợp, quy tụ được các dân tộc,
các giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, nhân sĩ trí thức yêu nước, đồng bào trong
nước và kiều bào ở nước ngoài, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong suốt tiến trình
cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Người đã trở thành linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng rộng
rãi và bền vững.
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành thống kê, phân tích những bài viết, bài nói của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được công bố trong Hồ Chí Minh Toàn tập (15 tập), kết quả
cho thấy các bài viết đề cập đến vấn đề “Đoàn kết” và “Đại đoàn kết dân tộc” chiếm tỷ
lệ trên 40%. Trong một số bài, Người đã nhiều lần nói đến đoàn kết, đại đoàn kết dân
tộc: 16 lần trong bài Sửa đổi lối làm việc (tập 5), 17 lần trong Bài nói tại buổi khai mạc

Đại hội thống nhất Việt Minh – Liên Việt (tập 6), 19 lần trong Diễn văn kỷ niệm Quốc
khánh năm 1957 (tập 8)…Và trong bản Di chúc đầu tiên, được Người viết vào ngày
15-5-1965, chỉ với hơn 1000 từ nhưng có tới 8 lần Người nói về vấn đề đoàn kết.
Tư tưởng đoàn kết trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được biểu hiện
trong những nội dung chủ yếu là:


4

Trước hết, về đoàn kết trong Đảng, “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ
phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến
nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ
tháng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu Đảng và của dân ta. Các đồng chí
từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê
bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của
Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đề cập rất nhiều vấn đề từ đấu tranh giành độc lập
cho dân tộc, cho đến xây dựng đất nước sau khi chiến tranh kết thúc, từ đối nội đến đối
ngoại, từ việc chung đến việc riêng…Trong bộn bề những công việc đại sự đó, cái mà
Người đặc biệt quan tâm là ''Trước hết nói về Đảng'', là vấn đề đoàn kết trong Đảng.
Quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận về vấn đề đoàn kết trong Đảng được Hồ Chí
Minh nêu lên trong Di chúc, đó là:
Điều đầu tiên, Người nhấn mạnh vai trò của đoàn kết trong Đảng đối với mọi
thắng lợi của cách mạng nước ta, bản Di chúc viết năm 1965 có đoạn: ''Nhờ đoàn kết
chặt chẽ… cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo
nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác''2.
Điều quan trọng hơn là Hồ Chí Minh đã đặt ra những yêu cầu và giải pháp để

củng cố khối đoàn kết trong Đảng khi đất nước bước vào thời kỳ xây dựng sau chiến
tranh, bởi Người đã dự đoán được sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ mặc dù
còn nhiều “khó khăn gian khổ”. Theo Hồ Chí Minh: “Đánh đổ giai cấp địch đã khó,
đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn nhiều” bởi vậy “việc
hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra, việc xây dựng lại thành phố và
làng mạc đẹp đẽ hơn, đàng hoàng hơn trước chiến tranh…” và việc ''chống lại những gì
đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra cái mới mẻ, tốt tươi'' là nhiệm vụ cực kỳ to lớn, phức tạp và
khó khăn. Chính trong điều kiện mới này lại đòi hỏi ''Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết''.
2

Sđd, tập 12, trang 497.


5

Đảng chỉ mạnh hơn khi sự đoàn kết thống nhất trong Đảng được tăng cường, điều này
chỉ có thể thực hiện được tốt khi ''Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải
giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình'' 3. Muốn
củng cố, phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng thì cần “thường xuyên và
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình ... Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Về phong trào cộng sản thế giới. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn
kết không chỉ diễn ra trong quốc gia dân tộc, mà thực hiện đoàn kết trong cả phong trào
cộng sản thế giới, Người viết: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng….Tôi mong
rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết
giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản,
có lý có tình. Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải
đoàn kết lại.”
Về đoàn kết quốc tế. Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam không thể tách rời sự đoàn
kết, sự ủng hộ và giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa, bầu bạn khắp năm

châu. Vì vậy, một trong những dự kiến đầu tiên của Người ngay sau khi chiến tranh kết
thúc là: “tôi sẽ thay mặt nhân dân ta thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội
chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta”4.
Trước khi qua đời, điều Hồ Chí Minh “đau lòng” nhất là “sự bất hoà” trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, bởi vậy, Người không quên nhắc nhở “Đảng ta sẽ
ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng
anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có
tình”. Thực tế cho thấy, với uy tín, nhiệt tình cách mạng và chủ nghĩa quốc tế trong
sáng, ngay từ những năm 1920, Người đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự đoàn
kết, thống nhất giữa các lực lượng cách mạng trên thế giới.
Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh gắn bó trọn vẹn với dân tộc, với Đảng Cộng
sản Việt Nam, với nhân dân và bạn bè quốc tế. Cũng suốt đời mình, Người luôn phấn
đấu, cống hiến cho sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, đoàn kết dân tộc và quốc tế. Vì
3
4

Sđd, tập 12, trang 510, 512, 504, 504.
Sđd, tập 12, trang 509, 511.


6

vậy, trước khi qua đời Người ''để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng,
cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng” Việt Nam và cho đồng chí,
bầu bạn, thanh niên, nhi đồng quốc tế.
Về công cuộc kháng chiến chống Mỹ. Với tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh tin tưởng vào sự tất thắng của cách mạng toàn dân tộc trong công
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ để thống nhất đất nước. Trong Di chúc, Người
viết: “…Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân

dân ta luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng…Cuộc kháng chiến chống Mỹ có
thể kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù
sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Dù khó khăn gian
khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải
cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ
sum họp một nhà…”. Niềm tin tất thắng đó và sự tiên đoán tài tình của Người đã được
cả dân tộc hoàn thành bằng chiến thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn
được giải phóng, đất nước thống nhất, non sông Việt Nam thu về một mối như Di
nguyện của Người hằng mong ước.
Về công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh. Trong bản Di chúc thứ hai
được Người viết vào tháng 5/1968, vấn đề đoàn kết lại được Người căn dặn: “Ngay sau
cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm
trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công
việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Chúng ta phải có kế hoạch rõ ràng, chu đáo,
để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm… Công việc trên đây rất to lớn, nặng nề, và
phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ
kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc
chiến đấu khổng lồ này cần phải huy động toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa
vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.
Về đoàn kết toàn dân. Bên cạnh việc nhấn mạnh đến đoàn kết trong Đảng, Người
cũng đặc biệt quan tâm đến xây dựng khối đoàn kết toàn dân bởi đây “là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta''. Với Hồ Chí Minh, tương lai của đất


7

nước, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được quyết định bởi chính truyền thống
đoàn kết, điều này được thể hiện ở những dòng cuối cùng của Di chúc: ''Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một

nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới''.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, để củng cố và tăng cường khối đoàn kết toàn
dân tộc, Đảng phải luôn quan tâm đến ''công việc đối với con người''. Theo Người:
''Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng
bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính
phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã
hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác
xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy
mạnh sản xuất”. ''Đối với những nạn nhân của chế độ cũ…thì Nhà nước phải dùng vừa
giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động
lương thiện''. Đây không chỉ là quan điểm tập hợp lực lượng hết sức rộng rãi mà còn thể
hiện sâu sắc tư tưởng bao dung, nhân ái Hồ Chí Minh.
Sự nghiệp xây dựng đất nước cần có khối đoàn kết đông đảo, rộng rãi, mạnh mẽ
và chắc chắn. Khối đoàn kết đó không chỉ gồm toàn bộ những người từ phía ''bên này''
mà có cả người của phía “bên kia”. Người cho rằng sự nghiệp xây dựng đất nước cần
đến lực lượng của tất cả mọi người, ''không để sót một người nào''.
Đoàn kết và Đoàn kết toàn dân là quan điểm được Người theo đuổi và thực hiện
trong thực tiễn trong suốt cuộc đời làm cách mạng và phụng sự Tổ quốc. Người đã trở
thành linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng rộng rãi và bền vững, ngay cả
lúc sắp ra đi, điều mà Người mong mỏi nhất cũng chính là vấn đề đoàn kết “Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần vào
sự nghiệp cách mạng thế giới”.
2. Vận dụng tư tưởng đoàn kết trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay


8


2.1. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta trong sự nghiệp đổi
mới
Hơn bốn mươi năm qua, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lời thề
trước vong linh của Người, dân tộc ta, đất nước ta đã vượt qua muôn vàn hy sinh gian
khổ, khó khăn, thách thức, nhưng với tinh thần đoàn kết toàn dân tộc như Người hằng
vun đắp, các con cháu của Người đã tiếp tục phát huy truyền thống quý báu đó, đã viết
nên những trang sử vẻ vang, những thành tựu vĩ đại trong thời đại Hồ Chí Minh.
Trong cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước, thực hiện Di chúc thiêng liêng của
Người, quân và dân cả nước đã biến đau thương thành sức mạnh, đẩy mạnh phong trào
thi đua “một người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “kiên quyết vượt mọi khó
khăn, ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa (XHCN). Miền Bắc vừa
xây dựng và bảo vệ XHCN, đánh thắng chiến tranh phá hoại, làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ trên không, vừa làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam
“Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, ra sức thi đua lao động, tất
cả cho tiền tuyến miền Nam, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược. Ở miền Nam,
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lược lượng dân
tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam đã vận động các tầng lớp nhân dân từ các đô thị và
vùng nông thôn, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng, tôn giáo, địa vị xã hội…đoàn kết
một lòng, đứng lên chống giặc Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai. Các phong trào đấu
tranh ở trong nước và các phong trào phản đối chiến tranh của người dân yêu chuộng
hòa bình trên thế giới, ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
của dân tộc Việt Nam đã diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp. Qua đó đã phát huy được sức
mạnh toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, tạo nên một sức mạnh vô địch
của cách mạng Việt Nam, làm nên đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối, hoàn thành Di nguyện lớn
lao nhất của Bác Hồ kính yêu.
Đất nước thống nhất, Đảng và Nhà nước tiếp tục lãnh đạo dân tộc Việt
Nam thực hiện xây dựng đất nước theo Di chúc của Người. Đảng và Nhà nước ta
không ngừng chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhờ thấm nhuần
tư tưởng đoàn kết của Hồ Chủ tịch, qua đó bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền



9

và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế, sự nghiệp CHN, HĐH được đẩy mạnh; kinh tế tăng trưởng
khá nhanh. Các lĩnh vực của đời sống xã hội đã có sự phát triển vượt bậc, đời
sống của nhân dân ngày càng được nâng cao rõ rệt. Chính trị - xã hội ổn định.
Quốc phòng an ninh được giữ vững. Hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế
quốc tế được đẩy mạnh. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được
củng cố và tăng cường. Cụ thể là: trong suốt 25 năm qua, kinh tế tăng trưởng
trung bình đạt 7 đến 8% mỗi năm. Thu nhập bình quân đầu người tăng gấp gần
11 lần; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ
một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không chỉ đã bảo
đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều
nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 80% GDP.
Xuất khẩu cũng tăng mạnh, đạt xấp xỉ 100 tỷ USD năm 2011. Ðầu tư nước ngoài
tăng nhanh, đăng ký đạt gần 200 tỷ USD vào cuối năm 2011. Về cơ cấu nền kinh
tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam
hiện nay gồm khoảng 34% từ kinh tế nhà nước, 5% từ kinh tế tập thể, 31% từ
kinh tế hộ, 11% từ kinh tế tư nhân trong nước và 19% từ khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài.
Hiện dân số của Việt Nam là hơn 86 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em,
khối đại đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam không
ngừng được củng cố. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của
nhân dân. Tỷ lệ người nghèo trung bình mỗi năm giảm từ 2 đến 3% và cứ 10 năm
giảm còn một nửa; giảm từ 75% năm 1986 xuống còn 9,5% năm 2010. Ðến nay,

hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô-tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia,
trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Việt Nam tập trung
hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo
dục trung học cơ sở năm 2010; số thanh niên đại học, cao đẳng tăng gấp chín lần


10

trong 25 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% số người lớn biết đọc, biết viết.
Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho
toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng chống
dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ
biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi
và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ
em giảm gần ba lần; tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm khoảng sáu lần. Tuổi thọ
trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73 tuổi năm 2010. Cũng nhờ
kinh tế có bước phát triển nên đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người
có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của
các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Ðời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể;
sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 25
triệu người sử dụng in-tơ-nét, là một trong những nước có tốc độ phát triển công
nghệ tin học cao nhất thế giới. LHQ đã công nhận Việt Nam là một trong những
nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những
chuyển biến hết sức tích cực ở Việt Nam. Trên thực tế, xét trên nhiều phương
diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt hơn so với bất
cứ thời kỳ nào trước đây. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng
cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho
đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Ðó là một trong những lý do giải
thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Ðảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh

đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực
hiện. Những thành tựu trên là sự phát huy tinh thần đoàn kết một lòng của cả dân tộc,
tất cả vì Tổ quốc Việt Nam thân yêu, vì lý tưởng của Bác Hồ vĩ đại.
Bước sang thời kỳ mới của đất nước, trước những diễn biến phức tạp trên thế
giới, trước xu thế toàn cầu hóa. Tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân là cơ sở chính để Đảng và Nhà nước ta tăng cường vận động các tầng
lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN. Tăng cường đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước


11

trên thế giới; góp phần đấu tranh, đập tan những âm mưu của các thế lực thù địch, hòng
phá hoại thành quả cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của nhân dân ta,
góp phần vào sự ổn định, hòa bình trong khu vực và trên thế giới. Qua việc phát huy sự
đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo đất nước tranh thủ thời cơ, vượt qua bao khó
khăn thách thức, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là những thành tựu về kinh
tế - xã hội của công cuộc đổi mới đất nước hơn 25 năm qua.
Thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và sự
nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua 40 năm thực
hiện theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết và
đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, đã là đường lối chiến lược của cách cách mạng Việt Nam; là
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng
lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Càng khẳng định đoàn kết và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc “là sức mạnh, là then chốt của mọi thành công” của cách
mạng Việt Nam; đây là thực tiễn để kiểm chứng cho chân lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đưa ra “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, công cuộc đổi mới ở
nước ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những
thách thức mới trong quá trình phát triển. Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng còn
thấp, thiếu bền vững; hạ tầng cơ sở thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều
doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô
nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập.
Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, phân hóa xã hội ngày càng
sâu sắc, cơ cấu xã hội – giai cấp có nhiều biến đổi; văn hóa, đạo đức xã hội có
mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Ðặc biệt, hiện
tượng tham nhũng, lãng phí, sa sút về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống có


12

xu hướng lan rộng trong không ít cán bộ, đảng viên. Các thế lực thù địch luôn tìm
mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn
biến hòa bình" nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Như vậy, hiện nay ở nước ta các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành,
xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa,
gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh
này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội
nhập quốc tế. Bên cạnh, những thành tựu, luôn có những mặt tiêu cực, thách thức
cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Ðó
cũng chính là những thách thức lớn trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc ở nước ta. Đây là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải
có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Thành công hay thất bại là
phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng.

2.2. Vận dụng tư tưởng đoàn kết trong tác phẩm Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay
Để phát huy truyền thống đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn
kết quốc tế, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để thực hiện thành công sự nghiệp
cách mạng đi lên CNXH mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước trong tình
hình mới, cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung
thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau:
* Củng cố, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng
Để không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng, nhất là ở các
tổ chức cơ sở đảng hiện nay, theo chúng tôi cần chú ý một số biện pháp chủ yếu như sau:
Một là, Đảng đề ra đường lối chính trị đúng đắn làm cơ sở để xây dựng
đoàn kết thống nhất trong Đảng. Theo Hồ Chí Minh đường lối chính trị và đoàn
kết thống nhất trong Đảng có quan hệ mật thiết với nhau. Đường lối chính trị
đúng đắn là cơ sở tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Thực tiễn phong
trào cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã


13

chứng minh điều đó. Đường lối đúng đắn là sự kiên định lí tưởng cách mạng
“độc lâp dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Hai là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng trước hết bắt nguồn từ sự hiểu biết và giác ngộ chính trị của mỗi
đảng viên. Vì vậy, công tác tuyên truyền trong Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng để nâng cao trình độ nhận thức cho mỗi đảng viên, có như vậy mới tạo sự
đoàn kết thống nhất cao. Thông qua tuyên truyền của Đảng làm cho làm cho toàn
Đảng, cũng như mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết nhất trí trong Đảng và tầm quan trọng của việc giữ gìn đoàn kết nhất
trí trong Đảng; làm cho đảng viên hiểu đầy đủ, đúng đắn đường lối để từ đó biết

lãnh đạo, tổ chức quần chúng tiến hành thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng.
Ba là, Thực hiện tốt chế độ tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân. Tự phê bình và phê bình không những là vũ khí sắc bén
mà còn là động lực bên trong giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên phát huy ưu điểm,
khắc phục khuyết điểm. Tự phê bình và phê bình phải khách quan, công khai,
trung thực, chân thành. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết
điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của
mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh
ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm. Như thế là một
Đảng tiến bộ,…, chân chính”. Do đó, tự phê bình và phê bình cần tiến hành
thường xuyên như “rửa mặt hàng ngày” và cần tiến hành từ trên xuống, từ dưới
lên. “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để…
đoàn kết và thống nhất nội bộ”. Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là
“cách tốt nhất”, hữu hiệu nhất để phát huy ưu điển, sữa chữa sai lầm, khuyết
điểm, nâng cao đạo đức cách mạng. Người cũng đặc biệt lưu ý rằng nâng cao đạo
đức cách mạng phải đồng thời với kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, coi như
hai mặt của một quá trình tu dưỡng, phấn đấu của người đảng viên cộng sản.
Bốn là, Tăng cường mở rộng dân chủ trong Đảng, đề cao tính tổ chức, tính kỷ
luật, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đoàn kết nhất trí trong Đảng


14

không phải sự đoàn kết suôi chiều, trái lại đoàn kết được xây dựng trên cơ sở đấu
tranh để đi đến thống nhất về tư tưởng, hành động. Vì vậy nhất thiết phải mở rộng
dân chủ. Mở rộng dân chủ đi đôi với đề cao kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh căn dặn: “Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ, thực
hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức kỷ luật”. Dân chủ trong Đảng là phải
làm cho tất cả đảng viên tự do biểu đạt tư tưởng, nhu cầu, đóng góp ý kiến của mình
cho Đảng với ý thức trách nhiệm cao. Các cấp ủy Đảng phải bảo đảm thực hành dân

chủ từ cơ sở. Mặt khác, cần thực hiện tốt nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách nhằm tạo cơ sở đảm bảo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, phát hiện sớm
và kiên quyết giải quyết dứt điểm mọi hiện tượng gây mất đoàn kết trong nội bộ
Đảng. Công tác kiểm tra có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường
khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Công tác kiểm tra giúp cho các cấp ủy kịp
thời phát hiện và ngăn chặn nguyên nhân, hiện tượng mất đoàn kết. Đồng thời
biểu dương kịp thời và có biện pháp cụ thể, thiết thực giúp cho các tổ chức đảng,
cán bộ, đảng viên chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng, giáo dục cán bộ, đảng
viên không ngừng chăm lo vun đắp cho khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Hồ
Chí Minh viết: “Muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là
khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa, kiểm
soát khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt”.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, một mặt phải tăng
cường sự lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy các cấp, đề cao trách nhiệm của các cơ
quan chức năng, tích cực đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức tiến hành,
đồng thời cần có cơ chế, qui chế cụ thể để bảo vệ và phát huy vai trò giám sát của
quần chúng, nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Sáu là, lựa chọn, bố trí đúng người đứng đầu tổ chức đảng và cơ quan
chính quyền cùng cấp, bảo đảm hạt nhân trung tâm đoàn kết. Thực tiễn cho thấy
ở cơ sỏ nào cán bộ chủ trì có đủ phẩm chất, năng lực, luôn nêu cao tinh thần trách
nhiệm, thật sự tiên phong gương mẫu; xử lý hài hòa các lợi ích, biết đặt lợi ích
của Đảng, của nhân dân, của tập thể lên trên hết, thì ở đó nội bộ đoàn kết thống


15

nhất, năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng, hiệu lực quản lý điều hành của chính
quyền không ngừng được giữ vững và nâng lên. Ngược lại thì đoàn kết trong tổ
chức đảng bị rạn nứt, vai trò, uy tín của Đảng bị suy giảm.

Bảy là, đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là mẫu mực tuyệt vời về tinh thần đoàn kết
giai cấp, đoàn kết dân tộc, là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, là hiện
thân của sự đoàn kết nhất trí trong Đảng ta. Tăng cường đoàn kết nhất trí trong
Đảng phải luôn dựa trên cơ sở tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết. Vì vậy,
cần đẩy mạnh việc tuyên truyền về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, làm cơ sở
tạo ra phong trào hành động cách mạng làm theo tấm gương của Người.
* Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đại hội
XI của Đảng tiếp tục khẳng định: phát huy sức mạnh toàn dân tộc là thành tố thứ
hai, sau thành tố về tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng. Đây chính là hai thành tố quan trọng, quyết định thực hiện thành công
những nhiệm vụ căn cốt nhất của toàn Đảng và toàn dân ta trong nhiệm kỳ 2011 2015, đó là: đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát huy
sức mạnh toàn dân tộc là một thành tố được nêu trong chủ đề của Đại hội X và
Đại hội IX, nay khẳng định lại không chỉ để nhấn mạnh mà còn nhằm làm sáng tỏ
hơn bản chất và nội dung của vấn đề thông qua thực tiễn đổi mới. Sức mạnh toàn
dân tộc là sức mạnh của cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại; sức mạnh của các thành phần kinh tế, các lực lượng chính trị, xã
hội, các dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước và cộng đồng người
Việt Nam định cư ở nước ngoài có cùng “mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam
hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá
khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi
ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan


16


dung… để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng
thuận xã hội”5.
Do đó, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị, của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và là trách nhiệm của
mỗi công dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để củng cố, xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc trong tình hình mới, theo tôi cần phải:
Một là, tạo ra cơ chế để mọi người đồng thuận với nhau và đồng thuận với
sự hướng dẫn chính trị của Đảng và Nhà nước trong từng nhiệm vụ, từng giai
đoạn phát triển của đất nước; tạo điều kiện để mỗi người đều thấy mình được tự
do, được tôn trọng, có quyền bình đẳng như tất cả mọi người khác; hình thành và
mở rộng các diễn đàn để thông qua đó mọi người có điều kiện cùng trao đổi,
thương lượng, đàm phán, thỏa thuận để đi đến thống nhất về tư tưởng và hành
động với nhau.
Hai là, xử lý hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, các
khuynh hướng, lực lượng xã hội trong quá trình hoạch định chính sách, chiến
lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Ba là, kiên trì quan điểm lấy dân làm gốc, lấy lợi ích căn bản của đại đa số
nhân dân làm điểm xuất phát và cơ sở của mọi chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Điều này đòi hỏi các chủ thể lãnh đạo đất nước phải biết lắng nghe một
cách nghiêm túc, chân thành những tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân
và quần chúng nhân dân cũng phải hiểu biết những người cầm quyền của mình.
Bốn là, mở rộng và thực thi có hiệu quả dân chủ trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Qua
đó nhằm động viên, phát huy tính chủ động, sáng tạo, sức mạnh vật chất, tinh
thần của nhân dân, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và củng
cố mối quan hệ đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời góp phần xây dựng Đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân dân trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn
và đẩy lùi có hiệu quả nạn quan liêu, tham nhũng, củng cố niềm tin của nhân dân
với Đảng, Nhà nước, tạo ra sự đồng thuận cao trong đời sống xã hội.
5


Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 239-240


17

Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục để các giai cấp,
tầng lớp nhân dân, các lực lượng xã hội tự nguyện thống nhất với nhau về các vấn
đề cơ bản, vì mục tiêu và lợi ích chung của đất nước; chú trọng công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân kết hợp với phát huy truyền thống nhân nghĩa, khoan dung của dân tộc.
Sáu là, có thái độ khách quan, khoa học trong việc nhận thức, phân tích và
xử lý những quan điểm, tư tưởng lệch lạc, sai trái trong nhân dân; tích cực, chủ
động trong việc giải quyết các mâu thuẫn nội bộ nhân dân nhằm tăng cường đồng
thuận xã hội. Việc giải quyết mâu thuẫn được thực hiện bằng các biện pháp tuyên
truyền, vận động, giác ngộ cách mạng trong quần chúng kết hợp với các giải pháp
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
* Giáo dục tinh thần đoàn kết cho thanh niên trong các nhà trường Quân đội
hiện nay theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mối quan tâm thứ hai, sau khi Bác
nói về Đảng, đó là vấn đề Đoàn viên và Thanh niên, Người di nguyện rằng: “Đoàn viên
và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó
khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào
tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa
“chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất
cần thiết”.
Sinh thời, Hồ Chí Minh thường nói “Bác rất yêu quý thanh niên”, và Người
thường giải thích “Thanh niên tượng trưng cho sức sống của cuộc đời, cái đẹp của đất
nước và tinh thần của dân tộc. Một năm khởi đầu bằng mùa xuân, một đời người khởi
đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Vì thế lòng yêu nước, tình cảm

thương dân của Người gắn liền với sức sống của nhân dân là thanh niên. “Thanh niên là
người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già…xung phong trong công cuộc phát
triển kinh tế và văn hóa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên là lực
lượng cơ bản trong bộ đội, công an, dân quân tự vệ…Trong mọi công việc, thanh niên
thi đua thực hiện khẩu hiệu: Đâu cần, thanh niên có, việc gì khó, thanh niên làm”.


18

Thanh nnhà niên trong các nhà trường quân đội là một bộ phận ưu tú trong tầng
lớp thanh niên. Được học tập và rèn luyện để trở thành những trí thức tương lai, chủ
nhân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, họ có khả năng tiếp thu những thành tựu mới của
khoa học - công nghệ tiên tiến, có thể đưa nước ta “đi tắt”, “đón đầu” để hội nhập khu
vực và quốc tế.
Trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục nói chung, thì việc giáo dục đạo đức cho
thanh niên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó là cơ sở nền tảng hình thành con
người mới vừa hồng, vừa chuyên. Với vị trí của nó, mà giáo dục phải là sự
nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, trong đó vai trò của nhà trường là hết sức quan
trọng. Để hoàn thành nhiệm vụ cao cả đó, đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ
giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Ngày nay, mặt trái của nền kinh tế thị trường đang nuôi dưỡng chủ nghĩa
cá nhân và lối sống thực dụng, lấy đồng tiền làm giá trị cao nhất...những mặt trái
của cơ chế thị trường đó đang gặm nhấm những giá trị tốt đẹp của dân tộc, làm
khô héo lòng nhân ái trong con người. Bên cạnh những chuẩn mực đạo đức cũ
của dân tộc vẫn còn nguyên giá trị, có sự pha tạp của văn hóa ngoại lai, có những
cái phản giá trị đạo đức truyền thống, đã dẫn đến sự lựa chọn sai lầm các giá trị
đạo đức của một bộ phận thanh niên.
Một điều đáng nói, trong chương trình giảng dạy ở các nhà trường Quân đội, các
môn khoa học Lý luận chính trị là những môn trang bị thế giới quan, nhân sinh quan,
xây dựng niềm tin, lý tưởng cho thanh niên. Vậy mà vẫn còn một bộ phận không nhỏ

thanh niên có ý thức học tập mang tính đối phó, thụ động. Chính vì vậy, trước những
biến động phức tạp của thế giới, trước những khó khăn phức tạp của cuộc sống, nhiều
thanh niên không đủ bản lĩnh để giữ vững phẩm chất chính trị của mình, có những
trường hợp bị tha hóa bởi những hiện tượng tiêu cực của xã hội. Đây chính là mảnh đất
để các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, mua chuộc và thực hiện “diễn biến hòa bình”
đối với thanh niên.
Trước thực trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận thanh niên hiện nay, việc
giáo dục đạo đức cho thanh niên, làm cho họ có đủ đức tài, mà trong đó đức là gốc, đáp
ứng nhu cầu của thực tiễn xây dựng đất nước là một trong những vấn đề cấp bách, đảm


19

bảo cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta khỏi nguy cơ tụt hậu và chệch
hướng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Thực tế cho thấy, đa số thanh
niên đều có quan điểm đúng đắn về vấn đề đoàn kết và biết đoàn kết giúp đỡ nhau
trong học tập và cuộc sống. Tuy nhiên, hiện nay có hai hiện tượng đang xảy ra:
Thứ nhất, một bộ phận thanh niên chưa có quan điểm đúng đắn về đoàn kết như:
đoàn kết một chiều, không gắn với đấu tranh thể hiện ở việc che giấu hay không phê
phán cái xấu, cái thiếu văn minh của nhau, thi hộ, làm bài tập hộ, học hộ...
Thứ hai, một bộ phận khác thiếu tinh thần đoàn kết để kẻ xấu lấy đồ của bạn bè,
đánh bạn mà không có phản ứng gì, thậm chí ngay trong phạm vi lớp học cũng mâu
thuẫn, cãi vã, đánh lộn nhau…
Lồng ghép trong quá trình giảng dạy và liên hệ thực tiễn cho thanh niên nhận
thức được rằng: Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình
đổi mới hiện nay ở nước ta, đó cũng chính là nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) là những yếu tố
“bất biến” trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Do đó, phải kiên định xây dựng
tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, lòng yêu nước, yêu CNXH cho thanh niên. Qua đó làm
cho thanh niên ý thức được rằng, họ chính là lực lượng chính cho sự nghiệp cách mạng

của nước nhà, là tương lai của đất nước. Cơ chế thị trường là phương tiện để thực hiện
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
Kế thừa và phát huy những giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống, đạo đức
cách mạng. Trong đó giá trị đạo đức truyền thống là yêu nước, tinh thần đoàn kết là
những giá trị cao nhất, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam. Ngày nay yêu
nước là yêu CNXH, yêu nhân dân. Trong cơ chế thị trường, khi mà các quan hệ xã hội
của con người đang có nguy cơ bị đồng tiền làm tha hóa, thì việc xây dựng lòng yêu
nước, yêu CNXH là một việc làm cấp bách và thiết thực, soi sáng cho thanh niên định
hướng những giá trị nhân cách, phẩm giá, giúp cho họ ngăn ngừa những sai lệch về
chuẩn mực đạo đức do mặt trái của cơ chế thị trường mang lại. Ngày nay, trong nền
kinh tế thị trường, lòng yêu nước thể hiện qua sự năng động, sáng tạo, biết làm giàu
chính đáng, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, phải xuất phát từ lợi ích của
đất nước để định hướng hoạt động của bản thân mình, không vì lợi ích riêng tư mà xâm


20

hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Yêu nước là trung thành với Tổ quốc, trong bối
cảnh quốc tế hóa, toàn cầu hóa, thì trung với nước lại càng quan trọng, vì thiếu nó thì
nhân tài sẽ không đứng vững nổi trước sự cám dỗ, mua chuộc của bên ngoài và khi đó,
tài càng cao thì họa càng lớn.
Giáo dục cho thanh niên thấm nhuần về thế giới quan và nhân sinh quan của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng, thành niềm tin chân lý trong thế hệ trẻ. Xây dựng bản lĩnh chính trị cho thanh
niên là để họ có bản lĩnh chính trị vững vàng trước những diễn biến phức tạp của đời
sống, làm chủ tương lai, làm chủ sự nghiệp của mình.
Giáo dục cho thanh niên luôn có ý thức tự lực, tự cường, chủ động trong học tập
và trong nghiên cứu khoa học. Học tập để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không
ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách

mạng mới. Không chấp nhận sự nghèo đói, không làm giàu bất chính, không tiêu cực,
gian lận trong thi cử; chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi. Khơi dậy lòng nhân ái
truyền thống trong thanh niên, vì lòng thương người là đạo lý của cuộc sống, là đạo lý
làm người, “Thương nguời như thể thương thân” là nét đẹp truyền thống của dân tộc,
và ngày nay đó chính là tình thương giai cấp đối với giai cấp công nhân, tình thương
yêu vô cùng rộng lớn đối với nhân lao động, đối với người cùng khổ.
Ngày nay, thanh niên nói chung, thanh niên Quân đội nói riêng, họ đều là lực
lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, nguồn lực quan trọng trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Thanh niên là những người chủ, là lực lượng xung kích
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay
không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có xứng tầm với cộng đồng thế giới hay không,
cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường XHCN hay không, phần lớn tùy
thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Do
đó, Đảng và Nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu để đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, trong giáo dục và đào tạo phải đặc biệt quan tâm đến thanh niên, đó
chính là việc thực hiện theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


21

Từ thực tiễn này, việc giảng dạy tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh cần phải
giúp cho thanh niên hiểu và thể hiện bằng những hành động cụ thể. Muốn vậy cần phải:
- Giúp cho người học thực sự thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng khối
đoàn kết trong lớp, trong khoa và trong trường.
- Cần có quan niệm đúng đắn về đoàn kết. Đoàn kết luôn đi liền với đấu tranh, biết
tự phê bình và phê bình nhau để tăng cường đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
trong học tập và cuộc sống.
- Đoàn kết là phải biết yêu thương giúp đỡ nhau, phải luôn dũng cảm bảo vệ nhau
trước những hành động của kẻ xấu, kẻ ác. Biết phát huy tinh thần của tập thể trong mọi
hoạt động của đơn vị.

- Muốn đoàn kết chặt chẽ thì cần tôn trọng những quan điểm riêng của từng người,
biết gác lại những bất đồng, phát huy tương đồng và luôn biết hy sinh cái tôi cá nhân
mà vì tập thể với tinh thần “mình vì mọi người”.

KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết là một trong những tài sải tinh thần quý giá
mà Người để lại cho dân tộc và nhân loại. Đó là hệ thống tư tưởng sâu sắc, khoa học,
cách mạng về đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, đoàn kết trong Đảng... Những tư
tưởng đã và sẽ luôn là nền tảng, kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước ta trong sự nghiệp
cách mạng. Do đó, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định đoàn kết dân tộc là vấn đề
chiến lược trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Đặc biệt, trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; mở rộng hội nhập quốc tế nhằm thực
hiện thắng lợi hai nhiệm vị chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì việc không ngừng củng cố, xây dựng và phát huy
sức mạnh đoàn kết là đặc biệt quan trọng . Do đó, yêu cầu mỗi cán bộ, chiến sĩ
trong quân đội nói chung, giảng viên chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng phải
quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết; quan điểm, phương
hướng xây dựng khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế của Đảng, Nhà nước ta;
thường xuyên đấu tranh phê phán chống lại những quan điểm sai trái thù địch phá


22

hoại đường lối, quan điểm, chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta hiện nay./.



×