Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về ĐẢNG PHẢI THƯỜNG XUYÊN được CHỈNH đốn vấn đề đặt RA đối với CÔNG tác xây DỰNG và CHỈNH đốn ĐẢNG của ĐẢNG TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.36 KB, 20 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “ĐẢNG PHẢI ĐƯỢC THƯỜNG XUYÊN
CHỈNH ĐỐN”, VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI XÂY DỰNG
VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TA HIỆN NAY

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt
Nam thành một Đảng cách mạng chân chính, đội tiên phong của giai cấp công
nhân và dân tộc Việt Nam, để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cách mạng
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Trong di sản tư tưởng của Người để lại, những luận điểm của Người về xây
dựng và chỉnh đốn Đảng là một bộ phận cực kỳ quan trọng. Những luận điểm đó
được hình thành và phát triển cùng với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người
và sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Đó là sự sự vận dụng sáng tạo
học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam và sự kết hợp nhuần nhuyễn học thuyết đó với truyền thống bản sắc
văn hoá cuả dân tộc Việt Nam. Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng sáng tạo tư
tưởng của Người để xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng nhằm nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới là một trong những
nhiệm vụ then chốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, có ý nghĩa quyết
định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Vấn đề thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng được chính C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đề ra từ khi ra đời các đảng vô sản. C.Mác,
Ph.Ăngghen cho rằng, phong trào vô sản nhất thiết phải trải qua các bước phát
triển khác nhau, trong mỗi bước phát triển đó đều có một số người dừng lại, họ
không thể đi xa hơn nữa; vì thế, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của đảng
vô sản là phải loại trừ những con người đó. V.I.Lênin đã kiên quyết đấu tranh và


2
đưa ra khỏi Đảng (thanh đảng) những phần tử cơ hội, những đảng viên thoái hoá,
biến chất, đi ngược lại mục đích của Đảng, lợi ích của giai cấp công nhân để bảo


đảm sự trong sạch trong đội ngũ đảng viên nhất là sau khi cách mạng Tháng
Mười Nga thành công, Đảng Cộng sản Nga trở thành đảng cầm quyền. Theo
V.I.Lênin, thanh đảng có nghĩa là thải loại các phần tử phản động, cơ hội, làm
trong sạch hàng ngũ Đảng; là nâng đảng lên ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng; là khôi phục uy tín chính trị của Đảng trước nhân dân; “vấn đề thanh đảng
đã trở thành một công tác nghiêm chỉnh và vô cùng quan trọng” 1. Thanh đảng là
vấn đề mang tính quy luật còn bởi vì mỗi thời kỳ lịch sử của Đảng đều có những
kẻ thù khác nhau. Kẻ thù thay đổi, đối tượng tác chiến thay đổi, tất nhiên bản
thân Đảng - Bộ tham mưu, đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân cũng
phải tự chỉnh đốn.
Xuất phát từ mục tiêu xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhằm giữ cho Đảng
không đi chệch con đường cách mạng, để Đảng tiếp tục xứng đáng là đại biểu
cho trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân tộc, xứng đáng là đội tiên phong của
giai cấp công nhân và quần chúng lao động, V.I.Lênin yêu cầu cần đưa ra khỏi
Đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản quan liêu hoá, không trung
thực, nhu nhược và những đảng viên cản trở cuộc đấu tranh chung cho thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội.
Trung thành và vận dụng sáng tạo những luận điểm của học thuyết Mác Lênin về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn
giữ vững vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội, Đảng phải thường xuyên
tự xây dựng, tự chỉnh đốn. Tư tưởng về chỉnh đốn Đảng được hình thành và phát
triển nhanh chóng trong quá trình chỉ đạo xây dựng và rèn luyện Đảng ta của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng ta có thể tìm thấy tư tưởng “tự chỉnh đốn” của Hồ
Chí Minh từ khi Người tham gia Đảng xã hội Pháp, rồi trở thành một trong
những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920. Nguyễn Ái
1

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, Tập 44, tr. 151.


3

Quốc đã nhiều lần khẳng định: Đảng Xã hội Pháp phải đứng vững trên lập
trường của giai cấp vô sản để lãnh đạo xã hội đấu tranh chống áp bức giai cấp,
áp bức dân tộc, đồng thời đảng phải tự phê phán, tự chỉnh đốn bản thân mình.
Nhiều lần, Nguyến Ai Quốc đã phê phán bệnh cơ hội hữu khuynh và thói “cách
mạng đầu lưỡi”, nói mà không làm của phái hữu trong Đảng Xã hội Pháp.
Nguyễn Ái Quốc đòi hỏi Đảng phải tự chỉnh đốn, phải thực sự sửa chữa sai lầm.
Ngay trong cuốn Đường cách mệnh năm 1925, thời kỳ dựng Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đảng “phải thường xuyên cả quyết sửa lỗi mình”.
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã trở thành đảng cầm quyền,
việc xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng lại được Người coi là công việc thường
xuyên của Đảng. Người nhìn thấy rất rõ hai mặt của quyền lực: một mặt, quyền
lực có sức mạnh rất to lớn để cải tạo cái cũ và xây dựng cái mới trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, nếu biết sử dụng đúng quyền lực; mặt khác, nó
cũng có sức phá hoại rất ghê gớm, vì con người nắm quyền lực có thể thoái hoá
biến chất rất nhanh chóng, nếu đi vào con đường tham muốn quyền lực, chạy
theo quyền lực, tranh giành quyền lực; và khi có quyền lực thì lợi dụng quyền
lực, lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền đặc lợi, v.v.. Vì vậy Đảng phải đặc biệt
quan tâm đến việc chỉnh đốn và đổi mới Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và
tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hoá biến chất gây ra, trong điều kiện Đảng lãnh đạo
chính quyền. Trong thư Người gửi cho Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện năm
1946; thư gửi các đồng chí Bác Bộ và Trung Bộ năm 1947; tháng 10 măn 1947,
Người đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” là những chỉ dẫn sâu sắc về xây
dựng và chỉnh đốn Đảng trong điều kiện đã có chính quyền.
Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề này trước những bước chuyển của
cách mạng, vì đây là thời điểm thường có những bất cập, bên cạnh đó là những
chao đảo, suy thoái có thể xảy ra.
Ngày 18-1-1949, nói chuyện với Hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ sáu,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên nhiệm vụ: phải “chấn chỉnh” bộ máy chính quyền,



4
“chỉnh đốn” các đoàn thể quần chúng và “Muốn làm được những việc trên trước
hết phải chỉnh đốn nội bộ Đảng” 2. Đây là thời điểm quân và dân ta chuẩn bị cho
Chiến dịch Biên Giới để mở ra bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Khi cuộc kháng chiến chuyển mạnh sang tổng phản công (1952), Người
đã nói: Muốn lãnh đạo vững thì trước hết cán bộ và đảng viên phải có tư tưởng
và lập trường vững chắc để lãnh đạo, để xung phong làm gương mẫu. Vì vậy,
chỉnh Đảng là việc chính mà chúng ta phải làm ngay.
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiềuđợt học
tập chính trị để quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng được tổ chức rộng
khắp trong toàn Đảng. Phong trào “ba xây ba chống” được phát động sâu rộng
trong toàn Đảng, toàn dân thực sự là một cuộc vận động nhằm chỉnh đốn Đảng,
củng cố đội ngũ của Đảng trước nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Nói chuyện với hội nghị bồi dưỡng chỉnh huấn đầu năm 1965, Hồ Chí
Minh đã nhận định, bên cạnh số đông đảng viên xứng đáng với danh hiệu của
mình thì vẫn có một số “thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng... Họ hững
hờ như những người không có lý tưởng, đến đâu hay đó, qua tháng qua ngày...
Họ ít gắn bó với tổ chức, không tin ở lực lượng và trí tuệ của tập thể. Họ sống và
làm việc một cách riêng rẽ, không đoàn kết và hợp tác với người khác. Hễ có đôi
chút hiểu biết, đôi chút thành công thì tự cao tự đại, vênh vang kiêu ngạo, tự cho
mình tài giỏi hơn người. Ở cương vị phụ trách thì cho mình có quyền hơn hết
thảy, định đoạt mọi việc; ở ngành nào, địa phương nào thì coi đó là giang sơn
riêng, không biết đến lợi ích toàn cục. Họ coi thường những quyết định của tổ
chức, họ là “ông quan liêu”, chỉ thích dùng mệnh lệnh đối với đồng chí và nhan
dân... số người đó coi Đảng như một cái cầu thang để thăng quan phát tài. Họ
không quan tâm đến đời sống của nhân dân mà chỉ lo nghĩ đến lợi ích của riêng
mình. Họ quên rằng mỗi đồng tiền, hạt gạo đều là do mồ hôi nước mắt của nhân
dân, do đó mà sinh ra phô trương lãng phí. Họ tự cho mình có quyền sống xa hoa
2


Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà nội, 2000, Tập 5, tr. 551.


5
hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, truỵ lạc, thậm chí sa vào tội lỗi” 3. Phải chỉnh
đốn để tẩy rửa những lỗi lầm, sai trái ấy.
Đối với toàn Đảng, Người cũng chỉ ra là Đảng sống trong xã hội, mỗi cán
bộ, đảng viên đều chịu ảnh hưởng của xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái hay và cái
dở. Chỉ có thể phát huy được cái tốt, cái hay, lọc bỏ cái xấu, cái dở bằng việc rèn
luyện thường xuyên nâng cao đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí
công vô tư của mỗi cán bộ, đảng viên, thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn
Đảng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành những dòng trân trọng và
đầy tâm huyết để dặn lại toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta những công việc
phải làm sau khi Tổ quốc thống nhất, trong đó có nhiệm vụ xây dựng và chỉnh
đốn Đảng. Người viết: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là phải chỉnh
đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm
tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm
được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất
định thắng lợi”4.
Quá trình nghiên cứu tư tưởng về “Đảng phải được thường xuyên chỉnh
đốn” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rằng, đây vừa là sự trung thành,
vừa là sự phát triển sáng tạo tư tưởng “thanh đảng” của V.I.Lênin vào điều kiện
cụ thể xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh chưa bao giờ dùng từ
“thanh đảng” mà người dùng từ “chỉnh đảng”. Tuy, việc sử dụng từ để trình bày
có khác nhau, song cùng có chung một ý nghĩa là nhằm xây dựng Đảng vững
mạnh chính trị, tư tưởng và tổ chức, đảm bảo cho Đảng luôn có đủ năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, đặc biệt là trước
những bước ngoặt của nhiệm vụ cách mạng. Đồng thời, để không bị hiểu lầm là
sự “thanh trừng lẫn nhau” trong nội bộ Đảng. Người chỉ rõ: “Chỉnh Đảng là việc
chúng ta phải làm ngay.

Chỉnh Đảng phải làm từng bước, phải có trọng tâm:
S.đ.d, Tập 11, tr.373-374.
S.đ.d, Tập. 12, tr. 503.

3
4


6
- Chỉnh huấn cán bộ trước rồi mới chỉnh đốn chi bộ.
- Chỉnh huấn tư tưởng rồi mới chỉnh đốn tổ chức.
- Chỉnh huấn cán bộ cao cấp phải do trung ương trực tiếp lãnh đạo vì đó là
mấu chốt của việc chỉnh đốn toàn Đảng.
- Chỉnh huấn nhằm vào: nâng cao trình độ tư tưởng và chính trị của cán bộ
và đảng viên, tẩy bỏ tư tưởng phi vô sản và tiểu tư sản, thống nhất tư tưởng,
thống nhất hành động, đoàn kết toàn Đảng để Đảng làm tròn nhiệm vụ nặng nề
và vẻ vang của mình”5. Trong quá trình chỉnh Đảng, phải luôn luôn tẩy bỏ những
phần tử thoái hoá, biến chất ra khỏi Đảng. Nhưng phải xem công tác củng cố và
phát triển Đảng là một công tác quan trọng và thường xuyên, phải nắm vững
phương châm phát triển Đảng là trọng chất hơn lượng - “Thà ít mà tốt”, đó vẫn
là phương châm hành động của Đảng để tạo ra sức mạnh thực chất của Đảng.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cách làm tốt nhất để chỉnh đốn Đảng là dựa
vào dân để kiểm tra Đảng viên. Có thể nói rằng, cái trục Đảng - Dân là xương
sống trong hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Sự ra
đời và trưởng thành của Đảng không phải là ở bản thân Đảng mà là ở sự gắn bó
mật thiết với dân. Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng là sức mạnh ở
nơi dân, là khối đại đoàn kết toàn dân do Đảng lãnh đạo. Đảng ở trong lòng nhân
dân, được nhân dân che chở, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành của nhan dân. Từ luận điểm đó, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều vấn đề về
công tác xây dựng Đảng như Đảng phải gần dân, hiểu dân và vì dân; chống quan

liêu, mệnh lệnh đối với dân; điều gì có lợi cho dân, dù nhỏ, thì vẫn cố gắng làm,
điều gì có hại cho dân thì có tránh; Đảng phải dể cho dân kiểm tra, vv..
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng được Hồ Chí Minh coi là điều kiện cần và
đủ, là công việc thiết thực và thường xuyên. Khi cách mạng gặp khó khăn, việc
xây dựng Đảng được Người đề cập với thái độ bình tĩnh, sáng suốt, giúp cho
Đảng không rơi vào bị động, bi quan, dao động. Khi cách mạng đang trên đà
5

S.đ.d, Tập 6, tr. 465.


7
thắng lợi, Người vẫn nêu vấn đề “trước hết phải chỉnh đốn Đảng” để ngăn ngừa
bệnh “kiêu ngạo cộng sản”, choáng ngợp trước những chiến công vĩ đại mà chủ
quan, tự mãn. Khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên của Đảng
dễ dàng “đánh mất mình”, “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm
qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa
vào chủ nghĩa cá nhân”6.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra rất cụ thể: “Có những người trong lúc
đấu tranh thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ,
không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng. Song, đến khi có ít nhiều
quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan
liêu, không tự giác, mà biến thành người có tội với cách mạng” 7. Chính vì thế,
chỉnh đốn Đảng là khôi phục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và giáo
dục, đưa họ vào con đường cách mạng, là khôi phục uy tín chính trị của Đảng
đối với nhân dân - vấn đề cốt tử của đảng cầm quyền.
Những luận điểm trên đây thực sự là một chân lý phản ánh đúng thực tiễn
và đã được thực tiễn kiểm nghiệm, không phải chỉ thực tiễn nước ta, mà còn
nhiều nơi trên thế giới. Nó mãi mãi là lời cảnh tỉnh có ý nghĩa rất sâu xa đối với

Đảng Cộng sản Việt Nam và đối với mỗi đảng viên cộng sản.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về “Đảng phải được thường xuyên chỉnh
đốn”, trải qua hơn 75 năm xây dựng tổ chức và hoạt động của mình, Đảng Cộng
sản Việt Nam thường xuyên coi trọng tự chỉnh đốn nhằm bảo đảm cho Đảng
luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, giữ vững và phát huy được vai
trò lãnh đạo đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trước khi giành được chính quyền, có lúc cách mạng lâm vào thoái trào,
cán bộ và đảng viên của Đảng bị bọn thống trị thực dân và phong kiến tay sai bắt
bớ hàng loạt, nhưng mặc cho tù đày, bắn giết, người trước ngã xuống, người sau
6âS.đ.d, Tập 12, tr. 557-558.
7

S.đ.d,Tập 6, tr. 494.


8
tiếp bước đi lên không hề sờn lòng nản chí. Có khi nhiều tổ chức cơ sở đảng,
nhiều cấp uỷ, kể cả Trung ương bị tan vỡ, nhưng Đảng vẫn phục hồi nhanh
chóng, sự lãnh đạo của Đảng vẫn đúng đắn kịp thời, nhạy bén, thông suốt từ trên
xuống dưới. Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi vĩ đại
của Cách mạng Tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà - Nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam A, khi Đảng mới 15 tuổi với khoảng 5000
đảng viên cộng sản.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta trở thành
đảng cầm quyền. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới
cũng như từ bản thân Đảng, với sự chỉ dẫn của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
đã tiến hành nhiều đợt chỉnh đốn. Đặc biệt, trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
có lúc Đảng đã phạm phải khuyết điểm sai lầm, một bộ phận cán bộ, đảng viên
đã thoái hoá biến chất, làm tổn hại đến uy tín và thanh danh của Đảng. Với tinh
thần cách mạng của một đảng cách mạng, theo tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã

nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, dám công khai thừa
nhận khuyết điểm sai lầm trong công tác lãnh đạo, công khai vạch rõ những tệ
nạn đã có ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, từ đó đề ra những biện pháp cần
thiết đẻ sửa chữa, khắc phục. Đó là thái độ của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đối với những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức vào nửa sau
những năm 50 của thế kỷ XX, cũng như đối với những suy thoái của cán bộ,
đảng viên ở những thời kỳ khác nhau. Đó là thái độ của Đảng ta đối với những
sai lầm về chủ trương chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lựơc và tổ chức thực hiện
trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước vào cuối những
năm 70, để từ đó Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) xác
định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra một bước ngoặt cho sự phát triển của
đất nước ta.
Qua 5 năm thực hiên đường lối của Đại hội VI, Đảng ta đã kịp thời kiểm
định, đồng thời bổ sung và phát triển đường lối đó bằng việc thông qua các văn


9
kiện Đại hội VII (năm 1991). Đại hội xác định rằng: “Đảng phải vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tỏ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn” 8.
Như vậy, một vấn đề đặt ra là: muốn đổi mới toàn diện đất nước, Đảng phải tự
đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Đảng ta là người khởi xướng và lãnh đạo
công cuộc đổi mới. Nhưng sẽ thất bại, nếu Đảng bị trì trệ tren nhiều mặt, không
ngang tầm với nhiệm vụ mới. Nếu không đổi mới và chỉnh đốn bản thân mình thì
đổi mới đất nước sẽ trở thành là khẩu hiệu suông. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng,
do đó, trở thành một vấn đề cốt tử của cách mạng nước ta và là tư tưởng xuyên
suốt các văn kiện của Đại hội VII.
Cần khẳng định rằng, trong những năm đầu tiến hành công cuộc đổi mới,
Đảng ta đã cố gắng vươn lên để thực hiện sứ mệnh lãnh đạo nhân dân tiến hành
sự nghiệp xây dựng đất nước theo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chình
vì vậy, tại Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: “công cuộc đổi mới đã đạt được

những thành tựu bước đầu rất quan trọng” 9.Song Đảng ta cũng nghiêm khắc chỉ
ra những yếu kém, khuyết điểm là:
Việc nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội vẫn là điểm hạn chế của Đảng.
Thực tiễn diễn ra vô cùng phong phú và phức tạp, Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta khẳng định là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng. Nhưng việc hiểu cho đúng và vận dụng cho phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh của từng thời kỳ cụ thể ở nước ta vẫn là vấn đề không
đơn giản. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, với chính sách mở cửa
và cơ chế thị trường, một số quyết định về chủ trương chính sách của các tổ chức
đảng ở các cấp đã đi vào cuộc sống nhưng khó khăn cũng không ít. Tổ chức bộ
máy còn kém hiệu lực. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các
tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị đang trong quá trình đổi mới.
Nhiều tổ chức cơ sở đảng còn chưa chuyển kịp với cơ chế kinh tế mới, do đó vai
trò lãnh đạo còn bị hạn chế.
8
9

Cương lĩnh xây dựng đát nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà nội, 1991, tr. 21.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà nội, 1991, tr. 134.


10
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ
chức sinh hoạt và hoạt động của Đảng trong thực hiện bị vi phạm ở nhiều nơi.
Trên thực tế, việc thực hành dân chủ trong Đảng đồng thời mắc cả hai khuyết
điểm: một là, nhiều tổ chức đảng không phát huy được tinh thần dân chủ trong
việc quyết định các chủ trương, biện pháp. thậm chí còn nhiều nơi bóp nghẹt dân
chủ, trù úm đảng viên có ý kiến khác mình; độc đoán; chuyên quyền; không tôn
trọng nguyên tắc lãnh đạo tập thể; hai là, trong Đảng đã xảy ra tình trạng tự do
vô nguyên tắc, làm giảm sút và tê liệt sức chiến đấu của Đảng và đảng viên.

Đáng chú ý là tệ tham nhũng, buôn lậu, quan liêu và các tệ nạn khác đang diễn ra
mà chưa được ngăn chặn một cách hữu hiệu. Đó là sự vô trách nhiệm đối với đời
sống của nhân dân. những tệ nạn đó làm rạn nứt mối quan hệ giữa Đảng với dân.
Điều đáng chú ý là, ngay cả tổ chức cơ sở đảng, lẽ ra là gần dân nhất, vẫn mắc
bệnh quan liêu xa rời quần chúng, có nơi khá nghiêm trọng.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên vẫn còn nhiều yếu kém, mặc dù đã có nhiều
thay đổi nhưng chưa tạo ra được chất lượng mới. Cơ chế tuyển chọn, bố trí, và
sử dụng cán bộ chưa chú ý đúng mức. Do vậy, số cán bộ có đủ phẩm chất và
năng lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới chưa nhiều. Đảng chưa thu hút
được tất cả nhân tài để bố trí vào những công việc quan trọng. Trong đội ngũ
đảng viên, bộ phận thật sự tiền phong, gương mẫu chưa cao. Trình độ, năng lực
của nhiều đảng viên còn hạn chế. Sự giác ngộ về lý tưởng của một bộ phận đảng
viên giảm sút đáng lo ngại. Tư tưởng hoài nghi, dao động trước tình hình chính
trị phức tạp trên thế giới không phải là ít. Một số đảng viên thoái hoá, biến chất.
Trước thực trạng đó, khi nêu lên yêu cầu đổi mới và chỉnh đốn Đảng,
chúng ta thấy rõ vấn đề then chốt là nâng cao vai trò lãnh đạo cũng như năng lực
và sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức để có thể đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội giành thắng lợi. Đổi
mới và chỉnh đốn bản thân mình, tức là Đảng phải phát huy ưu điểm, khắc phục
khuyết điểm, giữ vững và tăng cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân, vững


11
vàng trước mọi thử thách, tiếp tục đưa công cuộc đổi mới đến thắng lợi. Đây là
vấn đề sống còn, có quan hệ ổn định và phát triển lâu dài của đất nước và vận
mệnh của bản thân Đảng ta. Đại hội VII của Đảng đã đề ra những nhiệm vụ mới
về chỉnh đốn Đảng được thể hiện rõ nhất trong Báo cáo xây dựng Đảng và sửa
đổi điều lệ Đảng. Các nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng sau
Đại hội VII cũng đã cố gắng cụ thể hoá và bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, quan
điểm của Đảng ta, đặc biệt là Hội nghị lần thứ ba, chuyên bàn về một số vấn đề

đổi mới và chỉnh đốn Đảng, vạch ra những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể để đổi
mới và chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, về công tác cán bộ, về
phương thức lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành
Trung ương Đảng khoá VII có ý nghĩa quan trọng khẳng định thêm: trong tình
hình đất nước hiện nay, nhiệm vụ xây dựng kinh tế là trung tâm và nhiệm vụ xây
dựng Đảng là then chốt.
Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (tháng
1 năm 1994) cũng đã nhấn mạnh tới việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng, củng cố
mới quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, tiếp tục quán triệt và thực hiện
các chủ trương, biện pháp mà Hội nghị lần thứ ba của Ban chấp hành Trung
ương đã đề ra.
Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII họp tháng
7- 1994 đã đề ra Nghị quyết về phát triển công nghiệp, công nghệ theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong
giai đoạn mới.
Trước thách thức và thời cơ, trách nhiệm của Đảng ta càng lớn hơn. do đó,
Đảng càng phải đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp đổi mới và chỉnh đốn.
Tổng kết 10 năm đổi mới đất nước, Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng, Đảng ta đã đánh giá kết quả thực hiện công tác xây dựng và
chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương ba khoá VII và tiếp tục
khẳng đinh đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đại hội đã chỉ rõ:


12
Nhìn một cách tổng quát, trong 10 năm qua, công tác xây dựng Đảng đạt được
những thành tựu sau đây:
- Đảng đã đề ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện dần đường lối đổi mới
một cách đúng đắn, sáng tạo, hình thành ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
- Khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng

tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Ở những bước ngoặt của cách
mạng, trước những diễn biến phức tạp của tình hình, Đảng đã kịp thời có điịnh
hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, chống
những luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng
và trong nhân dân.
- Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách. Có tiến bộ về thực hiện dân chủ trong Đảng vaf lãnh đạo thực hiện dân
chủ trong xã hội, phát huy dược trí tuệ tập thể, sức mạnh tổng hợp của khối đại
đoàn kết toàn dân.
-Đã có chủ trương và biện pháp đổi mới, chỉnh đốn Đảng gắn với nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, kiện toàn hệ thống chính trị. Đổi mới một bước tổ
chức cán bộ, nâng cao trình đọ và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên; ngăn
chặn được sự sa sút, yéu kém của nhiều tổ chức cơ sở đảng; bước đầu cải tiến
phương thức lãnh đạo và phông cách công tác. Công tác kiểm tra việc chấp hành
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, kiểm tra việc giữ gìn phảm chất đạo đức
lối sống của cán bộ, đảng viên và việc xử lý kỷ luật đangnr có tiến bộ.
Tuy nhiên, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn nhiều khuyết điểm, nổi
bật là những vấn đề lớn:
-Trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với
bên ngoài, cán bộ, đảng viên hằng ngày, hằng giờ chịu tác động của nhiều nhân
tố phức tạp, kể cả những hoạt động chống phá Đảng, vấn đề giữ vững bản chất
giai cấp công nhân của Đảng đứng trước những thách thức mới. Song, Đảng


13
thiếu sự chuẩn bị đầy đủ cho bước chuyển này, chưa chú ý đúng mức ván đề
giáo dục, rèn luyện phảm chất chính trị và đạo đức đối với cán bộ, đảng viên.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân,
phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí chiến đấu, kém ý thức tổ chức
kỷ luật, sa đọa về đạo đức, lối sống. Một số thoái hoá về chính trị, tuy rất ít

nhưng hoạt động của họ gây hậu quả hết sức xấu.
-Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo của Đảng có mặt chưa theo kịp yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới. Có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được làm
sáng tỏ.
-Tổ chức cơ sở đảng có nhiều nơi yếu kém, có nơi tê liệt; phương thức
lãnh đạo và sinh hoạt lúng túng, có tình trạng kém dân chủ vừa thiếu kỷ luật, kỷ
cương. Một số cán bộ và cấp uỷ chưa tôn trọng và thự hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ; bệnh quan liêu, độc đoán, cục bộ, địa phương, kèn cựa địa vị, cá
nhân chủ nghĩa rất nặng. Không ít nơi nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng.
- Công tác kiểm tra chấp hành đường lối, quan điểm, chỉ thị, nghị quyết
của Đảng chưa được chú ý.
Để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ mà Đại hội VIII nêu ra, Đảng ta
phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và nănng
lực lãnh đạo của mình, khắc phục cho được các khuyết điểm, các biểu hiện tiêu
cực, yếu kém. Đảng phải vững mạnh từ Trung ương đến cơ sở, ở tất cả các cấp,
các ngành. Trong công tác xây dựng Đảng phải thường xuyên nắm vững và tập
trung làm tốt những vấn đề cơ bản đó là: Giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Đảng; nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán
bộ, đảng viên; Củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung
dân chủ; Chăm lo xây dựng độ ngũ cán bộ; Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới công tác
kiểm tra kỷ luật của Đảng.


14
Sau một thời gian đưa nghị quyết Đại hội VIII của Đảng vào cuộc sống,
tình hình có chuyển biến nhất định, nhưng một số khuyết điểm chậm được khắc
phục, có mặt diễn biến xấu hơn. Đó là tình trạng thiếu thống nhất trong Đảng về
nhận thức, ý chí và hành động; là sự sa sút, thoái hoá, biến chất của một bộ phận
cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống, nhất là tình trạng tham nhũng, lãng phí,

quan liêu; là tình trạng thực hiện không nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân
chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng, v.v.. Trước tình hình đó, Hội
nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII, Ban chấp hành Trung ương đã ra nghị
quyết về Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện
nay, quyết định mở Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê
bình và phê bình từ ngày 19-5-1999 đến ngày 19-5-2001 nhân dịp kỷ niệm 30
năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và kỷ niệm 70 năm ngày thành
lập Đảng, nhằm nâng cao đạo đức cách mạng, chhóng chủ nghĩa cá nhân trong
cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức
Đảng. Đây là sự tiếp nối Nghị quyết Trung ương 3 khoá VII, nhưng có những
yêu cầu cao hơn, nội dung tập trung hơn và chỉ đạo thực hiện với tinh thần quyết
liệt hơn. Với mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ và cách làm thích hợp, cuộc vận động
đã đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn
dân, nên đã tạo ra một không khí mới trong công tác xây dựng Đảng.
Sau 2 năm thực hiện cuộc vận động, công tác xây dựng Đảng đạt được
những kết quả quan trọng, song chưa đạt yêu cầu đề ra. Qua kiểm điểm, Đại hội
IX của Đảng đã chỉ ra những ưu điểm là: Đảng đã sớm xác định xây dựng, chỉnh
đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp đúng đắn,
kịp thời về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên thực tế, công tác xây dựng nội bộ
Đảng đã đạt được những kết quả nhất định: Hoạt động lãnh đạo của Đảng - nhất
là về phương thức lãnh đạo của Đảng - đã có những chuyển biến tích cực,rõ nét.
Nhận thức chính trị của cán bộ, đảng viên đựơc nâng lên một bước, nhất là về
đường lối, quan điểm của Đảng; về sự kiên định đối với các nguyên tắc, Cương


15
lĩnh và điều lệ Đảng. Ý thức đề phòng, ngăn ngừa sự suy thoái về đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên được nâng cao. Nêu cao hơn tinh thần trách nhiệm,
coi trọng việc mở rông và phát huy dân chủ. Xử lý được nhiều vụ việc nổi cộm,
tồn đọng, thực hiện một bước chỉnh đốn, kiện toàn tổ chức đảng các cấp; thi

hành kỷ luật và thay đổi một số cán bộ vi phạm, trong đó có cả cán bộ cao cấp,
góp phần tích cực vào việc lựa chọn nhân sự đúng tiêu chuẩn kiện toàn đội ngũ
cán bộ của Đảng trong hệ thống chính trị. Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng
những kết qủa thu được là đáng ghi nhận, từ đó Đảng ta rút ra một số kinh
nghiệm để tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, và hiệu quả công tác xây
dựng Đảng.
Bên cạnh những ưu điểm nói trên, trong công tác xây dựng Đảng, cũng
đang nổi lên một số mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về công
tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và đẩy lùi
được sưy thoái về chính trị và đạo đức lối sống.
Những khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan, trực tiếp và chủ yếu là:
Nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng, kể cả Ban chấp hành Trung ương và Bộ
Chính trị, tuy đã có nhiều cố gắng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
nhưng chỉ đạo chưa tập trung và kiên quyết. Chủ trương biện pháp thiếu đồng
bộ. Chưa chỉ đạo tốt việc kết hợp tién hành tự phê bình và phê bình với kiện toàn
tổ chức, đổi mới cơ chế, chính sách, chỉnh đốn các khâu quản lý kinh tế, tài
chính và tăng cường công tác giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên.
Đảng ta ý thức sâu sắc những thành tựu và yếu kém trong công cuộc đổi
mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo của
Đảng và những ưu khuyết điểm trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Từ
trước đến nay, Đảng ta luôn nêu cao trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc. Đảng
mạnh yếu như thế nào thể hiện ở thực tiễn phát triển của đất nước và trong cuộc
sống của nhân dân.


16
Tuy nhiên, Đảng ta đang trong quá trình tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Về
nhiều mặt, những đổi mới vừa qua chưa thạt đạt yêu cầu, vì thế Đảng còn nhiều
bất cập. Không ít yếu kém trong công tác xây dựng Đảng đã được các đại hội,

hội nghị Trung ương chỉ ra, đã đề ra nhiều biện pháp quan trọng, nhưng đến nay
vẫn chưa khắc phục được, có những mạt diẽn biến phức tạp, trầm trọng hơn. Các
yêu cầu về nâng cao trình độ trí tuệ chung của toàn Đảng, sự thống nhất cao về
tư tưởng chính trị, về sự trong sáng trong phẩm chát đao đức, lối sống, về năng
lực của cán bộ và tạo lập phương thức lãnh đạo có hiệu quả cao đang nổi lên
thành các yêu cầu cấp bách hiện nay.
Trong khi đó, đứng trước những đòi hỏi của thời đại như vấn đề toàn cầu
hoá, nền kinh tế trí thức; những vấn đề thực tiẽn đặt ra như: lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay... đang đòi hỏi
đảng phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và phát triển lý luận nền tảng
tư tưởng của Đảng. Đối tượng lãnh đạo và môi trường hoạt động của Đảng cũng
có nhiều thay đổi, tiếp tục còn diễn biến phức tạp hơn. Nền kinh tế thị nhiều
thành phần, cơ chế thị trường, mở cửa hội nhập với thế giới kéo theo sự đa dạng,
đan xen trong cơ cấu xã hội và sự phân hoá nhất định về thu nhập, mức sống,
quan niệm đối với hệ giá tri xã hội, thậm chí cả lý tưởng, lối sống. Bộ máy nhà
nước - đối tượng lãnh đạo chủ yếu của - đang trong quá trình cải cách, hoàn
thiện theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân. Các tổ chức còn lại trong hệ thống chính trị đang phải đổi mới mạnh mẽ cả
tổ chức và phương thức hoạt động. Môi trường xã hội tiếp tục được dân chủ hoá,
trình độ dân trí được nâng cao, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ
rệt, nhưng đời sống xã hội có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là vấn đề dân tộc,
tôn giáo, tình trạng vi phạm pháp luật, các tệ nạn xã hội và sự xuống cấp đạo đức
ở một bộ phận nhân dân... Những thách thức đặt ra cho đất nước cũng là cho
Đảng, trước hết là những thách thức lớn đối với Đảng.


17
Trong khi Đảng tích cực đổi mới và chỉnh đốn, các thế lực thù địch tập
trung mũi nhọn chống phá vào Đảng và sự lãnh đạo của Đảng ta bằng nhiều thủ
đoạn hết sức thâm độc. Chúng ý thức rất rõ rằng, phá được Đảng ta, từ sự phân

hoá đến làm thoái hoá được đội ngũ cán bộ, đảng viien, chúng sẽ chuyển hoá
được Đảng, thậm chí làm tan rã Đảng ta. Trong khi đó, trong Đảng có một số
người mất cảnh giác, không thấy được âm mưu sâu xa của kẻ thù; một số cơ hội
về chính trị, bất mãn đối với tổ chức; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
thoái hoá biến chất, cá nhân chủ nghĩa, thực dụng... gây ảnh hưởng xấu đến chất
lượng và uy tín của Đảng.
Trước yêu cầu của sự nghiệp cách mạng đặt ra trong thời kỳ mới - thời kỳ
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đai hoá đất nước vì mục tiêu dân
giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để Đảng thạt sự là niềm
tin, là trí tuệ dẫn dắt toàn dân tộc vững bước tiến vào thế kỷ XXI. Đại hội IX của
Đảng chỉ rõ: Toàn Đảng tiếp tục thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng,
nhất là Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2), khoá VIII, tập trung làm tốt những
công tác quan trọng sau đây:
Một là, Giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống
chủ nghĩa cá nhân.
Hai là, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ.
Ba là, Xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng.
Bốn là, Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Để tiếp tục thực hiện cuộc vận động chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh trong tình hình mới. Trước hết, cần khẳng định rõ ràng rằng, đổi
mới bản than Đảng và sự lãnh đạo của Đảng là công việc thường xuyên,
không lúc nào được tự bằng lòng thoả mãn; mấy năm gần đây Đảng ta đặt vấn
đề chỉnh dốn Đảng chính là sự nhấn mạnh yêu cầu về mức độ đổi mới sâu sắc
hơn, quyết tâm cao hơn, các biện pháp quyết liệt hơn, để khắc phục một số
yếu kém đã đến mức nghiêm trọng, với mục tiêu làm sao để Đảng ta Trong


18
sạch và vững mạnh hơn, thực hiện tốt hơn vai trò, sứ mệnh lãnh đạo đất nước
theo mục tiêu đã định; đứng vững trên nền tảng tư tưởng và các nguyên lý,

nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản, trung thành với những chỉ dẫn của Hồ
Chí Minh và truyền thống vẻ vang của Đảng ta. Trong điều kiện hiện nay, để
giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng việc đổi mới và chỉnh đốn phải
tuân theo phương hướng chung là: Tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của
Đangnr, xây dựng Đảng thật sự trong sạch và vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; đổi mới phương thức lãnh đạo; tăng cường mối liên hệ máu
thịt giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiẹm đội tiên
phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Theo phương hướng đó, cũng như trước đây, quá trình đổi mới và chỉnh
đốn Đảng trong những năm tới phải quán triệt và tiến hành đúng một số nguyên
tắc cốt yếu sau đây:
-Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bát kỳ tình huống nào cũng không dao
động, xa rời mục tiêu đó. Đồng thời, phải vận dụng sáng tạo lý luận vào thực
tiễn, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung - về xây dựng Đảng nói riêng.
- Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê
bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
- Gắn đổi mới, chỉnh Đốn Đảng với kiện toàn tổ chức, nâng cao chất
lượng hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
- Mạnh dạn, quyết tâm đổi mới, từ thí điểm đến thực hiện trên diện rộng
và coi trọng công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm.
Trên cơ sở nắm vững và thực hiện triệt để những vấn đề có tính nguyên
tắc đó, cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:


19
-Nâng cao trình độ trí tụê, bản lĩnh chính trị, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác tư tưởng của Đảng.

- Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Kiện toàn, nang cao năng lực lãnh đạo của cáp uỷ Đảng các cấp.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ - khâu then chốt trong công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng.
-Xây dựng đội ngũ đảng viên tiên phong gương mẫu.
Như vậy là, điều căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc về chỉnh đốn
Đảng đã và đang được thực hiện bằng cuộc vận động này. Nội dung Nghị quyết
hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban chấp hành Trung ương khoá VIII (12/ 1999) và
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được quán triệt những tư tưởng lớn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản. Toàn Đảng cần thực hiện tốt cuộc
vận đông này. Các tầng lớp nhân dân cần đóng góp xây dựng Đảng qua cuộc vận
động này. Sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân ngay trong cuộc vận động này sẽ
tạo nên bớc chuyển biến tiến bộ quan trọng của Đảng, từ đó đưa tới những bước
phát triển tiến bộ mới trong xã hội.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh , đối với bất cứ cuộc vận động nào đã phát là
phải động, bước sau phải tốt hơn, cao hơn bước trước, có kiểm tra đôn đốc, có sơ
kết, tổng kết để uốn nắn và thúc đẩy kịp thời. Tinh thần đó phải được quán triệt
trong cuộc vận động chỉnh đốn Đảng hiện nay. Niềm tin của nhân dân đối với
Đảng chỉ đựôc củng cố và nâng cao khi nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống,
đem lại những chuyển biến thực sự trong cuộc sống.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhằm thực hiẹn câu nói của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “ Đảng là đạo đức, là văn minh”. Văn minh có thể hiểu là trí tuệ,
Đảng phải là trí tụê tiên phong ngang tầm thời đại thì mới dẫn dắt dân tộc vững
bước tiến vào thế kỷ XXI, dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hôi của
Đảng, mới giành được thắng lợi cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;


20
Đảng phải là đạo đức theo gương đạo đức Hồ Chí Minh thì mới thật sự vừa là

người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đặc biệt là trong
điều kiện Đảng cầm quyền. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng là di sản phong phú, quý giá, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng, vẫn soi sáng cho công tác xây dựng Đảng ta hôm nay
và mãi mãi về sau. Là cơ sở để Đảng ta luôn xứng đáng là Đảng của Chủ tich Hồ
Chí Minh, Đảng là đạo đức, là văn minh để hoàn thành xuất sắc vai trò lãnh đạo
của mình đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.



×