Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN THỰC TRẠNG và NHỮNG GIẢI PHÁP cơ bản NHẰM NÂNG CAO TRÌNH độ kỹ THUẬT CÔNG NGHỆ của CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.32 KB, 25 trang )

1

THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN
NHẰM NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ KỸ THUẬT - CƠNG NGHỆ
CỦA CƠNG NGHIỆP NƠNG THƠN NƯỚC TA

Từ một nước nơng nghiệp lạc hậu đi lên, việc thực hiện cơng nghiệp hóa
là một tất yếu khách quan ở nước ta. Càng ngày chiến lược công nghiệp hố
càng được cụ thể hóa, bổ sung và hồn thiện. Gần đây, Đảng và nhà nước ta đã
gắn nó với hiện đại hóa và khẳng định: Trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH, HĐH) đất nước việc cơng nghiệp hóa nơng nghiệp và phát triển
tồn diện kinh tế nơng thơn có một vai trị đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy
rằng, không thể thực hiện thành cơng bất kỳ một chính sách phát triển kinh tế xã hội nào mà không gắn với việc phát triển nông thôn. Đảng và nhà nước ta đã
nhiều lần khẳng định: phát triển tồn diện nơng thơn khơng chỉ là nhiệm vụ kinh
tế mà cịn là vấn đề chính trị - xã hội có ý nghĩa chiến lược và lâu dài đối với sự
phát triển của đất nước trong bối cảnh hiện nay, không thể tách dời CNH, HĐH,
không thể tách dời việc chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế quốc dân. Thậm chí,
CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn còn được coi là là một trụ cột cốt lõi của
tồn bộ q trình cơng nghiệp hóa nước ta trong giai đoạn tới. Đối với việc thực
hiện quá trình này, phát triển cơng nghiệp nơng thơn có một ý nghĩa hết sức to
lớn. Phát triển cơng nghiệp nơng thơn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn, mở rộng và phát triển sản xuất, hình thành, mở rộng thị
trường, khai thác những nguồn lực sẵn có trên địa bàn, tạo nguồn thu ổn định và
tăng thu nhập cho nơng dân…từ đó mà đẩy nhanh q trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn.


2

Những năm qua, thực hiện chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, theo đó cơng nghiệp nơng


thơn cũng có những bước phát triển mới. Cơ cấu ngành nghề và sản phẩm đa
dạng, việc tổ chức sản xuất kinh doanh được tiến hành chặt chẽ và có hiệu quả
hơn, số lượng các cơ sở công nghiệp nông thôn tăng nhanh (năm 2001 chỉ có
8.103 cơ sở, đến năm 2005 tăng lên 19.318)… Tuy nhiên, do những nguyên
nhân chủ quan và khách quan, sự phát triển của các cơ sở công nghiệp nơng
thơn cũng đang đặt ra khơng ít khó khăn, bất cập cần được nhận thức và khắc
phục ngay. Công nghiệp ở nông thôn, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm,
thuỷ sản phát triển chậm, ngành nghề dịch vụ chưa thu hút được nhiều lao động,
lao động còn phổ biến là thủ công, tỷ lệ qua đào tạo thấp, thiếu việc làm nghiêm
trọng. Đặc biệt là việc “ứng dụng tiến bộ khoa học - cơng nghệ vào sản xuất
chậm, trình độ kỹ thuật - công nghệ của sản xuất lạc hậu nên năng suất, chất
lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm nơng nghiệp cịn thấp, kém
hiệu quả và thiếu bền vững”1. Đây chính là một thách thức, trở ngại lớn trong
q trình phát triển cơng nghiệp nơng thơn. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, làm
rõ thực trạng, chỉ ra các nguyên nhân của nó, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm
nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ của công nghiệp nông thôn nước ta có ý
nghĩa hết sức cần thiết trong tình hình hiện nay.
1. Vị trí, vai trị của kỹ thuật - cơng nghệ trong phát triển công
nghiệp nông thôn
Phát triển công nghiệp nơng thơn là một vấn đề có tính tất yếu, có ý
nghĩa chiến lược và lâu dài đối với các nước đang phát triển nói chung cũng như
q trình CNH, HĐH ở nước ta nói riêng. Trong q trình phát triển này, cùng
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2002, tr 91.
1


3

với các nhân tố như điều kiện tự nhiên, nguồn lao động, thị trường, cơ sở hạ

tầng…thì kỹ thuật - cơng nghệ có một vị trí hết sức quan trọng. Hầu hết các nhà
nghiên cứu về công nghiệp nông thôn đều đánh giá cao vai trò, tác dụng của kỹ
thuật - công nghệ đối với sự phát triển của khu vực kinh tế này. Cả trong nghiên
cứu lẫn trong chỉ đạo thực tiễn, nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ của công
nghiệp nông thôn luôn được xem là nhiệm vụ then chốt trong thời gian tới.
Với tư cách như một thành tố của quá trình sản xuất - bao gồm tập hợp
các công cụ, phương pháp, quy tắc, kỹ năng, kỹ thuật - công nghệ không chỉ là
nhân tố chủ yếu nâng cao trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật, chất lượng nguồn lao
động của các cơ sở công nghiệp nông thôn, gắn kết công nghiệp nông thơn với
cơng nghiệp đất nước, mà nó cịn là nhân tố cơ bản quyết định chất lượng sản
phẩm, góp phần vào việc mở rộng, phát triển các ngành của công nghiệp nơng
thơn, qua đó thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn. Kỹ thuật - công nghệ tiên tiến, hợp lý sẽ trực tiếp thúc đẩy công nghiệp
nông thôn phát triển. Ngược lại, sự lạc hậu về kỹ thuật - cơng nghệ là một yếu tố
có tác động bất lợi cho khả năng phát triển, hiệu quả sản xuất kinh doanh, tới khả
năng đổi mới, tự đổi mới của cơng nghiệp nơng thơn nói chung cũng như khả
năng cạnh tranh của sản phẩm do nó sản xuất ra. Điều này sẽ tác động vào vị trí
của công nghiệp nông thôn trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, tới ảnh
hưởng của nó đến quá trình CNH, HĐH đất nước. C. Mác đã chỉ ra rằng: “Năng
suất lao động không phải chỉ phụ thuộc vào tài nghệ khéo léo của người lao
động, mà còn phụ thuộc vào tính chất hồn bị của cơng cụ của họ nữa”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra: “Cải tiến nơng cụ thì cơng việc đỡ nặng nhọc, lại
nhanh, kịp thời vụ. Không cải tiến nông cụ không thể tăng được năng suất lao
động, không thể tiến bộ được”. Lịch sử phát triển của công nghệ đã chứng minh
rằng, mỗi trình độ cơng nghệ mới đạt được, đều dẫn tới sự thay đổi sâu sắc, triệt


4

để các phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật và cách thức sản xuất trong tất cả các

lĩnh vực của nền sản xuất xã hội.
Thực tiễn các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy, sự phát triển
mạnh mẽ ngành công nghiệp nông thôn của họ luôn gắn liền và là kết quả trực
tiếp của việc nghiên cứu, triển khai và ứng dụng một cách kịp thời các tiến bộ
khoa học công nghệ vào tất cả các hoạt động, quá trình sản xuất kinh doanh.
Trung Quốc, trong phát triển công nghiệp nông thôn, đã chủ trương kết hợp một
cách triệt để giữa phát huy tiềm lực khoa học - kỹ thuật ở địa phương, khuyến
khích các nhà khoa học từ các đô thị, các trung tâm nghiên cứu về hoạt động
theo các hợp đồng kinh tế ở nơng thơn, đồng thời nâng cao trình độ khoa học công nghệ của cán bộ địa phương, kết hợp giữa nghiên cứu, phục vụ - kinh
doanh và đào tạo cán bộ tại chỗ. Thậm chí, nhà nước cịn thành lập một “Tổng
công ty đốm lửa” nhằm hỗ trợ việc chuyển giao, đổi mới công nghệ - kỹ thuật
cho các đơn vị sản xuất kinh doanh ở nông thôn. Thái Lan, trên cơ sở coi nông
nghiệp, nông thôn là xương sống của đất nước, các nhà lãnh đạo của nước này đã
chủ trương tập trung cho phát triển công nghiệp nông thơn. Theo đó, chú trọng
đầu tư vào việc nâng cao trình độ lao động và cơng nghệ bằng vốn vay của ngân
hàng thế giới. Đồng thời khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước thực
hiện việc nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ mới vào các cơ sở
công nghiệp nông thôn. Đài Loan đã xây dựng chiến lược khoa học - công nghệ
cho nhiệm vụ phát triển công nghiệp nông thôn với hướng công nghệ thích hợp chu kỳ đổi mới nhanh. Theo đó, đầu tư hết sức cơ bản cho việc nghiên cứu và
ứng dụng sâu rộng các tiến bộ công nghệ mới vào tất cả các hoạt động của các
cơ sở công nghiệp nơng thơn. Cịn Mêhicơ, trong chiến lược phát triển nơng thơn
nói chung, cơng nghiệp nơng thơn nói riêng, đã đặc biệt coi trọng đầu tư cho việc
nâng cao trình độ kỹ thuật - cơng nghệ như, mua sắm máy móc thiết bị hiện đại,


5

đào tạo và đào tạo lại đội ngũ, thuê chuyên gia, lựa chọn và ứng dụng các cơng
nghệ thích hợp v.v.
Rõ ràng là, khó có thể phát triển được cơng nghiệp nơng thơn nếu khơng

có sự đầu tư thỏa đáng để nâng cao trình độ kỹ thuật - cơng nghệ khu vực này.
Nhận thức đầy đủ vấn đề đó, Đảng và nhà nước ta luôn coi đây là một trong
những nhân tố cơ bản bảo đảm sự thành công của q trình CNH, HĐH nơng
nghiệp, nơng thơn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
khóa IX đã khẳng định: “Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao
khoa học, công nghệ cho sản xuất, coi đây là khâu đột phá quan trọng nhất để
thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn”.
2. Thực trạng kỹ thuật - công nghệ của công nghiệp nông thôn nước ta
Cùng với các lĩnh vực khác của nền kinh tế, thời gian qua trong công
nghiệp nông thôn nước ta, việc triển khai ứng dụng kỹ thuật tiên tiến đã được
nhà nước, các cấp chính quyền cũng như bản thân các chủ cơ sở sản xuất quan
tâm. Nhiều địa phương đã đầu tư trang bị các máy móc, thiết bị hiện đại, nhất là
cơng nghiệp khai thác, cơ khí, tiểu thủ công nghiệp. Hiện hầu như vùng nào cũng
đã có doanh nghiệp có trang bị máy móc, thiết bị mới, đắt tiền. Nhiều thiết bị gia
cơng cơ khí trị giá 150- 200 triệu đồng được các hộ gia đình, doanh nghiệp đưa
vào sử dụng một cách rộng rãi ở nhiều địa phương. Các thiết bị luyện kim trung
tần có trị giá trên một tỷ đồng cũng đã được trang bị trong một số doanh nghiệp
ở Nam Định, Hải Phòng… từ đó hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày được nâng
cao, đời sống người lao động cũng được cải thiện một phần.
Mặc dù vậy, kỹ thuật - công nghệ của công nghiệp nông thôn hiện nay
đang đặt ra những bất cập, cịn rất lạc hậu, khơng phù hợp với u cầu thực tiễn,
làm ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển công nghiệp nông thôn nước ta.
Bức xúc trước vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu đòi hỏi phải ngay lập tức đưa


6

những công nghệ hiện đại vào khu vực nông thôn, trước hết là cơng nghiệp nơng
thơn để nhanh chóng nâng cao trình độ của sản xuất ở nơng thơn, khắc phục sự
lạc hậu về kinh tế - xã hội của khu vực nông thôn so với đô thị. Về kỹ thuật công nghệ của công nghiệp nông thôn nước ta hiện nay, có thể đánh giá khái

quát như sau:
Thứ nhất, kỹ thuật - công nghệ của công nghiệp nông thôn nước ta nhìn
chung lạc hậu, chắp vá, hiệu quả sử dụng thấp.
Biểu hiện rõ nét của tình trạng này là:
Cơng nghiệp nông thôn chủ yếu sử dụng thiết bị theo hướng cơng cụ thủ
cơng kết hợp với cơ giới hóa bộ phận. Tỷ lệ thủ cơng và bán cơ khí còn chiếm tỷ
lệ cao. Theo thống kê, hiện tại số doanh nghiệp thuộc cơng nghiệp nơng thơn, có
mức tự động hóa từ 5 – 10% cơng việc chỉ có 1%, tự động hóa từ 11% cơng việc
trở lên là 0%; mức độ cơ khí hóa từ 30 – 50% cơng việc chỉ có gần 10%, cơ khí
hóa từ 51% cơng việc trở lên thì hầu như như có. Một điều tra ở ngoại thành Hà
Nội (một trong những khu được đánh giá có trình độ kỹ thuật - cơng nghệ cao
nhất) gần đây cho thấy khá rõ tình hình này (bảng 1).
Bảng 1: Tỷ lệ trang thiết bị của các hộ kinh doanh ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp ở ngoại thành Hà Nội
Đơn vị: %
Thủ
công
Nông nghiệp kiêm tiểu
thủ công nghiệp

18,66

Bán cơ
khí

73,88

Cơ khí

5,22


Hiện

Khơng

đại



0,75

1,49


7

Thương mại kiêm tiểu
thủ cơng nghiệp
Chun doanh tiểu thủ

42,86

57,14

-

-

-


cơng nghiệp

59,09

27,27

6,06

6,06

1,52

Bình quân chung

32,37

58,45

5,31

2,42

1,45

Nguồn: Số liệu điều tra của Đề tài “Thực trạng và giải pháp phát triển
ngành nghề phi nông nghiệp ngoại thành Hà Nội”, Hà Nội, 2001.
Theo kết quả điều tra này, ngành nghề và địa phương có trình độ trang
thiết bị khá hơn cả là Tân Triều: tại đây, dệt vải và các mặt hàng dệt là các mặt
hàng chủ đạo. Do địi hỏi của thị trường và có nguồn tiêu thụ ngày càng ổn định,
các hộ đã trang bị các loại máy móc khá hiện đại, địi hỏi vốn đầu tư lớn. Trên

50% số hộ được điều tra cho biết trang thiết bị của mình thuộc loại hiện đại hoặc
có trình độ cơ khí hóa, 44,44% số hộ dùng thiết bị bán cơ khí và chỉ có 3,7% số
hộ dùng khung dệt thủ công cải tiến. Hầu hết các hộ dùng thiết bị bán cơ giới là
những hộ có thị trường chưa ổn định. Tuy nhiên, song song với quá trình tìm
kiếm và khai thác thêm thị trường mới, nhiều hộ trong nhóm này cũng cho biết
đang có kế hoạch thay thế các thiết bị bán cơ giới bằng các thiết bị cơ giới để có
chất lượng ổn định hơn và có năng suất cao hơn. Cũng cần lưu ý thêm là ở các
xã đã được điều tra, 75% số hộ được phỏng vấn cho rằng việc đổi mới thiết bị có
ảnh hưởng tốt tới sản xuất kinh doanh. Trong khi đó, riêng tại Bát Tràng, chỉ có
37% số hộ được điều tra cho rằng tác động của đổi mới trang thiết bị là tích cực,
trong khi đó có tới 46,9% cho rằng việc đổi mới trang thiết bị ảnh hưởng không
tốt tới kết quả sản xuất kinh doanh. Những biểu hiện không tốt này không được
các hộ mô tả rõ. Nhưng nghiên cứu sâu hơn tại các hộ này, tình hình phổ biến
diễn ra là khả năng quản lý và quy mô của thị trường do chủ hộ tìm kiếm, khai


8

thác được không phù hợp với năng suất và hiệu quả kinh tế mà các trang thiết bị
mới có thể đảm nhiệm.
Kỹ thuật - công nghệ của các ngành cũng như trong nội bộ các ngành
thuộc công nghiệp nông thôn hiện tại khơng chỉ thấp mà cịn đang có sự phân
hóa khá mạnh mẽ về trình độ. Ngồi một số ngành được coi là có sự đổi mới
cơng nghệ sớm và khá nhất như, dệt, may, khai thác, mộc các ngành cịn lại hầu
như chưa có sự thay đổi lớn về kỹ thuật - công nghệ. Nhất là chế biến nơng sản,
thực phẩm và mây tre đan. Tình trạng này gây ra nhiều khó khăn, bất cập trong
tiêu thụ và trao đổi các hàng hóa cả ở trong và ngồi nước.
Kỹ thuật và công nghệ của công nghiệp nông thôn nước ta có xuất xứ từ
nhiều nguồn khác nhau. Thiết bị của các cơ sở sản xuất công nghiệp ở nông thôn
là: các thiết bị tận dụng do các doanh nghiệp nhà nước hoặc các đơn vị sản xuất

ở thành thị thải loại, được các chủ kinh doanh ở nông thơn mua lại, trong đó có
một phần là thiết bị nhập từ nước ngoài, chủ yếu là các nước XHCN trước đây;
các thiết bị tự trang tự chế, do các chủ kinh doanh tự ra công lấy bằng các
phương tiện tự có hoặc thuê các doanh nghiệp khác trong nước gia công (thường
là các doanh nghiệp tại địa phương); thiết bị mua từ các doanh nghiệp trong
nước; các thiết bị tiếp nhận từ phía người chuyển giao cơng nghệ (phần lớn là
thiết bị tự chế tạo hoặc sản xuất trong nước).
Các dây chuyền công nghệ không đồng bộ. Trong hầu hết các cơ sở sản
xuất, thường các chủ kinh doanh chỉ trang bị máy móc, thiết bị cơ khí ở một vài
khâu quan trọng, có tác động quyết định tới tồn bộ q trình sản xuất, cịn các
khâu khác trong quá trình sản xuất vẫn tận dụng lao động thủ cơng đến mức tối
đa. Ngay trong những doanh nghiệp có mức trang bị vốn bình quân đầu người
cao, sử dụng thiết bị đắt tiền, số lao động thủ công vẫn chiếm tên dưới 80% tổng
số lao động trong doanh nghiệp. Hầu như chưa có doanh nghiệp nào trang bị


9

được dây chuyền máy móc thiết bị đồng bộ và khép kín. Nhiều doanh nghiệp và
các hộ sản xuất tự đánh giá cơng nghệ và kỹ thuật của mình là hiện đại, song trên
thực tế, thiết bị của họ cũng chỉ thuộc loại lạc hậu, mặc dù mới đưa vào sử dụng.
Có những doanh nghiệp trong việc nhập các thiết bị cơng nghệ, do khơng nghiên
cứu kỹ tình hình cả của cơ sở mình, cả nơi nhập nên đã để xảy ra tình trạng mua
phải các cơng nghệ khơng phù hợp, cá biệt nhập phải thiết bị đã được tân trang
lại. Hậu quả là hoặc sử dụng không hết công suất, hoặc là không sử dụng được,
bán lại không đơn vị nào mua, từ đó trở thành nỗi lo, gánh nặng cho doanh
nghiệp.
Máy móc, dây chuyền già cối, hỏng hóc nhiều. Qua tìm hiểu thiết bị
trong các cơ sở sản xuất ở Hải Dương và Hưng Yên cho thấy, có một nửa số
thiết bị được sản xuất từ những năm 60 và 70 của thế kỷ trước. Những thiết bị

được sản xuất từ nửa cuối thập kỷ 80 chỉ chiếm khoảng 10%. Khảo sát cũng tại
địa phương này, năm 2003 cho thấy số thiết bị được sản xuất từ 10 năm trở lại
đây cũng vẫn chỉ chiếm xấp xỉ 11% tổng số thiết bị đang được sử dụng. Để tận
dụng triệt để, nhanh chóng quay vịng vốn và thu hồi vốn đầu tư, chúng thường
được tận dụng một cách tối đa trong điều kiện ít được bảo dưỡng theo đúng chế
độ và thiếu nhiều thiết bị đảm bảo kèm theo. Bởi vậy, mức độ ổn định và chính
xác khơng cao, tiêu hao điện năng, nguyên vật liệu nhiều, dẫn đến chất lượng sản
phẩm thấp, hiệu quả sản xuất không cao.
Thứ hai, năng lực tự đổi mới kỹ thuật - công nghệ của các doanh nghiệp
công nghiệp nông thôn ở nước ta rất thấp, trong khi đó, các nguồn hỗ trợ cho
việc đổi mới đó chỉ có hạn.
Khái niệm đổi mới và tự đổi mới kỹ thuật - công nghệ thường được hiểu
như những hoạt động cải tiến, nâng cấp hiện đại hóa hoặc thay thế các loại thiết
bị và cơng nghệ trong các đơn vị sản xuất thuộc công nghiệp nông thôn. Tuy


10

nhiên, nó cũng bao hàm cả nghĩa là làm cho các thiết bị và công nghệ được
chuyển giao cho các đơn vị này thích ứng được với điều kiện sản xuất của mỗi
đơn vị cơ sở. Điều này không chỉ là một việc nên làm, mà còn là yêu cầu quan
trọng đặt ra với bất kỳ một đơn vị sản xuất nào, dù ở nông thôn hay thành thị.
Năng lực tự đổi mới kỹ thuật - công nghệ của các đơn vị sản xuất phụ thuộc vào
hai yếu tố cơ bản là khả năng bảo đảm vốn theo nhu cầu của đầu tư đổi mới và
năng lực, trình độ của nguồn nhân lực trong đơn vị. Cả hai yếu tố này đều thuộc
những vấn đề khó giải quyết của các cơ sở. Nếu chỉ 10% lực lượng lao động đã
được đào tạo về nghề nghiệp thì khả năng tiếp nhận và vận hành thiết bị và cơng
nghệ cũng đã khó khăn, chưa nói tới việc tự nghiên cứu, cải tiến chúng. Qua tìm
hiểu vấn đề đổi mới kỹ thuật - công nghệ của tiểu thủ công nghiệp ở ngoại thành
Hà Nội, chúng ta có thể thấy, nhu cầu vốn cho đổi mới thiết bị và cơng nghệ của

nó khá điển hình cho tình trạng trên của cơng nghiệp nơng thơn. Riêng xã Kiêu
Kỵ (Gia Lâm) đã cần tới 24.299 triệu đồng trong vòng 5 năm 2001- 2005, còn
trong 5 năm tiếp theo cần 30.405 triệu đồng. Sau khi cân đối các nguồn để có thể
huy động, ước tính vẫn cịn thiếu tới trên 5 tỷ đồng trong giai đoạn 2001- 2005,
và thiếu hơn 3,7 tỷ đồng trong thời kỳ 2006- 2010. Tương tự, nhu cầu vay vốn
của các cơ sở kinh doanh tiểu thủ công nghiệp ở Tân Triều (Thanh Trì) trong 5
năm 2001- 2005 là 20.225 triệu đồng.
Ngồi ra, khả năng này còn bị chi phối bởi hai yếu tố quan trọng khác là
nhu cầu đổi mới và môi trường đổi mới. Về nhu cầu, tuy hiện nay đổi mới kỹ
thuật - công nghệ được xem là vấn đề cấp bách, song trên thực tế, các nhà kinh
doanh ở nơng thơn vẫn đang có xu hướng kinh doanh theo bề rộng, tức là sản
xuất những sản phẩm đang thiếu hụt trên thị trường (tìm kiếm những thị trường
ngách), chứ chưa ưu tiên cho việc đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh ngay


11

trong những ngành hàng, sản phẩm họ đang sản xuất. Môi trường kinh doanh
cũng chưa thực sự hỗ trợ và kích thích sự đổi mới của họ.
Thứ ba, cơng nghệ truyền thống đóng vai trị quan trọng trong sản xuất
của nhiều ngành nghề, nhưng việc hiện đại hóa cơng nghệ và quá trình sản xuất
làm nhiều yếu tố truyền thống đặc trưng bị mất đi.
Những ngành có biểu hiện rõ hơn cả là sản xuất đồ gỗ, làm sơn mài, chế
biến thực phẩm, sản xuất giấy, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Gần đây, do nhu
cầu về mặt hàng mỹ nghệ tăng lên, các cơ sở sản xuất đã tăng cường sử dụng các
loại sơn nhập ngoại được pha chế sẵn hoặc các thiết bị sấy thay thế cho sơn ta và
phương pháp sấy thủ công. Việc thay thế sơn bằng sơn hóa học làm cho sản
phẩm sơn mài Việt Nam mất đi nét đặc sắc, làm nó giống sản phẩm sơn mài của
Nhật Bản. Còn việc dùng thiết bị sấy cơ giới trong điều kiện chưa thích ứng hóa
được chúng để phù hợp với điều kiện sản xuất của nông thôn làm cho tỷ lệ sản

phẩm bị nứt, cơng khá cao.
Trong khi máy móc, thiết bị lạc hậu, công nghệ sản xuất cũng lạc hậu
tương xứng. Hầu hết các công nghệ được sử dụng trong công nghiệp nông thôn
là những công nghệ cổ truyền hoặc những công nghệ thuộc các thế hệ đã được
đưa vào sử dụng từ giữa thế kỷ trước. Những cải tiến, đổi mới được tiến hành
trong mấy năm vừa qua chỉ rất ít, lại không cơ bản. Những đầu tư cho việc
nghiên cứu công nghệ dành riêng cho công nghiệp nông thôn là không đáng kể.
Hai hướng nghiên cứu, triển khai chủ yếu được thực hiện trong mấy năm
qua chỉ là nghiên cứu về máy móc, thiết bị: máy móc thiết bị phục vụ sản xuất
nông nghiệp (gồm các loại máy làm đất, máy động lực) và thiết bị chế biến
lương thực (về cơ bản vẫn phục vụ sản xuất nông nghiệp). Những hướng này
chưa được đầu tư để nghiên cứu và triển khai, ứng dụng một cách thỏa đáng nên
kết quả còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Hiện nay, nhiều thiết bị phục


12

vụ sản xuất trong nơng nghiệp có nguồn gốc từ Trung Quốc mà chất lượng chỉ
tương đương với trình độ sản xuất của nước ta. Phần lớn các loại máy làm đất,
máy động lực do các nhà máy cơ khí nơng nghiệp nước ta có thơng số kinh tế kỹ thuật tương đương với máy do Trung Quốc sản xuất. Qua khảo sát 144 thiết
bị gia công đồ gỗ ở Vân Hà (Đơng Anh), có 41 cái được sản xuất trong nước,
còn lại 103 cái (chiếm71,5%) do Trung Quốc chế tạo. Trong khi đó, từ năm
1996, Nhà máy cơ khí Nam Hồng (Hà Nội) thậm chí cịn thiết kế và sản xuất
những loại máy làm đất chuyên dùng phục vụ miền núi mà Trung Quốc chưa sản
xuất được. Mặc dù vậy, do sự đầu tư chưa đồng bộ và thiếu chiến lược xúc tiến
nhất quán, dài hạn nên các thiết bị trên chưa được đưa ra thị trường thành công.
Đánh giá một cách tổng thể, tuy các cơ quan nghiên cứu đã có những
thành cơng nhất định và đã có những nhận thức đúng đắn về sự cần thiết phải
nghiên cứu các cơng nghệ thích hợp cho nơng thơn, nhưng cho tới nay chưa
nghiên cứu, thiết kế được công nghệ nào cho nông thôn và công nghiệp ở nông

thôn. Các yếu tố khác của công nghệ trong công nghiệp nông thơn cũng có trình
độ rất thấp, tương ứng với trình độ của thiết bị kỹ thuật trong khu vực này.
Do trình độ kỹ thuật - cơng nghệ lạc hậu, chất lượng nguồn lao động
chưa cao nên năng suất một số cây trồng và năng suất lao động ở địa bàn nông
thôn nước ta rất thấp, nhất là so với nhiều nước trong khu vực. Theo khảo sát của
FAO năm 2004, năng suất sắn của ta thấp hơn của Trung Quốc 1,6 lần, ngô 2,1
lần, đậu tương 1,5 lần, dứa 1,6 lần, mía 2,6 lần (xem bảng 2).
Bảng 2: So sánh năng suất một số cây trồng của Việt Nam và các nước.
Đơn vị tính: tạ/ ha
Sắn
Ngơ

Trung quốc
152,3
45,3

Việt Nam
93,8
21,1

Inđơnêxia
122,2
23,8

Malaixia
103,3
20,4

Philippin
83,7

14,8

Thái Lan
148,1
30,4


13

Đậu
tương
Dứa
Mía

15,9

10,2

11,4

-

11,3

13,7

139,9
139,4

84,4

53,9

110,5
109,6

96,0
95,4

73,4
72,4

135,5
135,1

Cũng do cơng nghệ của cơng nghiệp nơng thơn thấp và việc sản xuất
được tổ chức ngay trong khu dân cư, các chất thải làm cho mức độ ô nhiễm môi
trường rất cao và ảnh hưởng lớn đến đời sống của dân cư. Một nghiên cứu ở 3
thôn Đa Hội, Dương Ổ và Minh Khai vừa qua cho thấy mức độ ô nhiễm ở mức
độ rất cao so với các tiêu chuẩn của Việt Nam (xem bảng 3). Tại phần lớn các
địa phương, kể các làng nghề, các chất thải công nghiệp hầu hết đều được thải
trực tiếp vào môi trường mà khơng qua xử lý. Đó là ngun nhân chủ yếu dẫn tới
tình trạng ơ nhiễm mơi trường như các số liệu chỉ rõ.
Bảng 3: Mức độ ô nhiễm ở một số khu vực so với tiêu chuẩn Việt
Nam.

Dương Ổ
Khu
Khu
sản
xuất dân cư

Khoảng dao
Particulates

X>

tiêu

động
1–2
2-3

Đa Hội
Khu
Khu
sản
dân cư
xuất
Khoảng dao
động
1 - 12 1 - 4

Minh Khai
Khu
Khu
sản
dân cư
xuất
Khoảng dao
động
1- 8

1 -

chuẩn
HSX > tiêu chuẩn 2 4 COX > tiêu chuẩn
CN- X > tiêu chuẩn
CL2 X > tiêu chuẩn
Tiếng ồn dB > tiêu chuẩn

4
3–6
1-3
13- 4

1- 1,3
1-2
5 - 33

2-3
2 – 2,5
1 - 38

1 – 2,5 2,5– 3,5

3 - 15

1-7

1-3

2-5


6 - 43

3-5


14

Nguồn: UNDP, Michael DiGregorio: Công nghiệp làng xã ở Việt Nam,
2003.
Một thực tế nữa là hiệu suất sử dụng thiết bị trong công nghiệp nông thôn
hiện đang rất thấp. Phần nhiều cơ sở chỉ sử dụng được khoảng 40 – 50% cơng
suất, thậm chí nhiều cơ sở chỉ sử dụng được 15 – 20% công suất thiết bị. Hệ
thống máy phát lực nhập từ nhiều nước khác nhau, sử dụng các loại phụ tùng,
chi tiết có những quy cách, chất lượng khác nhau, đã gây ra nhiều khó khăn
trong quá trình sử dụng. Hệ thống điện tuy có sự phát triển nhanh chóng mấy
năm qua, nhưng nhiều nơi xây dựng không đứng quy cách, thiết kế, việc quản lý
lại không chặt chẽ và khoa học, gây ra tổn thất lớn và khơng bảo đảm an tồn.
Có thể thấy, nhu cầu về tiến bộ khoa học công nghệ trong công nghiệp
nông thơn hiện cịn phân tán. Sự phân tán này bắt nguồn từ sự phân tán của chính
bản thân cơng nghiệp nông thôn. Mỗi cơ sở sản xuất thường ở quy mơ nhỏ, do
đó nguồn vốn dành cho ứng dụng tiến bộ khoa học cơng nghệ ít, phần nhiều bó
tay các chủ doanh nghiệp và làm cho họ lúng túng trong việc chọn hướng tiến bộ
cần ứng dụng. Nhiều doanh nghiệp khơng biết bắt đầu từ đâu. Các hộ gia đình
thường sản xuất trên cơ sở học hỏi người khác, ít người chủ động đặt vấn đề đưa
tiến bộ kỹ thuật công nghệ vào sản xuất. Rải rác trong các địa phương nhu cầu
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ đã xuất hiện nhưng không phổ biến. Trong
các cuộc phỏng vấn các chủ kinh doanh ở nông thôn thuộc các tỉnh Ninh Bình,
Nam Định, Hà Nam, Hải Phịng, địa phương nào cũng có người tỏ ý tìm kiếm và
triển khai các công nghệ hoặc thiết bị mới, các thiết kế sản phẩm mới trong lĩnh

vực kinh doanh của mình, thậm chí cả những cơng nghệ, thiết bị và sản phẩm
khơng thuộc lĩnh vực kinh doanh của họ nhưng cho phép khai thác các nguồn lực
sẵn có ở địa phương. Đó thường là các nghệ nhân hoặc các chủ doanh nghiệp
đang phát đạt, có tiến hành nghiên cứu thị trường hoặc có giao dịch rộng rãi.


15

Trong khi đó, do quy mơ nhỏ và điều kiện sản xuất kinh doanh ở các địa phương
khác biệt nhau, nên những tiến bộ kỹ thuật - công nghệ muốn được ứng dụng
một cách có hiệu quả thì phải đảm bảo tính đặc thù riêng cho từng vùng. Tính
phân tán làm trở ngại cho cả việc nghiên cứu, ứng dụng lẫn cho việc bảo hành,
theo dõi và cải tiến các công nghệ và thiết bị ở các địa phương.
* Nguyên nhân cơ bản của tình hình trên là:
- Các chủ thể kinh doanh thường có tiềm lực hạn chế về nhiều mặt, trong
đó có hạn chế về vốn và hạn chế về khả năng tiếp nhận, khai thác các tiến bộ
khoa học - công nghệ phức tạp.
- Nhận thức về vai trị, vị trí của cơng nghiệp nơng thơn nói chung, kỹ
thuật - công nghệ trong công nghiệp nông thôn nói riêng chưa đầy đủ và chưa
sâu sắc. Nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, nhà nước về nâng cao
kỹ thuật - công nghệ của khu vực kinh tế này chưa được thực hiện nghiêm túc.
- Thiếu một hệ thống môi giới làm nhiệm vụ giới thiệu người có nhu cầu
với người có khả năng cung cấp dịch vụ sản phẩm đáp ứng những nhu cầu đó.
- Các cơ quan nghiên cứu, triển khai có năng lực hạn chế, chưa thực sự đi
sát thực tế, nắm vững các vấn đề cơ sở đặt ra, đồng thời chưa dự đoán được xu
hướng phát triển cụ thể của từng hướng cơng nghệ, do đó chưa chủ động nghiên
cứu, đưa ra những công nghệ mới, mà đi sau các nước khác. Mặt khác, các cơ sở
này không được sự hỗ trợ đúng mức và đến cùng của nhà nước và không có
được mối quan hệ liên ngành để có khả năng giải quyết đồng bộ những vấn đề
cấp bách mà thực tiễn đang đặt ra cho họ.

- Sự quản lý, hỗ trợ và tác động của nhà nước, chính quyền địa phương
chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ của công
nghiệp nông thôn. Trong đó vấn đề đảm bảo vốn ln được coi là điểm đáng chú
ý nhất (trong năm 5 từ 2001 – 2005, tổng mức đầu tư cho khoa học công nghệ


16

chỉ có 263,44 tỷ đồng, chiếm 1,84% tổng ngân sách nhà nước cấp cho ngành
nông nghiệp qua Bộ nông nghiệp và Phát triển nơng thơn).
- Thiếu các hình thức thơng tin thích hợp về các tiến bộ khoa học - cơng
nghệ, làm cho người có nhu cầu khơng biết liên hệ với đầu mối nào, dẫn tới các
hoạt động dịch vụ “chỉ trỏ” trong chuyển giao công nghệ…
Xác định mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2006 - 2010, Đại hội Đảng lần thứ X
đã chỉ rõ: “Tốc độ phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn
mức bình quân của cả nước…Nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, hàm lượng
khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị tăng thêm, giá trị nội địa trong sản phẩm
công nghiệp”2. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu này, việc đổi mới và nâng cao
trình độ kỹ thuật - công nghệ của công nghiệp nông thôn là vấn đề hết sức cần
thiết và không thể thiếu.
3. Một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao trình độ kỹ
thuật - công nghệ của công nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay
* Quan điểm chỉ đạo
Một là, ứng dụng nhanh cơng nghệ tiên tiến khi có nhu cầu thực sự, cịn
phổ biến là dùng cơng nghệ thích hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
Mục tiêu chung của phát triển cơng nghiệp nơng thơn là góp phần nâng
cao trình độ kỹ thuật và cơng nghệ của nơng thơn, từ đó thực hiện CNH, HĐH
nơng thơn, nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ ở nông thôn. Theo nghĩa đó,
trình độ kỹ thuật - cơng nghệ của các đơn vị sản xuất kinh doanh công nghiệp
nông thôn phải không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, do các đơn vị sản xuất

thuộc cơng nghiệp nơng thơn có trình độ và tiềm lực, quy mô rất khác nhau nên
không thể đặt ra u cầu nhanh chóng đưa cơng nghệ tiên tiến, hiện đại vào mọi
đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc công nghiệp nông thôn để sớm hiện đại hóa
2

Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 191, 196.


17

nông thôn, giảm sự lạc hậu của nông thôn, đưa nơng thơn lên trình độ ngang
bằng với đơ thị. Con đường đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào các đơn vị công
nghiệp nông thôn phải là con đường từng bước: trước tiên, phải lựa chọn những
cơng nghệ thích hợp, sau đó cải tiến, hiện đại hóa dần và khi có đủ các điều kiện
cần thiết về nhân, tài, vật lực và thị trường, lúc đó sẽ thay thế bằng thiết bị và
công nghệ mới, tiên tiến và hiện đại. Các tiêu chí để đánh giá tính thích hợp của
một công nghệ đưa vào công nghiệp nông thôn là:
- Quy mơ của nó có phù hợp với dung lượng thị trường mà doanh nghiệp
dự tính khai thác và có khả năng khai thác khơng?
- Trình độ người lao động có đáp ứng được u cầu sử dụng của nó
khơng? Cơ sở hạ tầng ở nơng thơn có thuận lợi cho việc sử dụng khơng?
- Sản phẩm của nó có đáp ứng được những yêu cầu của thị trường
không?
Những yêu cầu đảm bảo các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường nên được xem
như yêu cầu chấp hành những tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật do nhà nước khống
chế mà khi lựa chọn bắt buộc các đơn vị sản xuất kinh doanh phải đáp ứng. Tuy
nhiên, do trình độ của cơng nghiệp nơng thơn thấp, khơng nên có những u cầu
q cao đối với các công nghệ này, cũng như không nên địi hỏi các đơn vị cơng
nghiệp nơng thơn phải có sự cải thiện nhanh chóng và cơ bản các tiêu chuẩn kỹ
thuật về môi trường. Đổi lại, các cơ quan quản lý nhà nước cần tìm kiếm các

nguồn tài trợ để xây dựng và thực hiện các chương trình xử lý chất thải, bảo vệ
môi trường ở địa phương, đồng thời đặt ra những yêu cầu về tiến độ áp dụng các
giải pháp bảo vệ môi trường buộc các cơ sở sản xuất thuộc công nghiệp nông
thôn thực hiện. Các giải pháp bảo vệ môi trường về mặt tổ chức cần được các cơ
sở sản xuất tuân thủ triệt để. Các sản phẩm của công nghiệp nông thôn cần được


18

cải tiến và đổi mới theo hướng thích ứng tốt hơn với nhu cầu sử dụng của cuộc
sống hiện đại và đáp ứng được các yêu cầu về bảo vệ mơi trường.
Hai là, phát huy vai trị trách nhiệm của các tổ chức chính trị xã hội, các
lực lượng và cá nhân mà trước hết là vai trò nhà nước và các cơ sở công nghiệp
nông thôn trong việc nâng cao trình độ kỹ thuật - cơng nghệ.
Cần phải thấy rằng, công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công
nghiệp và cũng là một bộ phận của kinh tế lãnh thổ. Cơng nghiệp nơng thơn có
sự đa dạng về tất cả các mặt: ngành nghề, thành phần kinh tế, hình thức tổ chức,
quy mơ…Điều này địi hỏi cần có sự kết hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước
ở địa phương với các cơ quan quản lý ngành trong việc xây dựng và triển khai
thực hiện các quy hoạch phát triển công nghiệp nông thôn của từng vùng. Theo
đó, cần phải phát huy trách nhiệm của cả hai phía : nhà nước và các doanh
nghiệp cơng nghiệp nơng thơn trong đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật - công
nghệ. Nhà nước vạch quy hoạch phát triển, hỗ trợ các đơn vị sản xuất đổi mới và
hiện đại hóa về mặt kỹ thuật - cơng nghệ. Các đơn vị sản xuất, đặc biệt là các
đơn vị có quy mơ lớn, có trách nhiệm xây dựng chiến lược về khoa học cơng
nghệ cho mình và chủ động tự triển khai thực hiện các chiến lược đó.
Quán triệt quan điểm cơ bản nêu trên, trong nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ của công nghiệp nông thôn, những năm tới, chúng ta cần phải nghiên
cứu, xây dựng và thực hiện tốt các giải pháp phù hợp.
* Một số giải pháp cơ bản
- Đối với nhà nước và chính quyền địa phương các cấp

Để cơng nghiệp nơng thơn có thể phát triển theo đúng định hướng của
mình, nhà nước khơng thể khơng có sự giúp đỡ, tài trợ cho nó bằng nhiều hình
thức khác nhau, phù hợp với đặc điểm của nó. Sự giúp đỡ này bao gồm cả hỗ trợ
về mặt tài chính, cơng nghệ, cung cấp các dịch vụ và đào tạo, nhưng quan trọng


19

hơn cả là tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh
doanh trong công nghiệp nơng thơn.
Trước hết, nhà nước cần hồn thiện cơng tác quy hoạch tổng thể về phát
triển công nghiệp nông thôn; xây dựng lộ trình đổi mới và nâng cao trình độ kỹ
thuật - công nghệ khu vực kinh tế này. Quy hoạch của từng vùng không thể tách
rời quy hoạch thống nhất của mỗi ngành cũng như của toàn bộ nền kinh tế. Việc
hoàn thiện hệ thống quy hoạch cần được xem như một nhiệm vụ quan trọng hiện
nay. Muốn vậy, cần phải nhận thực cho đúng về nội dung của các bản quy hoạch,
đây chỉ là chỗ dựa để các địa phương có các đối sách thích hợp trong việc hướng
dẫn, triển khai thực hiện các chính sách của nhà nước.. Không thể chỉ sử dụng
phương pháp cân đối tĩnh làm phương pháp xây dựng và điều chỉnh các quy
hoạch, mà phải sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để dự báo và xây
dựng quy hoạch. Phải đánh giá lại hệ thống quy hoạch hiện nay, nhất là tính hợp
lý, tính hiện thực của các quy hoạch đã được xây dựng và kết quả thực hiện
chúng ra sao. Trên cơ sở đó, tiến hành xây dựng những bước đi cụ thể trong đổi
mới và nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ các cơ sở công nghiệp nơng thơn
theo đúng định hướng chung.
Nhà nước, chính quyền các địa phương cần tăng cường đầu tư cho hệ
thống nghiên cứu, triển khai tiến bộ khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp
nông thôn. Ngân sách dành cho nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học cơng
nghệ cần có phần dành riêng để đáp ứng những yêu cầu về ứng dụng tiến bộ
khoa học công nghệ dành cho công nghiệp nông thôn. Trong số các đề tài nghiên

cứu thuộc hệ thống nhà nước, cần có những hướng nghiên cứu dành riêng cho
cơng nghiệp nơng thơn. Ngồi ra, cũng cần huy động cả các nguồn tài trợ quốc tế
để hỗ trợ công tác nghiên cứu phục vụ công nghiệp nông thôn. Muốn vậy, các cơ


20

quan có liên quan tới các dự án này ở từng địa phương cần đưa ra những hoạt
động thuộc loại này vào văn kiện của dự án.
Nhà nước sử dụng hệ thống chính sách đồng bộ kích thích các đơn vị sản
xuất nâng cao năng lực công nghệ nội sinh, trước hết là nâng cao trình độ kỹ
thuật của người lao động tại các đơn vị sản xuất và hoàn chỉnh cơ cấu lao động
của họ. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học, nhất là cơ chế quản lý tài chính, nhân
sự, nâng cao hiệu quả nghiên cứu và chuyển giao khoa học – công nghệ cho
nông dân. Việc nâng cao nhận thức chung cho người lao động cũng cần được
gắn với việc đào tạo chun mơn, có tính chất định hướng theo ngành nghề.
Trong hệ thống giáo dục phổ thông ở các vùng nông thôn, những nội dung giáo
dục về kỹ năng, kỹ thuật cơ bản cũng phải được cải tiến cho phù hợp với những
điều kiện của nông thôn và yêu cầu của các địa phương, nhất là nơi có ngành
nghề tiểu thủ cơng nghiệp.
Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương cần dành những ưu tiên thích
hợp về các mặt con nguời, tài chính, cơ sở vật chất hỗ trợ cho các đơn vị sản
xuất thuộc công nghiệp nông thôn để họ chủ động tự đổi mới sản phẩm, cơng
nghệ và thiết bị của mình. Trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp, nhà nước và các
tổ chức có liên quan cần đặc biệt chú ý giúp họ hình thành chiến lược cơng nghệ
và sản phẩm. Các chính sách sử dụng thuế để kích thích doanh nghiệp đổi mới
cơng nghệ như hiện nay tỏ ra khơng có tác dụng lớn như mong muốn, vì khoảng
dao động của các quy định cho phép các cơ quan quản lý nhà nước có quyền quá
lớn trong việc vận dụng. Thực hiện chế độ nghĩa vụ công tác phục vụ nông thôn
của các cán bộ khoa học - kỹ thuật và khuyến khích các nhà khoa học tham gia

các hoạt động phổ cập kiến thức khoa học thường thức cho dân cư nông thôn,
phục vụ trực tiếp cho những địa bàn nông thôn cụ thể, trước hết là những vùng


21

có nhu cầu cấp bách và hoạt động của cán bộ khoa học - kỹ thuật có hiệu quả rõ
rệt.
Đầu tư hiện đại hóa hệ thống viện, trường, nâng cao năng lực đào tạo
cán bộ khoa học, nghiên cứu và tiếp thu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững của nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH,
HĐH. Nhà nước có thể thành lập hoặc hỗ trợ sự hình thành và hoạt động của một
số trung tâm dịch vụ về khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp nông thôn. Hệ
thống các trung tâm này bao gồm cả một số đơn vị có tiềm lực mạnh (có thể nằm
ở đơ thị) và những đơn vị chun ngành khác nằm ở những vùng có cơng nghiệp
nơng thơn phát triển hoặc ở những nơi có nhu cầu lớn và có tiềm năng lớn để
phát triển cơng nghiệp nông thôn. Những trung tâm này cần gắn với hoạt động
của địa bàn mà nó phục vụ, có khả năng và tiềm lực hoạt động thực sự trên một
số lĩnh vực thiết yếu có liên quan tới sản xuất của địa phương, chứ không chỉ làm
dịch vụ theo nghĩa là đầu mối chỉ làm công tác tổ chức, là một loại trung gian
giữa bên cung và bên cầu. Những trung tâm này cần coi trọng công tác thông tin
về công nghệ, xây dựng hệ thống dữ liệu về các công nghệ có liên quan tới các
ngành nghề chủ yếu ở nơng thơn. Chúng cũng có thể làm dịch vụ hoặc hỗ trợ
miễn phí (với sự tài trợ của nhà nước hoặc tổ chức khác) cho các cơ sở thuộc
công nghiệp nơng thơn trong việc xây dựng và duy trì các trang web về các sản
phẩm chính và các cơ sở sản xuất trong vùng có nhu cầu giới thiệu trên mạng.
Trong thực hiện giải pháp này, cần quán triệt quan điểm khơng ngừng
nâng cao năng lực và trình độ kỹ thuật - công nghệ của công nghiệp nông thôn,
nhưng tại mỗi thời kỳ, với một cơ sở xác định, cần sử dụng những cơng nghệ
thích hợp, chứ khơng thể máy móc cho rằng, phải đưa kỹ thuật - cơng nghệ hiện

đại vào mọi cơ sở sản xuất để nhanh chóng hiện đại hóa, đưa cơng nghiệp nơng
thơn lên trình độ ngang bằng với các cơ sở công nghiệp ở đô thị. Việc lựa chọn


22

thận trọng cơng nghệ thích hợp cho cơng nghiệp nơng thơn rồi từng bước hiện
đại hóa chúng một cách có chọn lọc, có trọng điểm mà Trung Quốc đã tiến hành
cần được xem như một bài học, một kinh nghiệm bổ ích, chúng ta cần áp dụng.
- Về phía các đơn vị doanh nghiệp, những việc cần phải làm đó là:
Trước tiên, phải nhận thức một cách đầy đủ về sự cần thiết khách quan,
về nhu cầu đổi mới kỹ thuật - cơng nghệ ngay trong đơn vị mình. Cần phải thấy
được rằng, trong điều kiện sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng công nghệ hiện
đại, với một hiện trạng kỹ thuật - công nghệ như hiện nay, các cơ sở cơng nghiệp
nơng thơn sẽ khó có thể đứng vững, chưa nói tới thực hiện tốt vai trị của mình
trong phát triển nơng nghiệp, nơng thơn nếu khơng có những đầu tư thỏa đáng để
đổi mới, nâng cao và ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật - công nghệ mới. Đổi mới
kỹ thuật - công nghệ là nhu cầu nội tại của chính cơng nghiệp nơng thơn. Tư
tưởng cơ bản này phải được tất cả các lực lượng có liên quan nhận thức, quán
triệt sâu sắc.
Bồi dưỡng các kiến thức, hiểu biết về kỹ thuật - cơng nghệ có liên quan
tới sản xuất kinh doanh của mình. Các doanh nghiệp không được trông chờ ỷ lại
vào sự giúp đỡ của nhà nước, cơ quan chủ quản cấp trên, mà phải chủ động xây
dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, trang bị kiến thức, trình độ
chun mơn nghiệp vụ, tay nghề, kiến thức về khoa học công nghệ cho đội ngũ.
Để họ có thể đảm đương tốt được các nhiệm vụ theo phân công, hỗ trợ lực
lượng, bộ phận khác khi cần thiết. Việc làm này có thể tiến hành thơng qua hình
thức gửi đi đào tạo ở các cơ sở đào tạo chính quy, tập trung của nhà nước; có thể
trực tiếp tổ chức tại chính cơ sở dưới hình thức: vừa học vừa làm, tập huấn, hội
thảo, trao đổi kinh nghiệm…Các kiến thức cần trang bị phải bảo đảm cơ bản,

thiết thực, cập nhật với cái mới, tiên tiến và phù hợp với thực tiễn hoạt động của
doanh nghiệp. Thực hiện chế độ tuyển dụng và có chính sách đãi ngộ tương


23

xứng đối với những người có học vấn, trình độ, khả năng nghiên cứu, triển khai
những tiến bộ khoa học công nghệ mới.
Nâng cao năng lực công nghệ nội sinh thông qua các biện pháp liên kết
kinh tế hợp tác kinh doanh. Rà soát, đánh giá và phân loại một cách chính xác
trình độ kỹ thuật - cơng nghệ hiện có tại các cơ sở cơng nghiệp nơng thơn, từ đó
có kế hoạch đầu tư đổi mới trang thiết bị cơng nghệ thích hợp. Khuyến khích,
động viên những cá nhân, tổ chức có điều kiện và khả năng nghiên cứu, chuyển
giao kỹ thuật - công nghệ vào công nghiệp nông thôn. Đẩy mạnh phong trào phát
huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ cơng nghệ hiện có trong các
cơ sở công nghiệp nông thôn. Liên kết, hợp tác trong nghiên cứu chuyển giao
các kỹ thuật - công nghệ tiên tiến giữa các cơ sở sản xuất, các trung tâm, viện
nghiên cứu trong và ngoài khu vực, tạo sự hỗ trợ lẫn nhau trong thực hiện nhiệm
vụ của mỗi đơn vị.
Tổ chức phân công lại lao động, hiệp tác sản xuất để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc nâng cao năng lực cơng nghệ nội sinh của mình. Trên cơ sở quy
hoạch cụ thể đã được phê duyệt, các doanh nghiệp tiến hành tính tốn kỹ, phân
cơng, bố trí lại lao động một cách hợp lý trong từng ngành, từng khâu của quá
trình sản xuất theo hướng phù hợp với năng lực của mỗi người, đảm bảo cho họ
có thể phát huy hết khả năng sức lực, trí tuệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng như tham gia nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới. Tinh giản biên chế tổ
chức gọn nhẹ, lấy chất lượng, hiệu quả cơng tác làm cơ sở để bố trí, sắp xếp đội
ngũ.
Tổ chức đầu tư, đổi mới công nghệ - kỹ thuật một cách có trọng điểm.
Trên cơ sở bố trí, sắp xếp lại cơ cấu hợp lý, cần đầu tư có trọng điểm vào những

ngành, lĩnh vực, cơng đoạn sản xuất khi thấy cần thiết và có đủ các điều kiện
đảm bảo như: chế biến nông sản sau thu hoạch, dệt may, cơ khí chế tạo, khai


24

thác…Khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải và kém hiệu quả, nhập thiết
bị thiếu đồng bộ. Trong việc huy động vốn phục vụ cho việc đổi mới, nâng cao
trình độ kỹ thuật - cơng nghệ của cơng nghiệp nơng thơn, cần phải đa dạng hóa
các nguồn đầu tư theo hướng kết hợp giữa vốn nhà nước cấp với các hình thức
huy động khác như vay vốn cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước; lập quỹ hỗ trợ
từ các đối tượng kinh tế, các liên doanh với nước ngồi.
KẾT LUẬN

Kỹ thuật - cơng nghệ có vai trị hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội, là yếu tố nội tại, cấu thành trong quá trình sản xuất, là động lực quan
trọng của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Là một bộ phận của nền công nghiệp
quốc gia, sự tồn tại và phát triển của công nghiệp nông thôn nước ta hiện nay
không tách rời với những tiến bộ công nghệ. Trong quá trình phát triển của mình,
kỹ thuật - cơng nghệ được coi là là nhân tố hết sức quan trọng, là động lực chủ
yếu để đổi mới trang thiết bị vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề,
quyết định chất lượng sản phẩm, đồng thời, góp phần tăng cường mối quan hệ
giữa công nghiệp nông thôn với công nghiệp của đất nước.Vì vậy, phát triển
cơng nghiệp nơng thơn dựa trên nền tảng những tiến bộ kỹ thuật - công nghệ mới
là phương thức phát triển nhanh và bền vững nhất, cần phải được quan tâm.
Những năm qua, trong phát triển công nghiệp nông thôn, chúng ta đã chú
ý quan tâm tới việc đầu tư các trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho
quá trình này. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà trong các cơ sở
công nghiệp nông thôn nước ta những tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại vẫn
chưa được sử dụng một cách phổ biến. Do đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến

việc phát triển công nghiệp nông thôn nói riêng, sự nghiệp CNH, HĐH nơng
nghiệp, nơng thơn nói chung.


25

Đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật - cơng nghệ của công nghiệp nông
thôn trong thời gian tới là một địi hỏi tất yếu để phát triển. Do đó, cần phải quán
triệt một cách đầy đủ các quan và tổ chức thực hiện chặt chẽ, có hiệu quả các
giải pháp đã nêu.
Đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ của công nghiệp nông
thôn là vấn đề lớn, phức tạp, cần được tiếp tục làm rõ. Những trình bày trên đây
chỉ là những phác họa, gợi mở bước đầu. Thực tiễn vấn đề này đang đặt ra những
yêu cầu mới cần nghiên cứu, bổ xung và hoàn chỉnh; do đó địi hỏi sự góp sức
của nhiều ngành, nhà khoa học.


×