Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Thực trạng và những Giải pháp cơ bản để phát triển KTTT XHCN ở VN.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.72 KB, 18 trang )

A. Lời mở đầu
Trớc 1980 cơ chế kinh tế của nớc ta la cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tâp
trung.Nhà nơc biên thanh ông chủ của môt doanh nghiêp lớnquản lý nên kinh
tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh rất chi tiết và trc tiêp quyết
định sản xuất cáI gì,cho ai bao nhiêu,khi nào...đợc phát ra từ một trung tâm.Do
đó,hiêu quả kinh tế thấp,sản xuất không phù hợp voéi nhu cầu thực và rất đông
của xã hộinên gây ra lãng phí lớn.Nền kinh tế không có cạnh tranh,nên công
nghệ,tổ choc quản lý sản xuất rất chem. đổi mới.Vì vậy việc chuyển đổi từ nền
kinh tế tập trung sang nên kinh tế thị trờng định hơng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta
là môtj tất yếu khách quan trong sự nghiệp đổi mới đất nớc.Với mục đích khắc
phục dần đợc tính quan liêu,gò bó của cơ chế kế hoạch hoá,khơI dậy đợc tính
năng động sáng tảotong sản xuất kinh doanhtrong cac xí nghiệp quốc doanh,hợ
tác xã,tập đoàn sản xuất,nguồn lao động và nền kinh tế,chuyển đổi nền kinh tế
đơn nhất sang nên kinh tế nhiều thành phầncó sự quản ký và điêù tiết của nhà n-
ớc.Khuyến khích đầu t nứôc ngoàI,làm tăng vốn t bản cũng nh làm tăng thêm
suúc cạnh tranh cho nền kinh tế.Cho tơI nay các chính sách của nha nớc ta vẫn
trên cơ sở của chủ trơng trên mà đI sâu,hoàn thiện,bổ xung để làm cho các loại
hình doanh nghiệp sản xuất nhiều hàng hoá theo nhu cầu thị trờng.
B. Nội dung
I.
1. Nh chúng ta biết, kinh tế thị trờng là hình thức phát triển cao của
hàng hoá mà trong đó các quan hệ kinh tế đều đợc tiền tệ hoá. Nền kinh tế
hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trờng đợc gọi là kinh tế thị trờng.
Nền kinh tế thị trờng đợc hình thành và phát triển dới chủ nghĩa t bản đã
biết lợi dụng vai trò lớn của kinh tế thị trờng để tăng trởng và phát triển kinh
tế.
2. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thành phố định hớng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trớc kia, nớc ta có một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung nó đã phát
huy vai trò rất tốt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Song, cho đến
ngày nay nó đã bộc lộ các điểm không phù hợp với xu hớng phát triển kinh tế


của nớc ta cũng nh trên thế giới.
Từ đó dẫn đến những điểm không phù hợp của nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung:
+ Không phát triển đợc lực lợng sản xuất.
+ Chậm tiếp thu đợc khoa học công nghệ mới.
+ Không khai thác đợc đúng mức, có hiệu quả sức lao động của con ng-
ời.
+ Các mối quan hệ kinh tế trong nớc xơ cứng, kém năng động.
+ Hiệu quả quản lý của nhà nớc thấp, không phát huy đợc tính tích cực
của ngời dân.
Trái với nó nền kinh tế thị trờng tỏ ra có những u điểm đáp ứng đợc nhu
cầu đổi mới kinh tế của đất nớc, cụ thể:
2
+ Chủ thể năng động phát huy đợc hết khả năng thúc đẩy sản xuất phát
triển.
+ ứng dụng khoa học- kỹ thuật- công nghệ vào sản xuất kinh doanh
thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển.
+ Giảm chi phí đáp ứng tốt mọi nhu cầu sản xuất, của sinh hoạt ngời
dân.
+ Phát triển kinh tế thị trờng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở nớc ta.
Tuy vậy, bên cạnh các u điểm, kinh tế thị trờng cũng có những nhợc
điểm nh làm ô nhiễm môi trờng, nền kinh tế dễ rơi vào khủng hoảng, nạn thất
nghiệp cao, sự lũng đoạn thị trờng của các nhà t sản... Vì vậy cần có sự quan
tâm can thiệp của nhà nớc. Do đó, nền kinh tế của nớc ta là nền kinh tế thị tr-
ờng định hớng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nớc.
Từ những năm đầu thập kỷ 90 trở lại đây có lẽ không còn mấy ai nghi
ngờ về vai trò của sản xuất hàng hoá, của kinh tế thị trờng trong sự nghiệp xây
dựng đất nớc ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy vậy, do
ảnh hởng của những quan niệm trớc đây về một chủ nghĩa xã hội không có

kinh tế hàng hoá, không có quan hệ thị trờng và do bản thân kiểm toán thị tr-
ờng lại có tính hai mặt của nó cho nên trong thực tế, việc nhận thức cho đúng
vai trò của kinh tế thị trờng đối với sự nghiệp xã hội chủ nghĩa xã hội vẫn có
nhiều vấn đề cần phải nói đến.
Có thể nói suốt một thời gian dài các nớc thuộc hệ thống xã hội chủ
nghĩa đó là nớc ta đã không nhận thức đúng vai trò của sản xuất hàng hoá của
kinh tế thị trờng, đã đồng nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức kinh tế
và thành phần kinh tế, coi nhẹ, thậm chí phủ nhận quy luật giá trị, quy luật
cạnh tranh, coi nhẹ quy luật cung cầu, chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của kinh tế
thị trờng, phủ nhận quan hệ hàng hoá tiền tệ. Do đối lập kinh tế hàng hoá và
thực hiện với kinh tế kế hoạch hoá, cho thị trờng là phạm trù riêng của chủ
nghĩa t bản cho nên chúng ta chỉ thừa nhận sự tồn tại của sản xuất trong khuân
khổ của thi đua xã hội chủ nghĩa, tác rời một cách riêu hình sản xuất hàng
3
hoá với thị trờng. Bởi vậy, chúng ta đã không tạo đợc động lực để phát triển
sản xuất, vô tịnh hạn chế việc ứng dụng những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật
vào sản xuất, năng xuất lao động tăng chậm, gây rối loạn và ách tắc trong lĩnh
vực phân phối, lu thông, làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng kém năng động,
trì trệ.
Khi nhìn lại những sai lầm trong thời kỳ thực hiện Cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp, tại Đại hội lần thứ XI (12-1986), Đảng ta thừa nhận:
Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, cha thật sự thừa
nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan, do đó,
không chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trơng, chính sách kinh
tế. Trong nhận thức cũng nh trong hành động, chúng ta cha thật sự thừa nhận
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta còn tồn tại trong một thòi gian tơng
đối dài, cha nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Để khắc phục sai lầm
đó, Đảng ta đã đề ra chủ trơng: Quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở
nớc ta là quá trình chuyển hoá nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc

thành nền kinh tế hàng hoá... Việc sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng
hoá- tiền tệ trong kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách
quan. Việc sử dụng quan hệ hàng hoá- tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị
trờng. Đây là bớc tiến hết sức quan hệ trong việc đổi mới t duy kinh tế của
Đảng ta. Quan điểm này xuất phát từ tình hình kinh tế- xã hội ở nớc ta, từ
nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta, trên cơ sở vận dụng mô hình của
Lênin về chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế hàng hoá.
II. Bản chất, đặc điểm của nền kinh tế thị trờng định h-
ớng chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chuyển từ nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung-
hành chính- quan liêuu- bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã
hội chủ nghĩa là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền
kinh tế nớc ta trong giai đoạn hiện tại và tơng lai. Đặc biệt, cơng lĩnh xây dựng
4
đất nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đợc đại hội đại biểu toàn
quốc của Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII thông qua vào năm 1991, cũng
đã nêu lên 6 dặc trng bản chất của xã hội, xã hội chủ nghĩa và những quan
điểm phơng hớng tổng quát về phát triển kinh tế- xã hội theo định hớng xã hội
chủ nghĩa ở nớc ta. Tuy nhiên, cũng cần phải phân tích sâu thêm bản chất, đặc
điểm đã đợc khái quát nói trên, để có thể hiểu rõ và thống nhất hơn trong nhận
thức và hành động.
Thứ nhất, nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa là nền kinh
tế thị trờng hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã hội chủ nghĩa). Mặc dù
nền kinh tế nớc ta nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhng khi nớc
ta chuyển sang giai ddoạn kinh tế thị trờng hiện đại (do những khiếm khuyết
của kinh tế thị trờng tự do). Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết
phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế hàng hoá
giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trờng tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế
thị trờng hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt

khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ
nghĩa xã hội, cho nên sự phát triển kinh tế- xã hội nớc ta phải theo định hớng
xã hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan (nh đã phân tích ở phần trên) và cũng
là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp dân giàu, nớc
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh và là mục tiêu, vừa là nội dung,
nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc
ta. Đảng và Nhà nớc khuyến khích mọi ngời dân trong xã hội làm giàu một
cách hợp pháp. Dân có giàu thì nớc mới mạnh, nhng dân giàu phải làm cho nớc
mạnh, bảo đảm độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành
phần với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc trong một số lĩnh vực một số khâu
quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nớc.
Nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trờng phải là một nền kinh tế đa thành
phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhng, nền kinh tế thị trờng mà chúng ta đang
xây dựng là nền kinh tế thị trờng hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi bàn
5
tay hữu hình của nhà nớc trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng
thời chính nó sẽ đảm bảo sự định hớng phát triển của nền kinh tế thị trờng. Sự
quản lý, điều tiết, định hớng phát triển nền kinh tế thị trờng của nhà nớc là
thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực
kinh tế nhà nớc. Kinh tế nhà nớc phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh
vực then chốt, có ý nghĩa là đài chỉ huy, là mạch máu của nền kinh tế.
Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc, cần coi trọng vai
trò của khu vực kinh tế t nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ
gắn bó, hữu cơ thống nhất, không tách rời, biệt lập.
Thứ ba, Nhà nớc quản lý nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ
nghĩa là Nhà nớc của dân, do dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định
trong nền kinh tế thị trờng hiện đại là nớc tham gia vào các quá trình kinh tế.
Nhng khác với nhà nớc của nhiều nền kinh tế thị trờng trên thế giới. Nhà nớc
ta là Nhà nớc của dân, do dân, và vì dân, Nhà nớc công nông, Nhà nớc của

đại đa số nhân dân lao động, đặt dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để đảm bảo giữ vững định h-
ớng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế thị trờng hiện đaị ở nớc
ta. Sự khác biệt về bản chất nhà nớc là một nội dung và là một điều kiện, một
tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trờng ở nớc ta so
với nhiều mô hình kinh tế thị trờng khác hiện có trên thế giới.
Thứ t, cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trờng đợc thực hiện thông qua
cơ chế thị trờng với sự tham gia quản lý, điều tiết của nhà nớc mọi hoạt động
sản xuất- kinh doanh trong nền kinh tế đợc thực hiện thông qua thị trờng. Các
quy luật của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng (quy luật giá trị, quy luật cung-
cầu, quy luật cạnh tranh- hợp tác...) sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Quy luật
giá trị quy định mục đích theo đuổi trong hoạt động kinh tế là lợi nhuận (là giá
trị không ngừng tăng lên) quyết định sự phân bố các nguồn lực vào các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong
một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ, chính sách kinh tế vĩ
mô, cùng với việc sử dụng các lực lợng kinh tế của mình (kinh tế nhà nớc),
6
Nhà nớc tác động lên mối quan hệ tổng cung tổng cầu thực hiện sự điều tiết
nền kinh tế thị trờng. Nh vậy, cơ chế hoạt động của nền kinh tế là: thị trờng
điều tiết nền kinh tế, Nhà nớc điều tiết thị trờng và mối quan hệ Nhà nớc- thị
trờng- các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất.
Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nớc với nền kinh tế thế
giới, trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là
nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trờng ở nớc ta. Quá trình phát triển của
nền kinh tế thị trờng đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã
hội hoá trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trờng là không có biên giới quốc
gia về phơng tiện kinh tế. Một trong những đặc trng quan trọng của nền kinh tế
thị trờng hiện đại là việc mở rộng giao lu kinh tế với nớc ngoài. Xu hớng quốc
tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá toàn cầu hoá đang ngày càng
phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa

học- công nghệ hiện nay. Tất cả các nớc trên thế giới, dù muốn hay không
muốn, ít nhiều đều bị lôi cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh
thủ thuận lợi và cơ hội, tranh nguy cơ tụtu hậu xa hơn và vợt qua thách thức là
yeu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện của kinh tế hiện
đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự
cung, tự cấp, mà phải mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội
nhập đợc thực hiện trên ba nội dung chính là: thơng mại, đầu t và chuyển giao
khoa học- công nghệ. Tuy nhiên, sự mở cửa, hội nhập không có ý nghĩa là sự
hoà tan, đánh mất mình, mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không
ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và
toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Thứ sau, thúc đẩy tăng trởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công
bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền kinh tế thị trờng ở
nớc ta. Phát triển trong công bằng và phát triển bền vững là những thuật ngữ
phổ biến và là xu thế của thời đại hiện nay. Phát triển trong công bằng đợc
biểu hiện là những chính sách phát triển phải đảm bảo sự công bằng xã hội, là
tạo cho mọi tầng lớp nhân dân có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và đ-
7
ợc hởng những thành quả tơng xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ
ra, là giảm khả khoảng cách chênh lệch giàu- nghèo giữa các tầng lớp dân c và
giữa các vùng. Khác với nhiều nớc, chúng ta phát triển kinh tế thị trờng nhng
chủ trơng đảm bảo công bằng, xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trởng
kinh tế và công bằng xã hội trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế
ở nớc ta. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, sự bảo đảm công bằng trong
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta là hoàn toàn xa lạ và
khác hẳn về chất với chủ nghĩa bình quân, cao bằng thu nhập và chia đều sự
nghèo đói cho mọi ngời. Mức độ bảo đảm công bằng xã hội phụ thuộc rất lớn
vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia. Vì vậy, nếu qua
nhấn mạnh tới công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát
triển, ngân sách còn eo hẹp, thì chắc chắn sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển

kinh tế- xã hội của đất nớc.
Ngoài ra, giải quyết mối quan hệ giữa lao động và t bán (vốn), thông
qua phân phối thu nhập trong quá trình nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa ở nớc ta, đợc thực hiện theo kết quả lao động là chủ yếu kết hợp với
một phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trờng
trong chủ nghĩa t bản với nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở n-
ớc ta. Trong mối quan hệ giữa lao động và t bản (vốn), giữa lao động sống và
lao động quá khứ (lao động đã đợc vật hoá), chủ nghĩa t bản nhấn mạnh đến
nhân tố t bản (vốn) hơn là nhân tố lao động (lao động sống), nhấn mạnh đến
yếu tố tích luỹ- đầu t hơn là yếu tố tiền lơng- thu nhập của ngời lao động. Ngợc
lại, chủ nghĩa xã hội đặt con ngời ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Cho nên,
trong khâu phân phối thu nhập và thành quả lao động của xã hội, chủ nghĩa xã
hội nhấn mạnh đến nhân tố lao động (lao động sống) và yếu tố tiền lơng- thu
nhập của ngời lao động. Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố
lao động, đến nâng cao thu nhập và tiêu dùng của ngời lao động, chúng ta
không thể không coi trọng đến vai trò của yếu tố vốn, đến tăng cờng tích luỹ
và đầu t (cả nhà nớc và t nhân) và đến mối quan hệ biện chứng giữa t bản (vốn)
và lao động- Vì vậy, thu nhập theo vốn và tài sản kinh doanh giờ đây đã trở
8

×