Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận: Phân tích chế độ pháp lý các vùng biển các quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán theo Công ước Luật biển UNCLOS 1982. Liên hệ thực tiễn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.53 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
A.

1


A. MỞ ĐẦU

Biển đã gắn bó với nền văn minh nhân loại từ thuở sơ khai, như Việt
Nam chúng ta biển đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử và minh chứng ở đây là
sự xuất hiện của truyền thuyết con rồng cháu tiên. Mẹ Âu Cơ sinh ra cái bọc
trăm trứng nở ra trăm con, năm mươi theo cha xuống biển, năm mươi theo mẹ
lên rừng. Như vậy chúng ta thấy biển đã gắn bó mật thiết với lịch sử dân tộc từ
rất lâu đời. Và theo như các nghiên cứu khoa học thì biển bao bọc tới hơn 70%
diện tích bề mặt trái đất. Người La Mã, Hy Lạp cổ đại hay người châu Âu cổ đại
đã vươn ra biển từ rất sớm và họ đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc
phát triển kinh tế xã hội.
Từ xưa đến nay biển luôn mang lại các nguồn lợi to lớn cho con người từ khía
cạnh giao thông hàng hải đến tài nguyên thiên nhiên. Phần lớn lượng hàng hóa
trên thế giới được vận chuyển trên đường biển. Nếu không có bienr thì việc lưu
thông hàng hóa trở nên khó khăn và chi phí vận chuyển sẽ tăng cao ảnh hưởng
lớn đến giá thành cũng như thời gian đưa hàng hóa vào tiêu thụ và điều đó dẫn
đến sự ứ trệ và chậm phát triển của nền kinh tế thế giới. Biển cung cấp cho
chúng ta một nguồn tài nguyên thiên nhiên to lớn từ nguồn lợi thủy sản đến
khoáng sản. Biển cung cấp cho chúng ta một nguồn lợi thủy sản có trữ lượng
lớn, phong phú đa dạng chủng loại và là nguồn thực phẩm quý giá của nhân loại.
Bên cạnh đó biển còn chứa một lượng lớn dầu mỏ, băng cháy và các loại khoáng
sản khác. Những loại khoáng sản này đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển
kinh tế của quốc gia. Chính vì những nguồn lợi mà biển mang lại rất lớn nên các
quốc gia đã hướng ra biển từ rất sớm. Quốc gia nào cũng có ý muốn độc chiếm
biển, biến biển thành của riêng mình chính vì thế mà dẫn đến những xung đột và


tranh chấp giữa các quốc gia về chủ quyền cũng như quyền chủ quyền và quyền
tài phán của quốc gia mình trên biển. Chính vì ý định muốn độc chiếm cho mình
diện tích biển lớn nhất có thể mà gần đây chúng ta thấy vấn đề biển Đông luôn
là điểm nóng của dư luận thế giới. Sớm đã nhận thấy việc tranh chấp và xung
đột của các quốc gia về biển là vấn đề khó tránh khỏi nên Liên Hợp Quốc đã cho
2


ra đời Công ước luật biển (UNCLOS) năm 1982 sau nhiều lần hội nghị. Theo đó
công ước quy định rõ ràng về các nguyên tắc của luật biển, cách xác định và chế
độ pháp lý của các vùng biển của quốc gia cũng như biển cả (biển quốc tế). Xuất
phát từ mong muốn giúp mọi người có những hiểu biết cơ bản và có cái nhìn
đúng đắn hơn về quyền chủ quyền và quyền tài phán của của Việt Nam cũng
như các quốc gia trên thế giới có biển mà tôi đã lựa chộn đề tài “Phân tích chế
độ pháp lý các vùng biển các quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán
theo Công ước Luật biển UNCLOS 1982. Liên hệ thực tiễn Việt Nam” để làm
đề tài tiểu luận kết thúc môn học của mình.
Trong quá trình nghiên cứu khó tránh mắc phải sai sót, kính mong thầy cô
và các bạn góp ý để tôi có thể sửa chữa và hoàn chỉnh đề tài. Xin chân thành
cảm ơn!

3


B. NỘI DUNG

Theo như quy định của Công ước luật biển năm 1982 thì thì các vùng biển
bao gồm các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia, các vùng biển quốc gia có
quyền chủ quyền và quyền tài phán. Trong đó các vùng biển quốc gia có quyền
chủ quyền và quyền tài phán bao gồm vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền

kinh tế và thềm lục địa.
I.

ĐƯỜNG CƠ SỞ

Để tìm hiểu chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và
quyền tài phán của quốc gia theo quy định của UNCLOS năm 1982 thì trước
tiên phải xác định được các vùng này. Việc xác định các vùng này thường lấy
đường cơ sở làm gốc để xác định.
Đường cơ sở là cách nói ngắn của từ “đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
của lãnh hải”. Đường cơ sở có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định ranh giới các
vùng biển; đường cơ sở dùng để xác định nội thủy (vùng biển nằm phía bên
trong đường cơ sở), lãnh hải (12 hải lý tính từ đường cơ sở), vùng tiếp giáp (24
hải lý tính từ đường cơ sở), vùng đặc quyền kinh tế (200 hảo lý tính từ đường cơ
sở),…
Theo quy định của UNCLOS năm 1982 có hai loại đường cơ sở là: Đường
cơ sở thông thường và Đường cơ sở thẳng.
1. Đường cơ sở thông thường

Theo quy định tại Điều 5 UNCLOS năm 1982: “Trừ khi có quy định trái
ngược của Công ước, đường cơ sở thông thường dùng để tính chiều rộng lãnh
hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như được thể hiện trên các hải
đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận”.
Phương pháp ngấn nước thủy triều thấp nhất lần đầu tiên được ghi nhận
trong Công ước Giơnevơ năm 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải. Và
phương pháp này đã được tiếp tục được ghi nhận trong UNCLOS 1982.
Phương pháp này cũng được áp dụng đối với các đảo cấu tạo bằng san hô
hoặc các đảo có đá ngầm ven bờ bao quanh. Trong trường hợp này, ngấn nước
4



thủy triều thấp nhất ở bờ phía ngoài cùng của các mỏm đá, như đã được thể hiện
trên các hải đồ được quốc gia chính thức công nhận sẽ được coi là đường cơ sở
của các đảo này1.
Tuy vậy, việc xác định đường cơ sở theo phương pháp thông thường có một
số hạn chế sau đây:
 Các điểm, toạ độ thể hiện ngấn nước thủy triều xuống thấp nhất dọc theo bời

biển để xác định đường cơ sở do chính quốc gia đó tuyên bố nên sẽ không tránh
khỏi tình trạng các quốc gia đưa ra tuyên bố không đúng thực tế nhằm mục đích
mở rộng càng nhiều càng tốt nội thủy của quốc gia mình ra bên ngoài. Chính vì
vậy, mức độ chính xác của các tọa độ, các điểm xác định dựa vào ngấn nước
thủy triều sẽ không cao.
- Cộng đồng quốc tế sẽ rất khó khăn trong việc chứng minh tính xác thực
của các điểm, các toạ độ mà quốc gia ven biển đã tuyên bố.
- Các quốc gia ven biển nếu áp dụng phương pháp đường cơ sở thông
thường để xác định đường cơ sớ thì sẽ có một vùng nội thủy rất hẹp và đây
chính là lý do mà các quốc gia trên thế giới thường không muốn áp dụng hoàn
toàn đường cơ sở theo phương pháp này mặc dù căn cứ vào các quy định của
UNCLOS 1982 là hoàn toàn phù hợp.
2. Đường cơ sở thẳng

Bên cạnh cách xác định đường cơ sở thông thường thì các quốc gia có
biển cũng có thể xác định đường cơ sở thẳng khi có đủ các điều kiện theo như
quy định của UNCLOS 1982. Theo như quy định tại Điều 7 Công ước luật biển
năm 1982 thì đường cơ sở thẳng là đường nối các điểm thích hợp và được áp
dụng “ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm
sát ngay và chạy dọc theo bờ biển”, hoặc “ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn
định do có một châu thổ và những điều kiện tự nhiên khác”.
Phương pháp này có nguồn gốc từ phán quyết của Tòa án công lý quốc tế

(ICJ) trong vụ kiện giữ Nauy và Anh. Khi đó, ICJ đã đưa ra phán quyết để Nauy
thắng trong đó Nauy đã dùng phương pháp đường cơ sở thẳng để xác định lãnh
5


hải của mình. Phương pháp này tiếp tục được ghi nhận tại Điều 4 Công ước
Giơnevơ năm 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải và tiếp đó là UNCLOS
1982.
Trong trường hợp này, đường cơ sở là đường thẳng gãy khúc được xác định
bằng cách nối các điểm nhô ra xa nhất của các đảo ven bờ, của các mũi, các đỉnh
chạy dọc theo chiều hướng chung của bờ biển lại với nhau thành đường cơ sở để
tính chiều rộng của lãnh hải.
Để tránh tình trạng xác định đường cơ sở chạy ra quá xa bờ biển, tùy ý nối
tắt nhiều điểm không thực chất thành các đoạn thẳng để có nội thủy rộng lớn thì
Điều 7 UNCLOS 1982 cũng đã có quy định như quy định về điều kiện vạch
đường cơ sở theo phương pháp xác định đường cơ cơ sở thẳng. Theo đó khi một
quốc gia ven biển vạch đường cơ sở thẳng phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ
biển (khoản 3, Điều 7). Tuyến đường cơ sở phải phù hợp địa hình tự nhiên của
bờ biển của quốc gia đó).
- Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn
lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương
tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã
được sự thừa nhận chung của quốc tế (khoản 4, Điều 7).
- Trong những trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp
dụng theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có thể tính đến những
lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đã
được một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng (khoản 5, Điều 7).
- Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không được làm
cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc

quyền kinh tế (khoản 6, Điều 7).
UNCLOS năm 1982 không có quy định cụ thể tiêu chí để xác định bờ biển
bị khoét sâu, lồi lõm mà chỉ đưa ra định nghĩa về vịnh do bờ biển của một quốc
gia bao bọc tại Điều 10. Chính vì vậy, các quốc gia ven biển thường bằng mọi
cách để xác định đường cơ sở theo phương pháp đường thẳng gãy khúc (toàn bộ
6


tuyến đường cơ sở hoặc một số đoạn đường cơ sở). Để tránh tình trạng này, Ủy
ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc đã đưa ra khuyến cáo khái niệm thế
nào là “bờ biển bị khoét sâu, lồi lõm”; “Chuỗi đảo nằm sát và chạy dọc theo bờ
biển”; cũng như các khuyến cáo về chiều dài các đoạn đường cơ sở và góc lệch
mà đường cơ sở tạo với bờ biển2.
Đối với các quốc gia quần đảo (État archipel), việc xác định cũng như các
điều kiện trong cách xác định đường cơ sở của các quốc gia này được quy định
cụ thể tại Điều 47 UNCLOS 1982.
Và theo như tinh thần quy định của điều 14 cũng UNCLOS 1982 thì tùy
theo đặc điểm địa hình bờ biển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ mà đường cơ sở
của các quốc gia, các vùng lãnh thổ xác định theo phương pháp đường cơ sở
thông thường hay đường cơ sở thẳng hoặc kết hợp cả hai phương pháp trên.
 Việt Nam đã tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải Việt

Nam ngày 12-11-1982. Theo tuyên bố này, đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải của lục địa Việt Nam là hệ thống đường cơ sở thẳng gãy khúc nối liền
các đảo, mũi nhô ra xa nhất dọc theo bờ biển qua 11 điểm thành 10 đoạn thẳng
xuất phát từ đường thẳng nối liền đảo Thổ Chu và đảo Poulo Wai (Cămpuchia) 3.
Tuyên bố về đường cơ sở Việt Nam chủ yếu được xác định theo phương pháp
đường thẳng gãy khúc, trong 11 điểm xác định, chỉ có 1 điểm duy nhất được xác
định theo phương pháp đường cơ sở thông thường ( điểm A8 tại Mũi Đại Lãnh).
Tuy nhiên, hệ thống đường cơ sở của nước ta vẫn chưa bao quát hết chiều

dài bờ biển vì còn có hai vị trí chưa xác định, đó là điểm số 0 nằm trên vùng
nước lịch sử của Cộng hòa nhân dân Cămpuchia và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và phần còn lại từ đảo Cồn Cỏ cho tới hết vùng biển phía Bắc của Việt
Nam. Tuyên bố về đường cơ cơ sở của Việt Nam đưa ra trong bối cảnh tranh
chấp rất phức tạp trên biển Đông, tất cả các vùng chồng lấn giữa Việt Nam và
các quốc gia trong khu vực chưa được giải quyết hoặc đang trong giai đoạn đàm
phán nên chúng ta chưa thể xác định hệ thống đường cơ sở hoàn chỉnh, khép kín
vào thời điểm đó. Tuyên bố đã nêu rõ, đoạn đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến cửa
7


vịnh Bắc Bộ sẽ được công bố sau khi vấn đề của vịnh được giải quyết4.
II.
VÙNG TIẾP GIÁP LÃNH HẢI
1. Cách xác định

Theo quy định tại khoản 2, Điều 33 UNCLOS 1982: “Vùng tiếp giáp
không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của
lãnh hải”.
Như vậy, muốn xác định được vùng tiếp giáp lãnh hải thì quốc gia ven
biển trước hết phải xác định đường cơ sở và chiều rộng của lãnh hải. Như vậy
nếu một quốc gia đã quy định lãnh hải rộng 12 hải lý thì điều đó cũng đồng
nghĩa với việc vùng tiếp giáp lãnh hải của họ có chiều rộng thực tế tối đa là 12
hải lý và hợp với lãnh hải thành vùng biển có chiều rộng 24 hải lý. Chúng ta có
thể thấy được một điều rằng chiều rộng của vùng tiếp giáp lãnh hải sẽ phụ thuộc
vào việc xác định đường cơ sở và chiều rộng của lãnh hải.
 Đối với Việt Nam chúng ta vùng tiếp giáp lãnh hải đã được công bố từ rất lâu

theo Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày
12-5-1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa

của Việt Nam quy định: “Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải Việt Nam có chiều
rộng là 12 hải lý hợp với lãnh hải Việt Nam thành vùng biển rộng 24 hải lý kể từ
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải Việt Nam”. Và tuyên bố này
đã được luật hóa thành quy định của Luật biển Việt Nam năm 2012 tại điều 13
như sau: “Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải
Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải”.
2. Chế độ pháp lý
Chúng ta có thể thấy được rằng vùng tiếp giáp lãnh hải không phải là lãnh
thổ của quốc gia ven biển cũng không phải là một bộ phận của biển quốc tế.
Chính vì lý do đó mà vùng tiếp giáp lãnh hải khác về bản chất so với lãnh hải.
Nếu như lãnh hải là một bộ phận cấu thành của lãnh thổ quốc gia, thuộc chủ
quyền hoàn toàn và đầy đủ của quốc gia thì vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển
thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển.
8


Theo như quy định tại điểm a, b khoản 1 điều 33 UNCLOS 1982 thì các
quốc gia ven biển sẽ có thể tiến hành các hoạt động kiểm soát nhằm mục đích:
 Ngăn ngừa những vi phạm đối với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y

tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
 Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh

thổ hay trong lãnh hải của mình.
Với những quy định trên thì thẩm quyền của quốc gia ven biển trên vùng
tiếp giáp lãnh hải được coi là quyền mang tính “cảnh sát” nhằm bảo vệ lãnh hải
và nội thủy quốc gia ven biển. Bên cạnh đó, tại Điều 303 của Công ước luật biển
năm 1982 có quy định rằng quốc gia ven biển sẽ có quyền đối với các hiện vật
khảo cổ và lịch sử được phát hiện ở vùng tiếp giáp lãnh hải của mình, theo đó

“quốc gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật đó từ đáy biển trong vùng nói
tại điều đó mà không có sự thỏa thuận của mình là sự vi phạm các luật và quy
định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình, đã
được nêu tại Điều 33”.
 Đối với nước Việt Nam chế độ pháp lý của vùng biển này được xác định trong

Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải,
vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 12-51977, tiếp đó là trong Nghị định 30-CP ngày 29-1-1980 của Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về chế độ hoạt động của tàu thuyền nước
ngoài tại các vùng biển của Việt Nam và mới đây nhất được quy định trong Luật
biển Việt Nam năm 2012. Theo quy định tại điều 14 của Luật biển Việt Nam
năm 2012 thì:
“1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và các quyền
khác quy định tại Điều 16 của Luật này đối với vùng tiếp giáp lãnh hải.
2. Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa
và trừng trị hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh
xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam”.
Chính vì vị trí của mình mà vùng tiếp giáp lãnh hải đã bị bao trùm bởi vùng
đặc quyền kinh tế. Vì lý do này mà ngoài các quyền được quy định tại khoản 1
9


điều 33 UNCLOS năm 1982 thì vùng này cũng sẽ mang quyền chủ quyền kinh
tế và điều này được pháp luật nước ta thể hiện rõ thông qua quy định tại khoản 1
điều 14 của Luật biển Việt Nam năm 2012. Xin phép sẽ đề cập sau các quyền
chủ quyền của quốc gia ven biển về kinh tế trong phần trình bày bên dưới về
vùng đặc quyền kinh tế mà không trình bày ở phần này.
III.
1.


VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ
Cách xác định

Theo như quy định tại điều 55 UNCLOS 1982 quy định: “Vùng đặc quyền
về kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt
dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó các quyền và quyền
tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do
các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh”. Và cũng tại điều 57
UNCLOS năm 1982 cũng đã quy định về giới hạn của vùng đặc quyền kinh tế
theo đó thì: “Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể
từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải”. Từ những quy định trên thì
chiều rộng thực tế của vùng đặc quyền kinh tế mỗi quốc gia lớn nhất là 188 hải
lý sau khi đã trừ đi chiều rộng của lãnh hải là 12 hải lý.
 Đối với nước ta, vùng đặc quyền kinh tế đã được công bố từ năm 1977, theo

Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12-51977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
Việt Nam quy định: “Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tiếp liền lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải Việt Nam thành
một vùng biển rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh
hải Việt Nam”. Và tinh thần của tuyên bố này vẫn được giữ nguyên trong quy
định tại điều 15 của Luật biển Việt Nam năm 2012 theo đó: “Vùng đặc quyền
kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải
thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở”. Cũng như đã
phân tích ở trên, chiều rộng thực tế của vùng đặc quyền kinh tế của nước ta sau
khi đã trừ đi chiều rộng của lãnh hải đó là 188 hải lý.
10


2. Chế độ pháp lý


Như chúng ta thấy vùng đặc quyền kinh tế của mỗi quốc gia chiếm hầu hết
diện tích biển của mỗi quốc gia. Vậy trên vùng biển này quốc gia sẽ có những
quyền gì?
Quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển trong vùng
đặc quyền kinh tế được quy định cụ thể tại điều 56 của Công ước luật biển năm
1982. Theo đó trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có:
“Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các
tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy
biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác
nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng
lượng từ nước, hải lưu và gió”.
Quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với tài nguyên sinh vật bao gồm
các quyền như ấn định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận đối với tài nguyên
sinh vật (khoản 1 điều 61 Công ước luật biển năm 1982); thi hành các biện pháp
thích hợp để bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật (khoản 2 điều 61 UNCLOS
1982); xác định khả năng đánh bắt của mình để ấn định số dư của khối lượng
cho phép đánh bắt (khoản 2 điều 62 UNCLOS 1982),… Bên cạnh đó thì các quy
định khác trong điều 61 và 62 UNCLOS năm 1982 còn có những quy định
nhằm phục vụ mục đích khai thác và bảo tồn sự phát triển bình vững của nguồn
tài nguyên sinh vật biển. Như vậy các quyền của quốc gia ven biển trong vùng
này sẽ đồng thời giải quyết được giới hạn cần thiết đối với xu thế mở rộng chủ
quyền nước ven biển để không gây ảnh hưởng đến các quyền tự do truyền thống
trong biển cả và đảm bảo ngăn chặn được các nguy cơ tiềm tang từ việc lạm
dụng đặc quyền khai thác tài nguyên sinh vật của nước hữu quan: đảm bảo sự
khai thác vùng đặc quyền kinh tế một cách hiệu quả theo hướng tôn trọng đặc
quyền của nước ven biển nhưng vẫn có cơ chế hợp tác quốc tế để chia sẻ quyền
lợi giữa các quốc gia trong vùng đặc quyền kinh tế. Từ các quy định này
UNCLOS 1982 sẽ thiết lập được một trật tự pháp lý quốc tế công bằng thích hơn
11



từ đó tạo cơ chế hợp tác giữa các quốc gia với nhau trong sử dụng và khai thác
biển.
Đối với các tài nguyên phi sinh vật Công ước luật biển năm 1982 không có
quy định hạn chế nào đối với các quốc gia ven biển. Như vậy, đối với các tài
nguyên phi sinh vật như khoán sản, tài nguyên nước, tài nguyên du lịch,.. quốc
gia ven biển toàn quyền trong việc quản lý các tài nguyên phi sinh vật này thể
hiện qua việc quốc gia ven biển tự khai thác hoặc cho phép quốc gia khác khai
thác cho mình và đặt dưới sự kiểm soát của mình.
Về quyền tài phán của các quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế
bao gồm một số quyền được quy định tại điểm b, c khoản 1 Điều 56 Công ước
như:
- Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
- Nghiên cứu khoa học về biển;
- Bảo vệ và giữ gìn môi trường biển;
- Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
Theo đó quyền tài phán cụ thể của quốc gia đối với việc lắp đặt sử dụng
các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình được cụ thể hóa tại điều 60 của
UNCLOS năm 1982. Điều 60 của UNCLOS năm 1982 quy định cụ thể về điều
kiện của việc lắp đặt xây dựng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình, việc
tháo dỡ các công trình không còn sử dụng nữa, cũng như việc đảm bảo an toàn
hàng hải, bảo vệ môi trường trong khu vực này.
Quyền tài phán của quốc gia trong nghiên cứu khoa học biển được thể hiện ở
điều 246 của UNCLOS năm 1982. Cụ thể việc nghiên cứu khoa học trong vùng đặc
quyền kinh tế theo quy định tại điều 246 của Công ước luật biển năm 1982 sẽ được
thực hiện như sau : “Trong việc thi hành quyền tài phán của mình, các quốc gia ven
biển có quyền quy định, cho phép và tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học
biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm lục địa của mình theo đúng các
quy định tương ứng của Công uớc.


12


Công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên
thềm lục địa đuợc tiến hành với sự thỏa thuận của quốc gia ven biển.
Trong những truờng hợp bình thuờng, các quốc gia ven biển thỏa thuận cho
thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học biển mà các quốc gia khác hay các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền dự định tiến hành trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên
thềm lục địa của mình theo đúng Công uớc, nhằm vào những mục đích hoàn toàn
hòa bình và để tăng thêm kiến thức khoa học về môi truờng biển, vì lợi ích của toàn
thể loài nguời. Vì mục đích này, các quốc gia ven biển thông qua các quy tắc và thủ
tục bảo đảm sẽ cho phép trong những thời hạn hợp lý và sẽ không khuớc từ một cách
phi lý.
Trong việc áp dụng khoản 3, các truờng hợp có thể đuợc coi là bình thuờng
ngay cả khi giữa quốc gia ven biển và quốc gia đề nghị thực hiện công trình nghiên
cứu không có quan hệ ngoại giao.
Tuy nhiên, quốc gia ven biển có thể tùy ý mình không cho phép thực hiện một
dự án nghiên cứu khoa học biển do một quốc gia khác hay một tổ chức quốc tế có
thẩm quyền đề nghị tiến hành ở vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của
mình trong các truờng hợp sau: a. Nếu dự án có ảnh huởng trực tiếp đến việc thăm
dò và Khai thác các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật;
b. Nếu dự án có dự kiến công việc khoan trong thềm lục địa, sử dụng chất nổ
hay đưa chất độc hại vào trong môi truờng biển;
c. Nếu dự án dự kiến việc xây dựng, khai thác hay sử dụng các đảo nhân tạo,
thiết bị và công trình đã nêu ở các Điều 60 và 80;
d. Nếu những thông tin đuợc thông báo về tình chất và mục tiêu của dự án theo
Điều 248 không đúng, hoặc nếu quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tác giả
của dự án không làm tròn những nghĩa vụ đã cam kết với quốc gia ven biển hữu
quan trong một dự án nghiên cứu truớc đây.
Mặc dù khoản 5 đã quy định như thế, các quốc gia ven biển cũng không thể thi

hành quyền tùy ý khuớc từ theo điểm a của khoản này, đối với các dự án nghiên cứu
13


khoa học biển đuợc tiến hành theo đúng phần này trên thềm lục địa ở cách đuờng cơ
sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải quá 200 hải lý, ngoài các khu vực đặc biệt mà bất
kỳ lúc nào các quốc gia ven biển cung có thể chính thức chỉ định làm nơi hoặc sẽ
làm nơi để tiến hành công việc khai thác hay thăm dò đi vào chi tiết trong một thời
hạn hợp lý. Các quốc gia ven biển thông báo trong những thời hạn hợp lý các khu
vực mà mình chỉ định cũng như tất cả những thay đổi có liên quan, nhung không có
trách nhiệm cung cấp các chi tiết về các công việc trên các khu vực này.
Khoản 6 đuợc áp dụng không phương hại đến các quyền ở thềm lục địa đuợc
thừa nhận cho các quốc gia ven biển ở Điều 77.
Các công tác nghiên cứu khoa học biển nói ở điều này không đuợc gây trở ngại
một cách phi lý cho các hoạt động do quốc gia ven biển tiến hành trong việc thi hành
quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán mà Công uớc đã trù định”.
Về quyền tài phán trong lĩnh vực bảo vệ và giữ gìn môi trường biển chống
lại các ô nhiễm từ các nguồn khác nhau của các quốc gia ven biển. Theo như sự
giải thích thuật ngữ tại khoản 4 điều 1 UNCLOS năm 1982 thì: “Ô nhiễm môi
trường biển” (Pullution du milieu marin): là việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp
đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông,
khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây tổn hại đến nguồn lợi
sinh vật, và đến hệ động vật và hệ thực vật biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe con
người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc
sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương
diện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển.
Và điều 193 của Công ước có quy định: “Các quốc gia có quyền thuộc chủ
quyền khai thác các tài nguyên thiên nhiên của mình theo chính sách về môi trường
của mình và theo đúng nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của mình”. Như
vậy cùng với quyền khai thác thì kéo theo đó chính là nghĩa vụ bảo vệ tài nguyên và

môi trường của các quốc gia. Để thực hiện việc bảo về và giữ gìn môi trường biển từ
điều 207 đến 212 của UNCLOS năm 1982 đã ghi nhận quyền thi hành mọi biện
pháp cần thiết mà quốc gia ven biển có thể áp dụng để ngăn ngừa, hạn chế và chế
14


ngự ô nhiễm môi trường biển để giữ gìn và bảo vệ môi trường biển khỏi các hoạt
động và các nguồn gây ô nhiễm được quy định tại những điều này.
Ngoài ra tại điều 58 UNCLOS năm 1982 còn quy định quyền của các quốc gia
khác trong vùng này. Theo đó thì tại khoản 1 quy định như sau: “Trong vùng đặc
quyền về kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển, trong những điều
kiện trong những quy định thích hợp của Công ước trù định, được hưởng các quyền
tự do hàng hải và hàng không, quyền tự do đặt dây cáp ngầm nêu ở Điều 87, cũng
như quyền tự do sử dụng biển vào những mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và
gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do này và phù hợp với các quy định khác
của Công ước, nhất là những khuôn khổ việc khai thác các tàu thuyền, phương tiện
bay và dây cáp, ống dẫn ngầm”.
Bên cạnh đó tại điều 69 và 70 của Công ước luật biển năm 1982 cũng có quy
định về quyền của quốc gia không có biển và quốc gia bất lợi về địa lý trong khu
vực này. Theo đó các quốc gia này có quyền khai thác số dư tài nguyên thiên
nhiên trên cơ sở thỏa thuận với các quốc gia ven biển.
 Ở nước ta, chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế cũng được quy định dựa

trên tinh thần của UNCLOS năm 1982. Và theo quy định tại điều 16 của Luật
biển Việt Nam năm 2012 thì :
“1. Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện:
a) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên
thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các
hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế;
b) Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công

trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế.
2. Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp,
ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật này và điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, không làm
15


phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia
trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài
nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, hợp đồng được ký kết theo quy định
của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với
pháp luật quốc tế có liên quan.
4. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển quy định tại
Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Luật này”.
IV.
THỀM LỤC ĐỊA
1. Cách xác định

Hiện nay có hai khái niệm về thềm lục địa đó là thềm lục địa địa chất và
thềm lục địa pháp lý. Cách xác định được nêu ra dưới đây chính là cách xác định
theo khái niệm thềm lục địa pháp lý.
Theo như quy định tại khoản 1 điều 76 UNCLOS năm 1982 thì “Thềm lục
địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài

lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của
quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ờ
khoảng cách gần hơn”.
Từ định nghĩa trên có thể xác định được ranh giới trong của thềm lục địa là
đường biên giới quốc gia trên biển đó chính là ranh giới ngoài của lãnh hải và ranh
giới ngoài của thềm lục địa được xác định như sau :
 Khi bờ ngoài của rìa lục địa ở khoảng cách gần hơn 200 hải lý, thì ranh giới

ngoài của thềm lục địa là đường cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh
hải 200 hải lý.
16


 Khi bờ ngoài của rìa lục địa ở khoảng cách lớn hơn 200 hải lý tính từ đương cơ

sở, UNCLOS năm 1982 đưa ra hai phương pháp xác định ranh giới phía ngoài
của thềm lục địa như sau:
+ Phương pháp xác định bằng bề dày lớp đá trầm tích: theo quy định
tại điểm a, i khoản 4 điều 76 UNCLOS năm 1982 thì ranh giới phía ngoài của
thềm lục địa là đường vạch nối các điểm cố định tận cùng nào mà bề dày lớp đá
trầm tích ít nhất cũng bằng một phần trăm khoảng cách từ điểm được xét cho tới
chân dốc lục địa.
+ Phương pháp xác định bằng chân dốc lục địa: theo phương pháp này,
ranh giới phía ngoài của thềm lục địa là đường vạch nối các điểm cố định ở cách
chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý.
Trong trường hợp xác định ranh giới ngoài bằng hai cách trên, chiều
rộng của thềm lục địa không được mở rộng quá 350 hải lý hoặc ranh giới ngoài
không được nằm cách đường đẳng sâu 2500m quá 100 hải lý. Trong đó đường
đẳng sâu 2500m là đường nối liền các điểm có chiều sâu 2500m.5

 Đối với nước ta, thềm lục địa đã được công bố từ năm 1977, theo Tuyên bố của

Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12-5-1977 về lãnh
hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam quy
định: “Thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt
Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa; nơi
nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của
lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200
hải lý kể từ đường cơ sở đó”. Và tinh thần của tuyên bố này vẫn được giữ
nguyên, tại điều 17 của Luật biển Việt Nam năm 2012 nước ta có quy định như
sau: “Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm
ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất
liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa.
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200
hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
17


Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ
đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý tính từ
đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét”.
2. Chế độ pháp lý

Đối với thềm lục địa quốc gia ven biển cũng có hai quyền chính đó là
quyền chủ quyền và quyền tài phán của quóc gia trong khu vực này.
Theo quy định tại điều 77 của Công ước luật biển năm 1982 thì :
“1. Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục
địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình.
2. Các quyền nói ở khoản 1 có tính chất đặc quyền, nghĩa là các quốc gia ven

biển không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của
thềm lục địa, thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có
sự thỏa thuận rõ ràng của quốc gia đó.
3. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào
sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào.
4. Các tài nguyên thiên nhiên ở phần này bao gồm các tài nguyên thiên nhiên
khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên không sinh vật khác của đáy biển và lòng
đất dưới đáy biển, cũng như các sinh vật thuộc loại định cư, nghĩa là những sinh vật
nào, ở thời kỳ có thể đánh bắt được, hoặc nằm bất động ở đáy, hoặc lòng đất dưới
đáy; hoặc là không có khả năng di chuyển nếu không có khả năng tiếp xúc với đáy
hay lòng đáy dưới đáy biển”.
Và theo như các quy định tại điều 60 và điều 80 của UNCLOS năm 1982
thì các quốc gia ven biển có quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định
việc xây dựng, khai thác và sử dụng các đảo nhân tạo, công trình, thiết bị trên
thềm lục địa, quyền tài phán về nghiên cứu khoa học biển cũng như về bảo vệ và
giữ gìn môi trường biển.

18


Đối với vùng nước ở phía trên hay vùng trời trên vùng nước của thềm lục
địa, điều 78 Công ước quy định: “1. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm
lục địa không đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của
vùng trời trên vùng nước này.
2. Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa
không gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do khác của các nước khác
đã được công ước thừa nhận, cũng không được cản trở việc thực hiện các quyền này
một cách không thể biện bạch được”.
Bên cạnh đó thì điều 79 của Công ước còn quy định ngoài quốc gia ven biển,
tất cả các quốc gia khác có quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa

trên cơ sở có sự thỏa thuận với các quốc gia ven biển.
 Dựa vào UNCLOS năm 1982 và điều kiện cụ thể của nước mình mà nước ta đã có

những quy định cụ thể về chế độ pháp lý của thềm lục địa của nước mình. Theo như
quy định tại điều 18 Luật biển Việt Nam năm 2012 thì : “1. Nhà nước thực hiện
quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác tài nguyên.
2. Quyền chủ quyền quy định tại khoản 1 Điều này có tính chất đặc quyền,
không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai thác tài
nguyên của thềm lục địa nếu không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam.
3. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định
việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa.
4. Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng
biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo quy
định của Luật này và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài
phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.

19


5. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài
nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa của
Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc
được phép của Chính phủ Việt Nam”.

20



C. KẾT LUẬN
Trên đây là toàn bộ những kiến thức cơ bản về các vùng biển mà quốc gia
có quyền chủ quyền và quyền tài phán. Theo đó chúng ta có thể thấy được rằng
các vùng biển mà quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán bao gồm ba
vùng cơ bản đó là vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa. Để xác định được chế độ pháp lý của vùng này thì trước hết chúng ta phải
xác định được giới hạn của các vùng này và giới hạn của vùng này phụ thuộc rất
nhiều vào việc xác định đường cơ sở của mỗi quốc gia. Theo như đã trình bày ở
trên thì trong vùng này quốc gia có các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối
với tài nguyên thiên nhiên, với việc xây dựng lắp đặt và sử dụng các đảo nhân
tạo, thiết bị và công trình trong vùng này, đối với việc nghiên cứu khoa học,
công tác bảo vệ môi trường, việc đặt cáp ngầm và ống dẫn ngầm cũng như việc
thực hiện các quyền của các quốc gia khác trong các vùng này. Hy vọng những
kiến thức cơ bản trên có thể trang bị cho mọi người một số kiến thức cần thiết về
cách xác định cũng như chế độ pháp lý của quốc gia trong các vùng biển mà
quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công ước luật biển (UNCLOS) năm 1982.
2. Giáo trình Luật quốc tế của Trường đại học kiểm sát Hà Nội.
3.
4.
5.
6.

Tuyên bố ngày 12/05/1977 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuyên bố ngày 12/11/1982 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Luật biển Việt Nam năm 2012.
Bài viết của Thạc sỹ Ngô Hữu Phước về cách xác định và chế độ pháp lý của

các vùng biển theo công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 trên
website www.hcmulaw.edu.vn

21


PHỤ LỤC
CHÚ GIẢI
1

Xem điều 6 UNCLOS 1982.

2

Theo khuyến cáo của Ủy ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc, bờ biển

khoét sâu, lồi lõm phải thỏa mãn các điều kiện sau đây:
- Bờ biển bị khoét sâu, lồi lõm phải có ít nhất từ 3 vùng lõm sâu rõ rệt;
- Các vùng lõm này phải nằm cạnh nhau, không cách nhau quá xa;
- Chiều sâu của từng vùng lõm đó tính từ đường cơ sở thẳng được đề nghị
đóng cửa đổ ra biển của vùng lõm đó phải lớn hơn một nửa chiều dài của đoạn
đường cơ sở đó.
Và cũng theo khuyến cáo của Ủy ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc
thuật ngữ: “Chuỗi đảo nằm sát và chạy dọc theo bờ biển” phải có ít nhất từ 3
đảo trở lên và phải thỏa mãn các điều kiện sau:
- Điểm gần bờ nhất của mỗi đảo trong chuỗi đảo cách đường bờ biển không
quá 24 hải lý, cách bờ xa nhất không quá 48 hải lý;
- Mỗi đảo trong chuỗi cách các đảo khác cũng trong chuỗi mà đường cơ sở
thẳng được vẽ qua một khoảng cách không quá 24 hải lý.
- Chuỗi đảo phải chắn ít nhất 50% đường bờ biển liên quan.

Về chiều dài các đoạn đường cơ sở và góc lệch mà đường cơ sở tạo với bờ
biển, Ủy ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc khuyến cáo:
- Chiều dài của đoạn đường cơ sở thẳng không nên quá 60 hải lý;
- Góc lệch lớn nhất giữa đoạn cơ sở thẳng với bờ biển không quá 20 độ.
3

Điểm 0 nằm trên vùng nước lịch sử của nước Cộng hòa nhân dân Cămpuchia
và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điểm A1 tại đảo Hòn Nhạn quần đảo
Thổ Chu, Kiên Giang, tọa độ N 9015’0; kinh độ E 103027’0. Điểm A2 tại đảo
Hòn Đá Lẻ tỉnh Minh Hải, tọa độ N 8022’8; kinh độ E 104052’4. Điểm A3 tại
đảo Hòn Tài Lớn- Côn Đảo, tọa độ N 8037’8; kinh độ E 106037’5. Điểm A4 tại
đảo Hòn Bông Lang - Côn Đảo, tọa độ N 8038’9; kinh độ E 106043’3. Điểm A5
tại đảo Hòn Bảy Cạnh - Côn Đảo, tọa độ N 8039’7; kinh độ E 106042’1. Điểm
A6 tại đảo Hòn Hải - Phú Quý, Thuận Hải, tọa độ N 9058’0; kinh độ E
109005’0. Điểm A7 tại đảo Hòn Đôi, tỉnh Phú Khánh, tọa độ N 12039’0; kinh
độ E 109028’0. Điểm A8 tại mũi Đại Lãnh, tỉnh Phú Khánh, tọa độ N 12053’8;
kinh độ E 109027’2. Điểm A9 tại đảo Hòn Ông Căn, tỉnh Phú Khánh, tọa độ N
22


13054’0; kinh độ E 109021’0. Điểm A10 tại đảo Lý Sơn, tỉnh Nghĩa Bình, tọa
độ N 15023’1; kinh độ 109009’0. Điểm A11 tại đảo Cồn Cỏ tỉnh Bình Trị Thiên,
tọa độ 17010’0; kinh độ 107020’6.
4
Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam ngày 12-11-1982.
5
Trang 277, 278 Giáo trình Luật quốc tế Trường đại học Kiểm sát Hà Nội.

23




×